Gogol – nhà văn với tác phẩm dang dở “Những linh hồn chết”, với vở kịch “Viên thanh tra” được nhiều người biết tới rất rõ. Nhưng, còn có một Gogol khác là Gogol – nhà tư tưởng, hơn nữa là nhà tư tưởng vĩ đại lại ít được biết tới. Song, chính Gogol – nhà tư tưởng lại rất gần và rất cần cho chúng ta hôm nay, trong bối cảnh cần “đánh giá lại giá trị” (F.Nietzsche), văn hóa sống do những phong ba bão táp của thời cuộc.
Để làm rõ nhận định nêu trên, chúng ta cùng nhau quay lại với thời đại Gogol cùng với những vấn đề của con người và về con người nó đặt ra một cách gay gắt và đòi hỏi phải được luận giải. Sự đoạn tuyệt với thế giới quan tôn giáo bắt đầu diễn ra ở thế kỷ XVII và đạt tới đỉnh điểm ở thế kỷ XVIII ở nước Nga đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng một hệ tư tưởng mới. Các học thuyết đầu tiên của hệ tư tưởng này đưa ra cương lĩnh về chủ nghĩa nhân văn được luận chứng trong lĩnh vực luân lý thuần túy – “luật tự nhiên”. Nhưng, vào cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa nhân văn duy luân lý đã trở nên phức tạp hơn do tiếp nhận nguyên tắc duy mỹ, trở thành chủ nghĩa nhân văn duy mỹ như hệ tư tưởng tồn tại và thống trị một thời gian dài ở Nga. Rời bỏ tôn giáo, trí thức Nga thực sự tìm kiếm cảm hứng của mình ở trong chủ nghĩa nhân văn duy mỹ, dựa vào nó trong hoạt động xã hội của mình. Nhưng, trí thức Nga vẫn giữ lại một đặc điểm – “tư tưởng thần thuật”. “Bất an thần thuật” giữ lại tư tưởng và lương tâm trên đỉnh cao của thuyết phổ biến về triết học lịch sử, qua đó phát triển và củng cố định hướng của trí thức Nga vào các đề tài chung nhân loại, các vấn đề của loài người “nói chung”.
Thuyết phổ biến về triết học lịch sử thực sự ẩn chứa yêu cầu quay lại với các vấn đề tôn giáo, hay ít nhất cũng thức tỉnh và nuôi dưỡng lực lượng tôn giáo trong tâm thần. Trên thực tế, bất chấp tinh thần thế tục hóa phổ biến mạnh mẽ và khải hoàn, thế giới quan tôn giáo Nga đã bắt đầu được phục hồi ở thế kỷ XVIII, Labzin, Stepanski và các phong trào thần bí đa dạng ngày càng kiên trì đưa ra tư tưởng tôn giáo như cơ sở của một hệ tư tưởng mới ở thế kỷ XIX. Cuối cùng, sáng tạo của Chaadaev làm cho tư tưởng tôn giáo có được ý nghĩa cơ bản, sâu sắc tới mức bản thân mục đích của lịch sử đã không còn có thể được vạch ra ở bên ngoài tư tưởng tôn giáo. Các nhà tư tưởng khác nhiệt tình bảo vệ vai trò hàng đầu của tư tưởng tôn giáo, qua đó cho phép những tìm tòi của trí thức Nga trở nên hữu hiệu. Các nhà tư tưởng tôn giáo thực sự trở thành lãnh tụ của trào lưu sáng tạo, dũng cảm tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề phức tạp và nhức nhối của cuộc sống trong ý thức tôn giáo, qua đó đặt nền móng cho một hướng đi mới của triết học Nga.
Gogol đứng đầu trào lưu tư tưởng mới này, vì ông biểu thị rõ nhất sự suy tàn của chủ nghĩa nhân văn duy luân lý và chủ nghĩa nhân văn duy mỹ. Có thể gọi Gogol là nhà tiên tri của văn hóa Chính thống giáo. Sự thật này biểu hiện sự tham dự của ông vào phát triển tư tưởng triết học Nga, địa vị quan trọng hàng đầu của ông trong đời sống tinh thần Nga thế kỷ XIX.
Nicolai Vasil’evich Gogol là một trong đại diện tiêu biểu của văn học Nga mới, là nhà văn thiên tài, nhưng ông cũng là một nhà tư tưởng độc đáo trong những tìm tòi tâm linh. Ông bị không chỉ xã hội Nga mà cả tư tưởng tôn giáo Nga không hiểu trong suốt một thời gian dài, những đóng góp của Gogol cho kho tàng tư tưởng Nga chỉ bắt đầu được làm sáng tỏ ở thế kỷ XX . Vinh quang văn học của Gogol đã cản trở người ta lĩnh hội sáng tạo tư tưởng của ông, thậm chí còn lên án Gogol từ bỏ con đường sáng tạo nghệ thuật vì sáng tạo tư tưởng! Người ta nhìn nhận việc đốt tập II “Những linh hồn chết” có liên hệ mật thiết với toàn bộ hoạt động tinh thần của Gogol hoàn toàn là “bệnh tâm thần bùng phát”, chứ không nhận thấy bản chất của xung đột bi đát Gogol phải ấp ủ trong mình thay cho tha nhân. Trong lịch sử đời sống tinh thần Nga không có người nào có thể sánh vai cùng với Gogol về phương diện này, tức là ông đã trăn trở về đề tài quan hệ giữa Giáo hội với văn hóa không chỉ về mặt lý luận mà bằng cả toàn bộ nhân cách của mình. Chaadaev gần gũi với ông nhất, song lại không cảm nhận thấy điều gì bi đát trong văn đề “Giáo hội với văn hóa”, trong khi Gogol lại trải nghiệm sâu sắc nhất bi kịch chính ở đây.
Người ta rất thường xuyên không muốn nhìn nhận Gogol là một nhà tư tưởng, mặc dù ông hiển nhiên là một nhà tư tưởng. Lời trách cứ “thiếu hụt học vấn” của Gogol cần bị loại bỏ. Song, một điều hiển nhiên là Gogol trưởng thành dường như ở bên ngoài thời đại ông, tự khai phá cho mình con đường riêng. Thêm vào đó, ông chịu ảnh hưởng đáng kể của trường phái lãng mạn Đức nhờ tiếp cận với vô số tác phẩm nghệ thuật và triết học Đức đăng tải trên các tạp chí ở Nga.
Tiêu sử bên ngoài của Gogol rất đơn giản. Ông sinh ra trong một gia đình nhà văn Ucraine, sớm mất cha và được mẹ nuôi dưỡng. Mẹ ông là một phụ nữ mộ đạo chân thành và sâu sắc. Sau thời gian học tại nhà, Gogol nhập học ở trường trung học Nizinski, sau khi tốt nghiệp, ông đến Peterburg nhằm tìm kiếm danh vọng. Tác phẩm văn học đầu tay của ông (trường ca) bị thất bại, song muộn hơn chút ít, ông công bố tập truyện ngắn (“Hoàng hôn ở trang trại gần Dikan’ka”), thì ngay lập tức gây được sự quan tâm. Sáng tạo văn học của ông tiến triển nhanh. Gogol được thừa nhận là nhà văn hàng đầu, ông kết bạn với Pushkin, Zukovski và các nhà nghiên cứu văn học. Một thời gian ông quan tâm tới khoa học, trở thành giáo sư sử học Đại học Peterburg, song hoạt động khoa học không thỏa mãn ông, chẳng bao lâu ông rời khỏi môi trường đại học. Vào các năm 1831-1835, Gogol xuất bản một vài truyện vừa, một vài tiểu luận phê bình văn học. Một trong các chủ đề trung tâm của sáng tạo nghệ thuật và tư tưởng của ông được xác lập chính ở đây – vấn đề bản nguyên thẩm mỹ trong con người. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Nga, Gogol tiếp cận với vấn đề về sự vô luân duy mỹ, đặt ra vấn đề về xung đột giữa đời sống thẩm mỹ với đời sống luân lý trong con người cách gay gắt chưa từng thấy. Gogol bắt đầu đoạn tuyệt với hệ tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn duy mỹ, lần đầu tiên vạch ra hệ vấn đề về lĩnh vực thẩm mỹ. Với tư chất của mình, Gogol rất có thiện cảm với chủ nghĩa duy luân lý trừu tượng và hà khắc chút ít, song hoàn toàn nghiêm ngặt đối với ông. Song, bên cạnh chủ nghĩa duy luân lý, ông còn có tình yêu cháy bỏng, tuyệt đối và không gì loại bỏ được dành cho nghệ thuật. Ý thức về sự vô luân đặc biệt của lĩnh vực thẩm mỹ đã đưa Gogol đến chỗ xây dựng thuyết không tưởng thẩm mỹ rõ ràng bất khả thi và sinh ra từ nhu cầu tự chứng minh cho mình thấy “sự hữu ích của nghệ thuật”. Sự phá sản của thuyết không tưởng này (biểu hiện là việc dàn dựng hài kịch thiên tài “Viên thanh tra” của ông) tạo ra chấn động mạnh mẽ trong thế giới tinh thần của Gogol, làm bộc lộ toàn bộ sự không vững chắc và bất ổn của mọi thứ chủ nghĩa nhân văn, tạo ra khoảng không cho bước đột phá tôn giáo – Gogol thực sự bắt đầu quay lại cách hăng say với đời sống tôn giáo từ năm 1836, tức năm ông 27 tuổi, và không bao giờ rời bỏ nó. Gogol dần dần hình thành một quan niệm mới về cuộc sống, một quan niệm mới về văn hóa. Ông làm việc nhiều trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, xuất bản tập 1 “Những linh hồn chết”, song ngày càng thâm nhập dữ dội hơn vào đời sống tôn giáo. Ông có dự định xuất bản một cuốn sách lý luận đề cập tới các vấn đề quan hệ giữa tôn giáo với văn hóa, vào năm 1847, ông xuất bản “Trích đoạn từ thư từ với bạn bè”. Cuốn sách này trình bày những tư tưởng táo bạo và sáng tạo dưới hình thức ngây thơ, thường rất kiêu kỳ, đôi khi khó chấp nhận, do vậy xã hội Nga không thể thấu hiểu, gây ra sự phê phán dữ dội và không khoan nhượng (biểu hiện rõ nhất là bức thư của Belinski hửi cho Gogol). Gogol rất đau đớn vì thất bại này; ông không thể khước từ thế giới quan tôn giáo của mình, song ý thức về tính không hiệp thông đầy bi đát giữa tôn giáo với văn hóa luôn ám ảnh ông cách nặng nề. Với áp lực của những trăn trở như vậy, Gogol đốt tập 2 “Những linh hồn chết”, sau đó bị suy tim nặng và chẳng bao lâu qua đời. Gogol chỉ sống vẻn vẹn 43 năm, song ông không chỉ làm cho văn học Nga trở nên phong phú bằng những sáng tạo thiên tài mà còn đưa vào đời sống Nga đề tài cho tới này vẫn là một trong những đề tài trung tâm của các tìm tòi tư tưởng Nga – đề tài văn hóa quay lại với tôn giáo, xây dựng thế giới quan tôn giáo mới (“văn hóa Chính thống giáo”).
Có thể là chưa đến thời điểm thích hợp cho đánh giá lịch sử xác đáng của Gogol như một nhà tư tưởng vì những vấn đề ông đặt ra hiện nay vẫn tiếp tục làm cho người Nga phải trăn trở. Chỉ riêng điều này đã vạch rõ toàn bộ ý nghĩa của bước ngoặt Gogol từng trải. Tất nhiên, chúng ta sẽ không phân tích tất cả các tư tưởng của ông mà chỉ đề cập tới những gì có quan hệ với tìm tòi triết học ở Nga[1].
Trước hết chúng ta dừng lại ở việc Gogol phê phán chủ nghĩa nhân văn duy luân lý. Ý thức luân lý ở trong bản thân Gogol là rất gay gắt và căng thẳng, ông gần gũi với đại bộ phận các nhà tư tưởng Nga xét về phương diện này. Với toàn bộ sức mạnh và tính chất gay gắt của ý thức luân lý (“…Gogol là thiên tài trong lĩnh vực luân lý”[2]), Gogol mang trong mình độc tố nào đó, nói chính xác hơn, ông cảm nhận sâu sắc toàn bộ hệ vấn đề bi đát của ý thức luân lý đương thời. Lý tưởng luân lý ám ảnh ông được ông lĩnh hội là một lý tưởng hão huyền và thậm chí phản tự nhiên, là mỹ từ rỗng tuếch không bắt nguồn từ bản chất tự nhiên của tâm thần. Gogol cảm nhận dữ dội và đau đớn nhất về đề tài rất cơ bản đối với toàn bộ chủ nghĩa nhân văn phương Tây – thái độ đối với tha nhân như huynh đệ (tình bác ái). Ông viết: “…Song yêu thương huynh đệ như thế nào? Yêu thương con người như thế nào? Tâm hồn chỉ thích yêu cái đẹp, còn những kẻ nghèo hèn lại không hoàn hảo, có quá ít cái đẹp ở họ”[3]. Nguyên tắc luân lý hóa ra là vô hiệu, vì tâm thần trên thực tế có động cơ không phải là cảm hứng luân lý mà là cảm hứng thẩm mỹ. Nói cách khác, tâm thần con người ở trạng thái hiện tại hoàn toàn không có khả năng thực hiện hành vi luân lý đích thực, tức yêu thương tha nhân. “Con người hiện đại xa lánh huynh đệ… Nó sẵn sàng ôm ấp cả loài người, song lại không ôm ấp huynh đệ”[4]. Do vậy lý tưởng luân lý chỉ là mỹ từ rỗng tuếch. Trong khi đó mọi người ràng buộc với nhau bởi mối liên hệ sâu sắc tới mức “tất cả mọi người đều có tội với nhau”. Luận điểm này sẽ được Dostoevski đào sâu, song thực chất đã được Gogol đưa ra. Gogol thường nêu bật tư tưởng rằng, chúng ta “gián tiếp có liên hệ với mọi người, mọi hành vi của chúng ta, kể cả suy nghĩ, đều ảnh hưởng tới mọi người. Nói cách khác, đề tài về luân lý, đề tài về cái thiện không loại bỏ được, nó đối diện với mỗi người cách khủng khiếp và hoành tráng, song nó lại không tìm thấy điểm tựa trong bản chất hiện tại của tâm thần. Gogol viết: “Một điều khủng khiếp là chúng ta không nhận thấy cái thiện ở trong cái thiện, tức là chúng ta không có khả năng lĩnh hội cái thiện chính như cái thiện thậm chí ở nơi có cái thiện đích thực”[5].
Theo Gogol, sự vô luân “tự nhiên” của con người hiện đại gắn liền với nguyên tắc duy mỹ thống trị ở trong họ. Vấn đề về bản chất của nguyên tắc duy mỹ và quan hệ của nó với đề tài luân lý trong con người dày vò Gogol suốt cả đời. Bản thân ông là một người bảo vệ nghệ thuật cách hăng say, vô điều kiện, nhưng ông lại vạch rõ sự bi đát bí ẩn của nguyên tắc duy mỹ cách hoàn toàn đầy đủ, không thương tiếc. Ở đây, Gogol tiếp cận với bản thân miền sâu của chủ nghĩa nhân văn duy mỹ bắt nguồn sâu xa từ tâm thần Nga từ thời Karamzin. Trong tác phẩm “Đại lộ Nevski”, Gogol kể về một họa sĩ có niềm tin sâu sắc vào thể thống nhất giữa nguyên tắc duy mỹ và nguyên tắc duy luân lý, song niềm tin này tan vỡ ngay khi đối mặt với cuộc sống. Họa sĩ gặp một cô gái tuyệt đẹp trên phố có liên quan tới một ổ gái điếm. Họa sĩ hoàn toàn thất vọng. Anh ta cố thuyết phục cô gái từ bỏ cuộc sống xấu xa, song cô gái lắng nghe anh ta cách nhạo báng và khinh bỉ. Họa sĩ tội nghiệp không chịu đựng được xung đột khủng khiếp đó giữa vẻ đẹp bên ngoài và sự xấu xa nội tâm, bị điên và tự sát.
Trong một truyện khác “Taras Bul’ba”, Gogol phác họa xung đột giữa lĩnh vực thẩm mỹ và lĩnh vực luân lý từ một phương diện khác: một người cô dắc trẻ tuổi Andrey yêu say đắm một cô gái xinh đẹp, từ bỏ gia đình, quê hương, đức tin, chuyển sang phía kẻ thù cách không lo âu và dao động. Nguyên tắc duy mỹ ngự trị hoàn toàn Andrey cách tự phát và không có can hệ với luân lý. Andrey bày tỏ nguyên tắc cơ bản của thế giới quan duy mỹ: “trái tim tôi ở đâu thì quê hương tôi ở đó”. Đây không chỉ là khước từ bản thân nguyên tắc duy luân lý mà còn khẳng định sức mạnh tự phát, động thái bất biến của nguyên tắc duy mỹ như nguyên tắc loại bỏ mọi cản trở của luân lý. Ở đây, Gogol vạch rõ các nền tảng của nhân học sau này sẽ được Dostoevski phân tích tỉ mỉ trong học thuyết về sự hỗn loạn và không can dự với luân lý của tâm thần con người.
Gogol càng ý thức sâu sắc hơn tính không hiệp thông đầy bi đát giữa nguyên tắc duy mỹ với nguyên tắc duy luân lý trong tâm thần con người, thì đề tài về cái đẹp, về nghệ thuật càng dày vò ông nhiều hơn. Chính vì vậy, vốn yêu quý nghệ thuật vô hạn, Gogol đã xây dựng thuyết không tưởng thẩm mỹ nhằm khắc phục xung đột nêu trên. Ông bị đốt cháy bởi niềm tin rằng, nghệ thuật có thể thực sự đưa con người đến với cái thiện. Gogol viết hài kịch “Viên thanh tra” thiên tài và rất thành công trên sân khấu, song không tạo ra một chuyển biến nào trong đời sống Nga! Gogol hiểu điều đó, ý thức rõ tính chất không tưởng của hy vọng của ông, song đây lại chính là điểm xuất phát cho những tìm tòi tiếp theo của ông. Tính không hiệp thông giữa cái đẹp và cái thiện thực chất có nghĩa là toàn bộ tính phi thực tại của chủ nghĩa nhân văn duy mỹ; chỉ có cái sâu sắc hơn hai nguyên tắc duy mỹ và duy luân lý mới có khả năng hiệp thông cái đẹp với cái thiện, - đó chính là tôn giáo. Những tìm tòi tôn giáo của Gogol được triển khai xung quanh đề tài này: với ông, tôn giáo có nhiệm vụ cải biến bản tính con người, văn hóa và sáng tạo của con người. Gogol dựa vào đến tôn giáo không phải cách tách rời văn hóa, mà để tìm ra lời giải cho những vấn đề tối hậu của văn hóa ở trong tôn giáo. Trên con đường này, Gogol đi tới chỗ gắn liền toàn bộ văn hóa với tôn giáo, qua đó ông đặt ra đề tài về hệ tư tưởng, dứt khoát đưa ý niệm “văn hóa Chính thống giáo” vào tư tưởng Nga.
Gogol có nhiều suy ngẫm sâu sắc và có phê phán về văn hóa phương Tây, song mục đích cơ bản của các luận điểm của Gogol không phải là như vậy mà là khẳng định rằng, văn hóa Chính thống giáo bao hàm khả năng giải quyết mọi vấn đề đăng được đặt ra một cách gay gắt nhất cho toàn thể loài người. Chính tư tưởng mới này của Gogol trở thành xuất phát điểm cho hàng loạt nhà tư tưởng Nga. Khái niệm “văn hóa” ở đây bị tách rời khỏi mối liên hệ nội tại của nó với hình thức phương Tây. Gogol lần đầu tiên đã đưa ra tư tưởng rằng, con đường của nước Nga thực chất khác với con đường của phương Tây, vì tinh thần Chính thống giáo khác với tinh thần Kitô giáo phương Tây. Chúng ta sẽ còn bắt gặp tư tưởng này ở phái thân Slave, Gerxen, phái Dân túy Nga, các trào lưu tư tưởng chính trị xã hội khác. Đồng thời việc quay lại với tư tưởng tôn giáo ở đây không có nghĩa là khước từ văn hóa thế tục (như ở thế kỷ XV-XVI), mà đặt ra vấn đề về sự thánh hóa và cải biến văn hóa theo tinh thần Kitô giáo. Gogol kêu gọi cải biến văn hóa theo tinh thần Chính thống giáo và thực sự là nhà tiên tri của văn hóa Chính thống giáo. Ông suy ngẫm vấn đề thánh hóa nghệ thuật, phục vụ của nó theo tinh thần Kitô giáo cách đặc biệt gay gắt và sâu sắc, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Nga bắt đầu phê phán thời hiện đại về phương diện thẩm mỹ, vạch trần sự vô luân của nó. Ngay từ các tác phẩm đầu tay, Gogol đã biểu thị rõ sự phê phán gay gắt “sự hèn kém về tinh thần”, sau đó sự phê phán này sẽ được Gerxen, Leont’ev, Dostoevski triển khai sâu rộng. Song Gogol không ngừng tìm kiếm con đường cứu rỗi nguyên tắc duy mỹ trong con người, hướng thiện cho con người bị thẩm mỹ học hiện đại ngăn cản. Từ đó ông kiên định gán ghép nhiệm vụ thần thuật cho nghệ thuật. Theo ông, không nên nhắc lại Pushkin, tức là không nên sáng tạo “nghệ thuật vị nghệ thuật”, cho dù nó có tuyệt mỹ đến đâu đi chăng nữa. Nghệ thuật có nhiệm vụ khác – khích lệ loài người trong cuộc chiến vì Nước Chúa, tức là gắn liền sáng tạo nghệ thuật với sự phục vụ thế giới giống như tôn giáo. Gogol luôn hiểu bản thân tôn giáo là sự hiệp thông sống động giữa sức mạnh thần bí của nó với tác động lịch sử đến thế gian. Tôn giáo đem lại mọi sức mạnh siêu nhiên cho tâm thần, trái tim và lý trí con người. Với Gogol thì “thang bậc tối cao chính là tôn giáo”, “tôn giáo có khả năng giải quyết mọi rắc rối, ngộ nhận và vấn đề của chúng ta”. Tôn giáo là người lập pháp và dẫn đường cho thế gian của chúng ta, dung hòa mọi mâu thuẫn mà văn hóa thế tục không những không dung hòa được mà còn tách biệt con người ngày càng xa rời khỏi Chúa Kitô.
Như vậy, đây là một chương trình toàn vẹn để xây dựng văn hóa theo tinh thần Chính thống giáo dựa trên cơ sở tự do hiệp thông với Chúa Kitô. Đó là một “cái nhìn thấu gan thấu ruột” đốt cháy Gogol, cái nhìn về một nếp sống mới, qua đó Chính thống giáo bộc lộ ra cho thế giới với toàn bộ ý nghĩa toàn cầu của mình. Bản thân Gogol khẳng định tính toàn cầu của luật bác ái của Chúa Kitô, khả năng áp dụng của nó vào tất cả mọi người, tác động mang tính thánh hóa của nó ở mọi nơi, trong mọi hiện tượng cuộc sống. Do vậy, ý thức tôn giáo của Gogol được giải phóng khỏi sắc thái thần quyền: ông chấp nhận tất cả mọi hình thức văn hóa, có tính tới sự thật là loài người hiện đại chưa có khả năng trực tiếp hội ngộ với Chúa Kitô và ông nhận thấy sứ mệnh tôn giáo của nghệ thuật là thức tỉnh tâm thần hướng tới hội ngộ ấy.
Toàn bộ lập trường của Gogol không những đặt ra các cơ sở mới cho hệ tư tưởng mà nói chung còn mở ra một thời đại mới – tự do hiệp thông ý thức văn hóa với ý thức tôn giáo. Song, tất nhiên, tư tưởng về văn hóa Chính thống giáo sẽ vô bổ, nếu tư tưởng đó chỉ dừng lại là chương trình. Các nhà tư tưởng hậu Gogol sẽ tiếp tục đào sâu nghiên cứu tư tưởng này và đưa nó vào hiện thực Nga, qua đó tạo dựng được một nền văn hóa Nga độc đáo, thực sự nhân văn.
[1] Tài liệu về Gogol – nhà tư tưởng rất ít. Xem thêm: В.В.Зеньковский. Гоголь и Достоевский. Прага, 1929, Мочульский. Духовный путь Гоголя. Москва, 1989.
[2] Мочульский. Духовный путь Гоголя. Москва, 1989, c. 87.
[3] Гоголь. Выбранные места из переписки с друзьями. Москва, 2008, с. 18.
[4] Sđd., tr. 22.
[5] Sđd., tr. 28.
Gogol – nhà văn với tác phẩm dang dở “Những linh hồn chết”, với vở kịch “Viên thanh tra” được nhiều người biết tới rất rõ. Nhưng, còn có một Gogol khác là Gogol – nhà tư tưởng, hơn nữa là nhà tư tưởng vĩ đại lại ít được biết tới. Song, chính Gogol – nhà tư tưởng lại rất gần và rất cần cho chúng ta hôm nay, trong bối cảnh cần “đánh giá lại giá trị” (F.Nietzsche), văn hóa sống do những phong ba bão táp của thời cuộc.
Để làm rõ nhận định nêu trên, chúng ta cùng nhau quay lại với thời đại Gogol cùng với những vấn đề của con người và về con người nó đặt ra một cách gay gắt và đòi hỏi phải được luận giải. Sự đoạn tuyệt với thế giới quan tôn giáo bắt đầu diễn ra ở thế kỷ XVII và đạt tới đỉnh điểm ở thế kỷ XVIII ở nước Nga đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng một hệ tư tưởng mới. Các học thuyết đầu tiên của hệ tư tưởng này đưa ra cương lĩnh về chủ nghĩa nhân văn được luận chứng trong lĩnh vực luân lý thuần túy – “luật tự nhiên”. Nhưng, vào cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa nhân văn duy luân lý đã trở nên phức tạp hơn do tiếp nhận nguyên tắc duy mỹ, trở thành chủ nghĩa nhân văn duy mỹ như hệ tư tưởng tồn tại và thống trị một thời gian dài ở Nga. Rời bỏ tôn giáo, trí thức Nga thực sự tìm kiếm cảm hứng của mình ở trong chủ nghĩa nhân văn duy mỹ, dựa vào nó trong hoạt động xã hội của mình. Nhưng, trí thức Nga vẫn giữ lại một đặc điểm – “tư tưởng thần thuật”. “Bất an thần thuật” giữ lại tư tưởng và lương tâm trên đỉnh cao của thuyết phổ biến về triết học lịch sử, qua đó phát triển và củng cố định hướng của trí thức Nga vào các đề tài chung nhân loại, các vấn đề của loài người “nói chung”.
Thuyết phổ biến về triết học lịch sử thực sự ẩn chứa yêu cầu quay lại với các vấn đề tôn giáo, hay ít nhất cũng thức tỉnh và nuôi dưỡng lực lượng tôn giáo trong tâm thần. Trên thực tế, bất chấp tinh thần thế tục hóa phổ biến mạnh mẽ và khải hoàn, thế giới quan tôn giáo Nga đã bắt đầu được phục hồi ở thế kỷ XVIII, Labzin, Stepanski và các phong trào thần bí đa dạng ngày càng kiên trì đưa ra tư tưởng tôn giáo như cơ sở của một hệ tư tưởng mới ở thế kỷ XIX. Cuối cùng, sáng tạo của Chaadaev làm cho tư tưởng tôn giáo có được ý nghĩa cơ bản, sâu sắc tới mức bản thân mục đích của lịch sử đã không còn có thể được vạch ra ở bên ngoài tư tưởng tôn giáo. Các nhà tư tưởng khác nhiệt tình bảo vệ vai trò hàng đầu của tư tưởng tôn giáo, qua đó cho phép những tìm tòi của trí thức Nga trở nên hữu hiệu. Các nhà tư tưởng tôn giáo thực sự trở thành lãnh tụ của trào lưu sáng tạo, dũng cảm tìm kiếm câu trả lời cho những vấn đề phức tạp và nhức nhối của cuộc sống trong ý thức tôn giáo, qua đó đặt nền móng cho một hướng đi mới của triết học Nga.
Gogol đứng đầu trào lưu tư tưởng mới này, vì ông biểu thị rõ nhất sự suy tàn của chủ nghĩa nhân văn duy luân lý và chủ nghĩa nhân văn duy mỹ. Có thể gọi Gogol là nhà tiên tri của văn hóa Chính thống giáo. Sự thật này biểu hiện sự tham dự của ông vào phát triển tư tưởng triết học Nga, địa vị quan trọng hàng đầu của ông trong đời sống tinh thần Nga thế kỷ XIX.
Nicolai Vasil’evich Gogol là một trong đại diện tiêu biểu của văn học Nga mới, là nhà văn thiên tài, nhưng ông cũng là một nhà tư tưởng độc đáo trong những tìm tòi tâm linh. Ông bị không chỉ xã hội Nga mà cả tư tưởng tôn giáo Nga không hiểu trong suốt một thời gian dài, những đóng góp của Gogol cho kho tàng tư tưởng Nga chỉ bắt đầu được làm sáng tỏ ở thế kỷ XX . Vinh quang văn học của Gogol đã cản trở người ta lĩnh hội sáng tạo tư tưởng của ông, thậm chí còn lên án Gogol từ bỏ con đường sáng tạo nghệ thuật vì sáng tạo tư tưởng! Người ta nhìn nhận việc đốt tập II “Những linh hồn chết” có liên hệ mật thiết với toàn bộ hoạt động tinh thần của Gogol hoàn toàn là “bệnh tâm thần bùng phát”, chứ không nhận thấy bản chất của xung đột bi đát Gogol phải ấp ủ trong mình thay cho tha nhân. Trong lịch sử đời sống tinh thần Nga không có người nào có thể sánh vai cùng với Gogol về phương diện này, tức là ông đã trăn trở về đề tài quan hệ giữa Giáo hội với văn hóa không chỉ về mặt lý luận mà bằng cả toàn bộ nhân cách của mình. Chaadaev gần gũi với ông nhất, song lại không cảm nhận thấy điều gì bi đát trong văn đề “Giáo hội với văn hóa”, trong khi Gogol lại trải nghiệm sâu sắc nhất bi kịch chính ở đây.
Người ta rất thường xuyên không muốn nhìn nhận Gogol là một nhà tư tưởng, mặc dù ông hiển nhiên là một nhà tư tưởng. Lời trách cứ “thiếu hụt học vấn” của Gogol cần bị loại bỏ. Song, một điều hiển nhiên là Gogol trưởng thành dường như ở bên ngoài thời đại ông, tự khai phá cho mình con đường riêng. Thêm vào đó, ông chịu ảnh hưởng đáng kể của trường phái lãng mạn Đức nhờ tiếp cận với vô số tác phẩm nghệ thuật và triết học Đức đăng tải trên các tạp chí ở Nga.
Tiêu sử bên ngoài của Gogol rất đơn giản. Ông sinh ra trong một gia đình nhà văn Ucraine, sớm mất cha và được mẹ nuôi dưỡng. Mẹ ông là một phụ nữ mộ đạo chân thành và sâu sắc. Sau thời gian học tại nhà, Gogol nhập học ở trường trung học Nizinski, sau khi tốt nghiệp, ông đến Peterburg nhằm tìm kiếm danh vọng. Tác phẩm văn học đầu tay của ông (trường ca) bị thất bại, song muộn hơn chút ít, ông công bố tập truyện ngắn (“Hoàng hôn ở trang trại gần Dikan’ka”), thì ngay lập tức gây được sự quan tâm. Sáng tạo văn học của ông tiến triển nhanh. Gogol được thừa nhận là nhà văn hàng đầu, ông kết bạn với Pushkin, Zukovski và các nhà nghiên cứu văn học. Một thời gian ông quan tâm tới khoa học, trở thành giáo sư sử học Đại học Peterburg, song hoạt động khoa học không thỏa mãn ông, chẳng bao lâu ông rời khỏi môi trường đại học. Vào các năm 1831-1835, Gogol xuất bản một vài truyện vừa, một vài tiểu luận phê bình văn học. Một trong các chủ đề trung tâm của sáng tạo nghệ thuật và tư tưởng của ông được xác lập chính ở đây – vấn đề bản nguyên thẩm mỹ trong con người. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Nga, Gogol tiếp cận với vấn đề về sự vô luân duy mỹ, đặt ra vấn đề về xung đột giữa đời sống thẩm mỹ với đời sống luân lý trong con người cách gay gắt chưa từng thấy. Gogol bắt đầu đoạn tuyệt với hệ tư tưởng của chủ nghĩa nhân văn duy mỹ, lần đầu tiên vạch ra hệ vấn đề về lĩnh vực thẩm mỹ. Với tư chất của mình, Gogol rất có thiện cảm với chủ nghĩa duy luân lý trừu tượng và hà khắc chút ít, song hoàn toàn nghiêm ngặt đối với ông. Song, bên cạnh chủ nghĩa duy luân lý, ông còn có tình yêu cháy bỏng, tuyệt đối và không gì loại bỏ được dành cho nghệ thuật. Ý thức về sự vô luân đặc biệt của lĩnh vực thẩm mỹ đã đưa Gogol đến chỗ xây dựng thuyết không tưởng thẩm mỹ rõ ràng bất khả thi và sinh ra từ nhu cầu tự chứng minh cho mình thấy “sự hữu ích của nghệ thuật”. Sự phá sản của thuyết không tưởng này (biểu hiện là việc dàn dựng hài kịch thiên tài “Viên thanh tra” của ông) tạo ra chấn động mạnh mẽ trong thế giới tinh thần của Gogol, làm bộc lộ toàn bộ sự không vững chắc và bất ổn của mọi thứ chủ nghĩa nhân văn, tạo ra khoảng không cho bước đột phá tôn giáo – Gogol thực sự bắt đầu quay lại cách hăng say với đời sống tôn giáo từ năm 1836, tức năm ông 27 tuổi, và không bao giờ rời bỏ nó. Gogol dần dần hình thành một quan niệm mới về cuộc sống, một quan niệm mới về văn hóa. Ông làm việc nhiều trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, xuất bản tập 1 “Những linh hồn chết”, song ngày càng thâm nhập dữ dội hơn vào đời sống tôn giáo. Ông có dự định xuất bản một cuốn sách lý luận đề cập tới các vấn đề quan hệ giữa tôn giáo với văn hóa, vào năm 1847, ông xuất bản “Trích đoạn từ thư từ với bạn bè”. Cuốn sách này trình bày những tư tưởng táo bạo và sáng tạo dưới hình thức ngây thơ, thường rất kiêu kỳ, đôi khi khó chấp nhận, do vậy xã hội Nga không thể thấu hiểu, gây ra sự phê phán dữ dội và không khoan nhượng (biểu hiện rõ nhất là bức thư của Belinski hửi cho Gogol). Gogol rất đau đớn vì thất bại này; ông không thể khước từ thế giới quan tôn giáo của mình, song ý thức về tính không hiệp thông đầy bi đát giữa tôn giáo với văn hóa luôn ám ảnh ông cách nặng nề. Với áp lực của những trăn trở như vậy, Gogol đốt tập 2 “Những linh hồn chết”, sau đó bị suy tim nặng và chẳng bao lâu qua đời. Gogol chỉ sống vẻn vẹn 43 năm, song ông không chỉ làm cho văn học Nga trở nên phong phú bằng những sáng tạo thiên tài mà còn đưa vào đời sống Nga đề tài cho tới này vẫn là một trong những đề tài trung tâm của các tìm tòi tư tưởng Nga – đề tài văn hóa quay lại với tôn giáo, xây dựng thế giới quan tôn giáo mới (“văn hóa Chính thống giáo”).
Có thể là chưa đến thời điểm thích hợp cho đánh giá lịch sử xác đáng của Gogol như một nhà tư tưởng vì những vấn đề ông đặt ra hiện nay vẫn tiếp tục làm cho người Nga phải trăn trở. Chỉ riêng điều này đã vạch rõ toàn bộ ý nghĩa của bước ngoặt Gogol từng trải. Tất nhiên, chúng ta sẽ không phân tích tất cả các tư tưởng của ông mà chỉ đề cập tới những gì có quan hệ với tìm tòi triết học ở Nga[1].
Trước hết chúng ta dừng lại ở việc Gogol phê phán chủ nghĩa nhân văn duy luân lý. Ý thức luân lý ở trong bản thân Gogol là rất gay gắt và căng thẳng, ông gần gũi với đại bộ phận các nhà tư tưởng Nga xét về phương diện này. Với toàn bộ sức mạnh và tính chất gay gắt của ý thức luân lý (“…Gogol là thiên tài trong lĩnh vực luân lý”[2]), Gogol mang trong mình độc tố nào đó, nói chính xác hơn, ông cảm nhận sâu sắc toàn bộ hệ vấn đề bi đát của ý thức luân lý đương thời. Lý tưởng luân lý ám ảnh ông được ông lĩnh hội là một lý tưởng hão huyền và thậm chí phản tự nhiên, là mỹ từ rỗng tuếch không bắt nguồn từ bản chất tự nhiên của tâm thần. Gogol cảm nhận dữ dội và đau đớn nhất về đề tài rất cơ bản đối với toàn bộ chủ nghĩa nhân văn phương Tây – thái độ đối với tha nhân như huynh đệ (tình bác ái). Ông viết: “…Song yêu thương huynh đệ như thế nào? Yêu thương con người như thế nào? Tâm hồn chỉ thích yêu cái đẹp, còn những kẻ nghèo hèn lại không hoàn hảo, có quá ít cái đẹp ở họ”[3]. Nguyên tắc luân lý hóa ra là vô hiệu, vì tâm thần trên thực tế có động cơ không phải là cảm hứng luân lý mà là cảm hứng thẩm mỹ. Nói cách khác, tâm thần con người ở trạng thái hiện tại hoàn toàn không có khả năng thực hiện hành vi luân lý đích thực, tức yêu thương tha nhân. “Con người hiện đại xa lánh huynh đệ… Nó sẵn sàng ôm ấp cả loài người, song lại không ôm ấp huynh đệ”[4]. Do vậy lý tưởng luân lý chỉ là mỹ từ rỗng tuếch. Trong khi đó mọi người ràng buộc với nhau bởi mối liên hệ sâu sắc tới mức “tất cả mọi người đều có tội với nhau”. Luận điểm này sẽ được Dostoevski đào sâu, song thực chất đã được Gogol đưa ra. Gogol thường nêu bật tư tưởng rằng, chúng ta “gián tiếp có liên hệ với mọi người, mọi hành vi của chúng ta, kể cả suy nghĩ, đều ảnh hưởng tới mọi người. Nói cách khác, đề tài về luân lý, đề tài về cái thiện không loại bỏ được, nó đối diện với mỗi người cách khủng khiếp và hoành tráng, song nó lại không tìm thấy điểm tựa trong bản chất hiện tại của tâm thần. Gogol viết: “Một điều khủng khiếp là chúng ta không nhận thấy cái thiện ở trong cái thiện, tức là chúng ta không có khả năng lĩnh hội cái thiện chính như cái thiện thậm chí ở nơi có cái thiện đích thực”[5].
Theo Gogol, sự vô luân “tự nhiên” của con người hiện đại gắn liền với nguyên tắc duy mỹ thống trị ở trong họ. Vấn đề về bản chất của nguyên tắc duy mỹ và quan hệ của nó với đề tài luân lý trong con người dày vò Gogol suốt cả đời. Bản thân ông là một người bảo vệ nghệ thuật cách hăng say, vô điều kiện, nhưng ông lại vạch rõ sự bi đát bí ẩn của nguyên tắc duy mỹ cách hoàn toàn đầy đủ, không thương tiếc. Ở đây, Gogol tiếp cận với bản thân miền sâu của chủ nghĩa nhân văn duy mỹ bắt nguồn sâu xa từ tâm thần Nga từ thời Karamzin. Trong tác phẩm “Đại lộ Nevski”, Gogol kể về một họa sĩ có niềm tin sâu sắc vào thể thống nhất giữa nguyên tắc duy mỹ và nguyên tắc duy luân lý, song niềm tin này tan vỡ ngay khi đối mặt với cuộc sống. Họa sĩ gặp một cô gái tuyệt đẹp trên phố có liên quan tới một ổ gái điếm. Họa sĩ hoàn toàn thất vọng. Anh ta cố thuyết phục cô gái từ bỏ cuộc sống xấu xa, song cô gái lắng nghe anh ta cách nhạo báng và khinh bỉ. Họa sĩ tội nghiệp không chịu đựng được xung đột khủng khiếp đó giữa vẻ đẹp bên ngoài và sự xấu xa nội tâm, bị điên và tự sát.
Trong một truyện khác “Taras Bul’ba”, Gogol phác họa xung đột giữa lĩnh vực thẩm mỹ và lĩnh vực luân lý từ một phương diện khác: một người cô dắc trẻ tuổi Andrey yêu say đắm một cô gái xinh đẹp, từ bỏ gia đình, quê hương, đức tin, chuyển sang phía kẻ thù cách không lo âu và dao động. Nguyên tắc duy mỹ ngự trị hoàn toàn Andrey cách tự phát và không có can hệ với luân lý. Andrey bày tỏ nguyên tắc cơ bản của thế giới quan duy mỹ: “trái tim tôi ở đâu thì quê hương tôi ở đó”. Đây không chỉ là khước từ bản thân nguyên tắc duy luân lý mà còn khẳng định sức mạnh tự phát, động thái bất biến của nguyên tắc duy mỹ như nguyên tắc loại bỏ mọi cản trở của luân lý. Ở đây, Gogol vạch rõ các nền tảng của nhân học sau này sẽ được Dostoevski phân tích tỉ mỉ trong học thuyết về sự hỗn loạn và không can dự với luân lý của tâm thần con người.
Gogol càng ý thức sâu sắc hơn tính không hiệp thông đầy bi đát giữa nguyên tắc duy mỹ với nguyên tắc duy luân lý trong tâm thần con người, thì đề tài về cái đẹp, về nghệ thuật càng dày vò ông nhiều hơn. Chính vì vậy, vốn yêu quý nghệ thuật vô hạn, Gogol đã xây dựng thuyết không tưởng thẩm mỹ nhằm khắc phục xung đột nêu trên. Ông bị đốt cháy bởi niềm tin rằng, nghệ thuật có thể thực sự đưa con người đến với cái thiện. Gogol viết hài kịch “Viên thanh tra” thiên tài và rất thành công trên sân khấu, song không tạo ra một chuyển biến nào trong đời sống Nga! Gogol hiểu điều đó, ý thức rõ tính chất không tưởng của hy vọng của ông, song đây lại chính là điểm xuất phát cho những tìm tòi tiếp theo của ông. Tính không hiệp thông giữa cái đẹp và cái thiện thực chất có nghĩa là toàn bộ tính phi thực tại của chủ nghĩa nhân văn duy mỹ; chỉ có cái sâu sắc hơn hai nguyên tắc duy mỹ và duy luân lý mới có khả năng hiệp thông cái đẹp với cái thiện, - đó chính là tôn giáo. Những tìm tòi tôn giáo của Gogol được triển khai xung quanh đề tài này: với ông, tôn giáo có nhiệm vụ cải biến bản tính con người, văn hóa và sáng tạo của con người. Gogol dựa vào đến tôn giáo không phải cách tách rời văn hóa, mà để tìm ra lời giải cho những vấn đề tối hậu của văn hóa ở trong tôn giáo. Trên con đường này, Gogol đi tới chỗ gắn liền toàn bộ văn hóa với tôn giáo, qua đó ông đặt ra đề tài về hệ tư tưởng, dứt khoát đưa ý niệm “văn hóa Chính thống giáo” vào tư tưởng Nga.
Gogol có nhiều suy ngẫm sâu sắc và có phê phán về văn hóa phương Tây, song mục đích cơ bản của các luận điểm của Gogol không phải là như vậy mà là khẳng định rằng, văn hóa Chính thống giáo bao hàm khả năng giải quyết mọi vấn đề đăng được đặt ra một cách gay gắt nhất cho toàn thể loài người. Chính tư tưởng mới này của Gogol trở thành xuất phát điểm cho hàng loạt nhà tư tưởng Nga. Khái niệm “văn hóa” ở đây bị tách rời khỏi mối liên hệ nội tại của nó với hình thức phương Tây. Gogol lần đầu tiên đã đưa ra tư tưởng rằng, con đường của nước Nga thực chất khác với con đường của phương Tây, vì tinh thần Chính thống giáo khác với tinh thần Kitô giáo phương Tây. Chúng ta sẽ còn bắt gặp tư tưởng này ở phái thân Slave, Gerxen, phái Dân túy Nga, các trào lưu tư tưởng chính trị xã hội khác. Đồng thời việc quay lại với tư tưởng tôn giáo ở đây không có nghĩa là khước từ văn hóa thế tục (như ở thế kỷ XV-XVI), mà đặt ra vấn đề về sự thánh hóa và cải biến văn hóa theo tinh thần Kitô giáo. Gogol kêu gọi cải biến văn hóa theo tinh thần Chính thống giáo và thực sự là nhà tiên tri của văn hóa Chính thống giáo. Ông suy ngẫm vấn đề thánh hóa nghệ thuật, phục vụ của nó theo tinh thần Kitô giáo cách đặc biệt gay gắt và sâu sắc, lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng Nga bắt đầu phê phán thời hiện đại về phương diện thẩm mỹ, vạch trần sự vô luân của nó. Ngay từ các tác phẩm đầu tay, Gogol đã biểu thị rõ sự phê phán gay gắt “sự hèn kém về tinh thần”, sau đó sự phê phán này sẽ được Gerxen, Leont’ev, Dostoevski triển khai sâu rộng. Song Gogol không ngừng tìm kiếm con đường cứu rỗi nguyên tắc duy mỹ trong con người, hướng thiện cho con người bị thẩm mỹ học hiện đại ngăn cản. Từ đó ông kiên định gán ghép nhiệm vụ thần thuật cho nghệ thuật. Theo ông, không nên nhắc lại Pushkin, tức là không nên sáng tạo “nghệ thuật vị nghệ thuật”, cho dù nó có tuyệt mỹ đến đâu đi chăng nữa. Nghệ thuật có nhiệm vụ khác – khích lệ loài người trong cuộc chiến vì Nước Chúa, tức là gắn liền sáng tạo nghệ thuật với sự phục vụ thế giới giống như tôn giáo. Gogol luôn hiểu bản thân tôn giáo là sự hiệp thông sống động giữa sức mạnh thần bí của nó với tác động lịch sử đến thế gian. Tôn giáo đem lại mọi sức mạnh siêu nhiên cho tâm thần, trái tim và lý trí con người. Với Gogol thì “thang bậc tối cao chính là tôn giáo”, “tôn giáo có khả năng giải quyết mọi rắc rối, ngộ nhận và vấn đề của chúng ta”. Tôn giáo là người lập pháp và dẫn đường cho thế gian của chúng ta, dung hòa mọi mâu thuẫn mà văn hóa thế tục không những không dung hòa được mà còn tách biệt con người ngày càng xa rời khỏi Chúa Kitô.
Như vậy, đây là một chương trình toàn vẹn để xây dựng văn hóa theo tinh thần Chính thống giáo dựa trên cơ sở tự do hiệp thông với Chúa Kitô. Đó là một “cái nhìn thấu gan thấu ruột” đốt cháy Gogol, cái nhìn về một nếp sống mới, qua đó Chính thống giáo bộc lộ ra cho thế giới với toàn bộ ý nghĩa toàn cầu của mình. Bản thân Gogol khẳng định tính toàn cầu của luật bác ái của Chúa Kitô, khả năng áp dụng của nó vào tất cả mọi người, tác động mang tính thánh hóa của nó ở mọi nơi, trong mọi hiện tượng cuộc sống. Do vậy, ý thức tôn giáo của Gogol được giải phóng khỏi sắc thái thần quyền: ông chấp nhận tất cả mọi hình thức văn hóa, có tính tới sự thật là loài người hiện đại chưa có khả năng trực tiếp hội ngộ với Chúa Kitô và ông nhận thấy sứ mệnh tôn giáo của nghệ thuật là thức tỉnh tâm thần hướng tới hội ngộ ấy.
Toàn bộ lập trường của Gogol không những đặt ra các cơ sở mới cho hệ tư tưởng mà nói chung còn mở ra một thời đại mới – tự do hiệp thông ý thức văn hóa với ý thức tôn giáo. Song, tất nhiên, tư tưởng về văn hóa Chính thống giáo sẽ vô bổ, nếu tư tưởng đó chỉ dừng lại là chương trình. Các nhà tư tưởng hậu Gogol sẽ tiếp tục đào sâu nghiên cứu tư tưởng này và đưa nó vào hiện thực Nga, qua đó tạo dựng được một nền văn hóa Nga độc đáo, thực sự nhân văn.
[1] Tài liệu về Gogol – nhà tư tưởng rất ít. Xem thêm: В.В.Зеньковский. Гоголь и Достоевский. Прага, 1929, Мочульский. Духовный путь Гоголя. Москва, 1989.
[2] Мочульский. Духовный путь Гоголя. Москва, 1989, c. 87.
[3] Гоголь. Выбранные места из переписки с друзьями. Москва, 2008, с. 18.
[4] Sđd., tr. 22.
[5] Sđd., tr. 28.
VanVN.Net – Ngày 15/5/2014, tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội), Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội ...
VanVN.Net - Trong số các nhà thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh không phải là người gây được ấn tượng sớm. Hầu như phần lớn thành tựu trong sáng tác của ông đều xuất hiện sau năm 1975. Song, Hữu Thỉnh lại ...
VanVN.Net – Sáng 26/5/2014, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội), lễ ra mắt Trung tâm dịch văn học Việt Nam đã được tổ chức trọng thể. Đến dự buổi ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn