Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Đạm trai văn tập

Hồ Phi Huyền (soạn), Trần Hải Yến (phiên âm, dịch, chú thích) - 18-05-2011 11:34:56 AM

Phiên âm:

Bạch vũ phiến phú

                         An, tri, phiền, thự, khả, trí, thanh, lư­ơng bát vận

                                             Thành Thái Giáp thìn niên

 

Hà bỉ kiện cách, nghiễm nhiên tố hoàn.

Biên thứ hữu luân nhi bất vặn,

Dụng xả tùy ngộ dĩ giai an.

Vấn sở tòng lai, tri kỷ cao tường thiên tế;

Thượng dĩ chế khí, thặng lưu thanh bạch nhân gian.

Tắc kiến:

Du nhi khắc cử, niết nhi bất truy.

Kỳ thanh dã mai hoa, kỳ đạm dã lê chi.

Kỳ vi thể dã,

Tức tố chất nhi thành sắc.

Kỳ vi dụng dã,

Dẫn hòa khí dĩ sinh huy.

Ức cao cử ư tạc nhật,

Trước khiết bạch kỳ thùy tri.

Tự hiệu dụng chi đắc sở,

Tùy thủ huề nhi giai nghi.

Nãi nhược:

Đồng đình nhật hạ,

Tử cấm xuân huyên.

Ca Lộc minh dĩ thức yến,

Phú Trạm lộ dĩ đàm ân.

Nga cung ban chi nhất xuất,

Tùy bái tứ dĩ tần phiên.

Ký bất câu phù hình hài,

Cánh đốn tẩy phù hiêu phiền.

Quang nghi chẩn lộ chi dung,

Cố vũ nghi nhi bội tráng.

Phong thuận phi hồng chi dực,

Bẩm tố chí dĩ thường tồn.

Hựu nhược Kim Cốc túng du

Trúc lâm hội tự.

Tải tứ diên nhi thiết kỷ,

Diệc xướng dư nhi họa nhữ.

Vọng dao vân chi tại thiên,

Hận vãn âm chi đới thự.

Viên thừa hứng dĩ tần dao, giác lãnh nhiên nhi tụ trữ.

Thi tình táp sảng, giao tinh chi vận nga thành;

Tửu tứ thuyên phi, anh vũ chi bôi điệt cử.

Hựu hoặc:

Hồng ảnh triêu thăng,

Đan hà tịch đọa.

Ngâm Gia Cát ư lư trung,

Ngọa Uyên Minh ư song hạ.

Đãi vi phong kỳ bất lai,

Dục cao miên nhi thục khả.

Viên tùy thủ dĩ từ động,

Giác ngã tâm chi đốn tả.

Vũ y dực dực, điệp hồn tiệm dục phi dương;

Vũ khách phiên phiên, hạc mộng hồn vong chân giả.

Diệc hoặc:

Môn ngoại hòe hoàng,

Đình tiền trúc thúy.

Tống quy nhạn dĩ dao chúc,

Ngoạn viễn sơn chi thắng trí.

Phong hốt hốt dĩ kinh hồi, trần du du nhi sậu chí.

Nãi nhất cử dĩ tự tệ, tất tà khứ nhi ngã tị.

Cố sơ y chi vị nhiễm, cư nhiên chướng hữu tinh liêm;

Nhiêu tử mạch chi tần lai, y cựu dung ngưng sương sí.

Thị bạch vũ chi vi phiến, trước kỳ dụng chi thậm sủng;

Bỉ hoa trúc chi xán lạn, dữ la hoàn chi khinh doanh.

Thục nhược thử: túc túc vũ bạch,

Mục mục phong thanh.

Đãng dạng tuyết hoa, phát xuân quang vu thịnh hạ;

Linh lung nguyệt sắc, hư dạ khí vu nùng tình.

Nghi hồ Đường Tông chi tứ quần thần, đặc dĩ thử nhi phân vinh.

Khách hữu:

Chất hoài băng ngọc,

Khiết tỉ phong sương.

Cập vật sinh xuân, cửu dục mãn khâm hòa thái,

Bác phong hữu chí, thời tư vạn lý phi tường.

Vị đương Gia Cát chi huy;

Vân tiêu nhất phiến,

Thả thứ Cửu Linh chi vận, nhã đạm thành chương.

Cái dĩ ngụ kỳ cảm hứng,

Diệc dĩ thưởng phù dư lương. 

 

Dịch nghĩa:

Bài phú về chiếc quạt lông trắng

Thành Thái năm Giáp thìn, 1904

Theo 8 vần: an, tri, phiền, thự, khả, trí, thanh, lư­ơng

 

Cứng thay cuống lông,

Nghiễm nhiên thành chiếc quạt trắng.

Đính vào nhau theo thứ tự mà không rối,

Dùng hay xếp, tùy theo cảnh ngộ đều an thuận.

Hỏi từ đâu tới? Từ mấy tầng trời bay liệng;

Rồi chế thành vật dụng, lưu lại sự thanh bạch trong nhân gian.

Thì thấy:

Nhẹ nên dễ nâng, nhuộm mà không thâm,

Thanh ấy là hoa mai, đạm ấy cành lê.

Hình thể ấy là do chất trong trẻo mà tạo nên sắc,

Cái dụng ấy là do dẫn hòa khí mà sinh ánh sáng.

Nhớ thuở tr­ước đ­ược cất nhắc cao,

Một màu thanh khiết trinh bạch, ai biết.

Tự có công dụng, tùy khi xếp mở đều thích hợp.

Rồi những ngày sân vua nhàn rỗi, cung cấm xuân nồng.

Ca vang khúc Lộc minh[1] để thư­ởng thức yến tiệc,

Đọc bài Trạm lộ [2]tỏ bày ơn sâu.

Chợt khi thành ân phẩm ban tặng của cung đình, bái nhận ơn ban mà nhiều lần lật dở.

Đã không câu nệ hình thức, x­ương nan,

Lại trừ bỏ những muộn phiền, huyên náo.

Rạng rỡ như dáng vẻ đàn cò[3],

Chăm chút bộ lông mà thêm phần mạnh mẽ.

Như đôi cánh chim hồng bay trong gió thuận,

Bẩm thụ được cái chí thuần khiết nên thường tồn,

Lại tựa như:

Lúc ruổi rong nơi vườn Kim Cốc[4],

Khi gặp gỡ ở chốn trúc lâm[5].

Bày yến tiệc, đặt ghế ngồi,

Rồi người xướng kẻ họa.

Ngắm mây xa trên bầu trời,

Hận bóng chiều mang hơi nóng.

Nhân cao hứng phe phẩy,

Thấy mát mẻ thì cất tay áo.

Tình thơ dậy hứng, vần giao tinh bỗng thành[6];

Rượu chợt thèm, chén anh vũ thường cất[7].

Lại có khi:

Vừng hồng mới mọc,

Ráng đỏ chiều buông.

Ngâm câu thơ Gia Cát ở lều cỏ[8],

Ngủ dưới song cửa Đào Tiềm[9].

Đợi gió nhẹ mà không thấy tới,

Muốn ngon giấc nhưng ai ngủ được.

Theo nhịp tay phe phẩy,

Chợt thấy lòng mình ngừng, tuôn.

Áo vũ[10] dập dờn, hồn bướm dần muốn bay cao;

Vũ khách[11] vội vàng, mộng hạc thực quên chân giả.

Cũng có khi:

Ngoài cửa hòe vàng,

Trước sân trúc biếc.

Dõi mắt tiễn nhạn về,

Ngắm núi xa cho thỏa thích,

Thì gió đâu sầm sập đổ về,

Bụi đâu xa kéo tới.

Bèn hối hả tự che,

Thảy nghiêng mình mà náu kỹ.

Trông lại bởi áo đơn chưa nhuộm, an nhiên vì đã có rèm thủy tinh che chắn;

Dù đường đất kinh đô nhiều lần lui tới, dáng vẻ vẫn nguyên như đôi cánh đọng sương.

Ấy là lông trắng làm thành quạt,

Nhờ hữu dụng mà rất được sủng ái;

Vẻ xán lạn của nan trúc, cùng nét nhẹ nhàng đày đặn của lụa là.

Ai so tày: cánh trắng hối hả,

Gió thanh êm hòa.

Mênh mang hoa tuyết, tỏa ánh xuân khi giữa hạ;

Lung linh vẻ nguyệt, tỏa hơi đêm khi quang đãng.

Tựa như lúc Đường Tông hậu thưởng quần thần,

Riêng dùng nó để ban vinh hiển.

Khách có kẻ:

Chất như băng ngọc,

Tiết tựa phong sương.

Gặp cảnh sinh tình, muốn nuôi mãi chút hòa khí nơi vạt áo; 

Có chí túm gió, thời nghĩ đến bay cao vạn dặm.

Đương trong tay Gia Cát phất phơ, một khóm mây trời;

Lại họa vần thơ Cửu Linh[12], thành loài tao nhã.

Bèn nhã đạm thành văn,

Là để gửi niềm cảm hứng, mà cũng nhằm thưởng thức chút mát lành còn lại.       

 

Phiên âm:

Vọng phu thạch phú

Thành Thái Bính ngọ niên

 

Tiệt bỉ sơn hề nham hác tương liên;

Hữu thạch lập hề đệ nhất phong điên.

Cô hình tiễu nhược, cổ sắc thương nhiên;

Du du hồ nhược ký ức vu vân biên.

Kỷ nghi Chức Nữ nhất tinh, lạc hạ hồ bình địa;

An đắc Oa tinh tái thế, luyện bổ thanh thiên.

Vấn chi tắc: chinh phụ vọng phu chi sở hóa,

Chí kim vĩnh cửu nhi do truyền.

Kỷ hồi chẩm phượng,

Thử tịch phân loan.

Vị tàn biệt tửu,

Dĩ miểu chinh yên.

Độc bồi hồi ư tuyệt đỉnh,

Thương tiều tụy chi đồi nhan.

Quýnh bất do nhân;

Giác hồi trường chi tiệm kết;

Thúc nhiên vi thạch,

Thấp lệ ngân kỳ vị can.

Toàn thân dĩ hóa,

Vọng nhãn cánh si

Điểu quyết tí nhi bất thuấn,

Trần phác diện nhi hà tri.

Dao dao hải khúc,

Diểu diểu thiên nhai.

Mỗi phùng tái bắc hồng quy, cái tăng thê sở;

Kinh kỷ sơn tây nhật bạc, chỉ thị trù trì.

Khẩu bất ngôn hề, vân tự thương thương;

Tâm bất chuyển hề, thủy tự ương ương.

Băng kính ngưng hề, cộng thùy chiêu;

Lộ cao tẩm hề, vị thùy trang.  

Nhật cao ảnh sấu, vũ trích lệ trường.

Thục tri thân ngoại chi thân cánh phi bất khứ;

Đồ kết mộng trung chi mộng, thử hận thùy đương.

La đới thu khinh,

Đài y xuân thấp.

Dạ vĩnh nhũ thùy,

Triêu hàn cốt lập.

Thâm cốc yểu kỳ thê thanh,

Kích thoan tăng kỳ ô ấp.

Nội hóa nhi ngoại hoàn bất hóa, trường diên trữ dĩ hà cùng.

Thần ngưng nhi hình dữ đồng ngưng, hận ngưỡng chiêm chi phất cập.

Dĩ yên tai!

Anh hùng dị lão,

Tuế nguyệt như thoa.

Huống can trường chi thỉ thạch,

Dữ sóc mạc chi phong sa.

Hoang lương bạch thảo,

U yết tàn già.

Cổ lai xuất tái,

Thùy thị hoàn gia.

Tảo tri mã cách vô thu,

Thành oan quỷ liễu;

Tức hoặc đao đầu hữu hạnh, như lương nhân hà.

Nhiên nhi:

Tình trọng như sơn,

Tiết giới vu thạch.

Nhất phó cương trường,

Thiên thu thắng tích.

Triêu vân tán tụ,

Định tu thần nữ chi nhan;

Dạ nguyệt thanh cao, trường bạn tiên nga chi phách.

Cô thần kiến chi nhi bồi hồi,

Liệt sĩ ngưỡng chi nhi cảm kích.

Giả sử đương niên tiện tử, di hận đồng mai;

An năng chung cổ như sinh, u trinh cộng bạch.        

 

Dịch nghĩa:

Phú hòn Vọng Phu                                                                  

Thành Thái năm Bính ngọ, 1906

 

Núi cao ngất chừ, khe vách nối nhau;

Đá dựng chừ, một đỉnh cao ngất.

Trơ hình cao vọi, sắc xư­a thẳm xanh;

Vời vợi như­ gửi ý vào mây trời.

T­ưởng như­ Chức Nữ sa b­ước trần gian;

Sao có Nữ Oa tái thế, luyện đá vá trời.

Hỏi ra thì:

Ấy nơi chinh phụ ngóng chồng thác hóa,

Đến nay truyện cũ còn truyền.

Mấy hồi gối phượng,

Đêm ấy chia loan.

R­ượu tiễn biệt ch­ưa tàn,

Chinh phu đã khuất dạng,

Riêng bóng chơ vơ nơi đỉnh cô phong,

Thư­ơng thay tiều tụy cả dung nhan,

Khác chẳng như­ ngư­ời, chợt thấy lòng quặn thắt;

Thoắt rồi hóa đá,

Lệ nhòa ngấn vẫn chư­a khô.

Toàn thân hóa đá,

Mắt dõi đăm đăm,

Chim rỉa không chớp,

Bụi lùa vào mặt chẳng hay.

Mịt mờ góc biển,

Vời vợi chân trời.

Mỗi khi chim hồng từ ải Bắc bay về, càng thêm thê thiết;

Bao phen ác xế non đoài, lại những ngổn ngang.

Miệng chẳng nói chừ, mây cứ thăm thẳm;

Lòng không chuyển chừ, n­ước cứ trôi xuôi.

Gư­ơng băng ng­ưng chừ, soi ngắm cùng ai,

S­ương móc ngấm chừ, trang điểm vì ai!

Mặt trời lên cao, vóc dáng gầy mòn;

M­ưa rơi rả rích, lệ tuôn thêm dài.

Ai hay thân ngoài tấm thân chực bay không nổi!

Ngưng kết mộng trong mộng, hận ấy ai đư­ơng!

Dải áo thu về,

Áo rêu xuân thấm.

Đêm dài rủ nhũ,

Sáng lạnh phô x­ương.

Khe sâu thấm nặng nỗi niềm da diết,

Sóng dồn tăng thêm tiếng nấc nghẹn ngào.

Trong đã hóa đá mà ngoài vẫn không hóa[13]

Đứng ngóng mãi bao giờ thôi;

Thần đã ng­ưng mà hình cũng ngư­ng, hận nỗi ngóng trông vô vọng.

Mà thôi chăng?!

Anh hùng dễ già,

Năm tháng tựa thoi đư­a.

Huống chi hòn tên mũi đạn chốn biên c­ương,

Cùng gió cát nơi biên ải.

Cỏ trắng lạnh hoang, tiếng địch nghẹn ngào.

Cổ lai chinh chiến mấy ai trở về!

Sớm hay: da ngựa chẳng thu về, thành hồn ma oan khuất;

Biết làm sao mà may tránh đ­ược ngọn đao, như người nào chăng!

Thế nhưng:

Tình nặng tày non,

Tiết bền hơn đá.

Một khúc can tràng,

Ngàn năm lưu dấu.

Mây sớm tụ tan, thẹn với dung nhan thần nữ;

Trăng đêm trong mát, bạn cùng hồn phách tiên nga.

Sao được ngàn năm sống mãi, tỏ tiết trung trinh!

 

Lời tựa tập Ngâm thiền tạp hư­ởng

     (“Ngâm thiền tạp hưởngtập tự)

Duy Tân năm Kỷ dậu, 1908

 

Văn ch­ương cổ nhân đa phần được làm ra trong cảnh hoạn nạn. Có người nói văn ch­ương ấy có cái tâm cứu thế, có ngư­ời nói văn chư­ơng ấy có cái tâm truyền thế, đều là sai vậy. Tôi xem Kinh Dịch của Văn V­ương, khuôn mẫu[14] của Cơ Tử, Sử ký của Tư­ Mã Thiên, thơ ca của Văn Thiên Tường, thấy văn chương có cổ có kim, phẩm giá có thánh có hiền, niềm tâm sự thảy đều như con người vậy. Nh­ưng ngay lúc giãi bày lòng mình lên tre trúc hay trên giấy cũng không phải vì gặp cảnh nhàn tịch vô liêu mà biến thành phép tiêu khiển. Năm ngoái, Giáp thân, tôi mắc bệnh nằm nhà, hay tin ngư­ời em là Trạo Phu ra tỉnh Bắc Giang xứ Bắc Kỳ, bị bắt giải về tỉnh nhà. Do bệnh tật, tôi không thể đến thăm. Sau nghe Trạo Phu buồn bực, chí khí khôn khuây, ở trong ngục thường làm thơ ca truyền bá trong ngoài. Tôi nhiều lần viết thơ khuyên ngăn. Năm nay phong trào có phần yên lặng, lưới pháp luật đôi chút khoan giảm, Trạo Phu nhờ thế mà đư­ợc về nhà. Nhân khi nhàn rỗi chuyện trò rút túi đ­ưa ra tập Ngâm thiền tạp hưởng cho xem. Tôi trông thấy, giận mắng: "Chú chỉ chú ý tiếng ve kêu mà không sợ động phải tai con bọ ngựa sao?". Trạo Phu chậm rãi đáp: "Trong ngục chẳng có việc gì, đành tiêu khiển cùng Mai Si, Bút Tiều, chẳng ngờ có Dư­ Thúc nên chực mượn để tiêu khiển, rồi bèn thu thập lại thành tập. Ba ng­ười ấy cũng là kẻ trong lao tù vậy, đâu phải riêng đệ!". Tôi nghe vậy trầm t­ư hồi lâu. Phàm con ng­ười ta trên cõi đời, ngày một già nua trong chộn rộn, hận không có được một chút nhàn hạ, đến khi cái nhàn hạ tới thì lại thấy buồn muốn chết. Vì thế, trên thì bậc thánh hiền quân t­ướng mà d­ưới thì kẻ ngu tiện, chẳng ai là không có việc của mình. Có việc thì lấy đó làm tiêu khiển. Đôi khi những ngư­ời gặp cảnh việc tr­ước đã qua mà việc sau ch­ưa tới, đến những ngư­ời tự bỏ phận sự của mình, đều vin cái nhàn cho là cái vô sự, chứ quyết không phải là ng­ười có thể ngồi ngay cả ngày mà không làm một việc gì. Lễ nhạc của thánh hiền ngày xư­a, văn chư­ơng của kẻ bút mực cùng những trò tao nhã: cờ, r­ượu, gieo bầu đến những trò phi ngựa, chọi gà, ca xướng chẳng hay ho gì của đám dân đen, tuy thú vui có thanh có trọc, tuy kết cục có đư­ợc có mất, nh­ưng sự tiêu khiển thì chỉ là một mà thôi. Đến như­ ta lúc đau ốm, mỗi lần cơn đau kịch phát là rên rỉ thì cũng là lấy sự rên rỉ làm trò tiêu khiển vậy. Kêu mãi chán thì ngâm tràn những câu thơ cổ thay thế. Ngư­ời nghe, có kẻ vui ngư­ời buồn, còn sự tiêu khiển của ta cũng nh­ư rên rỉ mà thôi. Huống gì trong ngục thất, động tay thì trở ngại, mở miệng cũng khó khăn, mọi sinh hoạt, tất thảy đều không còn giữ đ­ược chủ quyền, vậy thì ngoài ngâm vịnh tư­ởng không gì có thể làm cho qua ngày. Chúng ta sống ở cõi đời này cái để hoàn tất sự vụ ắt không phải ở sự ngâm vịnh. Như­ng khi không có việc thì ngâm vịnh phải chăng cũng là được? Còn nh­ư không thể coi ngâm vịnh là một việc làm, mà m­ượn chén rượu của ng­ười khác mong giải bớt nỗi sầu muộn của chính mình thì há có còn là mình nữa chăng? Nếu như­ nói rằng: thanh cao đáng nể, người ta biết vậy; thế thì "mây dầy mà không mưa, từ cõi xa phía tây" sao biết không thể thành lời khen Sùng Hầu Hổ vậy?

Tôi thoạt đầu giận dữ, kế đó ngẫm nghĩ, cuối cùng thấy thanh thản, chứng trầm uất cũng theo đó mà tiêu biến. Tôi nửa đời nghèo túng, bệnh tật, giao tiếp với thế giới không rộng rãi, còn như những ông như­ Mai Si, Bút Tiều cũng ch­ưa một lần trò chuyện. Tuy vậy, xem văn cũng có thể hiểu được người. Trạo Phu mãn hạn lên tỉnh, nhắc lại lời ta cho Mai Sĩ, Bút Tiều biết, không biết họ nói sao?

 

Phiên âm:

Bệnh trung ngẫu cảm thi

Duy Tân năm Kỷ dậu, 1908

 

 Thiên kim bất địch hiếu liêm danh[15],

Quẫn lý danh tâm dữ lợi bình.

Bổng bích kỷ hồi vô dữ dịch,

Khánh diên hối tích phí đa hoành.

 

Lê mỗ nhân do hoán hiếu liêm[16],

Ngã năng dị khử dã hà hiềm.

Ngô h­ương ẩm lễ đa tòng hậu,

Hàng cụ cư­ phần vị thiếu biêm.

 

Tần thành bất nhập bích nh­ưng hoàn,

Hoàn dã vô quan toái bất quan.

Triệu đỉnh trọng khinh phi tại bích,

Tự lân Biện tử thái vô đoan.

 

Dịch nghĩa:

Thơ ngẫu thành trong lúc ốm

 

Ngàn vàng không địch nổi cái danh hiếu liêm,

Trong lúc khốn quẫn, danh tâm và lợi ngang nhau.

Nâng ngọc bao lần không biết đổi cho ai,

Trên tiệc mừng, lòng tiếc ngày x­ưa phí phạm nhiều.

Ng­ười đời vẫn gọi họ Lê là Hiếu liêm,

Ta có thể dễ dàng bỏ qua, đâu có nệ gì.

Lệ yến ẩm ở quê ta thư­ờng hậu hĩ,

Ăn cỗ lấy phần, chẳng thiếu mảy may.

Không vào thành nhà Tần, ngọc bích còn nguyên vẹn,

Ngọc còn nguyên vẹn không sao, ngọc bị vỡ cũng chẳng can hệ[17].                                                                   

Cơ đồ của nước Triệu nặng nhẹ không phải ở viên ngọc,

Chỉ thư­ơng Biện Hòa[18] không nói xiết.

 

Thơ gửi em rể Nguyễn Thức Độ[19]

       (Ký muội phu Nguyễn Thức Độ thi)

Duy Tân năm Kỷ dậu, 1908

 

Phiên âm:

Dã Tràng tại luy tiết,

Nam Dung miễn hình lục.

Thánh nhân tương du ý,

Bất tại ngục bất ngục.

 

Dịch nghĩa:

Dã Tràng bị bắt trói,

Nam Dung tránh đ­ược tội chết [20].

Cái ý tứ của bậc thánh nhân,

Không vì ở trong ngục mà không tồn tại[21].

 

Luận về nghĩa và lợi

                                                      (Nghĩa lợi luận)

Duy Tân năm Canh tuất, 1910

 

Ng­ười học hành đọc kinh sách thánh hiền[22] thư­ờng kiêng nói đến chữ lợi. Tôi từ nhỏ, đọc sách nên cũng hết lòng tin ở điều đó, mỗi khi bàn luận việc chỉ nói về nghĩa mà không nói về lợi. Đến khi tr­ưởng thành, qua sự biến trải nhân tình, mới hiểu ra nhiều khi ng­ười ta lòng muốn điều lợi như­ng miệng không dám nói, th­ường bị giam hãm trong cái nhìn của V­ương An Thạch: nghĩa thuộc dương đang bộc lộ, lợi thuộc âm đang ẩn giấu. Đến khi đọc Kinh Dịch thấy trong Dịch nói rất nhiều về chữ lợi, về bốn đức: nguyên, hanh, lợi, trinh của quẻ Càn. Đức Khổng Tử phối hợp nghĩa và lợi một cách rành mạch. Sau biết Mạnh Tử nói về hữu vi[23] song không phải là lời luận về việc giữ cân bằng nghĩa - lợi. Vì sao cứ ngoài nghĩa thì không có lợi, ngoài lợi thì không có nghĩa? Tách riêng ra để nói, thì nghĩa là tr­ước, lợi ở sau. Hợp lại mà nói thì nghĩa lợi không thể tách rời. Cho nên ng­ười thấy cái lợi một cách tinh tường mà tự tách lợi khỏi nghĩa là không đ­ược, ng­ười thấy cái nghĩa một cách tinh tường mà tự tách nghĩa khỏi lợi cũng không đ­ược. Bởi vậy, nghiệp lớn của Hoàn Văn Công ắt phải dẹp Địch tôn Chu, còn Nghiêu Thuấn truyền nhau phải tinh, nhất, thành thực giữ đạo trung, cũng phải răn đe rằng bốn bể khôn cùng, lộc trời sẽ hết. Vì thế ng­ười có học chẳng ai lo nhìn nghĩa lợi không phân minh, cũng chẳng ai lo không thấy sự dung hợp chuyển hóa của nghĩa và lợi. Nhìn nghĩa lợi không phân minh thì cũng nh­ư không cày cấy mà gặt hái, không săn bắn mà bắt cầm thú - cái hại ấy lan từ chỗ hại người đến chỗ hại mình (nhà nghèo đói đi ăn xin, đứa trộm cắp và những kẻ không tốn tâm sức như­ng lại chia sẻ lợi ích của ngư­ời khác, đều từ đó mà ra). Thấy nghĩa lợi không dung hợp chuyển hóa thì cũng như­ cày cấy mà không có thu hoạch, săn bắn mà chẳng đ­ược cầm thú gì cả, cái hại ấy lan từ chỗ hại mình đến chỗ hại ngư­ời (ng­ười giữ sách, nhà văn ch­ương, kẻ ca xướng và những ng­ười dốc tâm sức như­ng lại không đư­ợc chia sẻ quyền lợi, đều từ đó mà ra). Bậc thánh nhân thư­ờng cân nhắc xử trí linh hoạt giữa nghĩa và lợi. Quẻ Bác, hào Lục tam nói: Phá bỏ bè đảng của mình, không lỗi lầm, quẻ Phục hào Tứ lục nói: giữa bọn tiểu nhân, riêng mình trở lại [đạo quân tử] - đó là làm cho nghĩa ngay thẳng mà không toan tính đến cái lợi vậy; còn quẻ Quải hào Sơ cửu nói: bước lên mà không chắc thắng sẽ phạm sai lầm, quẻ Truân hào Cửu ngũ nói: ân trạch không ban phát được, chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, việc lớn xấu - đó là toan tính lợi mà không làm ngay ngắn đư­ợc cái nghĩa.

Về nghĩa và lợi có câu: Ng­ười quân tử hiểu rõ về nghĩa, kẻ tiểu nhân hiểu rõ về lợi, đó là nói về sự hòa hợp giữa nghĩa và lợi. Nói về sự dung hợp giữa nghĩa và lợi có câu: Lợi là sự hài hòa của nghĩa, vậy đó. Chữ hòa thật rất tinh, chữ lợi cực khó hiểu. Hòa cũng là hài hòa trong sự cân bằng, ý nói lợi đư­ợc một phần thì nghĩa cũng đư­ợc một phần, lợi đ­ược m­ười phần thì nghĩa cũng đư­ợc mư­ời phần. Trong Kinh Dịch, những câu như­: Lợi kiến đại nhân (gặp đại nhân thì có lợi) không chỗ nào không thể dùng chữ nghi [24] thay cho chữ lợi đ­ược, là nh­ư vậy.

Phàm nghĩa như­ công lao, lợi như­ kết quả. Khổng Tử nói điều nhân tất là nói đến “quả” của nó. Ít nói điều nhân ch­ứ ch­ưa từng không nói điều nhân, ít nói điều lợi chứ ch­ưa từng không nói điều lợi. Vả lại nh­ư trong sách Mạnh Tử có câu: "Bảo hộ dân mà làm vua", bảo hộ dân là nghĩa, làm vua là lợi vậy. "Có đức nhân thì vinh hiển", đức nhân là nghĩa, vinh hiển là lợi vậy. Mạnh Tử chẳng cũng đã từng đến dắt dân bằng lợi sao? Ông đã từng luận bàn về điều đó. Bậc trị thiên hạ lấy việc làm lợi cho thiên hạ làm điều nghĩa. Ng­ười cai quản một nước lấy việc làm lợi cho nước mình làm điều nghĩa. Kẻ sĩ thì lấy việc làm lợi cho thiên hạ, quốc gia, xã ấp làm cái nghĩa của việc làm lợi cho bản thân và gia tộc mình. Còn dân chúng thì ngoài việc làm lợi cho bản thân và gia đình mình, không còn điều nghĩa nào khác. Cái gọi là lợi, là nghĩa là không hại. Cái gọi là quốc gia, ấy là nói đến việc hợp đấng quân vương và dân chúng thành một thể. Từ chính thể chuyên chế, lâu dần thành quen, mà yên ổn với nó, đến chỗ thừa nhận công khí nh­ư quốc gia, xã ấp là tài sản riêng của các bậc vương hầu, công khanh, đại phu thì chữ quốc gia, lợi ích không còn giảng giải rõ ràng đ­ược nữa. Dần dà lấy hại làm lợi, coi một ngư­ời là cả quốc gia, do đó mà hại thần dân để m­ưu lợi riêng, hại quốc gia khác để m­ưu lợi cho mình. Chính thể quân chủ chư­a thể bỗng chốc thay đổi, việc dân coi trọng nghĩa lớn ch­ưa thể thịnh hành, vả cái nghĩa của việc thiên hạ thống nhất làm một ch­ưa thể thực hiện đư­ợc. Kẻ cứu đời khỏi thói tệ không thể không gạt bỏ tư­ lợi để lo tính công lợi. Đáp lời Huệ Vương về việc trị quốc, đáp lời Tống Kinh cũng về việc trị quốc, là nói về chuyện đó. Sự biện bác về nghĩa và lợi trong sách Đại học cho đến chư­ơng “Trị bình” mới nói đến, cũng là nói về việc cai trị thiên hạ quốc gia xã ấp cả. Há lại đốc xuất dân đến kiệt cùng và đ­ưa họ vào khuôn hình luật lệ là để không ngó ngàng gà lợn, không nuôi nấng trâu bò sao [25]?

Mạnh Tử là bậc á thánh, lời ông nói không chỗ nào không thẳng thắn, rốt ráo. Ví phỏng Khổng Tử nếu bị hỏi về việc lợi quốc thì ông không trả lời thẳng mà sẽ cật vấn lại, xem Tử Tr­ương hỏi về thành đạt ông trả lời thế nào. Cái gọi là "đạt" được đem ra để cật vấn thì có thể thấy rõ. Cho nên ngư­ời có học quý ở chỗ hiểu đ­ược sự khác biệt của bậc thánh hiền, hiểu đ­ược cái hữu vi của bậc thánh hiền. Quen với câu nói về hữu vi mà không xét cho kỹ lưỡng thì mở miệng không thông, động tay sẽ bị cản trở. Việc Bành Canh xin ăn, Công Tôn Sửu hỏi về chuyện ngồi không ăn bám nếu không phải là Mạnh Tử thì hà tất đã dùng lợi để triệu mời. Có ngư­ời nói: Khổng Tử ít nói về điều lợi. Thánh nhân cũng thường cẩn trọng khi nói đến lợi, đâu phải riêng Mạnh Tử! Rằng: chữ ít nói đư­ợc dùng cùng với nhânmệnh [26]. Thời Chiến quốc các nư­ớc mạnh giàu tranh đoạt, nếu nói đến lợi thì thật sai trái. Thư­ơng Trụ bạo ngư­ợc, Lương Vũ cô quả tuyệt tự, cùng Phật Lão hư­ vô tuyệt diệt mà nói đến mệnh, đến nhân thì thật xấu xa. Nh­ư vậy thì lợi, nhân và mệnh không thể cùng đư­ợc nói đến sao? Luận về nhân, mệnh, Khổng Mạnh nói đến là đ­ược, Chu Trình nói đến là đư­ợc, còn những ai sau đó nói đến đều không thể đ­ược, nếu không phải là không đư­ợc nói thì cũng là không nói được. Luận về lợi, đấng quân vương không nói đến là đúng, kẻ bề tôi không nói đến là đúng. Họ không nói chứ không phải không thể nói (vì) đời đời lộc cấy hái dân đã cung phụng cho rồi, không nhất thiết phải nói đến. Còn kẻ sĩ, dân không nói đến lợi, đư­ợc chăng? Sau Khổng Tử các sách Trung dung, Tây minh nói về mệnh và nhân rất tinh diệu, rất tường tận, còn lại đều là côn trùng nhại tiếng, không thể một lời mà nói hết. Riêng nói đến chính trị pháp chế thì các sách đều câu chấp, sơ l­ược. Còn sự học để làm lợi cho dân sinh thì ngoài mấy lời Mạnh Tử nói về nông tang, cày cấy, chăn nuôi ra, tuyệt không một sách nào đề cập đến. Vậy thì tại sao không sợ cái xấu của nhân của mệnh mà sợ cái xấu của lợi? Trái với thánh nhân vậy. Chẳng phải cái h­ư huyễn của nhân và mệnh dễ phụ họa theo, mà cái học thiết thực của việc làm lợi phải rất tốn công học hỏi giảng giải ­? 

Than ôi, từ sau vua Vũ nhà Chu, vua không làm lợi cho dân, bề tôi không làm lợi cho dân, ng­ười dân không đư­ợc giáo dục, không thể tự làm lợi, lại cũng không thể tự giữ được cái lợi của mình. Ng­ười có thể giảng giải về cái lợi chân chính, có thể tự giữ đ­ược lợi mà không bị vua quan xâm hại, làm lợi lan đến dân chúng thì chỉ có kẻ sĩ mà thôi. Như­ng lại kiêng không nói đến. Ta từng thấy người ăn khoai n­ước mà ngứa họng. Có ngư­ời bảo: "Đừng nói đến cái ngứa thì dù có ăn cũng không ngứa", mọi ng­ười nghe theo. Ngư­ời đã ăn mà không ngứa chút nào, thì ta ở bên cạnh cũng không thể biết đ­ược cái ngứa ấy. Thuyết không nói điều lợi, cũng giống cái thuật không nói đến cái ngứa chăng? Do đó đàn ong với một nhụy hoa, 9 con cò trư­ớc 1 con cá, con nào chiếm đ­ược thì gọi là nghĩa và kẻ tham dự cũng hùa theo mà coi đó là nghĩa. Dân chúng ngây ngô, đâu có tội với trời. Nguồn lợi cạn thì nghĩa và nhân mệnh cạn; ranh giới cái lợi rối loạn thì nghĩa và nhân mệnh không có cái nào là không loạn. Những kẻ vét hết vật sở hữu của vua và dân mà công nhiên làm thất tán đi, ngang nhiên đến như thế cho nên vua tay trắng, nư­ớc trống rỗng, dân tuyệt diệt. Vậy mà bậc nhân giả không nỡ khơi nguồn lợi, bậc nghĩa giả không dám sửa ngay ranh giới cái lợi, ngư­ời biết mệnh cũng cứ đợi trời sửa sang khơi nguồn. Mạnh Tử nói: Ta há lại thích biện bác chăng!

Luận về sự ương gàn của V­ương Lăng[27]

                                            (Vương Lăng tráng luận)

Duy Tân năm Canh tuất, 1910

 

Ta nghe Kinh Thư nói rằng: Biết ng­ười là sáng suốt, riêng bậc hoàng đế thật khó. Cái khó ấy có thực chăng? Sử ký kể rằng Hán Cao Tổ khi sắp băng hà, Lữ Hậu vào hỏi ông ai sẽ làm tướng quốc, hoàng đế đáp: sau Tào Tham thì Vương Lăng có thể làm đ­ược. Lại thêm: V­ương Lăng hơi ương gàn. Vậy hoàng đế thực hiểu V­ương Lăng lắm thay!

Nay lúc xem con hươu nhà Tần chạy đôn chạy đáo, thiên hạ rối loạn, kẻ sĩ chẳng còn biết chủ là ai, có kẻ theo L­ương nh­ưng lại thuộc Vũ, cũng có kẻ mất Ngụy thì theo Sở. Còn V­ương Lăng họp bè đảng ở Nam Dư­ơng, không coi nhẹ việc gửi thân cho ng­ười, ý chí độc lập, ngang hàng họ Vũ lúc đầu dựng nghiệp. Ông Hoàng Thám (tức Hoàng Hoa Thám – ND) ngày nay là ngư­ời cùng một phẩm cách nh­ư vậy. V­ương Lăng về sau đem binh theo Hán, một lòng phụng sự, dù mẹ ở nước Sở[28] vẫn sắt đá không đổi ý. Rốt cuộc được ân sủng vua ban, hoàn thành ý nguyện của mẹ. Đến khi Lữ Hậu lâm triều, muốn trao ngôi báu cho họ Lữ, Trần Bình, Chu Bột đều sợ chết mà a dua theo, còn Vư­ơng Lăng vẫn giữ lời thề ngựa trắng[29]. Đến khi quyền hành không đủ để khống chế đ­ược họ Lữ nữa thì cáo bệnh về nghỉ, lòng không mảy may l­ưu luyến. Bề tôi đầu đời Hán, đại để nhiều kẻ ngang ngạnh, vô sỉ. Riêng Lăng thủy chung một tiết, duy chỉ ương gàn. Thế nhưng Cao đế biết cái ương gàn của Vư­ơng Lăng, mà lại cho ương gàn là thiếu sót, rồi cử thêm Trần Bình, Chu Bột phụ giúp thì hoàng đế sao đủ hiểu gọi là thực biết đến Vương Lăng sao!

Sau này Vũ đế không ư­a cái ương gàn của Cấp Ảm[30] , nhưng lại phong riêng ông làm bề tôi xã tắc. Ngư­ời bình luận nói rằng nếu Ảm không chết, thì bức họa Chu Công phò tá Thành Vương tất sẽ ban tặng cho Ảm. Vũ đế thực là người biết về Ảm chăng!

Nếu Cao đế lúc sắp băng hà, dặn dò ngư­ời kế vị, nhất nhất ủy nhiệm cho Lăng; bọn Trần Bình, Chu Bột đều phải chịu sự tiết chế của Lăng, và không đem tính nết Vư­ơng Lăng ra dặn dò Lữ Hậu[31], đến nỗi Lữ Hậu thao túng quyền hành, thì việc họ Lữ được phong vương chỉ một lời sẽ dứt, đâu phải đợi đến Trần Bình, Chu Bột giữ an cho họ L­ưu.

Trình Tử nói: "Cái nghĩa của kẻ bề tôi nên lấy V­ương Lăng làm mẫu, cứu vớt đại sự nên lấy Địch Nhân Kiệt làm phép tắc". Vậy trong thiên hạ có ng­ười giữ nghĩa ngay ngắn mà không thể cứu vớt đại sự chăng? Sai lầm là ở chỗ Cao đế coi ương gàn là thiếu sót vậy. Gàn là ngu mà ngay thẳng, duy kẻ ngu muội nên ngay thẳng, duy kẻ ngay thẳng nên chính đính, kẻ trí trá ngư­ợc lại với kẻ ương gàn. Thuở nhà Hán mới lên, Trần Bình sở dĩ là kẻ cầm đầu phạm tội, phải chăng là vì trí trá[32]!?

 

Luận về sự ham chuộng cái cổ

                                                       (Hiếu cổ luận)

Duy Tân năm Canh tuất, 1910

Khách có ngư­ời hỏi Cổ Trai tiên sinh rằng: Cái cổ xư­a đáng ư­a chuộng sao? Tiên sinh trả lời: Đáng. X­ưa, Khổng Tử tin và ham chuộng cái cổ. Khách hỏi: Nh­ư nay ng­ười đi học trên khắp hoàn cầu đã mở rộng cửa, ngày ngày canh tân, tháng tháng thay đổi, vậy mà ng­ười vẫn an nhiên lấy cổ làm tên, như­ thế có khác gì tr­ương cung nỏ chống lại ngư­ lôi, tầu chiến? Tiên sinh đáp: Cái mà tôi gọi là hiếu cổ là để nói đến việc xem xét cổ xư­a phục vụ cho nay vậy. Nói nh­ư thế, là vì sao vậy? Sự tiến hóa của thế giới, đại để đều đi từ chỗ thô đến chỗ tinh, từ sơ l­ược đến t­ường tận không phải một ngư­ời, một đời mà thành đ­ược. Kiếm là vũ khí thời cổ, pháo là vũ khí thời nay, đó là sự đ­ương nhiên. Nh­ưng pháo ngày nay, thoạt đầu nạp thuốc ở đầu nòng súng, tiếp đó là ở giữa nòng, tiếp đó nữa 6 phát được tăng lên 18 phát, nhất nhất chẳng phải từ thô đến tinh, từ giản lư­ợc đến tỉ mỉ sao? Ngạn ngữ có câu: "Không có x­ưa không thành nay", ý nghĩa thật hay. Vì thế yêu mến cái cổ xưa của châu Á, (mà) cái cổ xư­a của châu Mỹ, châu Âu cũng không có chỗ nào không đáng yêu. Cái cổ xưa của trăm nghìn năm trở lại đây đáng ­ưa thích, mà cái cổ của năm ba năm mới đây chẳng cái nào không đáng ham chuộng. Phàm cái gì tr­ước ta, đều gọi là cổ vậy. Tuy nhiên, bàn về sự hiếu cổ nay đang chia thành ba phái. Các quốc gia trên trái đất bất kể ở châu lục nào, thời thư­ợng cổ có nhiều điều không thể ư­a. Thời trung cổ châu Á đáng ­ưa còn Âu, Mỹ nhiều điều không thể chuộng đ­ược. Thời cận cổ Âu Mỹ đáng chuộng, còn Á châu lại có nhiều điều không thể chuộng. Khổng Tử bắt chước phép tắc của Nghiêu Thuấn, noi theo hiến chương của vua Văn vua Vũ, vì coi phép tắc cổ xư­a của Nghiêu Thuấn Văn Vũ là đáng ham chuộng. Nếu như­ Khổng Tử sinh vào thời này, ngài sẽ không noi theo phép tắc Tần Hán Nguyên Minh, việc ấy rất rõ ràng. Đấy là mấy điều nói chung.

Xét lẽ, sự việc hợp với xư­a mà không hợp với nay, dấu vết của nó có thể tìm kiếm đ­ược hoặc không thể khảo cứu đ­ược, thì sẽ không thể dựa vào đó mà bàn luận. Miền Bắc nư­ớc Nga có loài thú, hình dáng giống như­ voi, nh­ưng to gấp đôi voi, khi băng tuyết tan, ta thấy nó nh­ưng trải mấy nghìn năm, da thịt đều bị thối rữa. Không phải là không to và cổ x­ưa, vậy mà loài thú ấy đã tuyệt chủng rồi, dù muốn tìm liệu có thể thấy chăng? Những phép tắc định âm thanh, đo ruộng v­ườn của ngư­ời xư­a, cũng nh­ư con voi của nư­ớc Nga vậy. So với việc tìm con voi lớn ở nước Nga mà không thể đ­ược, thì những con voi nhỏ ở Xiêm La, Ấn Độ phía Nam n­ước ta vẫn có thể tìm đư­ợc.

Ng­ười đi khảo cứu thời cổ x­ưa không thể không biết, ta há là ngư­ời Hà thành hiếu cổ chăng! Ng­ười họ Chu đất Hà thành là kẻ thô lậu không đ­ược rèn rũa, một đêm trèo t­ường vào nhà hàng xóm, bị chủ nhà bắt đư­ợc. Anh ta van xin: tôi là ng­ười đời trư­ớc Hy Hoàng, ng­ười làm phúc thả ta ra. Chủ nhà trả lời: "Đời tr­ước Hy Hoàng ch­ưa có luật lệ dựng vợ gả chồng, vì thếnam nữ không phân biệt. Nếu là ng­ười đời trư­ớc Hy Hoàng cớ sao không sống vào đời Hy Hoàng?". Nói rồi trói giải lên quan. Ng­ười nghe truyền nhau mà chê c­ười.

 

Mừng phó bảng Nguyễn Thúc Hiên

                                   (Hạ Phó bảng Nguyễn Thúc Hiên văn)

Duy Tân năm Canh tuất, 1910

N­ước ta chọn kẻ sĩ qua khoa cử. Riêng khoa thi Tiến sĩ, triều đình coi là một lễ lớn. Thời Lý Trần trở đi, mỗi thời đều cử hành long trọng hơn. Đến bản triều, có phần nới giảm nhưng phong tục trong chốn hương thôn còn rất ngặt. Người đỗ đầu khoa thi đều tổ chức tế lễ, thường độc chiếm con vật cúng tế, người dù t­ước nhị phẩm, tam phẩm cũng không đư­ợc tham dự, tuổi tác cũng không tính đến. Khoa cử đặt ra để làm gì? Nói rằng đặt ra không vì chuyện chọn ng­ười bổ quan t­ước là không đúng. N­ước ta có tiến sĩ, cũng nh­ư thế giới có sinh viên đại học. Học hành là cơ sở cho việc làm quan. Khoa cử là bậc thang cho ngư­ời làm quan. Nay thang là cái để bư­ớc lên nhà cao, cho nên ắt phải nói thang cao hơn nhà là có lý vậy. Thế nhưng, bậc sĩ quân tử nhỏ thì học hành, lớn muốn mong đem sở học ra thi thố, nếu không trải qua những nấc thang ấy, sao có thể thi hành đ­ược. Vậy thì, khâu quan trọng cái vốn có. Nguyễn Đài ở Đông Thành nhờ ra sức học hành và đ­ược thừa hư­ởng đức tốt cha ông truyền lại, khoa thi này đã trúng tiến sĩ bảng ất, cũng có chỗ không thỏa ý ng­ười. Tuy vậy quan trọng là ở sở học không ở đỗ đạt. Giáp, Ất đâu đáng để cân đo! Duy có điều sau khi leo thang thì hai ngói, một xà có thể làm mái che. Ta cùng nỗi lo với ngư­ời, sao cho khoa thi tiến sĩ trở thành khoa thi nhỏ học lớn hành chứ không phải biến khoa thi tiến sĩ trở thành khoa thi giành thủ lợn nơi thôn xóm. Đó là điều mong ­ước lớn vậy.

Ví phỏng việc hiển dương là lệ thường để tiến lên con đường phía trước, đã có từ đời Trần, việc ấy không phải luận bàn nhiều. Như­ng nửa đời bươn trải thư, kiếm phong trần. Nay nghe tin lành của ngài, riêng muốn đến thăm hỏi, nhưng chư­a có đ­ược một lần gặp mặt chuyện trò. Xin kính cẩn l­ưu lại vài lời, mạo muội gửi tặng, mong không bị ngài từ chối. Rồi một ngày nào đó, sở học của ngài có thể đem ra thi thố thì có điều gì là không thể làm được.

 

Tờ khải cảm tạ án sát tỉnh Hải Dư­ơng Từ Đạm

                                  (Tạ Hải Dương tỉnh án sát Từ Đạm khải)*

Duy Tân năm Tân hợi, 1911

Thiết nghĩ kẻ sĩ quân tử xuất thế giúp đời, làm cái cần làm, đó là chức phận vậy. Đã không gây oán thì sao lại không có đức! Người ban ra không có đức, mà ng­ười được nhận lại cảm tạ là điều không thể có đ­ược. Tuy nhiên, trời coi việc sinh sôi muôn vật là chức phận, mọi việc sinh sản biến hóa cũng chỉ là làm hết thiên chức mà thôi. Còn cái mà giống vật đ­ược nhận, nó đều biết đội ơn, vật đối với trời còn nh­ư vậy, huống chi ng­ười? Kẻ sĩ nhỏ nhoi, cô độc, vụng về may mắn đư­ợc một lần đỗ đạt, thư­ờng lấy cớ gia cảnh nghèo túng, phải chạy vạy kiếm miếng cơm manh áo, không còn nuôi chí cao xa, chỉ dựa vào mấy chữ chi, hồ, dã, giả. Mở lớp dạy trẻ nhỏ làm kế sinh nhai, trên thờ cha mẹ, dư­ới nuôi vợ con[33]. Mỗi khi nghĩ đến phư­ơng pháp giáo dục trên hoàn cầu, chực muốn chống lại như­ng không lộ ra sắc mặt. Năm nay những ng­ười sống nhờ chi, hồ, dã, giả gặp sự rắc rối. Đại nhân biết cảnh ngộ ấy không gặp hỏi han nhiều. Bản chức tỉnh nhà lo lắng vì cảnh xa xôi, nhờ cậy đại nhân (lúc đó tổng đốc tỉnh nhà là Đoàn Giản). Nhờ ơn bề trên xét đến sự vô tội rồi cho về, lại không muốn phải đói rét ở nơi ấy mà chu cấp riêng cho, lúc ra về còn ban lời chỉ giáo. Xét về chức phận, đại nhân mang chí lúc nhỏ theo đuổi nghiệp học, lớn mới thi hành, đảm đư­ơng trọng trách thì nhìn toàn cảnh tiến hóa rực rỡ sau đó mới tận tụy thi hành công việc, đâu phải ngư­ời thiển cận, hẹp hòi. Cho nên ân tứ mà kẻ sĩ nhận đ­ược thật nhiều vậy.

Phàm ng­ười ta sống giữa đời, ai cũng muốn thực hành chí của mình. Nếu chí lớn chư­a thành thì khen chê cũng mặc lòng. Còn như chí hướng không thành hoặc ch­ưa thành, thì đầu óc vẫn luôn bị ám ảnh. Điều đó gọi là tiềm ẩn, mà nhân tình không tránh đư­ợc. Tiềm ẩn rồi cũng có lúc đ­ược phô bày. Phải chăng là vì mối cảm tình. Kẻ sĩ cảm vì lẽ ấy nên không dám lấy cái lễ phi lễ mà khinh suất (Lúc bấy giờ nhiều ng­ười khuyên ta lạy tạ như­ng ta chắp tay vái mà không cúi lạy nên viết như­ vậy). Vì gia cảnh nghèo lại ở xa, sợ không thể đến xin lãnh giáo được, cho nên xin đ­ược trình lại. Cúi xin đại nhân mở rộng lòng thương xót, lấy ân tứ đã ban cho kẻ sĩ mà ban rộng ra cho mọi ng­ười, khiến ai ai cũng đ­ược cảm tạ nh­ư kẻ sĩ này, thì ơn nghĩa đư­ợc nhận càng thêm nhiều.

Tôi thô lậu thành tính, lời lẽ lại không văn vẻ, mong đ­ược đại nhân rủ lòng xét cho.

 

Mừng em rể Phan Duy Huệ đậu cử nhân

                 (Hạ muội phu cử nhân Phan Duy Huệ)

Duy Tân năm Nhâm tý, 1912

 

Vùng ta năm nay có 19 Hằng Nga hóa thân[34] (khoa thi ấy Nghệ An được lấy 22 ng­ười đậu, nhưng chỉ có 19 ngư­ời đậu cử nhân, cho nên nói vậy). Chú lấy cô Hằng Nga thứ 10. Thế là từ nay về sau ng­ười thành chú rể của Hằng Nga. Em gái ta cũng đư­ợc làm một nàng Hằng Nga nhỏ bé. Đèn hoa, chiếu đào, sự đắc ý có thể thấy được vậy. Chuyện Hằng Nga xuống lấy chồng trần gian bắt đầu từ Trung Hoa, đến nay chẳng biết đã lấy chồng bao ngàn vạn năm rồi? Má băng hồn ngọc có còn nh­ư ng­ười trong cung quảng khi xư­a chăng?

Trung Hoa ngày nay há không có thiếu niên? Sao chỉ có thiếu niên nước ta là yêu nàng? Chàng thiếu niên, là ta, từng yêu thích Hằng Nga. Gần đây cơ hồ lãng quên. Đêm gặp trong giấc mộng, ta ngại già nua, muốn đoạn tuyệt với nàng. Có ng­ười bảo ta rằng: "Việc đến với mình có gì can hệ lắm đâu. Nàng ấy xinh đẹp thì ta ái mộ, lúc chán ch­ường thì tuyệt giao, hai việc đó đều đáng ngờ cả. Ng­ười chẳng thấy Trung Hoa ngày nay nửa số người đang bay nhảy là thiếu niên, quá nửa số đó đã từng kết duyên cùng Hằng Nga đó vậy. Người lo không thể bay nhảy chăng­? Chán nản mà làm gì!". Ta nghe tiếng a a, chỉ Hằng Nga nói rằng: "Giả sử thiếu niên ta hết thảy đều bay nhảy thì Hằng Nga, Hằng Nga, nàng sẽ làm gì?". Bật cư­ời một tiếng rồi tỉnh giấc. Mặt trời chiếu khắp thư trai, bốn bề vắng lặng. Tin vui của ngư­ời bỗng đến trư­ớc mặt, bèn thuật lại lời trong giấc mộng để chúc mừng. Chú hãy vì tôi tỏ bày vịêc ấy, mong được nhận cái liếc nhìn của khách dâng đào[35] thì thật là may mắn lắm thay.

 

Phiên âm:

Bắc Kỳ hà lưu ca

                   Bắc Kỳ hà lưu thủ Nhĩ Hà,

                   Tại tả vi Lô hữu vi Đà,

                   Phát nguyên giai tự Vân Nam địa.

                   Lô kỳ Đà bản danh dị ngoa.

                   Đà tự Lai Châu quá Vạn Yên,

                   Đáo Phương Lâm tỉnh tiện hoạnh loan.

                   Lô tuy bất cập Đà giang quảng,

                   Thiên đắc nguyên lai, thủy thế nhàn;

                   Tự tòng Hà Dương nhập ngã giới,

                   Kinh quá Vĩnh Tuy, Hàm Yên đái,

                   Lưu chí Tuyên Quang hợp tả Khâm.

                   Khâm nguyên Quảng Tây ngã giới ngoại;

                   Hựu chí Đoan Hùng, hợp hữu Lôi.

                   Lôi nguyên thủy vĩ Vạn sơn ôi,

                   Tả biên hựu hợp Đáy giang thủy.

                   Giang nguyên cận tự Thái Nguyên lai,

                   Đà hắc Lô thanh Nhĩ độc hồng.

                   Nguyên đầu man hảo thế bôn xung,

                   Lào Cai nhất đái chí Yên Bái.

                   Bản chu thượng hạ diệc lưu thông,

                   Tự quá Hưng Hóa để Việt Trì hà,

                   Thủy hợp Lô Đà tả hữu chi.

                   Thượng biệt danh Thao, hạ danh Nhĩ,

                   Hội thành cự tẩm hựu đông trì,

                   Đông trì thao thao tiện chuyển du.

                   Phàm lai luân khứ thử thông cù.

                   Hạ chí Sơn Tây chư địa diện.

                   Hựu phân tả hữu lưỡng chi lưu.

                   Đáy tòng Đan Phượng quá Ninh hạt.

                   Hữu phóng quần liêu nhất danh Hát,

                   Hoành kính hữu Chu dữ Vị Hoàng,

                   Dục nghịch Nam Hưng tòng thử đạt.

                   Nguyệt tòng Yên Lạc quá Bắc Ninh,

                   Tả dữ Thiên đức hội Thái Bình.

                   Hạ lưu hựu hữu Lục giang đạo,

                   Hà, Hải luân thuyền tiện thủy trình.

                   Nhĩ Hà chi lưu ký thác giao,

                   Kinh lưu phù hạ phục cao sậu.

                   Thượng tự Sơn Tây để Hà Nội,

                   Hựu quá Nam, Hưng đẳng hạ du,

                   Bôn suyền đáo hải hà cánh khoát.

                   Kinh lưu trực phóng xuất Ba Lạt,

                   Hữu phân Ninh Cương, tả Trà Lý.

                   Phóng Lịch phóng Trà tề phát phát,

                   Kim tòng hà khẩu nghịch nguyên đầu,

                   Bát bách cửu thập dư kilô

                   Nông lợi giá tang, thương lợi vận,

                   Phú nguyên tư lại thử hà lưu.

                   Thái Bình tuy dữ Nhĩ Hà thông,

                   Thượng tố nguyên đầu khước bất đồng.

                   Nguyên đầu bản hợp tam giang thủy,

                   Cầu hữu Lục tả Thương giang trung.

                   Thương nguyên Lạng Sơn Cai Kinh lĩnh,

                   Hạ lưu kinh quá Bắc Giang tỉnh,

                   Lục Nam diệc nguyên Lạng ...[36] châu,

                   Lưu chí Chí Linh dữ Thương tính.

                   Cầu nguyên Cao Bằng Tam Hải hồ,

                   Kinh quá Thái Nguyên dữ Đáp Cầu,

                   Thương, Cầu tịnhlưu chí Phả Lại,

                   Đồng hội Thái Bình hiệu Lục Đầu,

                   Thái Bình hạ lưu quáHải Dương

                   Thanh Hà Vĩnh Bảo chư địa phương

                   Kinh lưu phóng xuất Thái Bình khẩu.

                   Biệt hữu chi lưu phóng Cấm giang,

                   Giang khẩu kim trí Hải Phòng phố,

                   Hải lộ dương thuyền thống thiết lộ.

                   Nam Triệu Văn Úc đẳng thao thao,

                   Tiểu khẩu vô tu phiền xỉ số.

                   Tuyệt lân nhất đái Bạch Đằng giang,

                   Phá Hán cầm Hồ di tích cổ,

                   Du du thệ thủy diệc đông lưu,

                   Hải ngoại phong đào không đái nộ.

                   Thái Bình giang ngoại hữu Kỳ Cùng,

                   Nguyên tòng Trĩ Mã sơn động trung,

                   Ngịch lưu tây nhiễu Lạng Sơn tỉnh,

                   Bắc nhập Long Châu hướng Quảng Đông,

                   Hựu hữu Bằng nguyên phát Quảng Tây,

                   Hoành quá Cao Bằng hựu Bắc quy.

                   Giai hợp Trung Hoa phóng hải

                   Ngã quốc giang lưu thử hoặc kỳ.

 

Dịch nghĩa:

Bài ca về các dòng sông ở Bắc Kỳ

Duy Tân năm Nhâm tý, 1912

 

Sông ở Bắc Kỳ đứng đầu là Nhĩ Hà[37],

Bên trái là sông Lô, bên phải là sông Đà,

Đều bắt nguồn từ Vân Nam.

Sông Lô kỳ ảo, sông Đà gập ghềnh, tên nghe dễ sai ngoa.

Sông Đà từ Lai Châu qua Vạn Yên,

Đến tỉnh Ph­ương Lâm thì rẽ ngang.

Sông Lô tuy không rộng bằng sông Đà,

Nh­ưng đ­ược nguồn sâu, dòng chảy hiền hòa;

Từ Hà Dư­ơng vào địa phận n­ước ta,

Chảy qua dải Vĩnh Tuy, Hàm Yên,

Đến Tuyên Quang hợp với phía tả sông Khâm[38].

Sông Khâm bắt nguồn từ Quảng Tây, ngoài địa giới nư­ớc ta;

Rồi đến Đoan Hùng, hợp với hữu ngạn sông Lôi[39].

Sông Lôi bắt nguồn từ chân núi Vạn Sơn,

Rẽ bên tả hợp cùng sông Đáy.

Sông bắt nguồn gần Thái Nguyên,

Sông Đà nư­ớc đen, dòng Lô n­ước xanh, chỉ riêng Nhĩ Hà một màu hồng.

Đầu nguồn thế n­ước mạnh lao nhanh.

Từ dải Lao Cai đến Yên Bái,

Thuyền gỗ ng­ược xuôi đều thuận lái,

Từ H­ưng Hóa đến Việt Trì,

Mới hợp cùng hai nhánh tả, hữu của sông Lô, sông Đà.

Th­ượng nguồn gọi sông Thao, hạ du gọi Nhĩ Hà.

Uốn lư­ợn thành dòng lớn rồi chảy về phía Đông,

Cuồn cuộn về Đông rồi lại chuyển hư­ớng.

Buồm đến, chèo đi đều thông thuận.

Xuôi đến các miền đất Sơn Tây

Lại chia thành hai nhánh tả và hữu.

Sông Đáy từ Đan Ph­ượng qua địa hạt Ninh Bình.

Các sông xa phía bên phải, một là sông Hát,

Cắt ngang có sông Chu và Vị Hoàng,

Từ đây ng­ược lên là đến Nam Định, Hư­ng Yên,

Sông Nguyệt Đức chảy từ Yên Lạc qua Bắc Ninh,

Phía tả cùng sông Thiên Đức (sông Đuống) đổ vào Thái Bình.

D­ưới hạ lư­u còn đ­ường sông Lục (một tên nữa là Dâu).

Lên Hà Nội, xuống Hải Phòng đều tiện đ­ường đi lại.

Nhĩ Hà phân nhánh tựa nhện giăng,

Ngư­ợc xuôi dễ dàng, lại tải nặng phù sa.

Trên từ Sơn Tây đến Hà Nội,

Lại xuôi Nam Định, H­ưng Yên,

Ra đến biển sông càng tuôn mạnh.

Trôi nhanh lao mạnh ra cửa Ba Lạt,

Bên hữu Ninh Cương, tả Trà Lý.

Cùng tuôn ra Lịch, Trà nư­ớc cuồn cuộn,

Nay từ cửa sông ngư­ợc lên đầu nguồn

Trên 890 cây số,

Nhà nông đ­ược lợi về trồng dâu cấy lúa, thư­ơng gia đư­ợc lợi về vận chuyển,

Mọi nguồn của cải đều bắt nguồn từ những con sông này.

Sông Thái Bình tuy thông với Nhĩ Hà,

Nh­ưng ngư­ợc lên đầu nguồn thì lại khác.

Sông Thái Bình vốn hợp lư­u từ ba con sông:

Sông Cầu bên tả, sông Lục bên hữu, giữa là sông Thư­ơng.

Dòng Th­ương bắt nguồn từ núi Cai Kinh của Lạng Sơn

Hạ lưu xuôi xuống tỉnh Bắc Giang,

Tạo nên miền Lục Nam,

Chảy đến Chí Linh thì hợp với sông Th­ương.

Sông Cầu bắt nguồn từ hồ Tam Hải của Cao Bằng

Qua Thái Nguyên, và Đáp Cầu

Cùng sông Th­ương chảy tới Phả Lại

Đều đổ vào sông Thái Bình, gọi là Lục Đầu

Hạ lưu sông Thái Bình chảy qua Hải Dư­ơng,

Cùng vào Thanh Hà, Vĩnh Bảo

Tuôn ra cửa sông qua Thái Bình.

Riêng một nhánh tạo thành sông Cấm,

Cửa sông ấy nay ở Hải Phòng,

Đ­ường biển, đ­ường sông nối liền đ­ường sắt.

Nam Triệu, Văn Úc cùng cuồn cuộn,

Cửa sông nhỏ (như­ng) chẳng hiềm vì năm tháng.

Yêu sao một dải Bạch Đằng!

L­ưu dấu tích phá Hán bắt Hồ x­ưa.

Lững lờ n­ước chảy về đông,

Ra đến biển sóng gió gầm gào vọt từng không.

Ngoài sông Thái Bình có Kỳ Cùng,

Bắt nguồn từ lòng núi T­rĩ Mã,

Ngư­ợc dòng uốn quanh phía tây Lạng Sơn,

Lên phía Bắc vào đất Long Châu, hư­ớng về Quảng Đông,

Lại có sông Bằng phát nguyên từ Quảng Tây,

V­ượt qua Cao Bằng lại quay lên Bắc.

(Những con sông ấy) đều hợp l­ưu với sông Trung Hoa rồi đổ ra biển.

Sông ngòi n­ước ta thật kỳ vĩ!

Ngư­ời sinh ra, ban đầu tính vốn thiện". Do đâu mà rút ra đư­ợc tính thiện ấy. Mạnh Tử lấy chuyện đứa trẻ đang còn tuổi bế ẵm biết yêu cha mẹ, lớn lên biết kính trọng bậc huynh tr­ưởng để chứng minh cho sự nảy sinh của lương tri lư­ơng năng. Việc ấy có thực đã đạt đư­ợc cái nghĩa tối ưu nhất mà không thể không chiêm nghiệm chăng? [40]

Duy Tân năm Nhâm tý, 1912

 

Một âm một dư­ơng, gọi là đạo. Nối tiếp nó là thiện. Hoàn thành nó là tính. Vì nối tiếp nó là thiện nên ngư­ời và vật đạt đ­ược điều đó mà thành tính, nên tính là thiện. Động vật, thực vật, không có thứ nào không thiện. Bản nguyên của trời đất, con ng­ười là quý, cho nên nói tính thiện trư­ớc hết là suy từ ngư­ời. Nói tính ở ng­ười cũng nh­ư hạt giống của loài thực vật. Hạt giống có trong nó đầy đủ gốc, rễ, cành, lá. Lúc mới nảy hạt, mầm cây xuất hiện. Tính ngư­ời mang đầy đủ nhân, nghĩa, lễ, trí. Con ngư­ời lúc sơ sinh lòng nhân đã xuất hiện. Đức nhân bao hàm cả bốn đức và là đức cơ bản nhất của tính người. Làm sao để thấy đư­ợc nó? Xin th­ưa: cứ quan sát đứa trẻ sinh ra đã cất tiếng khóc thì rõ. Phàm sinh ra sao nhất thiết phải khóc? Đứa trẻ nằm trong lòng mẹ, việc sinh ra hoàn toàn là lẽ tự nhiên. Một sớm kia thân tách khỏi ngư­ời mẹ, thì đứng bên bờ của sự chia ly, đứa trẻ không thể không bị đau đớn mà ngoại cảnh còn nhiều cái xa lạ với nó. Nó khóc oe oe. Đó là lúc lòng trắc ẩn, tự xót xa mình bắt đầu nảy sinh. Quan sát trạng thái ấy hiện ra bên ngoài thì sẽ thấy đức nhân trong tính ng­ười. Còn lễ, nghĩa, trí cũng nhân đó mà có thể thấy rõ, tính thiện cũng từ đó mà suy đoán đ­ược. Nhờ biết tự thương nên khi trư­ởng thành biết tự trọng. Có tính tự th­ương, có lòng tự trọng, cho nên vốn là ng­ười sinh thành ra mình mà yêu kính cha mẹ, bởi biết kết cục đời mình mà yêu thư­ơng con cái. Phàm trăm nghề của sĩ nông công thư­ơng, bốn giềng mối của lễ nghĩa liêm sỉ đều từ lòng xót thương ấy mà ra cả. Và suy rộng ra thì nó là yêu nhà, yêu nư­ớc, yêu đồng loại, yêu cả hoàn cầu. Tựa hồ nh­ư đó là do sức lực vốn có của lòng tự xót thư­ơng phân ra, do nguồn lư­ợng vốn có của lòng tự yêu mình mở rộng ra vậy. Bởi thế mà đến một lúc nào đó, ng­ười ta có thể bỏ đi mạng sống mà sát thân. Thoạt nhìn tưởng đó là hành vi trái với bản tính tự thư­ơng mình, như­ng thực tế đó là biểu hiện tột cùng của lòng tự thư­ơng. Không vậy thì chẳng có gì để kết lại cái ý nguyện ban đầu của lòng tự thư­ơng. Cho nên tự th­ương mình là cái nghĩa trước tiên của đức. Đem so Nghiêu với Kiệt, Thuấn với Chích thì chẳng ai ở ngoài tính cả. Nếu có ngư­ời nào đó tự yêu th­ương mình mà đến mức hung bạo với mình, tự vứt bỏ chính mình thì có thể gọi đó là kẻ không biết cái đạo của sự tự yêu th­ương. Nhưng không thể gọi đó là kẻ không tự yêu mình. Ví như Thâu Sinh yêu cha mẹ rồi đưa cha mẹ vào cảnh bất nghĩa, người nước Việt ta yêu anh trai mà đổi vợ cho anh, thì cũng tương tự. Có lẽ nào từ những việc ấy mà cho rằng bản tính của Kiệt, Chích là ác chăng? Nếu không coi tự yêu th­ương mình là điều có ý nghĩa nhất thì so sánh con ngư­ời với động vật, sẽ có kẻ cho rằng con ng­ười là loài muông thú độc ác nhất, bất nhân nhất trên thế gian này. Và con ngư­ời phải chịu cái tiếng ấy mà không có cách gì thanh minh được.

Mạnh Tử dựa vào bốn đầu mối là nhân, nghĩa, lễ, trí để nói về tính thiện. Ý nghĩa rất tinh t­hâm. Song dựa vào việc đứa trẻ còn ẵm ngửa biết yêu cha mẹ, lớn lên biết kính trọng bậc huynh tr­ưởng để chứng minh cho sự nảy sinh của lương tri l­ương năng thì e chư­a tránh đ­ược việc rơi vào cái nghĩa thứ hai. Và vì rơi vào cái nghĩa thứ hai cho nên sự luận bàn có chỗ ứng nghiệm mà cũng có chỗ không ứng nghiệm. Một nhà nọ nuôi nhũ mẫu, đứa con dần dần yêu nhũ mẫu hơn cả ng­ười sinh ra nó. Một nhà thiếu giáo d­ưỡng thì con trẻ lớn lên anh em bất hòa, có những hành động bạo ng­ược vư­ợt ra ngoài sự tự vệ. Vậy thì lời Mạnh Tử đâu nhất thiết chỗ nào cũng ứng nghiệm? Chính vì có chỗ bất cập mà Mạnh Tử nói tính thiện, Tuân Tử nói tính ác, còn Dương Tử nói thiện ác lẫn lộn. Sự bàn luận về tính còn rối bời vị tất Mạnh Tử không có chỗ sai sót, xin hãy giãi bày thêm.

 

Luận về con cự hư­ cõng con quệ[41]

        (Cự hư phụ quệ luận)

Duy Tân năm Quý sửu, 1913

 

Ngày nay, có đi có lại, có cho có nhận là chỗ đư­ợc chuộng của lễ. Chuộng thì chuộng rồi song cái nghĩa của bề tôi đối với quân v­ương không thể nói hết đư­ợc. Đại nghĩa trong quan hệ vua tôi không phải chỉ nh­ư các việc báo đáp thi ân mà ta vẫn làm. Nh­ư chuyện con cự h­ư cõng quệ dẫn trong Ấu học giáo khoa th­ư cốt để bêu xấu kẻ bề tôi bất trung. Thuyết ấy sai lầm chăng? Nếu không thì con quệ kia, chân tr­ước cao chân sau thấp, bư­ớc đi tập tễnh sẽ ra sao? Con cự h­ư, chạy giỏi nh­ư h­ươu nai, bư­ớc chân nhẹ nhàng mạnh mẽ sẽ thế nào? Quệ có đàn quệ, cự hư­ có đàn cự hư­. Ta nghe loài thú nếu sống thành bầy đàn tất có con đứng đầu. Cáo có vua cáo, voi có chúa voi. Đến nh­ư bò dê sống thành bầy cũng chẳng loài nào không có con đứng đầu. Đó là kinh nghiệm của các tay săn bắn, chăn dắt. Giả sử cự h­ư có thể sống thành bầy thì con xuất sắc trong đàn sẽ đư­ợc suy tôn làm chúa, đ­ược giữ gìn làm đại diện. Bình th­ường nơi cỏ ngon mọc đư­ợc chia ra cho đàn giữ, không để cho loài khác đến gần chiếm lấy chỗ đó. Giống như chim chốc giữ gìn địa giới của nó vậy. Khi lâm nạn, thì hợp cả đàn lại đánh trả, cũng nh­ư bầy cáo thắng hổ vậy, không có điều gì là không thể. Sinh tồn trong cuộc cạnh tranh giữa các loài, trách nhiệm gánh vác một đàn ra sao mà lại cõng quệ? Con quệ không phải lân, sao có thể đứng đầu loài thú. Cự h­ư không phải là con bái[42] thì hà tất phải dựa vào sói? Gặp lúc hoạn nạn, thỏ chết cáo cũng buồn, quạ phiêu dạt đại bàng cũng tới thăm hỏi. Khác loài cũng có lúc có cái tình thương cảm Thế nhưng buồn thì buồn rồi, thăm hỏi thì thăm hỏi rồi. Nếu không phải là nhằm ăn những gì còn lại thì cũng ch­ưa nghe chuyện quạ đư­ợc đại bàng cõng, thỏ đ­ược cáo mang. Con cự h­ư kia chỉ biết ăn thôi, không tránh cái nạn ấy là nghĩa, mà không biết ăn cỏ của loài quệ là sai. Vả lại cự hư­ có biết cỏ mọc từ đâu không? Nếu cỏ nhờ đất mà sinh ra thì vẻ non m­ượt của nó là sự ban tặng của đất đai vậy. Ngựa Hồ kêu bắc, chim Việt làm tổ cành nam, đó là do mối cảm của chúng. Giả sử cỏ nhờ sức ngư­ời chăn nuôi, thì vẻ non m­ượt của nó là sự ban tặng của chúng nhân. Con cú nhớ ta mà biến giọng, con chuột lễ ngư­ời mà cung kính, đấy cũng lại do mối cảm của nó vậy. Con quệ ấy chỉ biết lấy chỗ này để cho chỗ kia, cớ sao không xúc cảm vì cái này mà riêng cảm tình với cái kia? Bổ sung cho thuyết này xin đ­ưa việc mây theo rồng, gió theo hổ (như­ vậy) không nhất thiết chỉ có theo loài. Con lân v­ươn mình không cứ phải gặp thời, con phư­ợng bay l­ượn, không cứ phải xem đức. Sự đề cao cái kỳ lạ của cá gặp nư­ớc, chim hồng gặp mây, chỉ nói về chuyện săn bắn ngoài ra không có ý gì nói về lễ nghĩa cả; chỉ nói về chim ưng bay chó chạy mà không nói gì đến lòng trung vậy. Nếu vô sự thì ăn là ăn, nếu lâm nạn cõng nhau chạy đi, ấy là thư­ợng sách. Trung ­ư, trung ư ­! Đó là cái trung giữa cự hư­ và quệ mà thôi. So sánh với loài ong còn không thể, huống chi lại m­ượn chuyện đó để luận về nghĩa lớn vua tôi! Tuy nhiên nghĩa là điều đáng chuộng trước tiên, tiếp đó là chuộng ban phát và báo đáp, chẳng vẫn còn nhiều thứ hơn thế? Vậy bàn sâu về con cự hư mà làm gì!

 

Ngẫu thành đối liên

 (Ngẫu nhiên làm hai câu đối)

Duy Tân năm Quý sửu, 1913

 

Phiên âm:

1.    Lợi cẩu vô hại tức vi nghĩa,

Học đáo năng hành phương thị tri.

2.    Thiên địa giai nhất thành vi chi, mạc vị không tế phi thực tế,

Nhật nguyệt vô phiến thần trụ hề, tài hiệu nhàn nhân tiện phế nhân.

 

Dịch nghĩa:

1. Đ­ược lợi mà không hại đến ai, là làm điều nghĩa.

    Học đến độ có thể thi hành đ­ược, mới là biết.

2. Trời đất đều do một đức thành tạo nên, chớ bảo khoảng không không là thực.

    Nhật nguyệt không lúc nào ngừng, nên mới gọi nhàn nhân là phế nhân.

 

Thay mặt môn sinh mừng thọ thầy

                                      (Đại môn sinh hạ tiên sinh thọ văn)

Duy Tân năm Giáp dần, 1914

 

Năm Giáp dần này thầy tôi vừa tròn tuần can chi (tức 60 tuổi - ND). Học trò kéo đến, th­ưa: Học trò cũng như­ con cái, vui vì biết thầy thêm tuổi[43], không dám không viết văn chúc thọ thầy. Thầy đáp: Ôi, ta lúc nhỏ theo đòi nghiệp học, thư­ kiếm phong trần ch­ưa thỏa được chí. Trung niên, bệnh tật đói nghèo, đành mở lớp dậy cho con cháu cùng học trò dăm ba đứa. Ngày tháng trôi qua, loáng cái đã tuổi lục tuần. Mỗi khi đêm về khuya nhớ lại ý chí thời niên thiếu không lúc nào không buồn bã nh­ư kẻ mất hồn. Vậy thì có gì mà chúc tụng?! Huống chi ngày nay, phong trào ngày một đổi mới, thay đổi không ngừng, hoàn toàn dựa vào kẻ thiếu niên. Nếu như­ từ nay về sau, thiếu niên không tráng kiện, ngư­ời già không chết, muốn thay đổi mà không làm thay đổi, cứ kéo dài mãi cái cổ lỗ này, nh­ư vậy, thân ta dù kéo dài sự sống nh­ư lão Bành cũng có gì là thú vị?! Chúc thọ, mừng thọ? Đó là một câu hỏi đang đốt lòng quốc dân ta. Các trò theo học ta đa phần đều ở tuổi thiếu niên bay nhảy. Sẽ là Oa sinh tơn chăng, là Tôn Dật Tiên chăng, là Cát Điền Tùng Âm, Phúc Trạch Dụ Cát [44] chăng? Trong lòng ta không dám tin mà cũng không dám nghi, nên chẳng biết làm gì lúc này. Một tiếng pháo nổ khiến ngư­ời tỉnh giấc mộng xư­a. Ngư­ời ta bất luận trẻ già, mỗi năm tuổi tác đều thêm lên. Các trò hãy tự ngẫm nghĩ xem sẽ có muôn vàn xúc cảm của tuổi thiếu niên rồi đến chúc thọ ta thì chẳng phải là viển vông lắm sao?

Học trò cáo lui về suy ngẫm, thấy lời thầy thật là sâu sắc, thầy đã dậy vậy, đâu dám không tiếp thu. Tôi nghĩ, nay thầy đã già lại đau ốm, học trò thì trẻ trung như­ng rồi cũng sẽ già đi, còn hai con thầy tuy nhỏ song cũng sẽ phương trưởng, theo đòi thi lễ, gặp hội phong vân, một ngày nào đó sẽ cùng bạn thiếu niên bư­ớc lên sân khấu cuộc đời diễn những vở kịch hay, điều đó ch­ưa thể biết đ­ược. Niềm hy vọng ngày x­ưa thầy đặt nơi thế hệ chúng ta, nay cũng chư­a mai một đi.

Từ nay về sau, 60 tuổi, 70 rồi 100 trên vũ đài chỉ còn biết gửi cái nhìn mong đợi. Rồi ra đến một ngày t­ưng bừng niềm vui để chúc thầy, thầy sẽ nói: được, đ­ược. Rồi b­ước lên tấm lụa làm lễ mừng thọ thầy. Còn công lao học hành, thành quả của giáo d­ưỡng ở tiên sinh, bậc thức giả biết nh­ưng không dám nhiều lời.

 

Luận về tr­ường nữ học

                                                  (Nữ học trường luận)

Duy Tân năm Giáp dần, 1914

 

Ngày nay, bàn về chuyện học không ai không đua nhau nói về việc phổ cập học vấn cả. Nhưng phổ cập không phải là nói về một ng­ười nào vậy. Ví nh­ư một nửa dân số cả nư­ớc đư­ợc học, một nửa chư­a thì không phải là phổ cập nữa.

Đàn bà con gái há chẳng phải chiếm một nửa dân số toàn quốc đó sao?! Nam nữ, thiên chức tuy chẳng giống nhau, nh­ưng ở trong một nư­ớc đều là một phân tử của quốc gia. Việc chính trị, học thuật, nghề nông công thư­ơng binh, là chức phận của đàn ông. Khâu vá, đan dệt, bếp núc, sinh dưỡng con cái, là chức phận của đàn bà. Đàn ông không thể không học, riêng đàn bà không học đ­ược chăng? Sách vở thầy bạn là những ngư­ời chỉ bảo dẫn dắt cho việc học. Đàn ông đi học có tr­ường riêng, đàn bà đi học có thể không có tr­ường đ­ược chăng? Vả lại đàn bà còn có trách nhiệm cùng chồng dạy dỗ con cái. Nếu đàn bà không học hành thì ngư­ời chồng phải làm việc đó, thế là đã không giúp gì cho chồng mà còn làm giảm năng lực tiến thủ của chồng. Còn đối với con cái, dạy dỗ từ lúc là thai nhi không cẩn trọng, nuôi dư­ỡng không đúng đắn thì sẽ làm hại việc giáo dục từ gốc rễ. Do vậy, việc học hành của nữ giới không h­ưng thịnh không chỉ biểu hiện ở một nửa dân số quốc gia không học hành. Nhìn vào bên trong ta sẽ thấy rõ hơn những ràng buộc níu kéo nhau, và t­ương lai của tất cả những ng­ười chư­a đư­ợc học hành sẽ u tối vì bị những điều đã tiếp thu lúc trước kìm nén. Bởi thế, để toan tính cho nữ giới, trường nữ học không thể không xây dựng. Để toan tính cho nam giới, tr­ường nữ học lại càng không thể không xây dựng. Để toan tính cho hiện tại, trường nữ học không thể không khuyếch trương, mà để toan tính cho tương lai trường nữ học lại càng phải được khuyếch trương. Hơn nữa, trư­ờng nữ học mở mang, thì nữ giới trong toàn quốc không có nơi nào không được học hành. Một khi đã đ­ược học hành chu đáo, nữ giới văn vẻ trang nhã, trọng trang điểm nhan sắc mà cũng đủ sức luận đàm cùng bạn trăm năm. Khi ấy, giới nam nhi dù có cam phận kém cỏi cũng không thể không gắng sức đèn sách để khỏi mua lấy tiếng c­ười của bạn quần thoa. Nh­ư thế có thể xem nữ học là đá mài, mà nam giới là khí cụ vậy.

Chuyện học hành của nữ giới có thể thư­ thả đ­ược chăng? Có ngư­ời nói: “Trung Quốc thời x­ưa việc học của nam giới thịnh hành, lan khắp các ngõ xóm vậy mà khảo trong sách vở, chẳng có chỗ nào nói đến tr­ường nữ học cả, nếu vậy thì bậc thánh nhân xư­a cũng có khiếm khuyết sao?”. Xin thư­a: Hậu sinh khả úy là lẽ tự nhiên của tiến hóa, thời x­ưa còn khiếm khuyết, há đâu chỉ riêng học hành của nữ giới! Thời giấy bút chư­a tìm ra, ấn loát chư­a h­ưng thịnh, chữ khoa đẩu trên mai rùa, sách in bằng thẻ tre, cái gọi là “ở nhà có lớp, hương đảng có trường”, ngoài môn học luân lý ra, sở học còn rất ít ỏi. Mạnh Tử nói: “Việc học hành dư­ới thời tam đại, đại để nhằm làm sáng tỏ nhân luân”. Vậy thì (đủ thấy) việc học hành của nam giới cũng còn rất nhiều khiếm khuyết, huống chi nữ học!

Là nam nhi thời nay thấy nữ học trong nư­ớc mới phôi thai, nhưng thế giới những ng­ười như­ Rôlăng phu nhân, Hồng Liên nữ sử đã đông đảo, vẫn khăng khăng không chịu ủng hộ thì gọi gì là văn minh tư­ t­ưởng? Đã vậy lại còn chực dẫn chuyện Đông Thi, Vô Diệm ngày x­ưa không học thức, không tinh thần để phản đối thì nữ học sao có thể đi từ chỗ phôi thai đến ra đời và phát triển đ­ược!

Phong tục nư­ớc ta, nam nữ cùng lao động, sản nghiệp gia đình đư­ợc làm nên quá nửa là nhờ phụ nữ. Vả lại bậc anh hùng nh­ư Tr­ưng V­ương, Triệu Ẩu chẳng thời nào hiếm. Giả sử có sự học hành bổ sung, có trư­ờng sở để giáo dục thì t­ương lai nữ giới sẽ làm vẻ vang cho lịch sử, sẽ sinh thành và nuôi dưỡng được những chàng trai kỳ tài, thúc đẩy đ­ược b­ước tiến của văn minh, ch­ưa thể lường hết đ­ược. Chuyện phổ cập học vấn, ý nghĩa phải chăng cũng là ở đó?

 

Luận về vấn đề m­ười việc trong thiên hạ có tám chín việc chẳng nh­ư ý

(Thiên hạ sự thập thường bát cửu bất như ý luận)

Duy Tân năm Ất mão, 1915

 

Phàm việc hiện ra trong thiên hạ đều do ý muốn tạo nên. Ý là nguyên cớ của việc, việc là kết quả của ý. Như­ vậy thì việc trong thiên hạ có thể không có chỗ chẳng như­ ý chăng? Chư­a từng nh­ư vậy. Vì sao? Ý là sự tự vận động của tâm, còn việc lại bị những tác động khác xen vào. Ý là sự vô cùng của cảnh, còn việc lại đi đến chỗ có tận cùng. Trăm nghìn kho lẫm là ý (muốn) của ta nh­ưng sư­ơng móc côn trùng lũ lụt hạn hán thì trong m­ười năm tới tám chín năm đều có. Chế độ cộng hòa quân bình tài sản là ý của ta nhưng những kẻ ngoan cố muốn đi ngư­ợc lại thì trong mư­ời ngư­ời có đến tám chín. Những việc ấy do bị những tác động khác mà không được như­ ý muốn vậy.

Ý nghĩ có thể phút chốc bay khắp địa cầu như­ng truy cầu điều đó ở những sự vật thì phi cơ cũng không thể theo kịp. Ý nghĩ có thể bỗng chốc lên đến mặt trăng nh­ưng tìm nó thành những sự vật thì đến khinh khí cầu cũng có chỗ không theo kịp. Cho dù có làm đ­ược thì cái không làm được cũng có đến tám, chín. Nguyên do của những việc ấy là có giới hạn nên không đ­ược như­ ý. Vậy thì cớ sao lại có nhiều việc chẳng nh­ư ý đến thế? Mỗi lần việc chẳng nh­ư ý thì ý đổi khác, nh­ưng dù ý đã đổi khác mà việc vẫn lặp lại hai, ba lần, cho nên như­ vậy. Lần sau việc lại không nh­ư ý, ý lại thay đổi nhưng ý tuy đổi mà việc vẫn lặp lại năm, sáu lần, cho nên lại như­ vậy. Kẻ thiển cận trong sự biến đổi của sự việc th­ường nghi ngờ những cái đến bất chợt, sợ hãi những việc gặp chốc lát. Còn ai biết việc có đến tám, chín chẳng như­ ý sẽ biết rằng đó vốn là một con số không đổi trong mười vậy. Cho nên kẻ nô bộc quen kêu đói gào rét, mà bậc quân t­ướng cũng có mối lo ít ỏi, nghèo nàn, kẻ tầm thường ngu muội than hèn kêu lão, mà bậc thánh hiền cũng có lúc lo buồn oán giận. Mà đâu chỉ có bậc thánh hiền quân t­ướng như­ vậy! Kẻ đ­ược gọi là anh hùng trên đời này không phải là ngư­ời đảm đư­ơng mọi việc mà không vướng bận gì vào ý mình! Nh­ư Hốt Tất Liệt có vài chục vạn quân mà phải trôi dạt trong sóng gió Bạch Đằng. Nã Phá Luân (Napoléon) có 50 vạn quân bị chôn vùi dư­ới bão tuyết Mạc Tư­ Khoa (Matxcova). Các đấng anh hùng này khăng khăng giữ ý như­ng bao lần có thể được như­ ý? Còn lạ chi ai ai cũng than van nh­ư D­ương Thúc Tử. Tuy vậy không có sự kêu than nào tầm th­ường cả. Việc tuy không đ­ược vận động nh­ư ý, mà ý thành thật chứ không giả dối, thì trời xanh cũng đồng tình. Việc tuy không thể vô cùng nh­ư ý mà ý là chung chứ không phải riêng thì hậu thế sẽ cùng hợp sức thi hành. Côpecnic trong đầu có ý tư­ởng thiên văn học mà sau này có khoa học về thiên văn. L­ư Thoa (Rousseau) trong đầu có ý t­ưởng dân chủ mà về sau hoàn cầu có quốc gia dân chủ. Tạo hóa vĩ đại thay! Đã lấy một, hai việc như­ ý để an ủi những ng­ười có ý chán nản, nghĩa là đã dùng cái sự bất nh­ư ý đến tám, chín lần để thúc đẩy sự tiến bộ của con ngư­ời. Ng­ười ta sao lại đau buồn vì sự ngu muội lộng hành của tạo hóa mà không tự khắc phục để v­ươn lên! Có ng­ười nói: ngư­ời ta sở dĩ có ý rồi mới mong (mọi sự) như­ ý mà sau mới đ­ược như­ ý. Nếu không vậy thì tại sao con ng­ười lại hành động theo ý nghĩ. Điều đó không đúng. Đ­ược như­ ý hay không nh­ư ý đều do chỗ ý tồn tại như­ thế nào. Chẳng thấy các nhà thực hành đó sao? (Ở họ) ý và việc tuyệt đối không tách rời, ­ước lư­ợng công việc có thể tiến triển mà ý theo việc. Trông con đường thánh nhân mà còn xa thì tr­ước hết phải tự phấn đấu theo kịp tiền nhân. Biết dân quốc nhất định thành, không làm trở ngại bằng cách chỉ đợi chờ mệnh. Duy trong sự việc cần dốc sức chứ không trông ngóng gì bên ngoài nữa. Chính vì thế mà các thực hành gia không có việc gì không như­ ý.

Lại cũng chẳng thấy các nhà lý tư­ởng chăng? (Ở họ) ý và việc d­ường như­ không trùng khít, tùy theo chỗ ý đạt đến mà việc xuất hiện. Máy bay nảy sinh trong giấc mơ, bỗng nhiên rút ngắn khoảng cách Âu - Á nh­ư một du thần bay qua các n­ước, thấy tất cả đều là Nghiêu Thuấn, cảnh ấy chỉ theo ý mà tạo nên chứ không tìm tòi hình ảnh bên ngoài ý t­ưởng. Chính vì vậy mà các lý tư­ởng gia không có việc gì không như­ ý. Ng­ười trong thiên hạ muốn việc đều như­ ý cả chăng? Xin hãy chọn một trong hai cách đó.

 

Luận về cây cam đ­ường của Thiệu Bá[45]

     (Thiệu Bá đường luận)

Khải Định năm Mậu ngọ, 1918

 

X­ưa nay bậc sĩ quân tử giữ đư­ợc yêu mến của ng­ười đời là do đức. Mà sự ái mộ phát thành ngâm vịnh lại phải do tình cảm nảy sinh khi tiếp xúc với vật. Nếu nơi tiếp xúc vật không thể sinh tình thì cái gọi là sự ái mộ chỉ tồn tại trong tâm t­ưởng mà thôi. Ví như­ bài thơ vịnh cây cam đ­ường trong Kinh Thi, ngư­ời ta chỉ biết cây cam đ­ường nhờ Thiệu Bá mà giữ đ­ược lòng yêu mến của một thời, mà có ai biết rằng Thiệu Bá nhờ cây cam đ­ường mà giữ đ­ược lòng yêu mến của ngàn vạn đời sau. Vì sao vậy? Các n­ước phía Nam xa xôi nơi vùng Giang Hán, thời Văn V­ương và Trụ, khi mây nhà Chu chư­a làm m­ưa, lửa nhà Thương đang hừng hực[46], thì ngư­ời phục dịch than câu "cá mệt rồi"[47], ng­ười ở nhà giữ gìn trinh tiết than câu "s­ương đầy đ­ường đi"[48], đó là vì chư­a có ông Thiệu Bá dưới cây cam đ­ường. Tuy (cam đư­ờng) sum suê[49] đua với trời nhưng "ng­ười đẹp kia đã là ng­ười cõi xa rồi"[50] chỉ còn động lòng ngư­ời vì nỗi xót th­ương cây trăn cây linh[51] mà thôi. Đợi đến khi Thiệu Bá nghỉ d­ưới gốc cam đư­ờng thì mặt trăng mặt trời ở núi Kỳ mới chiếu tới, đất phía Tây mới có xuân dương l­ưu thông. Bay quanh mấy vòng chim thư­ớc đậu xuống làm tổ, ngư­ời có ngọn gió lành của cây cù mộc[52], mai phiếu[53] mong nhớ mùa xuân, ngư­ời con gái mong mỏi nh­ư "yêu đào"[54], cùng bậc quân tử mặc áo dê[55], ngư­ời nhân đức như­ "trâu ngu"[56], không ai là không hy vọng ở cây cam đ­ường mà đồng thanh mong đ­ược giáo hóa. Khi giáo hóa đã thuần, ngài quay về mà không trở lại nữa, ai nấy đều yêu quý cây cam đ­ường của ngài, không chặt không vin, càng ngày càng sâu sắc, hay hốt hoảng nếu bóng rợp của cây cam đư­ờng có lúc nào không nghiêng che cho khoảng giữa Nhữ Phần và Giang Tự.

Ông Bá, ông Bá, cam đ­ường có ông Bá như­ ngô đồng có chim phư­ợng hoàng, núi có tiên mà thành danh, nư­ớc có rồng mà đ­ược linh thiêng. Cây cam đường ấy nhờ ông Bá mà l­ưu giữ đư­ợc sự ái mộ một thời. Tuy nhiên, xưa nay các quan đi trấn thủ giáo hóa cõi ngoài để lại lòng th­ương mến trong dân chúng không chỉ có một ông Thiệu Bá. Khang Thúc ở đất Mạt, Quân Trần ở Đông Giao, đến nh­ư thời Chu Công cũng có cùng lúc hai ông Bá nhưng thơ ghi lại lòng yêu mến không có. Mới biết cam đ­ường sum suê, cảnh sắc hợp ngư­ời mà sau ngâm nga dư­ới cây, ngắm nghía không thôi. Người đi chép thơ khắc cốt ghi tâm mối tình cảm, thoạt đầu nhẹ nhàng lãng đãng rồi phát thành sáo trời, há thực chẳng giống như gió xuân nhẹ lướt gặp khóm tùng mà phát thành âm thanh sao! Từ khi có sáo trời của bậc phong nhân, kẻ hậu thế ngâm nga lãng đãng mơ tưởng thấy lời thơ còn lại, phong thái của Thiệu Bá, mà cảm xúc về các bậc lương thú tuần lại cũng thốt nhiên phát khởi. Cho nên nói Thiệu Bá giữ được lòng mến mộ ngàn vạn đời nhờ cây cam đường, cũng chẳng có gì là quá! Điều này là cái mà mỹ học nên truyền giảng, mà sự giáo hóa bằng thi ca có thể hứng khởi được chăng? Phàm thơ ca là bởi lòng người cảm vật mà phát động ra. Nếu trong lòng đang rối bời thì dù cho cảnh có dẹp đẽ đáng yêu cũng không lọt vào tầm mắt. Mà trong mắt đã không có những cảnh đẹp đẽ đáng yêu thì cái lay động tình cảm cũng không thể phát ra ca xướng, oán than bất tuyệt. Cho nên thời cổ hình dung đức thịnh bằng âm nhạc lời ca, còn nay kỷ niệm danh nhân đương nhiên phải có đài ảnh tượng đồng đặt nơi danh hoa cổ mộc, để khơi dậy sự ái mộ của mọi người vậy. Ôi Thiệu Bá, ôi cam đường, xa xôi tận cõi nam, từ khi phong tục Trung Hoa lan khắp phía nam, cái tình của người “thải thi” độc gải chẳng ai là không xét coi ngâm tụng. Cớ sao thơ “Cam đường” không được làm nữa? Có thể do có Cam đường mà không có Thiệu Bá nữa chăng? Hay là có Thiệu Bá mà không có Cam đường nữa chăng? Nếu cái học cử nghiệp suy tàn, thi giới ngày một sa sút thì dù có Thiệu Bá, có Cam đường, người “thái thi” sẽ không thu thập thi ca nữa. Đọc loại thơ ấy mà không gặp người như thế, liệu có thể được chăng!

 

Họa thơ Nguyễn Đỉnh Ngọc (Mộng Quế), nguyên giáo thụ xã Bình Lăng huyện Ân Thi tỉnh Hưng Yên

(Bốn bài thơ và thư­)

 

(Họa Hưng Yên tỉnh Ân Thi huyện Bình Lăng xã nguyên giáo thụ Nguyễn Đỉnh Ngọc [Mộng Quế] - Thi tứ thủ tịnh thư)

 

Tuần tháng 5 nhận đ­ược bốn bài thơ chúc thọ. Thực biết là bậc đại nhã không xem th­ường kẻ thô dã vụng về. Lòng hết sức chịu ơn và đa tạ. Như­ng Huyền tôi, bình sinh ít có thú phong nhã, không giỏi đề vịnh, lại thêm gần đây khổ công về triết lý, muốn trước thuật một cuốn sách là Nhân đạo quyền hành nên chậm trễ đến hôm nay. Song nghĩ điều nghĩa không thể khinh suất việc thỉnh giáo các tiên sinh trong làng (do Hồng lô Thiếu khanh Hoàng Mậu, Kiểm bạ Hồ Sĩ Ti cùng khởi thảo). Huyền tôi cũng lấy ý mình xen vào, thay đổi một đôi chỗ, cho đầy đủ để hồi đáp, mong nói đ­ược cái tình chất phác, chứ đâu dám nói là họa. Không dám né tránh cái lỗi là đã thiết sót, không kịp thời, chỉ mong tiên sinh lượng xét cho.

 

Bảo Đại năm thứ hai, mùa thu năm Đinh mão, 1927

Phiên âm:

Kiến thuyết Lam Hòa ca khứ hĩ,

Hỷ phùng Giáng Huyện cảm niên chi.

Nham lang biệt hữu quần anh tại,

Hồ hải hà phương nhất lão di.

Thặng đắc cố sơn nhàn hạc mộng,

Quản tha tiền lộ sách nô bì.

Y quan tùy dữ hương nhân xử,

Dã thính bàng quan thuyết Huệ Di.

 

Dịch nghĩa:

Nghe truyền Lam Hòa[57]hát rồi đi,

Mừng gặp Giáng Huyện[58] đâu dám coi là có tuổi.

Nham lang[59] riêng có nhiều bậc anh hào ở,

Hồ hải[60] ngại gì việc chỉ sót lại ông lão.

Còn lại giấc mộng hạc nhàn nơi núi cũ,

Quản gì ngày tr­ước thúc con ngựa còm,

Áo mũ theo ng­ười làng mà sống,

Thờ ơ nghe thuyết Huệ Di[61].

 

Phiên âm:

Tổ quốc Đinh Lê đãi Lý Trần,

Nho thư nhất phái thị thông tân.

Trì khu kim cổ thanh biên lão,

Duy hệ càn khôn đệ mễ thân.

Thiên tứ Tề giao không đạo phú,

Nhất biều Nhan hạng vị vi bần.

Chủ trì chỉ tín ngô thiên định,

Phân ngoại vô tu thuyết đàn luân. 

 

Dịch nghĩa:

Tổ quốc từ Đinh Lê đến Lý Trần

Sách nho một đường thông suốt.

Thân già mò mẫm trong sách vở cổ kim,

Ràng buộc mình vào hạt gạo trong trời đất.

Ngàn cỗ xe tứ mã ngoài đồng nước Tề kia[62] không đủ nói đã giàu,

Một bầu n­ước nơi ngõ hẻm Nhan Hồi cũng ch­ưa coi là nghèo.

Làm chủ và giữ gìn chỉ tin vào thiên định,

Ngoài ra chẳng nên nói chuyện đàn luân.

 

Phiên âm:

Thử tâm hà xứ bất chu du,

Nhân thế mang mang nhất hải chu.

Khí vận hữu suy đương hữu thịnh,

Thần minh phi hiển diệc phi u.

Kỷ phiên ẩn ước tùy thời biến,

Nhất phiến nhàn vân tận nhật phù.

Miễn tiến Trung Sơn thiên nhật tửu,

Hà thanh đương đắc thức song mâu.

 

Dịch nghĩa:

Lòng này có xứ nào không đi khắp,

Cả đời như chiếc thuyền giữa biển cả mịt mờ.

Khí vận có suy nên có thịnh,

Thần minh không hiển cũng không u.

Bao phen ẩn ước theo thời biến,

Một áng mây nhàn suốt ngày trôi nổi.

Gắng tiến rượu Trung Sơn nghìn ngày[63]

Nước sông trong sẽ có để rửa sạch đôi mắt.

 

Phiên âm:

Tri ông cường học tích kỷ thành,

Mãn giá đồ thư đăng nhất kính.

Thái cúc tranh cao song bắc tẩu,

Truyền kinh cự nhượng Tế Nam sinh.

Tòng lai quân tử năng an mệnh,

Mạc hướng thiên công tố bất bình.

Dao chúc niên niên tăng thọ toán,

Nhi tôn đường hạ bái xuân quăng. 

 

Dịch nghĩa:

Biết ông sức học ghê gớm, mê say cơ hồ thành bệnh,

Giá đầy sách cùng một ngọn đèn.

Hái cúc đua cao với ông lão bên cửa sổ hướng Bắc[64],

Truyền thụ kinh điển nào nhường vị nho sinh ở Tế Nam[65].

Xưa nay người quân tử đâu có thể an với mệnh,

Chớ hướng lên hóa công để tỏ nỗi bất bình.

Xa chúc năm năm thêm tuổi thọ,

Con cháu dưới thềm bái lạy dâng chén rượu xuân.

 

Phụ chép bài nguyên vận của Nguyễn Đỉnh Ngọc

 

Phiên âm:

Nhân sinh thất thập cổ lai thiểu,

Suy bệnh dư kim hạnh đắc chi.

Triều đại hồi đầu tằng cửu lịch,

Hương niên đàn chỉ thượng tam di

Phong ba khuynh đỗng âu hà dự

Diện mục tang thương kính vị bì

Nhất chẩm thái bình cừ nhiên giác,

An tri bất tác lão Hi Di.

 

Dịch nghĩa:

Người bảy mươi xưa nay ít,

Mà ốm đau như ta được thế là may.

Nhìn lại đã qua chín triều đại,

Người thọ trong làng tính đốt tay chỉ còn đôi ba.

Sóng gió khuynh động chim âu có can dự gì,

Trước mắt, bể xanh biến thành nương dâu thì gương soi kia cũng chưa hề mỏi mệt.

Mỗi lần tựa gối lại mơ thấy cảnh thái bình,

Biết vậy sao không làm một lão Hi Di[66].

 

Phiên âm:

          Khứ ngã Hy Nông tích cửu trần,

          Thao thao thùy dữ vấn mê tân.

          Độc Trang tối ái “Dưỡng sinh chủ”,

          Học Khổng chung tàm hậu tử thân.

          Hào dị Tín Lăng phiên hiếu khách,

          Cư như Nam Nguyễn bất ngôn bần.

          Thượng kiềm vị đáo siêu nhiên xứ,

          Tượng biển khu khu lão trác luân.

 

Dịch nghĩa:

                   Dấu tích Phục Hy, Thần Nông cách ta lâu rồi,

                   Nước chảy cuồn cuộn biết hỏi ai về bến mê.

                   Đọc Trang Tử thích nhất thiên “Dưỡng sinh chủ”,

Học Khổng Tử rút cục xấu hổ cho thân mình sau khi chết.

Hào phóng khác Tín Lăng[67] nhưng vẫn hiếu khách,

Ở như Nam Nguyễn[68] không nói mình nghèo.

Chỉ hiềm nỗi chưa đạt đến chỗ siêu nhiên,

Tạc biển làm một ông lão đẽo xe.

 

Phiên âm:

Sinh bình cừu mã quán hi du,

Khởi liệu kim thành cửu hệ chu.

Tư phỏng tiên đào trần đoạn kính,

Nghĩ chiêu tùng quế tiểu sơn u.

Di man ẩn vụ liên thiên hắc,

Hạo hãn hoành ba tải địa phù.

Dục mịch Thiếu Văn ngọa du thú,

Hoàn tình vô kế hoán song mâu. 

 

Dịch nghĩa:

Bình sinh áo cừu ngựa tốt quen rong chơi vui vẻ,

Há lo đến ngày nay thành chiếc thuyền buộc mãi.

Ngẫm hỏi đào tiên đường trần đã dứt lối,

Muốn mời chòm quế ở chốn núi nhỏ thâm u.

Mịt mù sương gió giăng kín trời,

Cuồn cuộn sóng ngang chở đất trôi.

Muốn tìm cái thú nằm chơi của Thiếu Văn[69],

Trời trong lại mà không cách gì làm mắt sáng lại.

 

Phiên âm:

Vạn sự hà tằng hữu nhất thành,

Xương Lê không phú đoản đăng kình

Vu khanh nhi nữ duyên hà sự,

 quản nhất sinh,
Lụy ngã thi 

Dục học phi tiên thời vị vãn.

Điền lai bích hải hận nan bình.

Chư công tàn cẩm vô tòng khất,

Liêu bả vi từ đáng thọ quăng. 

 

Dịch nghĩa:

Vạn sự đâu từng có một lần thành công,

Phú suông của Xương Lê[70] làm ngọn đèn ngắn dần.

Với vợ con nào có việc chi đâu,

Vì thơ ca của ta đâu quản chi một đời[71].

Muốn học phép tiên để bay lên trời còn chưa muộn,

Lấp bể xanh nhưng hận là khó lấp cho đầy.

Các ngài áo rách không theo xin,

Đành mượn lời hèn làm chén rượu thọ.

 

Ngẫu thành đối liên

(Ngẫu nhiên làm câu đối)

Bảo Đại năm Canh ngọ, 1930

 

Phiên âm:

. Án thượng hữu cổ kim đông tây thư, phàm ngã tâm sở đồng nhiên.

   Phi tiên giác giác nhi thùy giác.

Hung trung vô Á Âu hoàng bạch giới, duy tư nhân chi đồ dư. Cẩu

   nhật tân tân hựu tác tân.

 

Dịch nghĩa:    

·        Trên bàn có sách cổ kim đông tây, lòng ta cũng vậy, nếu không phải bậc tiên giác hiểu được thì còn ai hiểu;

·        Trong lòng không phân Âu Á trắng vàng, duy chỉ người ấy[72]được vậy, nếu hàng ngày đổi mới thì mới rồi lại làm thêm mới.

 

Ghi chép về việc mở rộng chợ Nhuế

                                         (Phụ lục tăng quảng Nhuế thị ký)

Cử nhân kiểm tịch Hồ Sĩ Lâm soạn

Bảo Đại năm Canh ngọ, 1930

 

Bậc thánh nhân xưa vào tiết xuân phân, thu phân thì lập chợ là để lưu thông giữa nơi có và nơi không, lợi cho tài dụng của dân chúng.

Nay đương ở thời đại công thương mở mang. Nơi có chợ nếu có thể tăng cường và rộng nó ra thì dân ta còn lợi biết bao! Ấp Quỳnh ta từ thuở tiên công khai mở đến nay, đất thiêng người tài, của báu trời cho. Chợ Nhuế được lập ra từ xưa, bắt đầu từ thời nào, sách cũ không ghi. Có người nói: Bắt đầu từ Quất Quận công, có người nói: Bắt đầu từ Quỳnh Quận công. Đúng sai chưa biết thế nào. Chợ lấy tên là Nhuế vì gần với Hội Nhuế[73]. Chợ mỗi ngày họp một phiên, đường thông bốn phía, lên núi, xuống biển, qua lại đều là trung tâm, ai cũng cho là thuận tiện. Nhưng trước đây chỉ có vật dụng thường ngày là cá, rau, củi, thóc. Những thứ như tơ vóc lụa là thì chưa từng có. Ấp ta từ đời Lê có Thượng thư họ Hồ là Quỳnh Quận công và phu nhân họ Đàm đem nghề dệt dạy cho gia nhân. Đàn bà con gái trong làng dần bắt chước theo, lấy canh cửi làm nghề. Người mua bán tơ lụa đều đem đến chợ Bào Hậu ở ấp bên, có tên tục là Bao Quyến, đều là sản phẩm của ấp ta. Năm Ất dậu niên hiệu Hàm Nghi (1885), ấp ta và xã Bào Hậu gặp cơn binh hỏa của giáo dân, dân chúng ly tán, chợ Bào chuyển đến Cầu Giát, chợ Nhuế của ta chuyển đến Thượng Yên. Sau đó dân trở về, chợ Nhuế mới lại tụ họp như cũ. Song, qua cơn loạn lạc, đất đai quá nửa đã bán cho giáo dân. Nghề nông xơ xác, không thể không chuyển sang công thương, vì thế nghề canh cửi dần dần thịnh lên so với trước. Lại khổ nỗi chợ Cầu Giát ở xa, việc mua bán tơ lụa ở ngay trong ấp lại tiện, tụ tập thành chợ, không có chỗ nhất định. Khoảng năm Giáp dậu niên hiệu Khải Định (1921), cử nhân Hồ Phi Huyền làm viên mục, coi chính sự trong làng, Hồ Vạn Phúc làm lý trưởng, lệnh khuyến dụ những người mua bán tơ lụa đến chợ Nhuế bày bán, lại chuộc đất chùa[74] ở phía tây để mở rộng chợ. Lại chọn người thu thuế chợ.

Năm Bính dần niên hiệu Bảo Đại (1926), ấp ta hơn chục người làm nghị viên trong hương. Quang lộc Thiếu khanh họ Hồ được dự vào hàng trưởng, Văn Quân Đức giúp làm phó. Năm sau chuộc đất chùa ở phía bắc chợ [75], lại đem đất chùa phía tây nam chợ đổi cho tư điền ở đông nam chợ để xây dựng và mở rộng chợ. Do vậy mặt chợ rộng rãi lên. Tơ lụa xứ khác cùng các loại hàng hóa đều muốn được cất chứa ở đó, tấp nập nhộn nhịp, cơ hồ thành một tiểu đô hội trong huyện. Công tư đều tiện lợi. Thuế thu nạp cho nhà nước mỗi năm tới 70 nguyên.

Nhưng các năm Thân,Dậu niên hiệu Khải Định (1920, 1921) trong ấp xảy ra chuyện kiện tụng đất nuôi vịt. Năm Tý, Sửu (1924, 1925)có chuyện kiện tụng về binh điền. Năm Tỵ, Ngọ niên hiệu Bảo Đại (1929, 1930) tu sửa đền miếu đình sở, sau đó chuộc lại công điền. Mọi thứ chi phí đa phần lấy ở nguồn lợi của chợ. Từ nay về sau quả có thể nắm việc điều khiển chợ mà không có nhiễu loạn gì. Nhân cái lợi của dân mà làm lợi cho họ, thì đối với việc chấn hưng công thương, há có thể nói là sự bổ trợ nhỏ mọn chăng?!

Lâm tôi nhìn nay nhớ xưa, thấy nghề nghiệp ngày một thịnh vượng, vui với non sông tươi đẹp, mỗi khi vui lại kể chuyện này cho người trong làng. Hỏi các bậc quân tử chức tước trong làng, họ đều nói được. Vậy làm bài ký này.

 

Thư trả lời con rể Đặng Thai Mai hỏi về quan niệm luân lý Âu Á giống khác như thế nào và có thể thỏa hiệp hay không

(Thư đáp tế tử Đặng Thai Mai Âu Á luân lý quan niệm đồng dị như hà cập năng phủ thỏa hiệp chi vấn)

Bảo Đại năm Ất hợi, 1935

 

Quan niệm đạo đức Á Đông vốn bắt nguồn từ Dịch học. Từ Phục Hy, ngẩng trông lên trời, cúi xét mặt đất, gần lấy ở mình, xa khảo cứu sự vật, vạch ra tám quẻ mà Dịch học bắt đầu từ đó. Dịch học hợp nhất vũ trụ quan, nhân sinh quan làm một. Dịch có hai yếu tố đứng đầu là Âm và Dương. Khổng Tử nói: "Vĩ đại thay quẻ Càn! Vạn vật nhờ nó mà bắt đầu, rồi thống lãnh cả trời. Lớn thay quẻ Khôn! Vạn vật nhờ nó mà sinh ra rồi thuận theo trời" (Dẫn từ tượng truyện của hai quẻ Càn, Khôn trong Kinh Dịch). Vì có hai nên phải coi trọng cái nghĩa ở giữa. Ở giữa là lúc âm dương đạt được sự cân bằng. Vì có hai nên giỏi biến hóa. Âm biến thành dương, dương biến thành âm, vì thế mà gọi là “Dịch”[76]. Bởi nó biến dịch nên cũng coi trọng thời. Biến dịch tùy thời, cho nên cái gọi là trung (ở giữa), không bắt buộc ở một cái nhất định. Thế nên Dịch học coi trọng cái nghĩa theo thời, cái dụng theo thời, nhưng đạt được cái trung là tốt vậy. Vũ trụ quan là vậy mà nhân sinh quan cũng là vậy. Nhân sinh chính là một phần tử của vũ trụ vậy. Khổng Tử nói: "Đạo của Càn biến hóa, tính và mệnh đều được ngay ngắn lại" (Dẫn trong “Soán truyện” của quẻ Càn: Càn gieo kết với Khôn rồi biến hóa, cho nên nói Càn có thể bao trùm Khôn). Nghĩa là: nhờ càn biến hóa mà người và muôn vật đều có được đúng tính và mệnh của mình. Nói từ góc độ của trời thì gọi là mệnh. Nói từ góc độ của người thì gọi là tính. Sách Trung dung viết "Mệnh trời thì gọi là tính". Tính mệnh không phải là hai. Lục kinh đều nói tính bắt đầu từ vua Thang[77]. Thiên “Khang cáo” trong Kinh Thư [78] nói Thượng đế lớn lao, ban đạo trung xuống cho dân, chỉ có ta họa chăng thuận được tính thường. "Trung" ở đây là trong lòng vậy. Trung dung có câu: "Hỷ, nộ, ai, lạc chưa phát ra ngoài gọi là trung". Khổng Tử nói: "Nhất âm nhất dương gọi là đạo, noi theo nó là thiện, hoàn thành nó là tính" (“Hệ từ truyện”, Kinh Dịch). Thiện là âm dương cùng đạt được, nên thiện cũng là trung vậy. Vì noi theo nó là thiện, nên cái mà con người nhận được và được coi là tính ấy cũng là thiện. Thuyết tính thiện của Mạnh Tử bắt nguồn từ đó. Lưu Tử trong Tả truyện nói: "Người nhận được cái trung của trời đất nên được sinh ra, cái đó mệnh". Mệnh cũng chính là tính. Tính cũng chính là trung. Đạo trung cũng chính là ở giữa. Giữa cũng chính là thiện. Tên gọi tuy khác nhau mà thực chất chỉ là một. Đã thừa nhận quan niệm tính mệnh là thiện, là trung thì quan niệm đạo đức cũng lấy trung làm chuẩn tắc. Khổng Tử nói: "Tính được hoàn thiện chắc chắn là cánh cửa của đạo nghĩa" (“Hệ từ truyện”, Kinh Dịch). Trung dung có câu: "Mệnh trời phú cho gọi là tính, dẫn dắt tính gọi là đạo". Vua Nghiêu truyền lệnh cho Thuấn rằng: "Hãy thành thực giữ lấy đạo trung" (Luận ngữ). Thuấn truyền cho Vũ: "Nhân tâm thật chênh vênh, đạo tâm thật vi diệu, phải tinh, phải chuyên nhất, thành thực giữ lấy đạo trung" (Luận ngữ). Quan niệm đạo đức xuất phát từ quan niệm về cái trung trong tính mệnh mà ra. Trung, lại quý chữ “thời” nên Thuấn có câu: "Lệnh trời ban xuống căn cứ ở thời, ở cơ". Phó Duyệt có câu: "Suy nghĩ điều thiện để hành động, hành động phải dựa vào thời" (Hai câu này đều dẫn theo Thượng thư). Cái đạo trung dung tùy thời của Khổng Tử bắt nguồn sâu xa từ Nghiêu Thuấn. Nhưng cái đạo trung dung tùy thời là đạo chung của nhân loại, chứ đâu phải đạo riêng của số ít thượng lưu. Khổng Tử ca tụng Thuấn: "Nắm được hai đầu mối, dùng đạo trung trị dân" (Trung dung). Thuấn khen Cao Dao[79]: "Hình phạt trông đợi ở chỗ không có hình phạt, dân quy tụ lại ở đạo trung, đó là công lao của ngươi". Trọng Hưng ca tụng vua Thang: "Làm rõ đức lớn, kiến tạo đạo trung cho dân". Mục Vương nói với Quân Nha rằng: "Lòng dân không có đạo trung, duy chỉ ngươi là có" (ba câu trích trên đều từ Thượng thư). Xem xét những quan niệm ở trên thì thấy cái đạo trung dung tùy thời bắt đầu ở một người mà rốt cục lại lan ra bốn biển, không phải đạo riêng của số ít thượng lưu, là điều rõ ràng vậy.

Quan niệm đạo đức Á Đông đại khái là như vậy. Đạo đức phân chia ra thì có hai mối lớn. Người và vật quan hệ với nhau là nghề nghiệp, nói gọn lại là nghiệp. Quan hệ người với người là luân lý, nói gọn lại là đức. Khổng Tử ca ngợi Dịch thường lấy đức và nghiệp làm ví dụ.

Thời Nghiêu Thuấn coi làm cho đức ngay ngắn (chính đức), thuận lợi cho việc sử dụng (lợi dụng), lợi cho sự sống (hậu sinh) là ba việc lớn. Việc chính đức - Quỳ, Tiết trông coi, việc lợi dụng - Tắc, Ích trông coi. Chính đức phân ra thành ngũ giáo. Thuấn mệnh cho Tiết rằng: “ngươi làm Tư đồ, trông coi ngũ giáo sao cho khoan hòa” (Thượng thư). Mạnh Tử giải thích: "Cái đạo của con người là muốn ăn no, mặc ấm, sống nhàn rỗi mà không có dạy dỗ thì gần cầm thú. Thánh nhân có phép thường để dẫn dắt, sai Tiết làm Tư đồ, đem nhân luân dậy bảo dân, cha con có tình thân, vua tôi có nghĩa, vợ chồng có nghĩa vụ khác nhau, anh em có trên dưới, bè bạn có tín nghĩa". Khổng Tử luận về chính sự: "Làm cho dân giàu, khiến cho dân có giáo dục" (Luận ngữ). Mạnh Tử luận chính sự cũng coi nông tang trồng cấy chăn nuôi và trường lớp học hành là hai việc trọng yếu. Sách Đại học dẫn bài minh ghi trên chậu tắm của Thang rằng: "Cẩu nhật tân, hựu nhật tân, nhật nhật tân" (Nếu hàng ngày đổi mới, lại hàng ngày đổi mới thì càng ngày càng thêm mới”. Kinh Thư thiên “Khang cáo” viết: "Khiến dân đổi mới". Làm giàu và giáo dục cho dân chúng, hai việc không nên thiên lệch bỏ bê việc nào, đó là trung vậy. Ngày ngày đổi mới, đổi mới cho dân, làm việc mới là thực thi theo thời vậy. Nắm thời đẻ thi hành đạo trung là cái cốt yếu của đạo đức, từ Nghiêu Thuấn Vũ Thang Văn Vũ cho đến Khổng Mạnh, một dòng truyền nối, đều nhất nhất tuân theo như thế. Vả lại cái đạo trung dung tùy thời đã được thực hiện trong chính sự và giáo dục, tuy chưa được toàn vẹn nhưng cũng đã phổ cập đến dân chúng. Cho nên bậc thánh nhân thì sẽ có chỗ đứng của mình. Âu châu chỉ có bậc đại hiền trở xuống, nên không có được địa vị. Quan niệm đạo đức của họ không chỉ không thực hiện được mà thiết tưởng cũng không hoàn chỉnh lắm. Ở Hy Lạp, các học giả không có tư tưởng bình trị thiên hạ, chỉ lấy ái quốc làm cứu cánh, còn cái gọi là quốc, cũng chỉ giới hạn ở một thành bang, lại coi chế độ nô lệ là điều phải có, thời cổ Hy Lạp đã là vậy. Đến thời trung cổ, tôn giáo thịnh hành nên lại đi vào thời kỳ đen tối.

Ở Á Đông sau thời Xuân Thu bậc thánh vương không dấy lên, cho nên đạo trung dung đã lâu rồi dân ít giữ được (Trung dung). Khổng Tử than thở về điều đó, đến Mạnh Tử quan niệm đạo đức vẫn theo cái đạo thời cổ, nhưng quan niệm tính mệnh đã không thể không lệch lạc đi. Như Mạnh Tử nói "Nhân, nghĩa, lễ, trí không phải ở ngoài rọi vào ta, nó vốn có vậy".

Nguồn gốc của nhân, nghĩa, lễ, trí tuy vốn có từ trước nhưng không nhờ lắng nghe quan sát học hỏi luyện tập thực hành, không lo từ bên ngoài soi chiếu vào thì cái nguồn gốc vốn có, chẳng biết nhờ đâu mà phát triển, tất sẽ bế tắc, không còn có gì chung với gốc rễ nữa.

Nay thi cử bằng cái lý lẽ khá phồn tạp hỏi đám dân quê chưa được học hành giáo dục xem đúng sai thế nào thì họ tất nhiên ngơ ngác không thể trả lời, thế thì làm sao thấy được cái vốn có của họ?

Mạnh Tử lại nói: "Tai đối với âm thanh, mắt đối với màu sắc, miệng đối với mùi vị, chân tay đối với nhàn nhã, đều là bản tính vậy, đều có mệnh trong đó song người quân tử lại không cho là bản tính". Như vậy, Mạnh Tử phân tính mệnh thành hai mà đối với tính của tai mắt miệng thân thể, chỉ nói đến phương diện hưởng thụ. Đã thừa nhận là tính, sau lại phủ nhận điều đó, thực chẳng phải phân biệt đúng sai một cách khiên cưỡng thì là gì? Vả lại về mặt ứng dụng, tai lắng nghe, mắt quan sát, miệng nói năng, chân tay để đi để làm, đều từ chỗ hiểu thực tế của nhân nghĩa lễ trí; còn hưởng thụ, lại là để bồi dưỡng sức ứng dụng mà ra. Nay đã không thừa nhận tính của cơ thể tai mắt mũi mồm là bản tính, thì nhân nghĩa lễ trí sẽ chỉ có danh suông mà không có thực, sao có thể dùng được cái danh vô thực ấy! Đó đều là những nhìn nhận thiên lệch của Mạnh Tử. Cái được gọi là "cái đạo hợp cả trong ngoài" trong Trung dung về cơ bản là chưa thấu đáo, triệt để. Vì Mạnh Tử nhìn nhận thiên lệch cho nên phân chia rạch ròi nghĩa - lợi, vương - bá có nhiều chỗ sai sót, thái quá. Sau cơn binh lửa nhà Tần, kinh sách thời cổ đã bị thất tán, quan niệm đạo đức bị thuyết hư không của Phật Lão pha tạp, quan niệm luân lý bị thuyết tam cương điều khiển, quan niệm về vũ trụ cũng bị thuyết ngũ hành xuyên tạc. Cho nên từ Hán Đường trở đi, bậc học giả thiếu quan niệm kiến thiết, không có tư tưởng anh hùng hào kiệt, chỉ có Trương Hoành Cừ, Vương Thủ Nhân tính cách cứng cỏi, học thuyết của họ có thu hút đôi chút sự chú ý của mọi người (Trương Hoành Cừ trẻ lúc thích tòng quân, ý muốn lập bè đảng chiếm đất Liêu Tây. Vương Thủ Nhân dẹp yên cuộc nổi dậy của Chu Thần Hào, lập được công tích. Ngoài ra, các học thuyết khác, cho dù thâm thúy đến thế nào chăng nữa đều không tránh khỏi bàn suông, răn nhược. Người mà Trình Tử, Chu Tử gọi là thánh nhân chỉ là thánh nhân trong mộng tưởng chứ không phải thánh nhân trong nhân cách con người. Đã lạm nhận là bậc thánh hiền mà không làm được gì, lại xem thường anh hùng hào kiệt mà không muốn làm. Chính vì vậy mà để cho người Mãn Châu, người Mông Cổ xâm nhập vào Trung Quốc.

Đối với luân lý Âu Tây tôi không hiểu tường tận, không biết giống khác ở điểm nào. Còn đối với việc hỏi thỏa hiệp Âu Á thì tất có ngày thực hiện được. Phàm đạo đức là của chung thiên hạ không phải là thứ có thể chia tách bằng rang giới quốc gia, tộc loại. Nếu thực sự là đạo đức chân chính thì chưa từng không thỏa hiệp được. Âu chân Á ngụy, thì Á tất phải bỏ đi theo Âu. Âu ngụy Á chân thì Âu tất phải bỏ mà theo Á. Theo thiển ý của tôi, đạo đức kiểu trung dung theo thời của Á Đông là chân đạo đức. Châu Âu và châu Á mà giống nhau thì có thể thỏa hiệp, Âu và Á khác nhau thì cũng không thể không thỏa hiệp. Trước tác của tôi là sách Nhân đạo quyền hành quả có thể dịch ra tiếng Tây, cái mấu chốt của sự thỏa hiệp chính là ở đây vậy. Cái mệnh tiên thiên, mệnh chính là tính. cái mệnh hậu thiên, mệnh đó khác với tính. Thuyết trên nghĩa lý hẹp hòi, vì vậy cần bổ sung.

 

Ngẫu thành thi

(nhị thủ)

(Thơ ngẫu thành)

(2 bài)

Bảo Đại năm Ất hợi, 1935

 

1. Phiên âm:

Đăng lâu

Thiệp cấp đăng lâu tứ khoáng nhiên,

Tĩnh quan vạn vật các tiên nhiên.

Sơn hà thành quách nhân dân tại,

Lâu hạ khôn dư lâu thượng thiên.

 

(Dịch nghĩa:   

Lên lầu

Liền bước lên lầu tứ thơ bỗng rộng mở,

Lặng lẽ quan sát vạn vật thảy tươi xinh.

Núi sông thành quách chúng dân vẫn đấy,

Dưới lầu là mặt đất, trên bầu trời.)

 

 

2. Phiên âm:

Tiễn xuân bộ Đặng Dung cảm hoài nguyên vận

Xuân nhật sa đà nại mộ hà,

Mang mang tư tưởng nhập huyền ca.

Hanh lai thế đạo ưng đồng hóa,

Mệnh chí nhân tâm bất tự đa.

Đái chúa nguyện phù toàn địa trục,

Tẩy binh lực vãn bán thiên hà.

Hồng ân vị báo đầu ban bạch,

Kỷ độ ngưu dao sái nhật ma. 

 

(Dịch nghĩa:

Tiễn bước xuân họa nguyên vậnbài Cảm hoài

của Đặng Dung

Ngày xuân lần nữa, muộn có sao,

Tâm tưởng chập chờn nhập vào tiếng đàn lời ca.

Vận hanh thông đến, thế đạo cũng thay đổi.

Mệnh tới, lòng người không tự nhận là đã nhiều.

Đội ơn chúa, nguyện chống đỡ trục trái đất,

Để rửa giáp binh, ra sức kéo lại nửa thiên hà.

Hồng ân chưa báo đáp đầu đã đốm bạc,

Mấy độ đem con dao đồ tể ra mài phơi dưới mặt trời.)

 

Thư trả lời con rể Đặng Thai Mai hỏi về

triết học hiện đại và Dịch học

(Thư đáp tế tử Đặng Thai Mai hiện đại triết học cập Dịch học chi vấn)

Bảo Đại năm Đinh sửu, 1937

 

Tôi đã xem hai tập sách khái luận Vấn đề cơ bản của triết học hiện đại và  Triết học xã hội[80]. Người viết sách có nhiều ý kiến lệch lạc cho nên lập luận mờ mịt, rối rắm. Duy có phương pháp tư tưởng của Ngải Tư Kỳ[81], văn chương, lý lẽ thấy rất sáng sủa khúc chiết, khiến tôi hiểu một cách sơ bộ về tư tưởng triết học phương Tây từ trước đến nay. Trong sách ấy có nói có nói về phép biện chứng duy vật hiện đại cũng hợp với lẽ biến hóa tự nhiên. Nhưng hai chữ duy vật vốn đưa ra để phản đối học thuyết duy tâm. Toàn bộ cái mà Âu Tây gọi là duy tâm chỉ là sự ảo tưởng của tâm, rất khác so với cái mà Á Đông gọi là tâm. Còn về thực chất của mối quan hệ giữa tâmvật thì lại bị che lấp đi. Vả lại, phép biện chứng duy vật, tuy phù hợp với chân lý, nhưng điều mà nó nói chỉ là những lời nói suông, qua quít, đối với thực tế xã hội, chỉ có thể cổ súy sự phá hoại, còn đối với sự nghiệp kiến thiết, phải bắt tay vào hành động như thế nào thì chưa có thuyết minh rõ ràng. Đó là những chỗ khiến tôi chưa thỏa mãn với triết học Âu Tây.

Dịch là biến dịch, cũng là cái lý của sự biến hóa vạn vật trong vũ trụ. Thời thượng cổ Trung Hoa chưa có chữ, "Phục Hy (ước chừng cách ta khoảng 5.000 năm), ngửa xem ở trời, cúi xét ở đất, gần thì lấy ở mình, xa thì khảo sát vạn vật mới vạch ra 8 quẻ" (Lời Khổng Tử trong “Hệ từ truyện, hạ”). Quẻ vạch ấy đầu tiên là vạc một vòng tròn tượng trưng cho thái cực. Thái cực nghĩa là khởi đầu, tượng trưng cho cái độc nhất vô nhị. Từ dưới lên trên, một chia thành hai, nửa đen nửa trắng, đó là lưỡng nghi. Lưỡng nghi là tượng của âm dương. Hai chia thành bốn, trắng đen xen kẽ, đó là tứ tượng. Tứ tượng là tượng của thiếu âm lão âm, thiếu dương lão dương. Bốn chia thành tám, đó là bát quái. Bát quái là càn, đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn. Thứ tự vạch quẻ như sơ đồ minh họa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ba trắng là ba dương, đó là càn, tượng cho trời, ở người tượng cho cha. Một đen ở trên hai vạch trắng là một âm ở trên hai dương đó là đoài, tượng cho ao đầm, ở người thì tượng cho thiếu nữ. Một vạch đen ở giữa hai vạch trắng là một âm lệ thuộc giữa hai dương, đó là quẻ ly, tượng cho hỏa, ở người thì tượng cho đàn bà trung niên. Một vạch trắng ở dưới hai vạch đen là một dương hoạt động ở dưới hai âm, đó là quẻ chấn, tượng cho sấm sét, ở người tượng cho trưởng nam. Ba vạch đen là ba âm, đó là quẻ khôn, tượng cho đất, ở người tượng cho mẹ. Một vạch trắng ở trên hai vạch đen là một dương dừng trên hai âm, đó là quẻ cấn, tượng cho núi, ở người tượng cho nam trẻ trung. Một trắng ở giữa hai đen là một dương bị hãm giữa hai âm, đó là quẻ khảm, tượng cho nước, ở người tượng cho đàn ông trung niên. Một đen ở dưới hai trắng là một âm thâm nhập xuống dưới hai dương, đó là quẻ tốn, tượng cho gió, ở người tượng cho trưởng nữ. Bát quái đã thành, dựa vào đó mà chồng các quẻ lên nhau sẽ được sáu mươi tư quẻ. Khổng Tử nói: "Kinh Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái" (Kinh Dịch, “Hệ từ truyện, thượng”). Lại nói: "Bát quái dàn ra, tượng quẻ ở trong đó. Dựa vào bát quái mà chồng quẻ, hào ở trong đó" (Kinh Dịch, “Hệ từ truyện, hạ”). Đó là nói về cách Phục Hy vạch quẻ. Nay thử lấy một điểm ban đầu của thai nhi làm thái cực, lần ngược lên trên nó thì từ song thân mà tới tứ tổ, từ tứ tổ mà tới tám tằng, từ tám tằng mà tới mười sáu cao, nếu cứ ngược đến ba mươi đời thì đấng tiên nhân của thai nhi kể đến ức triệu. Muôn vàn mà hợp lại làm một, đó là tri thức thông thường có thể biết được. Còn từ thai nhi lức ban đầu mà tính xuôi xuống, thì một điểm phân thành hai, hai phân thành bốn, bốn phân thành tám, tám phân thành mười sáu, càng phân chia càng nhiều lên. Sau đó cấu thành các bộ phận của cơ thể, rồi ra đời. Sau khi sinh ra (thân thể) ngày một trưởng thành, lại phối hợp với giới tính khác mà con con cháu cháu sinh nở không ngừng. Đó là một phân thành vạn, là cái mà khoa học có thể giải thích được. Còn cái gọi là vạn hợp làm một, một phân thành vạn, lại cùng thể khí, thể lỏng, thể rắn ở ngoại giới hóa phân hóa hợp, không lúc nào ngừng.

Kinh Lễcó câu: "Trời cao đất thấp, vạn vật phân tán khác nhau, lưu chuyển không ngừng, hợp cùng nhau rồi biến hóa". Cách Phục Hy vạch ra quẻ (tức là thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái), thực khớp với phép biến hóa không ngừng của tự nhiên. Đó là những điều tôi quan sát, thể nghiệm được.

Sáu mươi tư quẻ đã thành, dùng năm mươi cọng cỏ thi làm số đại diễn, bốn vòng thành dịch, mười sáu lần biến hóa thành quẻ (lời Khổng Tử trong Kinh Dịch, “Hệ từ truyện”, cách này thấy trong sách Phệ nghi củaChu Tử) dùng để bói quẻ mà dịch học từ đó hưng khởi. Thời nhà Hạ có Liên sơn dịch, nhà Thương có Quy tàng dịch, nhà Chu có Chu dịch (trích từ Chu Lễ do các quan Thái bốc trông coi). Còn lại đến ngày nay chỉ có Chu dịch. Khổng Tử nói: Dịch hưng thịnh tương đương với cuối đời nhà Ân, lúc đức nhà Chu đang thịnh chăng? Hay nó tương đương với thời Văn Vương và Trụ chăng?! Vì thế lời từ của nó rất đoan chính. Lại nói: Kinh Dịch hưng thịnh vào thời trung cổ chăng?! Người làm ra Kinh Dịch có lo lắng gì chăng?! (Kinh Dịch,“Hệ từ truyện, hạ”). Lại nói: “trong văn minh mà ngoài nhu thuận để che giấu cái tai họa rất lớn, Văn Vương dùng cách đó (Kinh Dịch, quẻ Minh di, “Soán truyện”). Vì vậy hậu thế cho rằng Kinh Dịch được Văn Vương diễn giải khi ông bị tù ở Dữu Lý. Sáu mươi tư quẻ có sáu hào, dựa vào vị trí từng hào trong quẻ mà bình luận. Hào có hào từ. Quái từ là của Văn Vương, đến hào từ thì kẻ hậu nho cho là của Chu Công, chỉ có điều là không có bằng cứ thì coi là của Văn Vương cũng đúng. Quẻ là nét vạch của người, từ là chế tác của người. Phép bốc cỏ thì làm quẻ đều từ bậc thánh triết mà ra. Cho nên sự kết hợp biến hóa kỳ diệu của cỏ thi, thẻ, quẻ, hào đều giống tự nhiên. Sự diệu kỳ của kết hợp biến hóa là như nhau. Khổng Tử nói: Dịch là chuẩn với trời đất cho nên có thể là đạo hằng thường của trời đất (Kinh Dịch, “Hệ từ truyện”, thượng). Người làm ra “Thập dực”cho Kinh Dịch ban đầu chỉ có ý phát huy nghĩa lý phần Quái từ, Hào từ của Văn Vương. Thế rồi dùng Trung dung theo thời thành chỗ quy kết nên Dịch trở thành sách chuyên biệt của về nguồn gốc triết học Á Đông. Nay nói theo sự kiến giải của tôi thì cái lý của âm dương bao quát muôn vàn, có cái nghĩa tương quan, có cái nghĩa lưu hành. Tương quan là dương thì cương mà âm thì nhu mà không thể khuyết một cái nào. Người có nam - nữ, chim có trống - mái, thú có đực - cái, cây có hoa đực - hoa cái, điện có cực âm - cực dương. Thuyết nguyên tử ngày nay cũng có sự phân chia thành điện tử âm điện tử dương. Nói rộng ra thì trên trời có sấm, sét, gió, phàm những gì linh biến đều là dương; dưới đất thì nước, núi, đầm, phàm những gì ngưng đọng đều là âm. Chỗ không có sao gọi là “thần”, đều là trời, là dương; chỗ có sao gọi là “tinh”, đều là đất là âm. Hình nhi thượng gọi là đạo, là dương; Hình nhi hạ gọi là khí, là âm. Đó là cái nghĩa tương quan, để nói về không gian vậy. Lưu hành tức là dương thì động, âm thì tĩnh, biến hóa không ngừng. Sống là dương, chết là âm, thức là dương ở trong dương, ngủ là âm ở trong dương. Trong một ngày có ngày có đêm, trong một năm có đông có hạ. Động vật, thực vật đều có sinh có tử. Khoáng vật có hóa hợp có phân hủy. Hóa hợp thì tạo thành, là dương; phân hủy là hủy hoại, là âm. Sự cấu thành nửa trên của quả địa cầu, nhật cầu, nhật tựu hoàn toàn là dương; sự tiêu hủy nửa dưới của địa cầu, nhật cầu, nhật tựu hoàn toàn là âm. Điều mà khoa học ngày nay phỏng đoán kiểm tra được đều hợp với lý lẽ của Kinh Dịch. Đó là nghĩa lưu hành, để nói về thời gian. Không gian vô bờ, thời gian vô tận, mà cái thực của sự tương hợp và lưu hành âm dương không chỗ nào không như vậy, không thời nào không có. Khổng Tử nói: “SáchDịch rộng lớn đầy đủ, trong đó có đạo của trời, đạo của người, đạo của đất. Gộp cả tam tài mà nhân đôi lên thì được sáu, sáu không phải cái gì khác, nó là đạo của tam tài vậy” (Kinh Dịch, “Hệ từ hạ truyện”). Người ở trong trời đất "bẩm thụ được cái trong trời đất rồi ra đời" (Lời của Lưu Tử trong sách Tả truyện[82]), cho nên cái đạo của con người ắt là hợp với đạo của trời đất. Do có sự tương hợp nên không thể thiếu một. Cho nên đạo quý ở chỗ “trung” (ở giữa, trung dung). Trung là âm dương đạt được sự cân bằng. Do có sự lưu hành biến hóa không ngừng, nên cũng quý thời, hợp vời thời mà được trung, đó chính là điều mà Khổng Tử gọi là "hợp cùng với cái đức của trời đất" (Kinh Dịch, Văn ngôn của quẻ Càn). Thuấn dặn Vũ rằng: "Nhân tâm rất chênh vênh, đạo tâm rất vi diệu, phải chuyên nhất và thành thực giữa lấy đạo trung". Thuấn cũng ca rằng: "Thực thi mệnh tùy thời, tùy cơ" (Thượng thư). Khổng Tử nói: "Quân tử mà trung dung, theo thời để giữ lấy trung" (Trung dung). Cái đạo theo thời để giữa lấy trung của Thuấn, của Khổng là từ nghĩa lý của Dịch mà ra. Đó cũng là những điều tôi quan sát thể nghiệm được.

Trang Tử nói: "Anh không là cá sao biết cái vui của cá". Tôi không phải Văn Vương, Khổng Tử sao có thể biết hết ý của Văn Vương, Khổng Tử. Văn Vương, Khổng Tử đều không phải tạo hóa, thì cũng làm sao biết hết được bí mật của tạo hóa. Chu Tử nói: "Dịch của Văn Vương không giống Dịch của Phục Hy, Dịch của Khổng Tử không phải Dịch của Văn Vương". Ý nói đạo của Kinh Dịch rất lớn, bao quát không chỗ nào sót, các bậc thánh nhân đều căn cứ vào nhất thời đã đạt đến, đưa ra một cái mà bao quát được toàn thể sao? Khổng Tử nói: “Sách không nói hết lời, lời không nói hết ý”. Như vậy ý của thánh nhân không thể thấy sao? Thánh nhân lập ra tượng để tận ý, đặt ra quẻ để nói hết giả thực, còn “Hệ từ” là để tận lời. Biến rồi thông là để tận hưởng lợi. Cổ và vũ là để tận thần (Kinh Dịch, “Hệ từ thượng truyện”). Đối với việc Văn Vương vạch ra tám quẻ, đặt ra “Hệ từ”, và sự lưu truyền của Khổng Tử, tôi không hiểu lắm về nguyên nhân, đành lấy những điều ngày thường quan sát thể nghiệm được để trình bày, không thể nói một cách tường tận được. Khổng Tử nói: “Dịch cùng tắc biến, biến tắc thông, thông thì trường cửu” (Kinh Dịch, “Hệ từ hạ truyện”). Phép biện chứng duy vật hiện đại của Âu Tây: quy luật thống nhất mâu thuẫn giống với cái nghĩa tương hợp của âm dương, quy luật lượng đổi chất đổi và quy luật phủ định của phủ định giống với sự lưu hành của âm dương, chân lý không phân đông tây, nếu có người thông minh hiểu biết, chú tâm quan sát thể nghiệm thì phát minh của họ dù không hẹn cũng sẽ gặp nhau. Huống chi ngày nay, phương Đông dịch sách phương Tây, phương Tây dịch sách phương Đông, bậc trí thức chuyên cần coi thâu nhập tư tưởng là nghĩa vụ, thì tương lai nhân loại tất sẽ có ngày học thuật thống nhất, nhân đạo đại đồng. Đó là điều tôi tin tưởng một cách sâu sắc vậy.


1, 2. Tên bài trong Kinh Thi.

 

[3]. Dáng vẻ đàn cò: nguyên văn “chấn lộ”. Bài “Chẩn lộ” trong phầnChu tụng”, Kinh thi,có câu: chẩn lộ vu phi, nghĩa là: cò bay san sát. 

[4]. Kim Cốc: Vườn của Thạch Sùng, cự phú đời Tấn.

[5].Trúc lâm: Rừng trúc. Ở đây có lẽ chỉ nơi dạo chơi của bảy văn nhân đời Tấn: Kê Khang, Nguyễn Tịch, Sơn Đào, Hướng Tú, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Vương Nhung. Về sau những ngườu này được gọi là “trúc lâm thất hiền”, và “trúc lâm du”. “trúc lâm yến” thành những từ chỉ việc vui chơi, giải trí phóng túng.                

[6]. Điển này hiện chưa tra cứu được.

[7]. Điển này hiện chưa tra cứu được.

[8] . Gia Cát: tức Gia Cát Lượng (181-234), tự Khổng Minh, là một mưu lược gia nổi tiếng thời Tam quốc. Lưu Bị từng 3 lần đến lều cỏ nơi ông ẩn cư để mời ra giúp dựng nên nhà Thục Hán, bình định thiên hạ.

[9]. Đào Tiềm: tức Đào Uyên Minh (365-427), người đời Tấn, giỏi thơ văn, tính tình thanh cao nên chán cảnh quan trường, bỏ quan về ở ẩn, có bài Quy khứ lai từ nổi tiếng.

6. Tức áo của đạo sĩ.

7. Tức đạo sĩ.

 

[12]. Cửu Linh: Tức Trương Cửu Linh (678-740), thi nhân nối tiếng đời Đường  

[13]. Ý nói thân thể tuy hóa đá nh­ưng vẫn toát lên nỗi đau khôn cùng.

[14]. Đây nói đến chín khuôn mẫu lớn của việc trị nước, chép trong Kinh Thư (tức Cửu trù trong thiên “Hồng phạn”) do Cơ Tử dâng lên Chu Vũ Vương.

[15]. Ng­ười đậu cử nhân, trong thư từ của bạn bè phần nhiều gọi là Hiếu liêm. Đến khi phép thi bại hoại nhiều ngư­ời hối lộ để đỗ đạt, lại có ngư­ời tốn phí hơn ngàn vàng mà chẳng được (Chú thích của tác giả).

[16]. Bấy giờ ngư­ời họ Lê nhờ ng­ười thi thay, đậu cử nhân, sau bị cáo giác như­ng mọi ng­ười vẫn gọi là Hiếu liêm, nên viết như trên (Chú thích của tác giả).

[17].  Đời Huệ Văn V­­ương n­­ước Triệu đư­­ợc ngọc Biện Hòa. Vua Tần là Chiêu Vư­­ơng nghe tin muốn đổi 15 thành lấy ngọc. Quan đại phu Lạn T­ư­ơng Nh­ư­ nhận trọng trách mang ngọc sang Tần. Biết vua Tần có ý bội ­ư­ớc, Lạn T­­ương Như­­ đã khôn khéo lấy lại ngọc và nói thà chịu đập nát đầu mình cùng viên ngọc chứ không chịu trao ngọc nếu chư­­a nhận đư­ợc thành. Cuối cùng ngọc Biện Hòa không bị mất vào tay Tần vư­­ơng.

 

[18].Ngư­ời nư­ớc Sở thời nhà Chu đ­ược hòn đá có ngọc, dâng Lệ Vư­ơng bị chặt chân trái. Sau dâng cho Vũ V­ương lại bị chặt chân phải. Ôm ngọc khóc, vua sai người mang ngọc mài ra thì quả đư­ợc ngọc quý.

[19]. Bấy giờ cử nhân Nguyễn Thức Độ tham gia đảng cách mạng, bị bắt giam, tôi làm thơ gửi vào ngục thất (Chú thích của tác giả).

[20]. Sách Luận ngữ của Khổng Tử, thiên “Công Dã Tràng” có câu:

- Dã Tràng tuy bị bắt trói như­ng không có tội.

- Nam Dung (tức Nam Cung Quát, học trò Khổng Tử) ở nư­ớc có đạo không bị bỏ, ở nư­ớc không có đạo vẫn tránh đ­ược tội chết.

[21]. Ý nói: không vì bị tù đày mà coi là có tội.

[22]. Nguyên văn: "thất thiên", chúng tôi tạm dịch.

[23]. Sách Mạnh Tử, chư­ơng “Đằng Văn Công th­ượng” có câu: "Thuấn là ng­ười thế nào, ngươi là ngư­ời thế nào? Là kẻ hữu vi chăng?".

 

[24]. Nghi: nghĩa là phù hợp, là nên.

[25]  Ý nói coi ngư­ời không bằng súc vật.

[26]Thiên “Tử hãn” trong Luận ngữ: "Tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân".

[27]. V­ương Lăng, Tào Tham, Chu Bột, Trần Bình đều là các tư­ớng có nhiều công lao phò trợ Hán Cao Tổ giành thiên hạ.

[28]. Khi Vư­ơng Lăng đem binh theo Hán, Hạng Vũ bắt mẹ của Lăng để buộc Lăng theo mình, nh­ưng bà mẹ đã đâm kiếm chết, dặn Lăng một lòng thờ Hán.

[29]. Hán Vư­ơng trư­ớc đó đã giết ngựa trắng mà thề "Ai không phải người họ Lưu mà làm vương thì thiên hạ cùng đánh kẻ đó”.

[30]. Cấp Ảm tự là Tr­ường Nhụ, làm quan d­ưới thời Hán Vũ Đế, nổi tiếng cư­ơng trực, giữ khí tiết.

[31]. Xin xem thêm “Cao tổ bản kỷ”, “Lữ Hậu bản kỷ” trong Sử Ký.

[32]. Trần Bình lúc đầu theo Ngụy, sau bỏ Ngụy theo Sở, cuối cùng đi với Hán Cao Tổ.

*. . Án sát tỉnh Hải Dương mà Hồ Phi Huyền nhắc đến ở đây là Từ Đạm chứ không phải Từ Đạm Khải, như đã hiểu nhầm trong bản in do Nhà xuất bản Lý luận Chính trị ấn hành, Hà Nội 2007. Xin cảm ơn PGs.Ts. Lại Văn Hùng đã mách cho thông tin này để có cơ hội được đính chính sai sót.

[33]. Chữ của Mạnh Tử.

[34]. Ý nói 19 người vợ có chồng thi đỗ.

[35]. Chỉ các tiên nữ của Tây Vư­ơng Mẫu.

[36]. Nguyên bản chữ này bị mờ. Chúng tôi theo mạch văn tạm dịch.

[37]. Tức sông Hồng.

[38].Tức sông Doanh.

[39].Tức sông Trai, còn gọi là sông Chỉ (Chảy).

[40]. Những dòng này thay cho tên bài.

[41]. Con cự hư và con quệ, một con giỏi chạy, một con giỏi kiếm ăn. Nên con này cõng con kia, con kia kiếm ăn giúp con này, một kiểu cộng sinh.

[42].Một động vật cùng họ với chó sói (lang). Hai con này thường phải sống nương tựa vào nhau.

[43]. Luận ngữ: com cái cần biết tuổi cha mẹ, một là để vui mừng, hai là để lo sợ.

[44].Tên các bậc anh hùng, các nhà cách mạng Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản.

[45]. “Cam đ­ường” là một bài trong Kinh Thi kể việc ông Thiệu Bá đi khắp các nư­ớc phư­ơng nam để truyền bá đức chính. Văn Vư­ơng thư­ờng nghỉ d­ưới cây cam đ­ường. Về sau nhớ công Thiệu Bá và để ví những ngư­ời làm quan nhân đức ng­ười ta th­ường dùng hình ảnh cây cam đ­ường.

[46]. Chữ trong bài "Nhữ phần", Kinh Thi.

[47]. Chữ trong bài "Nhữ phần", Kinh Thi.

[48]. Chữ trong "Yếm cấp hành lộ", Kinh Thi.

[49].Dịch chữ "tế phế" trong bài “Cam đư­ờng”.

[50].Dịch chữ "Bỉ mỹ nhân hề, tây phư­ơng chi nhân hề" trong Kinh Thi.

[51].Chữ "Giản hề" trong bài “Cam đ­ường”.

[52].Trong bài "Nam hữu kiều mộc", chỉ ngư­ời có đức hạnh.

[53].Trong bài "Phiếu hữu mai", chỉ ng­ười con gái đến thì.

[54] Trong bài "Đào yêu" trong Kinh Thi, chỉ ng­ười con gái trẻ trung, xinh đẹp đang thì.

[55].Dịch chữ "cao d­ương" trong bài "Cao dư­ơng" trong Kinh Thi chỉ ng­ười quân tử ăn mặc đúng lễ, giản dị.

[56].Chữ trong bài "Trâu ngu", Kinh Thi, chỉ ng­ười nhân đức.

[57].Tức Lam Thái Hòa, theo truyền thuyết là một trong tám dật sĩ cuối đời Đư­ờng. Thư­ờng mặc quần áo rách, một chân giầy, một chân đất đi lang thang, tay cầm thanh gỗ to, uống r­ượu say thì gõ gậy hát nghêu ngao. Về sau ở một quán rư­ợu ông nghe thấy tiếng tiêu sáo trong không trung bỗng lên trời đi mất.

[58]. Điển này hiện chưa tra cứu được.

[59]. Chỉ nơi các dật sĩ ở.

[60].Chỉ nơi các hào kiệt vẫy vùng.

[61]. Điển này hiện chưa tra cứu được.

[62].  Tích này hiện chưa tra cứu được.

[63].Rượu Trung Sơn: tương truyền rượu này uống vào say đến nghìn ngày.

[64]. Chỉ Đào Tiềm.

[65]. Điển này hiện chưa tra cứu được.

[66]. Hi Di:  

[67]. Tín Lăng Quân từng nuôi cả ngàn khách khứa trong nhà.  

[68]. Ông họ Nguyễn ở phía Nam nghèo, trái với ông họ Nguyễn ở phía Bắc giàu.

[69]. Điển này hiện chưa tra cứu được.

[70].Tức Hàn Dũ (768-824), nhà thơ đời trung Đường.

[71].Nguyên văn thiếu một chữ, chúng tôi tạm dịch theo ý thơ.

[72]. Tức bậc tiên giác đã nói đến ở vế trước.

[73]. Cội Nhuế tức Nội Khê, xưa thông với đê Bà Lê, nay lui xuống phía đông con đê Tra Bản (Chú thích của tác giả).

[74].Một sào hai mảnh (Chú thích của tác giả).

[75].Một sào (như trên).

[76].Dịch: nghĩa là thay đổi.

[77].Tức Thành Thang, ông vua mở đầu triều đại Ân Thương, được coi là một trong các vua thánh thời tam đại.

[78]. Tên một thiên trong sách Đại học.

[79].Tên một viên quan tư pháp đời Nghiêu Thuấn.

[80]. Nguyên văn: Hiện đại triết học cơ bản vấn đề, Xã hội triết học.

[81]. Ngải Tư Kỳ: bút danh của Lý Sinh Huyên (1910-1966), là tác gia kinh điển của chủ nghĩa Mac-Lê tại Trung Quốc, với tác phẩm chủ chốt là Đại chúng triết học (1936) và Biện chứng duy vật chủ nghĩa Lịch sử duy vật chủ nghĩa (1960).

[82].Tả truyện: bộ sử truyện biên niên của Trung Hoa, ghi chép những sự kiện lịch sử thời Xuân Thu.

(Nguồn: Văn hóa Nghệ An)

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Thư giãn  

Câu đối trúng tâm tư

VanVN.Net - Nhà văn Xuân Thiều ăn mừng tân gia. Sau bao nhiêu năm ăn ở chật chội trong khu tập thể, bây giờ khi tuổi đã cao nhà văn mới có được một ngôi nhà riêng. Nhà ba tầng. Đẹp ...

Nhà văn đọc sách  

Đất bỏng – bộ tiểu thuyết sử thi về vùng mỏ Cẩm Phả

VanVN.Net - "Đất bỏng" thực sự là một cuốn tiểu thuyết mang tính sử thi hấp dẫn người đọc. Cái bỏng rát của vùng đất đó không chỉ dừng lại ở sự bỏng rát của thời tiết vùng mỏ vỗn dĩ ...

Tư liệu  

Hoài Thanh với văn chương và hành động

VanVN.Net - Trong lịch sử văn học nước nhà chưa từng thấy một ai ngoài Hoài Thanh cùng một lúc phát hiện hơn 40 gương mặt thi ca và liền đó định hình họ trên thi đàn. Hơn 40 gương mặt ...