VĂN NGHỆ GIẢI PHÓNG MỘT THỜI VÀ NHỮNG CON NGƯỜI
Ảnh: Trước cửa nhà ăn của trại viết. Hàng đứng ( từ trái sang) Hào Vũ, Trọng Ân, Trùng Khánh ( đã mất) một cán bộ của trại. Hàng ngồi: Văn Lê, Chí Thiện, Trần Ninh Hồ.
Nói tới thuật ngữ “văn nghệ bộ đội”, nói tới đội ngũ các nhà văn áo lính, rộng ra nói tới nền văn học mới những năm đầu không thể không nhắc tới phong trào “văn nghệ sĩ đầu quân” (1946-1950). Và, nói tới văn học những năm Kháng chiến chống Mỹ cứu nước những năm 60, 70 của thế kỷ trước không thể không nói tới Văn nghệ Quân Giải phóng.
Những năm 60 và đầu những năm 70 là những năm gian khổ và hào hùng nhất của lịch sử giữ nước Việt Nam, với khẩu hiệu “Không có gì quí hơn độc lập tư do”, “Tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, tất cả nhân tài, vật lực đều được huy động cho cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Như nhiều người đã biết, ngay từ đầu thập niên 60 của thế kỷ XX, thực hiện Nghị quyết 15 của Đảng ta về Cách mạng miền Nam, tạp chí Văn nghệ Quân đội đã được Tổng cục Chính trị giao một nhiệm vụ quan trọng là lựa chọn, bồi dưỡng những cây bút có khả năng và điều kiện đi chiến trường - “đi B”. Sau chuyến đi của nhà văn Thanh Giang, nhà thơ Thu Bồn...là chuyến đi của Nguyễn Ngọc Tấn (Nguyễn Thi –Nhà văn, Liệt sĩ, Anh hùng LLVTND), Nguyên Ngọc... Đây là những nhà văn đi B. đầu tiên. Tiếp đó, lần lượt là những chuyến đi “B dài” của Văn Phác (Tám Trần - Chủ nhiệm Tạp chí VNQĐ, sau từng đảm nhiệm các chức vụ Thiếu tướng Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, Bộ trưởng Bộ Văn hóa), Nam Hà (Trúc Hà), Nguyễn Trọng Oánh (Nguyễn Thành Vân), Lưu Trùng Dương...- những nhà văn sau này là yếu nhân của các tờ tạp chí Văn nghệ Quân Gỉải phóng và Văn nghệ Quân Gỉải phóng Trung Trung bộ và Hội Văn nghệ Giải phóng.
Trong một hồi ức có tên “Thời cầm súng, cầm bút”, nhà văn Thanh Giang nhớ lại: “ Bất ngờ Tổng cục Chính trị quân đội gọi tôi từ sư đoàn 330 về cho học lớp bổ túc cán bộ tuyên huấn. Từ chế độ ăn, đến chương trình học, chúng tôi nhận ra lãnh đạo trang bị cho mình khá bài bản để rồi sẽ giao nhiệm vụ đặc biệt gì. Sau khi mãn lớp tuyên huấn, số anh em bạn viết chúng tôi (trong đó có Thu Bồn) được đưa về ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, để “bồi dưỡng” kinh nghiệm viết văn, làm báo với các anh nhà văn quân đội. Xong phần nghiệp vụ, Chủ nhiệm tạp chí VNQĐ Văn Phác “làm công tác tư tưởng” chúng tôi về ý chí và vai trò, trách nhiệm đối với chiến trường miền Nam đang yêu cầu. Đây là một kỉ niệm có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đời văn nghiệp của mình. Khuya ngày 22 tháng 12 năm 1961, đoàn chúng tôi lên xe, phủ vải bạt bịt bùng, rời Thủ đô Hà Nội thân yêu! Thanh Giang được gởi đi ghép với khung một trung đoàn về chiến trường Nam Bộ. Thu Bồn đi sau với đoàn về Khu 5. Đường Trường Sơn mùa đông, chúng tôi đi trong mưa mù dầm dề ẩm ướt. Phải nói, những ngày đầu ấy gian khổ hơn là ác liệt; gian khổ đến mức phải vận dụng ý chí mới vượt nổi Trường Sơn! Trường Sơn chưa có đường mòn!…”
Tạp chí Văn nghệ Quân Giải phòng 1962 – 1976 (ra được 35 số) là nơi tập hợp, giới thiệu tác phẩm của các cây bút khắp chiến trường miền Nam và nhiều người sau này thành những nhà văn chuyên nghiệp. Cũng trong hồi ức vừa nêu, nhà văn Thanh Giang nhớ về những ngày làm tờ Văn nghệ Quân Giải phóng như sau: “ Tháng 8 -1962, tại khu rừng Bời Lời, tạp chí Văn nghệ Giải phóng quân số đầu tiên chào đời, rập khuôn gần y chang tạp chí Văn nghệ Quân đội. (Hồi nầy còn theo cách gọi của Trung Quốc, đặt chữ “quân” đằng sau; mãi đến số 18 mới đổi là Văn nghệ Quân giải phóng (VNQGP). Với số lượng in 2.000 cuốn, phát hành đến bộ đội Miền, các Quân khu bộ, các cơ quan quanh Bộ tư lệnh và gửi tặng Hà Nội. Đáp ứng “món ăn tinh thần”, bộ đội gửi thư hoan hô rồi lai rai có bài gởi về, đó là phần thưởng lớn lao và niềm sướng vui nữa là được nghe đài Hà Nội phát những bài in trong tạp chí...Đang chuẩn bị ra số 2, nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn từ Văn nghệ Quân đội về tới! Trên cơ sở “viên gạch đầu tiên”, Tấn như “cây cột cái”, gom “bộ tam” cùng Võ Trần Nhã và Thanh Giang, hình thành “tòa soạn” tạp chí Văn nghệ Quân Gỉai phóng, mang phiên hiệu A.6, cất mái nhà ra riêng... Bài viết trong VNQGP số 2, Nguyễn Ngọc Tấn lần đầu ký bút danh Nguyễn Thi, tức tên con trai của anh. Tạp chí số 2 lên trang vừa xong, chiến thắng Ấp Bắc nổ ra, Tấn cho bổ sung nội dung, bảo: “làm báo là phải nhảy cao, đá lẹ”. Nghe tin giao ban, Võ Trần Nhã viết ký: Lá thư Ấp Bắc, Thanh Giang làm thơ, Tấn vẽ bìa, viết tùy bút…Tạp chí số 2 in xong, Tấn và Nhã lập tức đi chiến trường Ấp Bắc, rồi vượt lộ 4, thâm nhập vùng Long Trung, Ba Dừa. Thanh Giang “thủ trại”: lo bài cho số tới, lo chống càn, xây cứ, tải gạo, sản xuất…”
Nguồn “nhân tài” của lực lượng viết văn Quân Gỉải phóng là: từ Bắc điều vào, từ các đơn vị gọi lên và nhất là từ các trại viết văn do Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Miền Nam tổ chức. Nhà văn liệt sĩ – Anh hùng LLVT Nguyễn Thi cùng với các nhà văn của tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng đã tổ chức nhiều trại viết để bồi dưỡng cho các cây bút trẻ. Theo nhà văn Anh Đức, người vào miền Nam từ rất sớm thì Nguyễn Thi là người kết nối rất chặt với các cây bút ở đơn vị cơ sở và các nhà văn ở Hội Văn nghệ Giải phóng. Nguyễn Thi quan niệm dù ở chiến trường bom đạn khốc liệt vẫn cần có sự giao lưu giữa các nhà văn để tạo ra môi trường và không khí sáng tác. Sinh thời, chính Nguyễn Thi đã đề xuất với Cục chính trị Miền, kết hợp với Hội Văn nghệ Giải phóng mở trại viết văn đầu tiên ở Nam Bộ. Trên trang cá nhân của mình, trong bài “Nhớ về một trại viết thời chiến tranh”, nhà văn Hào Vũ viết: “Vào năm 1972, từ chiến trường Long An tôi được gọi lên rừng miền Đông, lúc ấy gọi là “R” , dự trại. Lần thứ 2 là vào năm 1974. Cũng vẫn tại địa điểm cũ, trong rừng. Một cái lán lớn mái lợp lá trung quân, là nhà bếp, nhà ăn của anh em trong Tạp chí, cũng là của các trại viên mỗi khi dự trại. Xung quanh là những cái lán nhỏ mái lợp lá trung quân, không vách, không giường, chỉ có cột giăng võng, thường là hai chiếc cho hai người. Ở khoảng trống giữa hai chiếc võng là một cái bàn nhỏ, mặt bàn là những thân cây tròn nhỏ ghép lại, ghế ngồi cũng là thân cây ghép thành, chân bàn, ghế đóng luôn xuống đất. Đó là các phòng riêng dành cho các trại viên nằm, ngồi để sáng tác. Hẳn nhiên căn cứ của Tạp chí cùng nơi ở chính thức của anh em làm việc trong Tạp chí thì chúng tôi không được phép “mò” vào...”. Nhiều nhà văn có mặt trong các trại viết bấy giờ còn cho biết, dù trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng chương trình làm việc khá là khoa học. Sau khi nộp đề cương hoặc bản thảo cho trại, các nhà văn Trần Ninh Hồ, Triệu Bôn (phụ trách văn xuôi, nhà văn Thanh Giang (thơ)... sẽ trao đổi trực tiếp với từng trại viên. Sau đó anh em sửa chữa, lại đọc tiếp, thấy được, cán bộ hướng dẫn sẽ nộp lên “thày” Nguyễn Trọng Oánh và nghe ông phê bình hay “khuyên đỏ” tùy theo chất lượng. Chữ “ khuyên đỏ” là do Tổng biên tập Tạp chí VNQGP nói. Nhà văn đàn anh này còn giải thích thêm là, ngày xưa, các cụ đồ Nho, đọc thơ văn, chỗ nào hay thì khuyên đỏ, ( khoanh một vòng tròn nhỏ như cái khuyên tai, màu đỏ bên cạnh) Trại còn có một thông lệ trao đổi nghiệp vụ rất đặc biệt tại “hội trường” rất thú vị và hiệu quả!
Qua các trại viết, người viết về với Văn nghệ Quân Gỉải phóng ngày một thêm đông. Bạn viết từ các đơn vị về, “nở nồi” thành hai cụm nhà, chia hai bộ phận. Bộ phận “vòng trong” là khung tạp chí, bộ phận “vòng ngoài” là trại viết. Khá nhiều trại viên triển vọng như: Phùng Khắc Bắc, Thái Vượng, Lê Văn Vọng, Xuân An, Trùng Khánh , Hào Vũ, Nguyên Nam, Nguyễn Ngọc Mộc, Hoàng Đình Quang, Vũ Hòa… đã có mặt.
Thời gian, tạp chí Văn nghệ Quân Gỉai phóng mở trại viết cũng là thời gian diễn ra các Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua toàn Miền. Ngoài những người viết của quân đội quen biết như: Cửu Long với tùy bút dài: Anh hùng và chân lý; Xuân Huy viết Trỗi dậy (về Võ Thị Huynh) ; Thanh Giang viết Ước mơ tuổi trẻ (về Nguyễn Thị Phúc); Phùng Khắc Bắc với Một ngày giữ chốt (viết về đại đội 11 - đơn vị Anh hùng); Vũ Hòa với Một đêm trên bãi nhận hàng (viết về tiểu đoàn vận tải 49 - đơn vị Anh hùng); Nguyễn Vân Anh với Người chỉ huy trẻ (viết về chiến sĩ thi đua Phan Trung Thứ); Đức Hậu với Lửa trên vai (viết về Anh hùng Phan Công Nam; Văn Lê với trường ca Những người ở Rừng Sát (viết về Đội Năm đơn vị Anh hùng) và Trần Mạnh Hảo với Đôi mắt trận đánh (viết về Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn O)…Cùng với những tác phẩm nổi tiến khác sau Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn Miền lần thứ nhất như Người mẹ cầm súng (Nguyễn Thi, viết về chị Út Tịch), Mỗi viên đạn một quân thù (Minh Khoa viết về Huỳnh Đảnh); Lá cờ Hê-rôn. (Võ Trần Nhã viết về Nguyễn Minh Tua); Đánh trong lòng địch (Thanh Giang viết về Hồ Văn Bé); Con chim đầu đàn (Anh Đức viết về Pi-năng-tắc) ; Giữ đất (Lê Anh Xuân viết về Nguyễn Văn Tư); Người con gái Bến Tre (Như Băng viết về Tạ Thị Kiều); Rừng núi diệt thù ( Đinh Phong viết về anh hùng Hồ Vai)...những trang viết của những cây bút trẻ này đã được đông đảo bạn đọc khắp nước chào đón nồng nhiệt; đồng thời, chính những tác phẩm này đã góp phần không nhỏ động viên, cổ vũ, khích lệ lòng yêu nước của đồng bào chiến sĩ ra chiến trường, giết giặc cứu nước.
Văn nghệ Quân giải phóng không chỉ là một trong những cái nôi đào tạo các cây bút trẻ mà còn là chiến trường đầy gian khổ hy sinh. Khi còn sống, mỗi khi nhắc về một thời cầm súng cầm bút, nhà văn Thanh Giang thường ngậm ngùi nhắc tới những người đồng chí, đồng nghiệp của mình đã hy sinh – hy sinh một cách lẫm liệt và bi hùng. Ông gọi đó là “Những hồn văn Quân Gỉải phóng” . Ông viết: “Tháng 4/1968, Nguyễn Trọng Oánh và Thanh Giang về tới cơ quan bấy giờ mới được tin dữ từ phân khu 2 điện về: Nguyễn Ngọc Tấn hy sinh! Thế là sau Mậu Thân 1968, A.6 hy sinh bốn người: Họa sĩ Thu, Bé Nghiệp, Trúc Chi và Nguyễn Ngọc Tấn! Còn Thanh Giang và Võ Trần Nhã bị thương. Biết đạn bom sẽ hủy diệt, Oánh và Giang soạn trong hai thùng thiếc tư liệu của Tấn, chọn hằng chục tập ghi chép chữ lít nhít, trong đó có bản thảo 3 chương tiểu thuyết Ở xã Trung Nghĩa, truyện anh hùng Ước mơ của đất (phần một), 2 truyện ký: Cô gái đất Ba Dừa và Sen trong đồng… đóng thành hai gói to, chuyển ra Hà Nội cho Văn nghệ Qân đội” (Thanh Giang bài đã dẫn)
Và, nhớ về “cái thưở ban đầu cầm bútchưa xa kia, nhà văn Hào Vũ bày tỏ: “...Từ trại viết ấy, các trại viên trở về đơn vị, với những gì thu lượm được,tiếp tục học hỏi, sáng tác. Rồi hòa bình, nhiều người trong số họ vẫn say mê sáng tác, tự học thêm qua sách báo, qua đồng nghiệp, có người tu luyện tại trường đại học viết văn Nguyễn Du. Nhiều người trở thành hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, góp phần xứng đáng của mình vào thành tựu chung của văn học nước nhà. Có thể kể ra đây những cái tên trưởng thành từ trại sáng tác Lộc Ninh như: Văn Lê, Trần Mạnh Hảo, Lê Văn Vọng, Nguyễn Ngọc Mộc… Và tất cả chúng tôi, khi nhắc đến trại sáng tác ấy , lại rưng rưng nhớ về nhà văn Nguyễn Trọng Oánh, người thầy, người đồng nghiệp, người anh tận tình, chu đáo!”
Nguồn Văn nghệ