Tìm tòi thể nghiệm

25/2
4:17 PM 2018

HOÀNG XUÂN TUYỀN:TÌM MỚI CÁI NÊN THƠ

Vũ Quần Phương-Tập thơ mang tên một khái niệm: Tự do. Đây không phải tự do triết học, trong cặp phạm trù tự do và tất yếu. Đây là tự do dân sự, là giới hạn quyền lực của cá nhân trong các quy ước của cộng đồng. Từ những dòng tôi vừa viết, chắc các bạn đọc quen thuộc của thơ thấy có gì ngờ ngợ.

Lật lại bìa sách, quả có ghi thể loại: thơ. Đọc vào bài đầu tiên, Đọc Chế Lan Viên, bài thơ 11 dòng, có một dòng tám chữ, còn toàn là các dòng ngắn, hai chữ, ba chữ, bốn chữ. Bài thơ kiệm lời, 38 đơn vị từ, không đơn vị nào trực tiếp dính tới nhân thân Chế Lan Viên. Dám chắc người quản lý hồ sơ cán bộ Chế Lan Viên không nhận ra tiểu sử ông nhà thơ. Nhưng ai quen đọc Chế Lan Viên hay học sinh phổ thông trung học mà không chán học môn văn, thì nhận ra được. Nhận ra bằng ngữ nghĩa của thơ. Tôi xin được chép (liền dòng, xuống dòng là cách đoạn) cả bài thơ ra đây:

Không hình hài / linh hồn biết trú đâu trong dương gian / mà hiện hữu?

Hình hài đây / Người tìm lại / đây rồi!

Thơ mải chơi / ai tiếp lời để gọi: / Hồn lạc đâu / về nhập / nước non ơi?

Đoạn I, đi tìm hình hài cho hồn vía có nơi trú ngụ

Đoạn II, tìm được hình hài rồi

Đoạn III, nhưng lại chưa kịp gọi hồn về, xin ai đó gọi giúp cho hồn về. Ba chữ cuối nước non ơi như một thứ chìa khóa cho người giải mật mã. Nhờ thế, người đọc chợt nhớ ra bài thơ Người đi tìm hình của nước, in trong tập Ánh sáng và phù sa thuộc chặng 1955-1960 của Chế Lan Viên. Chế Lan Viên từng được nhiều nhà phê bình tôn vinh là nhà thơ trí tuệ, ông có ngần ngại với danh vị này, ông nói: nghe cứ như anh đeo kính trắng gọng vàng(!) Nhưng đó là một tôn vinh có lý. Chế Lan Viên không ưa lối bộc lộ cảm nghĩ bề mặt, dù có nhân danh chân thực, bao giờ ông cũng tìm cách lặn sâu hơn vào bản chất thực tại. Sự tích Bác Hồ rời đất nước năm 1911 ở bến nhà Rồng, báo chí nước ta, từ 1945, nói nhiều, hầu hết dân ta đã biết. Bài thơ nói về sự tích ấy, nhưng cái tên bài, buộc người đọc phải nghĩ: Người đi tìm hình của nước. Sao lại tìm hình? Phải chăng đất nước đấy rồi đẹp vô cùng, bờ bãi, làng xóm, bóng những hàng tre… rồi dấu vết của Đinh Lý Trần Lê còn đó. Nhưng điều Bác Hồ tìm: dân ta sẽ sống sao đây, cờ sẽ ra sao, tiếng hát sẽ ra sao? Lượng thông tin tìm đường cứu nước được thơ cụ thể và chi tiết hóa. Những thông tin ấy đụng vào nhận thức: Tìm hình của nước, tìm dạng thức tồn tại của đất nước: Thuộc địa hay độc lập? quân chủ hay cộng hòa? Bác tìm và đã gặp ấy là khi Bác đọc Luận cương của Lênin với vấn đề giải phóng thuộc địa. Tôi tiếc rằng trong sách giáo khoa trung học ít lưu ý đến cái đầu đề bài thơ này. Nhưng Hoàng Xuân Tuyền thì lưu ý và anh dùng nó làm cái trục để phát triển thành tứ bài thơ của mình. Tôi nói Hoàng Xuân Tuyền phát triển ý thơ Chế Lan Viên vì đoạn III trong bài thơ ngắn và hẹp của anh đã thoát ra ngoài bài thơ dài và rộng của Chế Lan Viên. Chế Lan Viên ở đoạn kết đã giải quyết vấn đề đặt ra ở đầu bài: Người đi tìm hình của nước, khi tả nơi địa đầu biên giới Cao Bằng: Kìa bóng Bác đang hôn lên hòn đất / Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai. Bài thơ đàn anh kết thúc ở đó. Hoàng Xuân Tuyền còn thêm đoạn III, ấy là đoạn gọi hồn về để nhập vào hình. Người gọi sẽ là ai đây? Cái dấu hỏi (?) sau nước non ơi là để hỏi cho chữ ai (ai tiếp lời để gọi). Phải nói tỉ mỉ ra thế bởi câu hỏi ai này có ý nghĩa với người đương thời và cũng để thấy trong bút pháp, Hoàng Xuân Tuyền khá chặt chẽ khi lập ý. Và có chặt chẽ, mới tạo nên hàm súc - hàm súc về tình, ý, cảnh, ngôn ngữ để tạo nên chất thơ ở chỗ ngỡ không thơ. Chất thơ nằm ở chỗ di thực một vấn đề dân nước của quá khứ vào mối quan tâm hôm nay của toàn dân. Một số bậc thức giả gần đây có ôn lại phương châm cách mạng của Phan Chu Trinh về dân trí, dân khí ,dân sinh, tôi nghĩ, cũng nằm trong chủ đề này.

Trong ba chục năm qua, cùng với quốc sách Đổi mới, việc mở rộng phương pháp sáng tác của mọi loại hình nghệ thuật thành mối quan tâm lớn nhất trong giới viết và cả trong bạn đọc. Một số thiên về hình thức thể hiện, làm mới vóc dáng bài thơ, câu thơ. Một số khác, và đây mới là điều cần chú ý, đổi mới về nhận thức, về cảm xúc, tìm ra phẩm chất mới của cái nên thơ, nghĩa là chất thơ mới của cuộc sống. Hồi Cụ Hồ viết Nhật ký trong tù, cái nên thơ từ mây gió trăng hoa tuyết núi sông đã mở sang chất thép của hành động biết xung phong của nhà thơ. Ngày nay chất thơ còn tràn ra hơn thế. Ở nơi đâu con người cá thể phát triển khả năng làm lợi cho cộng đồng thì nơi ấy có thơ. Đọc Hoàng Xuân Tuyền, tôi dám chắc, không ít bạn đọc sẽ phân vân về cái nên thơ ở tập Tự do này. Có trừu tượng quá không? Có duy lý quá không? Cảm xúc lách vào đâu? Trữ tình ẩn nơi đâu? Rồi phần chủ thể của tác giả - Nó đâu? Những câu hỏi này không khó để trả lời. Tuy nhiên để trả lời thuyết phục lại không dễ. Cần những thay đổi từ trong quan niệm. Tôi nhớ cách đây hơn bốn chục năm, anh Việt Phương, tác giả tập thơ Cửa mở đang ồn ào hồi đó, có một nhận xét ít được chú ý nhưng riêng tôi, tôi ghi nhận để ngẫm nghĩ và thấy anh có lý. Việt Phương nói (đại ý): Thơ chúng ta có nhược điểm là lún vào vũng bùn tình cảm lâu quá. Quả là nhiều nhà thơ đã nghĩ: thơ là tiếng nói của tình cảm. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Còn tiếng nói của nhận thức nữa chứ. Càng về sau đòi hỏi ấy càng trở nên quan trọng. Tình cảm của thơ là tình cảm trí tuệ và trí tuệ của thơ là trí tuệ thu nhận qua kênh tình cảm. Thơ hiện đại Viêt Nam, tính từ chủ nghĩa lãng mạn (1930) đến nay, sự tiến lên của thơ đồng hành với sự phát triển của phẩm chất trí tuệ trong thơ. Mỗi lần thơ vượt qua khuôn vần điệu là một lần thơ mở rộng dung lượng khám phá hiện thực và đậm đặc thêm mật độ trí tuệ. Và chính dung lượng ấy cùng với mật độ ấy tạo nên phẩm chất thơ có sức bám vào trí nhớ người đọc (thay cho sức bám của vần điệu). Câu thơ Văn Cao 1956: Tất cả tình yêu khát khao hi vọng / Bốc lên trong lòng / Rơi xuống những giọt nước mắt đầy sức ám ảnh tâm trí, đọc rồi khó mà quên được, dù nó không vần. Người ta nhớ một bốc lên, rồi rơi xuống của tình yêu, của khát khao, của hi vọng, mà bốc lên thì còn giấu trong lòng mà rơi xuống thì hiện ra những giọt nước mắt. Nếu so với câu ca dao chúng ta được học trong nhà trường lúc bé mà đến nay hầu hết còn nhớ Hỡi cô tát nước bên đàng / Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi. Sức bám vào trí nhớ của câu ca này có sự giúp sức của vần điệu lục bát cùng với vẻ đẹp trữ tình thanh bình của đời sống lam làm nơi ruộng đồng, quê cảnh. Câu thơ Văn Cao từ chối lợi thế ấy, nó tác động vào ta bằng sức chiêm nghiệm việc đời của một người cả nghĩ. Rộng (tình yêu - khát khao - hi vọng) và sâu (bốc lên rơi xuống - hai động tác - hai giai đoạn của một đời người và cũng là hai thế giới của nhân loại). Nó tác động vào ta bằng nghĩ ngợi, nghĩ rồi thì thành tình cảm, một tình cảm có chiều sâu trí tuệ. Ba công đoạn thấy - nghĩ - cảm xúc, thơ thời nào chả phải đi qua, nhưng thứ tự tác động có thể khác nhau và trường độ mỗi chặng cũng khác nhau. Thơ cổ điển, công đoạn nghĩ thường ẩn giấu hoặc lộ ra rất ngắn, dành chỗ cho cảm xúc tác động. Lý Bạch: Ngẩng đầu ngắm trăng sáng / Cúi đầu nhớ cố hương. Hai tư thế ngẩng đầu - cúi đầu. Hai cảm xúc ngắm trăng sáng - nhớ cố hương. Công đoạn nghĩ ngợi người xưa không muốn thơ để lộ, ở bài này nó giấu trong tư thế cúi đầu. Đây là chỗ tinh diệu của những tài năng cổ điển. Xin mở một ngoặc đơn: khi Xuân Diệu chữa câu thơ Huy Cận trong bản thào Trên thành son nhạt chiều tê tái sầu thành Trên thành son nhạt - Chiều tê cúi đầu… là Xuân Diệu đã biến câu thơ mặt phẳng (tả hiện tại) thành câu thơ có chiều sâu thứ ba: nỗi lòng người nghĩ ngợi, chiêm nghiệm. Đấy thành tựu thi pháp của chủ nghĩa cổ điển. Hoàng Xuân Tuyền trong tập thơ này khá rõ một ý đình tìm chất thơ bằng tác động vào trí tuệ, dồn người đọc vào sự nghĩ ngợi để đạt tới nhận thức bản chất của hiện thực và từ đó, nảy sinh thái độ ứng xử với nó, nghĩa là nảy sinh tình cảm. Chỗ anh không muốn để lộ lại là công đoạn Tình cảm, vốn được nhiều người coi là chỗ đến của thơ. Một nhà thơ lớp đàn anh đã thân ái nhận xét: Tuyền còn cách chừng này nữa mới đến thơ. Vừa nói anh vừa đưa hai bàn tay ra làm ngữ, khoảng bốn mươi xăng ti mét. Tôi áng thế. 40cm so với chiều cao mét bảy của Tuyền thì cũng còn tốn nhiều cơm gạo (!). Tôi không dám cãi nhận xét của nhà thơ ấy. Nhưng tôi nghĩ khác. Tôi lại thấy Hoàng Xuân Tuyền đã đến thơ rồi.(Không phải đi thêm cái đoạn bốn mươi xăng ti mét nào nữa). Vậy thơ, chính xác hơn là cái nên thơ của Hoàng Xuân Tuyền là ở đâu.

Qua hai cuộc kháng chiến, nền thơ Việt đã nỗ lực tìm thơ trong chất thép, Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy. Vai trò bản lĩnh tác giả hay sự dấn thân đã thành điều tiên quyết. Thời W. Shakespeare (1564-1616), người ta còn do dự 50-50, tồn tại hay không tồn tại, thì bây giờ Jacques Prevert (1900-1977) khẳng định: tồn tại ở ngay nơi không tồn tại (Trong tiếng Pháp, đọc như nhau, viết chỉ khác nhau cái dấu huyền trên chữ ou : être ou ne pas être thành être où ne pas être). Hoàng Xuân Tuyền hình như cũng muốn tìm thơ ở chỗ người ta quen nghĩ là không thơ hay ít nhất còn cách thơ « bốn mươi xăng ti mét ». Tôi xin phép trình ra đây trọn vẹn bài thơ Hà nội 2015, ở trang 37, làm tang chứng. Xin chép liền dòng, xuống dòng là cách đoạn:

1.Chú bé đánh giày / thêm chàng trai đánh giày / thêm ông cụ đánh giày /mép phố.

Bà cụ trà chén/thêm cô em trà chén/thêm bé gái trà chén/vỉa hè.

Thăng Long/1005 tuổi.

2.Bà cụ trà chén lập cập tập đánh giày. Chú bé đánh giày/mấy bữa nay/chắc mỏi chân đi/ngồi lì/ngóng khách đánh giày, lóc cóc học bán thêm/trà chén.

3.Cuộc sống :/-Tái cấu trúc nghề đánh giày trên phố/đội ngũ gia tăng/độ tuổi hành nghề gia tăng;/ -Tái cấu trúc nghề bán trà chén vỉa hè/đội ngũ gia tăng/độ tuổi hành nghề gia giảm.

4.Sự sống:- Tự tìm đường sống/ Hà Nội, năm 2015.

Quả thật giọng thơ như văn nhật trình loại xoàng vì đầy trùng lặp và đơn điệu. Không một chữ, một hình ảnh, một nhịp điệu nào gợi cảm, nhưng người đọc lại không thể thờ ơ. Những chỗ tưởng như vụng về, đơn điệu thì lại đầy dụng ý. Như hai khổ của đoạn một nói hai nghề ở hai địa điểm vỉa hèmép phố. Sự giống và sự khác ấy được phân tích trong đoạn 3. Đoạn 2 nói sự nỗ lực của con người và tình thế kinh tế. Đáng lưu ý, ở đoạn 3, những khái niệm kinh tế như tái cấu trúc, như đội ngũ làm nghề, độ tuổi hành nghề được vận dụng vào đây như văn báo cáo khô lạnh lại hàm chứa tính biểu cảm. Nghĩ ngợi một chút, hóm hỉnh một chút, là thấy ngay tác giả đã đến chỗ có thơ, đã tạo nên chất trữ tình dào dạt trong lòng người. Nếu nệ theo lối đọc cũ, thì vẫn ngơ ngác, ngơ ngác đến hết bài và bực mình vì thơ còn ở tận đâu. Cái kết nghiêm chỉnh trở lại với lý tưởng của bài thơ, khâm phục sự tìm đường của sự sống nuôi người. Riêng tôi, cũng là một người làm thơ, tôi phục sự tiết kiệm thi liệu, tiết kiệm chữ nghĩa, tiết kiệm cả hình ảnh của bài thơ này. Tiết kiệm mà lại phong phú, chỉ đảo vị trí chữ mà sinh khái niệm mới, nội dung mới. Rất tài tình. Cái hài hước lại nằm ngay chỗ ngự trị của cái nghiêm chỉnh tái cấu trúc. Tình cảm nảy sinh từ đó và cộng hưởng với toàn bài, với những ý trước nó và sau nó.

Ở tập thơ này, Hoàng Xuân Tuyền tự giao cho mình một nhiệm vụ cheo leo là tìm thơ ở chỗ ít khi thơ trú ngụ. Ấy là lĩnh vực của kinh tế, hành chính, chính trị. Có bài tìm thơ ở chỗ biện giải về tự do, về dân chủ. Nếu ai đã lĩnh hội khái niệm tự do qua ý tưởng của John Stuart Mill thì sẽ có cái thích thú rằng: thế ra với bài thơ được đặt tên là Lục bát tự do tếu táo này mình cũng có thể hiểu được tiêu chí để chiếm lĩnh tự do. Tuyền đã cố định hóa cái chân lý  tự do, cứ lẩn như trạch này, bằng cách so sánh nó với việc làm thơ lục bát. Lục bát, với bà con ta, là thể thơ dễ làm, có người nói thêm nhưng khó hay. Cái khó ấy tôi không bàn ở đây. Tôi chỉ muốn nói nó dễ làm đến nỗi nhà thơ Nguyễn Đình Thi nhận ra người Việt Nam làm thơ lục bát như hít thở. Câu lục ngắn là hít vào, câu tám dài là thở ra. Hít thở thì chả cần học mà ai cũng biết. Lục bát thì cứ nói ra là thành Nhà nhà nhắc nhở nhà nhà, Bảo nhau đừng đổ rác ra ngoài đường. Có người hứng chí đã định làm đơn yêu cầu Quốc hội phong lục bát làm quốc thi (!). Người sính thơ nước ta đằm trong lục bát thì như cá bơi trong nước, không gì cản trở được, tự do lắm. Tuyền lấy cái tung tẩy khi làm thơ lục bát để luận về tự do. Tự do nào ! Tự do nào ! câu thơ mở đầu và thành điệp khúc làm xương sống cho nhiều đoạn thơ ở sau, như một tiếng reo phởn chí gọi đám đông vào cuộc. Lấy cái đông làm khí thế, làm sức mạnh áp đảo, không phải nghĩ ngợi gì nữa, lợi thế đứt đuôi rồi. Vô tư đi. Nhưng cuộc đời lại không dễ thế. Để dùng được cái gọi là tự do lại phải có khuôn phép, có lộ trình. Cậy đông mà ào vào thì chính cái đám đông lại làm mất tự do cho tất cả, như làm thơ lục bát thấy dễ dãi quá thì cũng nên kiểm tra xem, khéo nó đã thành vè. Tưởng rằng trí tuệ có thừa/ Kỳ tình lú lẫn ngu ngơ đứng đầu. Bài thơ dàn ra nhiều tình huống tự do, và sau mỗi tình huống thuận lợi ấy lại là một nguy cơ. Tự do ngồi đáy giếng để  hé mắt ếch coi trời bằng vung, cũng oai, nhưng lợi ích gì?.. Tự do thét tự do gào cũng là thể hiện của tự do, nhưng thét gào xong thì làm gì hay lại lò dò bước thấp bước cao để tìm đường. Rồi tự do dựa dẫm, tự do ảo tưởng cây ngát hương xanh, quả ngọt đầu cành chiêm bao… Nhiều tình huống nghịch lý lắm, tràng giang đại hải linh tinh, kể không hết được. Thấy đủ hình tượng cho nhận thức tự do, đủ cảm xúc để hình thành tình cảm thì kết thúc. Bài thơ này còn như một thí dụ về hai thao tác tư duy của con người. Đây là thao tác tư duy của nghệ thuật, của thơ, nó cần tính cụ thể, ấy là các tình huống thực thi tự do mà tác giả hư cấu như các tình huống trong sự làm thơ lục bát. Kiểu tư duy này vốn không thuận cho bình luận các khái niệm như tự do, dân chủ, độc lập…Các khái niệm ấy giúp cho phương pháp tư duy trừu tượng đạt nhanh đến chân lý nhưng lại không có sức gợi cảm xúc nghĩa là không thành thơ. Ở đây nếu trừu tượng hóa, như các nhà khoa học xã hội, thì chỉ cần dùng cặp phạm trù tự do và dân chủ mà biện luận. Tự do mà thiếu sự trưởng thành về dân chủ sẽ thành cá lớn nuốt cá bé, thành luật rừng mạnh được yếu thua và chung cục là tàn phá tự do, biến tự do thành ảo tưởng. Còn nếu chỉ máy móc dân chủ cũng dễ thành chủ nghĩa bình quân cực đoan, cào bằng mọi năng lực dẫn tới hủy diệt sáng tạo, hủy diệt tự do. Biện luận kiểu ấy giúp cho nhận thức nhưng chưa đủ tạo cảm xúc, tạo rung động mang tính nghệ thuật, giúp người đọc có thể thẩm thấu quy luật của tự do một cách trực giác.

Chất thơ do Hoàng Xuân Tuyền mang lại, mới chỉ qua hai bài thơ vừa nói, đã cho thấy có một sự khác lạ. Anh không cho thơ gợi cảm bằng ngôn ngữ hay cảm xúc mà gợi cảm bằng tình huống. Ở bài trên anh dùng tình huống của hai nghề mọn là bán trà chén và đánh giày ngoài hè phố để chẩn đoán sức khỏe nền kinh tế. Việc vận dụng những khái niêm kinh tế to lớn oai vệ và khô lạnh đầy tính khái quát ở đây tạo nên tính hài hước của sự ngụy biện. Ấy là chất thơ, là chất làm mê đắm người đọc và từ trạng thái mê đắm ấy mà đạt đến sự tỉnh táo của nhận thức. Ở bài dưới thì bám vào việc làm thơ lục bát đang thành một trào lưu phổ cập trong công chúng yêu thơ để bàn về phạm trù tự do, một chủ đề văn hóa rất dễ bẫy người ta vào tư duy trừu tượng. Hoàng Xuân Tuyền cụ thể hóa phạm trù tự do trong những tình huống làm thơ. Vị hài hước mang tính thơ gợi nên từ tình huống chứ không phải từ ngôn ngữ. Ngôn ngữ nói phía này nhưng lại tác động vào phía khác. Ấy là chất thơ của tập thơ này và là một tìm tòi, một thể nghiệm của người viết

Bài thơ Đại lộ cũng là một tình huống tự do. Ấy là tự do của con trâu đi vào đường cao tốc

Quý cô trâu, quý bà trâu thân mến!/ đây-đường cao tốc lên khu công nghệ cao (…)/ dù đi đâu về đâu xin gọn đít lồng bàn/ cho xe tôi qua với

Ấy là dân chủ, theo cách hiểu của trâu trong thế giới phẳng tân kỳ hiện đại này:

Píp píp/ kính bà trâu nguyên là đầu cơ nghiệp/Thưa ông trâu cựu chủ đạo kéo cày/Thế giới phẳng chúng mình cùng tiến bước/ Lối văn minh không đi đứng thế này.

Bài thơ có giọng thân ái với ông bà trâu cản trở giao thông, vì nghĩ cho cùng, tình trạng ấy lại là quy luật, trâu chưa được tập dượt sử dụng đường cao tốc, trâu vốn quen với đường làng cỏ dại với rơm khô. Tác giả ghi nhận một hiện tượng. Bực nhưng không cáu. Cáu với ai? Với chính mình à. Lỗi đầu bảng không phải trâu mà có khi lại là mình: Thôi thì hát váng trời câu nghé ọ / Trâu là ai mà ai cũng là ta ? Câu thơ cuối bài này chưa khẳng định, nó còn cái dấu hỏi tận cùng kia mà. Thái độ nghi vấn này làm đầy đặn cho chất thơ của chủ đề này. Hoàng Xuân Tuyền tỏ ra rất tỉ mỉ trong các câu thơ ngỡ như phóng túng. Bài Hà Nội 2015, anh tự hạn chế mình trong một lượng ngôn ngữ rất hạn hẹp. Nếu coi ngôn ngữ là nhiên liệu tạo nên năng lượng của thơ, thì ở bài này tác giả tiết kiệm nguyên liệu đến tối đa mà thơ đánh thức cả một vùng nghĩ ngợi và liên tưởng rộng. Cái nên thơ cũng là ở đó nữa. Sáng tạo trong thủ pháp cấu tứ tạo hào hứng cho bạn đọc và có tác động cộng hưởng vào chủ đề thơ. Có bài chỉ thoáng như một nhận xét nhỏ nhưng lại có dư âm ngân nga trong tâm trí. Bài Tuyệt kỹ, thật ra chỉ là bốn câu, tổng cộng 26 chữ (6-6-6-8). Hai câu cuối 6/8 đã là một cặp lục bát rồi, làm vai trò kết bài, nêu cái chung cục tất yếu, không bàn cãi Thì bị thì gậy thì đi ăn mày của cái nguyên nhân ở hai câu 6 phía trên, viết san ra làm bốn dòng. Phải san ra mới thấy hết cái mưu mẹo trịnh trọng, hoành tráng rất hồn nhiên và cũng rất vô tư của bọn nói dốilàm gian, đồng thời cũng cho thấy mức độ gian dối đã ở cấp vĩ mô biết bao nhiêu! Bài thơ nghiêm như một cảnh báo nhưng thấp thoáng vẫn một nét hài, cười không thành tiếng. Hoàng Xuân Tuyền sở trường  nói bằng tứ hơn là nói bằng lời. Hình ảnh như một biểu tượng nhưng lại gắn với chuyện thực của đời thành ra biểu tượng lại mang nghĩa miêu tả một hiện tượng cụ thể. Như kẻ giãy mà không chết trong một vụ sập mái vòm tòa lâu đài xây ăn gian nguyên vật liệu, xây bằng nước bọt. Nếu vụ ấy được phát giác, ra tòa, có khi kẻ đi tù lại là anh vô tội, một kẻ chết mà không giãy. Không giãy vì tưởng mình vô can. Vô can thì có gì mà phải chạy, phải giãy. Bài thơ còn có một ý ngắm bằng tai cho thấy sức mạnh của công luận và cả cái tác hại của những lời đồn thổi. Bài này nhà thơ đặt tên là Bài thơ không tên. Không tên vì nó không xuất phát từ một đề tài nào. Nhưng lại không gọi là Vô đề như người ta thường đặt. Anh muốn cụ thể hóa cái mái vòm (nào đó) bị sập trong khi nó tác động tới người đọc lại như một biểu tượng. Cách viết ấy tạo nên sự hàm súc và nét ý nhị kín đáo có tính khái quát. Cái nên thơ của Hoàng Xuân Tuyền hình thành nơi bạn đọc từ nhận thức. Ở tập thơ này không gian nhận thức của HXT thiên về văn hóa, với ý nghĩa một lối nghĩ, một nếp sống, một tập tục cộng đồng hoặc những quy ước, quy chế xã hội. Tìm “cái nên thơ” ở phạm trù ấy vốn không dễ. Nó trừu tượng, tư biện sẽ lấn hình tượng…ít tác động vào giác quan, vào trực cảm. Hoàng Xuân Tuyền tự nguyện dấn thân vào cái khó ấy. Anh có ý thức việc mình làm, nhằm đánh thức sự tìm tòi ở từng cá thể bạn đọc tìm cho ra cái chìa khóa mở cửa cho tiến bộ xã hội. Có những bài đã tới đích. Có những bài mới là sự lưu ý. Có những bài phải bàn thêm. Bàn về tự do là một sáng kiến, có cảm hứng thơ, gợi liên hệ rộng. Bàn về dân chủ còn dài lời, anh mới hình ảnh hóa được những lập luận chứ cái lõi tư duy ấy vẫn là tư duy khái niệm. Ở Sự vĩ đại của ngõ cụt, như một minh họa cho lời người xưa cùng tắc biến nhưng lại có phần đơn giản. Chưa đủ tin để thành lời cảnh báo mà cũng chưa đủ thuyết phục để thành lời khuyên đằng sau quay.

 Trong bài Kinh Kha, Hoàng Xuân Tuyền cảm thông nỗi bất đắc chí của người anh hùng lạc thời, khi bạo quyền ngự trị thiên hạ. Kinh Kha có can đảm đi hành thích Tần vương. Việc thất bại. Kinh Kha chết. Sử và thơ nhiều đời đã ca ngợi chí khí Kinh Kha, nhà thơ thời nay giả thiết nếu Kinh Kha hoàn thành việc ấy: Giết Tần vương rồi thì làm gì ? Chả biết làm gì! Tần vương chết, chắc gì bạo quyền đã chết theo. Những câu hỏi nhỏ như tiếng đế trong tích chèo lịch sử ấy đã thành chất thơ của hôm nay. Điều thú vị là anh thường làm bật ra nghịch lý, có khi lật nhào cả tín điều của số đông một thuở. Đã có lúc Hoàng Xuân Tuyển an ủi một con chó bị con người giáng cho một cái đá đau, vô cớ : Ấy chuyện vặt, đừng để bụng / (…) cái giống người / đôi lúc cũng dở dại dở khôn / vàng ạ. An ủi loài chó để tự thấy chỗ chưa hoàn hảo của loài người. Về nguyện vọng đi tìm cái tôi đã mất của một nhà văn cao niên, từng nổi tiếng là người sắc sảo, Hoàng Xuân Tuyền cũng đã góp phần rao vặt tìm của thất lạc hộ ông: ai nhặt được thì cho xin, ai mua được thì cho chuộc ! Nhưng trước đó, nương theo âm vận quốc ngữ của chữ tôi, anh đã lẩm bẩm như bình luận về ông anh mất của : sao chỉ còn cái tối cái tồi cái tội ? (Tôi nhấn mạnh ba chữ -VQP). Thoáng một chút phê phán đấy, dù toàn bài đã đầy cảm thông. Phải phê phán chứ, cái tôi dính vào mình thế mà còn để mất thì liệu giữ được cái gì, mà có khi ông tự vứt đi ấy chứ, ai người ta lấy, mà lấy để làm gì. Nét phê phán mảnh mai ấy là chất thơ do tác giả nhìn ra, thế hệ anh có nội lực để nhìn ra. Đấy cũng là một biểu hiện cách tân trong việc tìm ra cái nên thơ của lớp nhà thơ hình thành sau Đổi mới. Một dạng cách tân, có tiềm lực tác động xã hội, xứng đáng để cất công tìm nó.

22-11-2017

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

-------------------------------------

(2) Tôi nhấn mạnh ba chữ -VQP

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *