Tìm tòi thể nghiệm

19/3
6:04 PM 2018

CUỘC TIẾN CÔNG KỲ LẠ CỦA MỘT ĐẠI ĐỘI

Hoàng Văn Diệu-Trước tết Mậu Thân 1968 khoảng 1 tháng, tôi rời trường huấn luyện cán bộ tiểu đội trưởng của trung đoàn với quyết định phong vượt cấp lên trung đội trưởng (cùng với Nguyễn Sĩ Hùng - người bạn đồng ngũ, đồng hương Thái Bình).

Và trước lúc giao thừa, Chi bộ đại đội 3, tiểu đoàn 60, trung đoàn 1, sư đoàn 2 Quân khu 5 đã làm lễ kết nạp Đảng cho tôi theo nghi thức rất đơn giản ở chiến trường dưới lá cờ nửa xanh nửa đỏ của chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Năm ấy, tết ở miền Nam và miền Bắc chênh nhau 1 ngày. Ngay sau giao thừa, theo kế hoạch, toàn đại đội ào xuống áp sát quận lị Duy Xuyên của Quảng Nam cùng với toàn Miền Nam tổng tấn công thế như chẻ tre. Quận Duy Xuyên được lực lượng đặc công giải phóng rất nhanh. Sáng hôm sau, trung đội tôi chỉ có nhiệm vụ vào thu dọn chiến trường và tiếp tục truy quét địch. Tối mồng 2, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy trung đội nổ súng vào đồn Nam Phước. Nhưng địch ở đây sợ quá đã tự rút lui rồi. Dọc theo hướng xuôi sông Thu Bồn, đơn vị tôi nhận nhiệm vụ đánh thị xã Hội An vào tối mồng 4 tết. Đại đội 3 của tôi làm mũi phụ có nhiệm vụ đánh vào phía nhà máy đèn trong thị xã.

Gọi là một đại đội nhưng thực chất chỉ có hai trung đội đánh vào hướng này; trung đội hỏa lực vẫn phải tăng cường cho tiểu đoàn của tỉnh và một trung đội bộ binh khác của đại đội vẫn phải dự bị ở ngoài… Sau khi vượt qua vành đai trắng, trung đội 2 theo anh Xe đại đội trưởng đi trước, rồi đến anh Nhã chính trị viên và một tiểu đội của tôi, rồi mới đến tôi… Khi đã vượt qua hàng rào thứ 3 trong làn đạn lúc bấy giờ chỉ còn tập trung vào mỗi cửa mở này thì tôi nhận được lệnh của đại đội trưởng điều nốt bộc phá định hướng của trung đội lên để phá hàng rào thứ 4...

Trong lúc còn đang quan sát mục tiêu, tôi bỗng nghe thấy rầm một cái, anh chiến sỹ mang bộc phá của tôi bị hất tung lên, còn tôi bị choáng váng quay cuồng và sau đó thì thấy má có dòng nước nong nóng rồi ở cổ, ở ngực và ở đùi… Ngay sau đó tôi được cứu thương của đại đội băng bó, đưa tôi vào Sở chỉ huy đại đội. Tại đây, tôi cảm nhận được tình hình rất nguy cấp. Chiến sỹ thông tin liên tục quay máy liên lạc ra trung tâm chỉ huy ở ngoài nhưng không nhận được tín hiệu. Đại đội trưởng Xe hỏi chính trị viên Nhã nên cho bộ đội rút ra hay ở lại. Anh Nhã trả lời ngắn gọn nhưng chắc nịch: “Nếu rút ra coi như không hoàn thành nhiệm vụ, phải cho bộ đội ở lại củng cố công sự và chờ lệnh”.

Đến sáng thì anh Nhã và anh Xe cùng hy sinh sau khi không chịu nghe lời kêu gọi đầu hàng của địch. Suốt cả ngày hôm sau chúng tôi chỉ còn khoảng hơn chục anh em đã cầm cự với khoảng 4-5 đợt tấn công của địch… Đến cuối giờ buổi chiều, thu gom toàn bộ thủ pháo, lựu đạn và các băng đạn của anh em đã hy sinh, chúng tôi đang tính toán co cụm để chờ màn đêm buông xuống thì địch bất ngờ phản công lần cuối trong ngày. Cái chân phải của tôi, bị thương phần mềm hồi đêm, đang đặt trên bờ công sự thì bỗng bị một viên đạn thẳng xuyên qua. Sau khi đã cản được cuộc phản công của bọn địch bằng thủ pháo và lựu đạn, tôi nhận ra cái chân phải của tôi đã gãy rồi. Lấy nốt sức còn lại tôi bật người lên bờ công sự rồi nằm vật ra.

Trời bắt đầu nhá nhem. Tiếng súng dần dần im. Một lúc sau thấy có một người đàn bà chừng trên dưới 50 tuổi lật đật đi qua, trông thấy tôi máu me bê bết thì hoảng sợ ù té chạy đi...

Cái chân bị ngắn lại

Tôi cứ nằm như thế trên chiến trường. Sau đạn bom tất cả im ắng đến lạ kì, chỉ nghe thấy tiếng ếch nhái kêu. Tôi bỗng nhớ đến quê mình, cũng những âm thanh quen thuộc như thế hằng đêm. Và lúc này, một tiếng ếch kêu cũng giúp tôi cảm thấy bớt hoang mang. Khoảng 2-3 giờ sáng trong lúc nằm quay mặt ra ngoài chờ đợi và hy vọng, tôi chợt thấy có ánh sáng đỏ là là sát mặt đất (của đèn pin đã bịt giấy bóng đỏ). Đoán là người của ta vào tìm, tôi đã vỗ vỗ nhẹ lên mặt đất. May mắn gặp đúng anh y sỹ của tiểu đoàn cùng một người nữa mang theo bó nẹp. Thế là tôi được bó sát vào đòn cáng để luồn qua các hàng rào đưa ra ngoài. Tôi được khiêng chạy thục mạng, cái cáng quăng quật mỗi khi có pháo sáng ở trên đầu. Và rồi bắt đầu là một quãng thời gian cực khổ của đói, của sốt rét, của bị càn, bị bỏ rơi mãi đến một tháng sau mới đến được bệnh viện dân y của huyện Đại Lộc. Sau này tôi mới biết đại đội 3 chỉ còn đúng 6 người quay trở về được hậu cứ, trong đó có anh Nguyễn Ngọc Nhi chính trị viên phó đại đội, người mà sau này thằng Hùng bảo là anh trai của đương kim thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bây giờ, người đứng lên làm thủ tục kết nạp đảng lần đầu cho tôi.

Sau khi ra khỏi thị xã Hội An tôi được đưa đến một trạm sơ cứu của mặt trận dưới một rặng dừa, chắc là không xa Hội An mấy. Ở đây tôi được thay băng mới, lau chùi vết thương và được người ta thay cho một bộ quần áo… Xong, tôi được đưa đến nhà ông Trìu xã Xuyên Trà. Ở nhà ông Trìu chừng 5-6 ngày là thời gian êm ả nhất trong suốt một tháng sau bị thương. Sang đến ngày thứ 7, tôi đã trải qua  một đêm kinh khủng. Đêm đó thương binh được chuyển sang Đại Lộc, ước chừng phải đến 200 ca. Tôi được một anh dân công nhận chuyển tiếp. Thương binh chúng tôi được đưa từ Điện Bàn sang Đại Lộc. Qua sông, tôi được người ta đặt nằm trong một cái nhà bỏ hoang ở sát bờ sông. Nói là một cái nhà nhưng không có người ở và ngói lợp chỉ còn khoảng một nửa vì bị pháo bắn nhiều lần…

…Sau 23 ngày trôi nổi trong dân, cuối cùng tôi cũng vào được bệnh viện dân y của huyện Đại Lộc (vì bị càn nên không vào được bênh viện của đơn vị). Vào cùng với tôi hôm ấy có nữ chiến sỹ Trần Thị Hừng, ở Sư 2, quê ở Quảng Ngãi - Huyện Sơn Tịnh. (Năm 2009 tôi đã có dịp vào tận nhà Hừng ở Sơn Tịnh nhưng rất tiếc Hừng đã lên sống ở Gia Lai còn nhà thì giao lại cho em trai đang là bí thư huyện ủy Sơn Tịnh). Hừng bị thương vào đùi trái còn tôi thì bị thương vào đùi phải, vị trí như nhau. Tôi với Hừng ngày nào  cũng vén vết thương lên hỏi thăm nhau. Vào được đâu 2-3 hôm thì bác sỹ Chi báo là chuẩn bị kéo chân ra cho nó dài bằng nhau. Bởi vì hơn hai chục ngày kể từ hôm bị thương lại chạy càn bị quăng quật bị bỏ rơi... nên chỗ bị gãy đã thành can mà lại ngắn tới hơn 10 cm. Đầu tiên là ông y sỹ to khỏe cầm cái xa ranh to như tiêm trâu, kim cũng to lắm. Sau khi đã gỡ hết nẹp ra, ông y sỹ này đấm một phát rất mạnh vào chỗ vết thương và tiêm thuốc tê vào đấy. Ông ta lại vần úp tôi xuống và tiêm nốt thuốc. Đương nhiên là tôi choáng đi ê ẩm. Sau đó một người giữ hai nách tôi còn ông y sỹ kia cầm hai chân tôi, hai người kéo co làm tôi không còn biết phải tả như thế nào nữa. Bác sỹ Chi bấy giờ mới làm công việc của mình là đưa xương đùi của tôi vào đúng vị trí giải phẫu của nó. Tôi bị hoảng loạn mất vài hôm rồi cũng ổn định. Hừng sau đó cũng được làm như thế và cũng có kết quả như tôi. Chỉ có điều là do không có bột bó nên sau này chân của cả hai đứa đều bị ngắn khoảng 5-6 cm.

Trận đói

Kí ức của tôi còn có  trận đói một tháng hai mươi ba ngày. Vâng đúng một tháng hai mươi ba ngày! Trước hết phải nói bối cảnh ngày ấy sau tổng tấn công ta bị phản công gần như toàn diện. Nhất là về hậu cần. Đúng vào thời khắc ấy tôi được đưa ra Bắc, kèm theo một giấy đặc biệt của Mặt trận 44 Quảng Đà là đưa ra bằng khiêng cáng. Khiêng đi được vài hôm thì đến trạm số 6 của Mặt trận Giải phóng. Đến cùng ngày với tôi còn có 5 thương binh nữa, tất cả 6 người. Trong số này, tôi trẻ và nhanh nhẹn tháo vát hơn cả. Ba người là cán bộ miền Nam, Anh Chánh, Anh Nhơn, anh Điện đã 46, 44, 42 tuổi, đều bị gãy chân nặng nhẹ khác nhau đôi chút, cùng là người Nam- Ngãi. Anh Kệ người Bắc Giang, hơn tôi khoảng 2-3 tuổi, anh bị thương sọ não nên nặng nhất, rất tội nghiệp. Anh Dương Văn Then người ở Tam Dương Vĩnh Phúc cũng hơn tôi khoảng 2-3 tuổi bị thương mất một gót chân.

Ngày đến đầu tiên cũng là ngày trạm tuyên bố hết gạo ăn. Toàn bộ nhân viên của trạm đi xuống đồng bằng lấy gạo bị chốt chặn ở bìa rừng nên không về được, Trạm cử lại một người là y tá có nhiệm vụ chăm nom 6 thương binh chúng tôi. Mỗi ngày anh ấy có nhiệm vụ kiếm cho chúng tôi mỗi người hai bát canh môn thục hay lá sắn hoặc là một cái gì đó để bỏ vào mồm trưa và chiều rất đều đặn. Đói khổ song chúng tôi sống với nhau rất tình cảm và bó bện. Anh Nhơn vốn là cán bộ huyện ủy huyện Hòa Vang (Tôi cũng nhớ như thế) viết đơn gửi lên binh trạm nên được cứu trợ hai lần, một lần 5 bò và một lần 7 bò ngô hạt. Thế là chúng tôi cũng đỡ khốn khổ. Tôi là người gần như được phân công làm tổng quản. Mỗi lần bung khoảng hai phần bò, nồi bung là cái thùng đạn đại liên. Củi thì tha hồ thoải mái. Bung xong tôi là người chia, cứ theo tuần tự mỗi người một hạt. Lẻ một hạt thì phần anh Kệ, lẻ hai thì đến anh Chánh, rồi đến anh Nhân rồi đến anh Điện, rồi mới đến anh Then. Nếu mà đến tôi thì là hôm ấy chẵn, tôi được khen là khéo bốc thuốc.

Nguồn vui của chúng tôi lúc đó là một sợi dây cước và lưỡi câu của anh Chánh. Chúng tôi dùng để câu cá suối cải thiện bữa ăn. Chúng tôi thường câu được những con cá bống hoa bằng ngón tay út. Hôm nào được nhiều thì được khoảng một phần năm, phần sáu ống ruốc, vặt thêm ít môn thục ở bờ suối là mỗi anh cũng được lưng bát canh. Hôm nào may mắn sau trời mưa nước suối lớn và đục thì câu được nhiều ra trò. Những hôm ấy 6 anh em có bữa đại tiệc. Nhưng cũng nhiều lần chẳng câu được con nào, có lần được dăm ba con thì tôi và anh Then nướng chén luôn. Anh Then luôn luôn theo tôi để bới giun và có lúc hỗ trợ bắt con cua đá ở trong các hốc đá. Có thể nói là tôi và anh Then suốt ngày ở ngoài suối. Họa hoằn trời nắng giặt quần áo phơi trên hòn đá, chờ khô lại mặc. Tôi vẫn chỉ có chiếc áo Pô Pơ lyn Nhật xịn và chiếc quần phụ nữ mặc suốt mấy tháng liền.

Thế rồi cũng đến ngày 23 tháng 8, bộ phận đi lấy gạo của trạm cũng về và chúng tôi được một bữa cơm trắng, cán bộ trạm không dám cho ăn no vì sợ bội thực nguy hiểm. Ngày 24 tháng 8 chúng tôi được chuyển đi tiếp. Cũng từ đó sáu anh em chúng tôi mỗi người mỗi nơi không bao giờ gặp nhau nữa. Không biết có ai còn sống như tôi không. Ra đến đường dây đối với tôi chỉ còn một kỷ niệm nữa là chia tay chiếc áo Pô pơ lyn Nhật xịn. Vì đến đường dây vẫn đói. Tôi lại gặp một anh bạn thương binh ra cùng, không biết thế nào mà anh ta lại có hai cái áo xanh phòng không của bệnh viện. Anh ta gạ lấy cái áo của tôi đổi cho đồng bào dân tộc được con gà còn tôi lấy cái áo của anh ta mà mặc. Đương nhiên là tôi tán thành. Anh ta còn đi được xuống suối. Một con gà một bình tông nước vừa làm lông vừa luộc. Một bữa tiệc giữa đại ngàn Trường Sơn sau trận chiến Mậu Thân.

*

Tôi trở về quê hương, lập gia đình, đi học rồi đi công tác. Bao nhiêu năm đã qua, mỗi dịp xuân về tôi thường bồi hồi nhớ lại những người bạn, người đồng đội đã gặp ở chiến dịch Mậu Thân năm ấy. Đến hôm nay không biết ai mất, ai còn.

Nguồn Văn nghệ số 11/2018

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *