HOA PƠLANG BAY GIỮA NGÀN XANH
Nhạc sĩ Đức Minh
Đức Minh là một trong năm nhạc sĩ được tôn vinh trong đêm nhạc “Tình yêu Hà Nội” tại Nhà hát lớn ngày 7/10/2017, nhưng ông không còn được chứng kiến giờ phút sang trọng dành cho mình. Trái tim ông đã ngừng đập hồi 16 giờ ngày 26 tháng 9 năm 2017 vì bệnh ung thư.
|
Nhạc sĩ Đức Minh họ Tống, sinh ngày 5 tháng 10 năm Tân Tỵ 1941 tại Lạc Thủy-Hòa Bình trong một gia đình có truyền thống văn hóa lâu đời. Đức Minh tham gia hoạt động văn nghệ từ thời học sinh tại Nam Định, sớm nổi tiếng là nghệ sĩ độc tấu ghita tài hoa nên năm 20 tuổi (1961) được tuyển vào Đoàn ca múa Trung ương và được đi biểu diễn phục vụ nhân dân, bộ đội khắp miền Bắc, có lúc phảỉ đệm ghi ta cho các cô thôn nữ hát chèo trên trận địa. Vốn say mê văn học, hát chèo và các làn điệu dân ca từ nhỏ, lại chịu ảnh hưởng các nhạc sĩ, nghệ sĩ lớn đã thành danh trong nền âm nhạc Việt Nam, Đức Minh đọc rất nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng, nỗ lực tự nghiên cứu các nền âm nhạc, văn học hiện đại trên thế giới với khát vọng sẽ sáng tác được những ca khúc trữ tình hiện đại mang âm hưởng quê hương. Sau khi sáng tác hai nhạc phẩm đầu tay đậm chất dân ca Bắc Bộ được các nghệ sĩ Trung Kiên, Trần Hiếu, Vũ Dậu trình bày gây ấn tượng tốt, năm 1967, Đức Minh được vào tu nghiệp khoa sáng tác tại Nhạc viện Hà Nội và ngay lập tức được đi thực tế phục vụ chiến trường Khu 4 đang diễn ra ác liệt. Tại đây, trước vẻ đẹp của đất và người Quảng Bình tươi rói trong bom đạn hủy diệt của kẻ thù, Đức Minh đã ôm đàn cùng hát với những cô gái vượt sóng ra khơi và âm hưởng dân ca miền Trung đã thấm vào từng nốt nhạc trong ca khúc của ông Trên biển Quê Hương, Tiếng hò Sông Hương, Yêu biết mấy Huế của ta. Dù chưa được vào chiến trường miền Nam, Đức Minh vẫn khát khao sáng tác về Huế và Tây Nguyên. Tiểu thuyết Đất nước đứng lên của nhà văn Nguyên Ngọc đã mở ra cho ông khoảng trời rộng lớn với núi rừng hùng vĩ, thơ mộng và con người Tây Nguyên trong sáng, mạnh mẽ, đằm thắm. Đức Minh tìm hiểu kỹ hoa Pơlang đỏ rực rỡ giữa đại ngàn Tây Nguyên gần với loài hoa gạo ở miền Bắc, nhưng lại nở vào cuối đông, đầu xuân được coi là loài hoa báo hiệu xuân về, tượng trưng cho sự tươi trẻ và tình yêu. Tìm được ý tưởng văn học tốt, ca từ ập đến ngọt ngào thật nhanh và nhờ sự tích lũy, chắt lọc âm hưởng dân ca đã thấm vào máu thịt hơn chục năm qua, Đức Minh ôm ghita ra bờ suối vừa hát vừa ghi lại từng nốt nhạc… Hai tuần sau nhạc phẩm Em là hoa Pơ Lang mang hơi thở hào hùng, đằm thắm đặc chất Tây Nguyên với tiếng hát bay bổng của nghệ sĩ Tường Vi nhanh chóng truyền đi trên làn sóng điện Đài TNVN được đông đảo nhân dân, chiến sĩ chép tay hát vang trên khắp các trận địa, đồng ruộng, xưởng máy, trường học, thổi vào nền âm nhạc chống mỹ cứu nước của người Việt Nam một làn gió tươi mát, thiết tha, hùng tráng và lãng mạn… Sự nghiên cứu học hỏi nghiêm túc từ văn học và các nghệ sĩ đàn anh đã tạo nên sức tưởng tượng phi thường của một tài năng âm nhạc đưa Em là Hoa Pơ Lang trở thành một trong những ca khúc được yêu thích nhất suốt thời đánh Mỹ và cho đến tận hôm nay vẫn lay động lòng người.
Đức Minh đi nhiều, sáng tác về nhiều đề tài, nhiều miền quê. Ông thường tìm hiểu rất kỹ truyền thống, phong tục tập quán và đọc nhiều tác phẩm văn học về những nơi mình định sáng tác để tìm cảm hứng, tìm ý tưởng văn học cho nhạc phẩm của mình. Khác với nhiều nhạc sĩ tìm những bài thơ hay để phổ nhạc, Đức Minh thường tự mình sáng tác lời cùng với nhạc. Ông nói - Khi cảm xúc trào dâng, sức tưởng tượng cho ta bay bổng giữa ngàn xanh có thể ca từ đã vang lên âm hưởng thành giai điệu ngay. Nghe kỹ nhạc phẩm của Đức Minh, dù là viết về cô gái Quảng Bình, cô gái Huế hay cô gái Tây Nguyên… đều toát lên âm hưởng của từng vùng quê đó nhưng vẫn cứ phảng phất dập dìu dấu ấn dân ca Bắc Bộ ngọt ngào. Với những tác phẩm viết cho piano, violin, cho các vở diễn sân khấu và nhất là nhạc kịch càng thể hiện rõ phong cách âm nhạc của Đức Minh mang đậm chất dân ca bình dị mà sâu lắng gợi cho người nghe như nhìn thấy được đất nước quê hương và chính nỗi lòng mình. Ông luôn quan niệm: tác phấm âm nhạc phải truyền được cảm xúc mãnh liệt cho ca sĩ, cho nhạc công và người nghe, gợi mở cho họ sức tưởng tượng rộng lớn. Vì thế trong âm nhạc luôn cần cái gốc văn học mới lạ mới có được cái tình sâu sắc. Khai thác chuyện cổ Thạch Sanh và tình sử Mị Châu-Trọng Thủy, Đức Minh mất hơn hai mươi năm tìm tòi ý tưởng văn học cho hai vở nhạc kịch của mình mà ông khiêm tốn gọi là kịch hát. Chỉ riêng việc đặt tên: Thư tình lông ngỗng trắng đã gợi cho ta hình dung nàng Mị Châu dù biết mình sắp chết vẫn rắc lông ngỗng đánh dấu đường đi cho chàng Trọng Thủy… đã thể hiện rõ ý tưởng khác lạ của Đức Minh không sa đà vào khai thác chủ đề “mất cảnh giác”mà đẩy cao trào bi kịch của thiên tình sử trong sáng bởi tham vọng của kẻ thống trị.
*
Năm 1971 Đức Minh được tăng cường cho Đoàn ca nhạc Quảng Ninh và phong trào ca hát công nhân mỏ giữa lúc máy bay Mỹ hủy diệt Vùng Than, thả mìn phong tỏa Vịnh Hạ Long. Dưới chân núi Bài Thơ đổ nát, hoang tàn Đức Minh đã ôm ghi ta hát vang những ca khúc mới của mình: Hòn Gai sáng niềm tin, Bến Phà anh hùng, Ngôi sao tình yêu… Đức Minh phải thích nghi với nhịp sống công nghiệp sôi động của vùng than và những đòi hỏi của công chúng vì trước ông đã có nhiều nhạc sĩ nổi tiếng sáng tác nhiều ca khúc về Vùng mỏ rất thành công như Hoàng Vân, Pham Tuyên, Xuân Giao, Thái Cơ, Tân Huyền…Trình độ thưởng thức văn học nghệ thuật của công nhân cán bộ ngành Than và nhân dân Quảng Ninh rất cao. Đức Minh đã tìm thấy thế mạnh của mình là có điều kiện thường xuyên sống găn bó với đất mỏ lâu dài. Ông say sưa tìm đọc từ hồi ký đến các tác phẩm văn học và ca dao vùng mỏ, nghe và ghi lại dân ca các dân tộc Quảng Ninh, tìm hiểu sâu nền văn hóa Hạ Long và những ảnh hưởng của văn hóa Pháp, Nga, Hoa… trong từng gia đình thợ mỏ. Đức Minh tham gia ban chấp hành Hội Văn Nghệ Quảng Ninh, xây dựng các chương trình cho Đoàn Ca nhạc Quảng Ninh, đào tạo nhửng tài năng âm nhạc trong công nhân mỏ và tham gia tổ chức các hội diễn văn nghệ. Ông luôn dành sự quan tâm ưu ái cho những tài năng trẻ, gắn bó với họ qua từng tiết mục, tạo cho họ hướng đi trong biểu diễn và sáng tác như NSND Quang Thọ, Lê Dung, các ca sĩ Hoàng Tùng, Hồ Quỳnh Hương, Thanh Việt, Đức Nhuận; các nhạc sĩ Xuân Nhật , Đặng Thêm… đưa phong trào ca nhạc Đất mỏ Quảng Ninh lên tầm cao mới.
Sau vài năm tích lũy vốn sống và hoàn thiện nhạc kịch Thạch Sanh, Đức Minh đã liên tiếp cho ra đời một loạt ca khúc về vùng than và Hạ Long. Nhạc phẩm Đất mỏ quê ta ngay lần ra mắt đầu tiên với chất giọng của Bích Liên-Quốc Đông đã gây được ấn tượng sâu sắc với đông đảo công nhân mỏ, càng ngày càng được nhiều người hát. Tiếp đó là Cô gái Đất Mỏ, Chiều Hạ Long, Màu xanh của biển, Khúc tình ca bên suối, Tầng Than vẫy gọi, Mùa xuân từ nơi em, Ra khơi, Ký ức chiến tranh, Lời biển hát, Xôn xao sóng nước Vân Đồn, Anh là mặt trời của em… Đức Minh đã trở thành nhạc sĩ sáng tác nhiều ca khúc nhất về vùng than Quảng Ninh với trên 30 nhạc phẩm đã được phổ biến.
Từ năm 1985 Đức Minh đã dồn hết tâm sức cho thể loại nhạc kịch với phong cách Việt Nam mà theo ông đã tiềm ẩn sâu sắc trong chèo, cải lương, tuồng và các loại hình đối đáp trong dân ca ba miền. Tác phẩm Tiếng đàn Thạch Sanh thực sự là một vở opera nghiêm túc với sự diễn xuất của nhiều nghệ sĩ tài hoa như Quang Thọ, Trọng Tấn, Lan Anh, Anh Thơ, Thanh Thanh Hiền… đã gây được tiếng vang lớn tại hội diễn sân khấu toàn quốc 1985. Thời kỳ gắn bó với Vùng Than đã giúp Đức Minh tự hoàn thiện tài năng, nâng cao nhận thức về cuộc sống công nghiệp hiện đại và những nhu cầu thưởng thúc âm nhạc của đông đảo công chúng trong công cuộc đổi mới. Là một nhạc sĩ sống giản dị, hiền hậu, chân tình luôn quan tâm giúp đỡ mọi người, Đức Minh được rất nhiều văn nghệ sĩ yêu mến. Ngôi nhà nhỏ của ông dưới chân núi Bài Thơ luôn mở rộng cửa đón bạn bè, nhất là những tài năng văn nghệ trẻ đến nghe ông chuyện trò, hát những ca khúc mới. Ngay cả khi đã chuyển về công tác xuất bản âm nhạc tại Hồ Gươm Audio - Hà Nội, ông vẫn thường xuyên đi về Vùng Than, tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới về Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí, Vân Đồn… Ông luôn quan tâm tạo mọi điều kiện để các nghệ sĩ trẻ thực hiện các chương trình ca nhạc riêng rất chất lượng mà ít tốn kém.
Là một nhạc sĩ nhận được nhiều may mắn, nhiều yêu mến của văn nghệ sĩ và đông đảo công chúng, nhưng vợ chồng Đức Minh cũng có những nỗi đau khôn nguôi… Nhưng cũng chính từ nỗi đau này bản lĩnh của người nghệ sỹ cùng sự giúp đỡ của gia đình và bạn hữu đã xốc ông lên, và Đức Minh lại căm cụi sáng tác với những tìm tòi mới. Cùng với hàng loạt ca khúc về Hà Nội, Đức Minh có thêm nhiều ca khúc tình khúc dìu dặt chất dân ca như: Hạt mưa dệt áo, Những mùa hoa tôi yêu, Trường Sơn con đường tình yêu, Vầng Trăng tình yêu, Lời Sông Đà, Rạng ngời Hoa Lư, Đà Lạt thành phố ngàn hoa… Đức Minh lại đắm đuối kỳ công với thể loại kịch hát, ông tĩnh tâm dồn sức hoàn thiện vở Thư tình lông ngỗng trắng với những tìm tòi công phu về cấu trúc câu chuyện, tính các nhân vật và chất nhạc đậm đà bản sắc dân tộc gây. Đây là thiên tình sử âm nhạc rất sâu sắc nếu được dàn dựng công phu, hiện đại...
Năm 2007 Nhạc sĩ Đức Minh được tặng giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ Thuật với cụm tác phẩm: Em là hoa Pơ Lang, Trên biển Quê hương, Cô gái lái tàu, kịch hát Tiếng đàn Thạch Sanh. Ông từng được tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, nhiều loại huy chương, giải thưởng của Hội Nhạc sĩ Việt Nam và nhiều giải thưởng Hạ Long, Hà Nội. Đức Minh là một trong 5 nhạc sĩ sẽ được tôn vinh trong đêm nhạc Tình yêu Hà Nội tối mồng 7 tháng 10 sắp tới. Tiếc rằng, ông không còn được chứng kiến giờ phút sang trọng đó…
|
Tôi may mắn được chuyện trò lần cuối cùng với nhạc sĩ Đức Minh trước lúc ông ra đi, ôn lại với ông từng kỷ niệm nhỏ. Ông vẫn tỉnh táo gửi lời thăm nhiều người trong ngành Than và khẽ hát vài câu Đất Mỏ quê ta. Ông như đang bay bổng giữa ngàn xanh của sông núi biển trời đất nước. Những nhạc phẩm của ông đã và đang dập dìu lay động trái tim những thế hệ người Việt Nam hôm qua, hôm nay và cả mai sau…
Nguồn: Báo Văn Nghệ