VanVN.Net – Cuốn trường ca kể về một con người, một vị anh hùng dân tộc, nhưng lại không có tên trong danh sách những người anh hùng. Vậy mà nói đến ông, từ cụ già đến các em bé, hầu như ai cũng biết. Cả thế giới đều biết, nhưng chẳng ai dám chắc là mình đã biết cặn kẽ về ông, kể cả nhà văn, nhà thơ Hoàng Bình Trọng, người đã có công sưu tầm tìm hiểu tư liệu và viết tập trường ca này… Tôi chợt nhớ đến một ông già bản mà tôi đã gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi: “…Vùng quê này là vùng quê của Đại tướng đới (đấy). Năm nọ Đại tướng có về quê. Đại tướng có nói chuyện với đồng bào mình bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là già làng của chún ta đới. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa…” Nói rồi, ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông đồi trọc. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là Rừng Đại tướng. Đấy là một ngôi đền thiêng, một ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Bởi vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp là “Người anh cả của toàn quân”. Trường ca “Người anh cả của toàn quân” khép lại. Nhưng câu chuyện về Tướng Giáp thì vẫn tiếp tục mở ra trong cõi nhân gian… (Nhà thơ Trần Đăng Khoa). Nhân dịp kỉ niệm 67 năm Ngày Quốc phòng toàn dân (22/12/1944 – 22/12/2011), VanVN.Net xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc 2 chương trích trong tập trường ca của nhà thơ Hoàng Bình Trọng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Chương II
1
Sau nhiều hôm gió bấc, mưa dầm
Trời bất ngờ tạnh ráo
Giữa bạt ngàn khu rừng Trần Hưng Đạo
Những cây sến cây lim đã chọc thủng sương lam,
Những cây giẻ, cây sồi đã giũ sạch lá vàng
Đón lũ chim sếu, chim bồ nông từ miệt Bằng Giang về tụ hội.
Những con khe, ngọn suối
Long lanh như ánh mắt cười,
Vầng mặt trời như chú bé tinh nghịch đua bơi
Bắn tung tóe những tia nước như tia sáng lửa hàn trên ghềnh cao thác đổ.
Và những bông lau phất phơ trước gió
Đỏ rực lên như chưa đỏ thế bao giờ,
Đỏ rực lên như sắc đỏ ngọn cờ
Trước đội quân ba mươi tư chiến sỹ.
Ba mươi tư cô gái chàng trai tuổi đời rất trẻ
Thuộc các dân tộc Kinh, Mèo, Mán,Thổ, Nùng…
Người sinh ra nơi sương mờ ải Bắc,
Nơi gió Lào cát trắng miềnTrung.
Người chài lưới đi về khơi lộng,
Người dạn dày chướng khí lam sơn,
Người nghè rèn, nghề mộc
Người chăm bón ruộng đồng…
Áo nâu lẫn áo chàm, súng trường chen súng kíp.
Vị chỉ huy- một người tầm thước
Tuổi ngoài ba mươi dáng vẻ thư sinh
Miệng cười hiền khô, giọng miền Trung ám áp chân tình
Vầng trán rộng sớm hằn nếp nhăn suy nghĩ.
Cánh lính tráng gọi tên Anh kèm theo từ “đồng chí”
“Đồng chí Võ Nguyên Giáp”, “đồng chí Văn”.
Và giờ đây, đứng trước hàng quân:
Chingr đốn trang phục… Nghiêm! – Anh hô dõng dạc
Ba mươi tư chiens sĩ cất cao giọng hát :
“ Đoàn quân Việt Nam đi”…
Ba mươi tư cánh tay giơ lên chào lá quốc kỳ
Ba mươi tư cặp mắt hướng thẳng về đồng chí Giáp.
“Sắc lệnh thành lạp đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân…”
Giọng Anh vang vang. Đang giữa mùa đông mà cả khu rừng tràn ngập nắng xuân.
Hoa bỗng nở trên mỗi khuôn mặt người, trên từng gốc cây ngọn cỏ,
Hoa bỗng nở trên mỗi khuôn mặt người, trên từng gốc cây ngọn cỏ,
Và cả sông núi hồn thiêng lan truyền “mười lời thề danh dự”.
Một xin thề: Vì Tổ quốc quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng!
Hai xin thề: Không vì danh vọng tiền tài đi ngược lại lợi ích nhân dân!
Ba xin thề: Càng nhiều gian khó hiểm nguy, càng bền gan vững chí!
Xin thề! Xin thề! Xin thề!
Tiếng hô dội vào vách đá làm bão làm giông,
Vòng quanh thung sâu, đổ xuống đồng bằng,
Trèo lên đèo mây, xuyên qua rừng thẳm,
Trời như thêm cao, đất như thêm rộng.
Và những bản gần,
Và những mường xa,
Và những mái đình, bến nước, gốc đa
Mọi chân trời góc bể
Đã nghe rõ trong tiếng “xin thề” ba mươi tư chiến sĩ
Có nghe hô “sát Thát” thuở hội nghị Diên Hồng,
Có lời thề Lũng Nhai thời khởi nghĩa Lam Sơn,
Có lời thề trung trinh thời Nghệ An Xô Viết.
Và Xin thề! Xin thề! Xin… xin… thề… thề! Cả giang sơn từ Bắc chí Nam đồng thanh đáp lại.
Hôm nay: hăm hai, tháng mười hai, năm bốn tư – một ngày trọng đại
Ngày ra đời đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
2
Nếu Thánh Gióng mới lên ba đã vươn vai Phù Đổng Thiên Vương đi đánh giặc,
Thì đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân mới hai ngày tuổi đã lập chiến công Nà Ngần, Phai Khắt,
Vài tuần tuổi đã đứng vững giữa lòng dân,
Vài tháng tuổi, từ ba tư chiến sĩ đã được nhân lên thành nghìn, thành muôn,
Thành quân chủ lực, quân địa phương, dân quân tự vệ.
Một ngày bằng thế kỷ
Vùng tự do đã trải rộng khắp sáu tỉnh Cao, Bắc, Lạng, Thái, Hà, Tuyên,
Đánh cho thực dân Pháp thất điên,
Cho phát xít Nhật thảm bại.
Giữa tháng tám năm bốn lăm, Võ Nguyên Giáp dẫn quân tiến về Hà Nội
Phố phường tưng bừng mở hội, trào dâng nhịp sóng hoan hô.
Ta tìm thấy bóng dáng người thân trong sắc đỏ ngọn cờ,
Ta ứa lệ trước nụ cười héo hon của mẹ,
Trước ánh mắt hân hoan con trẻ.
Ta nhập hồn ta vào thành cổ rêu phong
Vào Tháp Bút, Đài Nghiên, bia đá, tượng đồng.
Ta nhập bước ta vào nhịp bước quân hành suốt bốn nghìn năm lịch sử.
Ta hiện tại
Ta tương lai
Ta quá khứ
Ta dòng nước trong xanh chảy giữa đôi bờ.
Ta trộn mơ vào thực. Ta trộn thực vào mơ.
Ta tỉnh mà say. Ta say mà tỉnh.
Ta về giữa Ba Đình nắng ấm
Nghe Bác Hồ đọc Tuyên ngôn
(Hay nghe Trần Hưng Đạo đọc “Tướng Sỹ Văn”?
Hay nghe Nguyễn Trãi đọc “Bình Ngô Đại Cáo”?)
Việt Nam muôn năm! Muôn muôn năm! Có phải chăng ơi những người từng đói cơm rách áo
Trong tiếng hô hôm nay, dường có tiếng quân reo thuở đánh trận Bạch Đằng
Dường có tiếng ngựa hý, gươm khua thuở đánh trận Chi Lăng
Tiếng trống thúc, loa truyền thuở Quang Trung nhập đô thành áo bào nhuộm đen thuốc súng.
Ta khóc. Ta cười. Ta cao lớn giữa triệu người cao lớn.
Ta tự hào công dân Tổ quốc Việt Nam
Từ hôm nay: Mùng hai tháng chín năm bốn lăm
Hai chữ “Việt Nam” đã in đậm trên bản đồ thế giới.
“Ta phải làm gì đây?” – Mỗi người đều tự hỏi
Ta phải làm gì đây trên mảnh đất này?
Cho ngày nay? Cho ngày mai?...
- Ai có công góp công. Ai có của góp của.
Của không nại ít nhiều, công không nề to nhỏ.
Nhiều gia đình ngày giáp hạt không đủ bát cơm ăn
Vẫn âm thầm góp đầy hũ gạo nuôi quân,
Và thu nhặt từng mẩu đồng mẩu sắt
Cho bộ đội có nhiều thanh gươm ngọn mác.
Tháng chín năm nay, cha đã lục tuần
Vẫn là thành viên trong trung đội dân quân
Vẫn luyện tập lăn, bò, đâm lê, bắn súng,
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh
Huống nữa đấng mày râu đạp đất đội trời.
Dẫu không bằng bọn con gái, con trai
Ngày sản xuất tăng gia, tối về mẹ vẫn chuyên cần đến lớp bình dân học vụ.
Tóc đã ngả màu sương, mẹ vẫn ê a học bài cùng đàn cháu nhỏ:
I tờ giống móc cả hai…
Giết giặc dốt, giết giặc đói, giết giặc ngoại xâm, Bác Hồ đã dạy rồi
Làm công dân một nước độc lập, tự do, ai cũng đọc thông viết thạo.
Và một ngày đầu năm bốn sáu
Mẹ đã tự tay viết được tên Bác Hồ, Anh Giáp vào lá phiếu bầu đại biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Niềm vui này cao cả thiêng liêng
Chẳng của riêng ai, của toàn dân tộc
Từ em bé mới cắp sách tới trường, đến cụ già phơ phơ đầu bạc,
Từ cô gái Mèo trên núi cao Lũng Cú, đến chàng trai Khơ-me chót mũi Cà Mau.
Ta chia sẻ cùng bạn bè bốn biển năm châu
Ta lại cất tiếng hô vang: Muôn muôn năm tự do độc lập!
3
Đến chết nết vẫn không chừa, giặc Pháp chưa từ bỏ dã tâm xâm lược
Vẫn tận cùng thèm khát những vựa lúa châu thổ Hồng Hà, Cửu Long,
Tận cùng thèm khát những mỏ than, sắt, vàng, bạc, kẽm, chì, đồng…
Ở Cẩm Phả, Thái Nguyên, Hòa Bình, Lao Cai, Bắc Cạn…
Những đồn điền cao su Phú Riềng, Dầu Tiếng,
Những rừng chè, rừng hồ tiêu Quảng Trị, Tây Nguyên…
Ôi! Việt Nam! Giang sơn của biển bạc rừng vàng!
Không từ bỏ được đâu, dẫu đã từng ôm đầu máu chạy tháo thân, giặc Pháp chẳng cam tâm từ bỏ.
Chúng lại đưa “tàu thiếc, tàu đồng” vào biển Đông giương oai diễu võ,
Lợi dụng quân đội đồng minh giải giáp lính Nhật đầu hàng,
Giặc Pháp kéo quân vào lãnh thổ Việt Nam mặc sức xây bốt, dựng đồn,
Nã đạn moóc-chi-ê vào mọi nơi, mọi chỗ.
Ngay giữa Hà Thành, chúng ngang nhiên đập phá các hiệu buôn, xé cờ đỏ sao vàng ném ra hè phố,
Cho xe tăng, thiết giáp án ngữ các nẻo đường,
Ngang nhiên cướp của, hãm hiếp, gây nhiều thảm họa, tai ương.
Dưới mắt chúng, Việt Nam nào khác một quốc gia vô chủ
Và dưới mắt người Việt Nam, bọn Pháp lại hiện nguyên hình loài dã thú.
Chẳng thể ngồi yên. Tất cả đứng lên!
Quyết chí tòng quân, thầy giáo, học trò tạm xếp bút nghiên,
Cắt bỏ mái tóc dài, chị cùng em đội mũ ca-lô, gia nhập dân quân, tự vệ,
Vác mã tấu, đại đao, các vị bô lão sống lại thời trai trẻ,
Các chú bé tuổi mười bốn, mười lăm tự vũ trang bằng gậy tầm vông,
Các dì, các cô dám nằm lăn ra đường thi gan với bánh xích xe tăng,
Chặt bỏ hết cây cối trong vườn cho bộ đội làm trận địa.
Ấm áp biết bao tiếng gọi “Đồng bào”, “Đồng chí”
Hai lăm triệu cháu con mẹ Âu Cơ biết sống vì nhau,
Vì danh dự cha ông thuở trước, vì vinh quang con cháu mai sau,
Vì niềm tin vô hạn vô hồi đối với Bác Hồ, Anh Giáp,
Hai con người tiêu biểu cho ý chí kiên cường, trí tuệ uyên thâm toàn dân tộc,
Trong thời khắc trọng đại này, là hạt nhân đoàn kết tình đồng chí, nghĩa đồng bào
Đủ tầm vóc đứng mũi chịu sào
Đưa con thuyền dân tộc qua mọi phong ba bão tố.
Họ quên ăn, cho mọi người được ăn no; quên ngủ, cho mọi người ngon giấc ngủ.
Chỉ cho mọi người nhìn rõ mặt, gọi đúng tên ai là bạn, ai là thù.
Trù liệu nước bước đường đi cho dân tộc như tính nước cờ
Nào tiến nào lui, nào hòa nào chiến,
Nào tự lực cánh sinh, nào tiệp nhận tình cảm sẻ chia của năm châu bốn biển,
Nào phát huy truyền thống dân tộc anh hùng, nào học tập kiến thức quân sự bốn biển năm châu.
Càng tích lũy được nhiều tinh hoa trí tuệ từ gió Mỹ, mưa Âu,
Ta càng hiểu thêm tài thao lược ông cha đã đánh thắng bao kẻ thù giữ yên bờ cõi.
Ưu điểm trội nhất cuộc kháng chiến đời Trần là mưu cao mẹo giỏi,
Ưu điểm trội nhất cuộc kháng chiến đời Hậu Lê là vững chí, bền lòng,
Ưu điểm trội nhất thời Quang Trung là thần tốc tiến công,
Thời đại Hồ Chí Minh là một cuộc ra quân tổng lực
Của những con người “Thà chịu chết không thà chịu nhục”.
Kìa, Bác Hồ gọi rồi, cả nước sẵn sàng:
Hỡi đồng bào…
Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
Không có súng gươm thì cuốc thuổng, mác dao, gậy gộc
Thà hi sinh quyết không chịu trở lại làm dân mất nước…
Và cỗ máy chiến tranh toàn quốc đã vận hành
Mọi trận địa đều xây đắp giữa lòng dân,
Đâu cũng là hậu phương, đâu cũng là tiền tuyến
Mọi người dân đều là người lính,
Chị em phụ nữ nào cũng giỏi việc nước đảm việc nhà,
Bà mẹ nào cũng là mẹ chiến sỹ cho những đứa con xa.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ
Một nơi súng nổ thì trăm nơi chia lửa.
Tàu bay giặc ném bom triệt hạ xóm làng ra ở Quỳnh Lưu, Nông Cống, thì ta tập kích chúng ở Văn Xá, Truồi Nong.
Chúng bắn giết con em ta ở Hòn Gai, Cẩm Phả, ta bắt chúng đền tội ở Cự Nẫm, Cảnh Dương
Ở Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết
Ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, ở khắp ba miền Trung, Nam, Bắc.
Kẻ thù ỷ vào vũ khí tối tân, ta dựa vào dạ sắt gan vàng
Dựa vào “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh, kết đoàn chúng ta là sắt gang”
Dựa vào trí tuệ hai nhà chiến lược thiên tài: Bác Hồ, Anh Giáp.
Bìa cuốn Trường ca "Người anh cả của toàn quân"
Chương VIII
1
Giữa ngày Quốc khánh, Bác vội ra đi
Hành lý mang theo: một đôi dép cao su mòn, một bộ quần ka-ki bạc,
Như ngày xưa trên đường công tác
Rất nhẹ nhàng, nên Bác rất khoan thai.
Bác cầm tay thăm hỏi từng người
Hôn các cháu nhi đồng, chuyện trò cùng các cụ,
Mái tóc bạc... sao mà thương mà nhớ
Hoa tiễn đưa ơi thắt ruột thắt lòng!
Bác xắn quần, lội ruộng băng đồng
Tháng chín mưa nhiều, Bác cùng dân đắp đê chắn lũ.
Kìa bóng Bác trắng rừng ban, đất mỏ,
Đôi dép cao su qua suối, vượt ngàn.
Bác đội mũ tai bèo, chống gậy Trường Sơn,
Miền Nam ơi! Hai lăm năm trong tim Bác,
Hai lăm năm đỏ mắt mong chờ ngày sum họp
Nên lúc ra đi là lúc Bác trở về,
Sông Bến Hải không còn là giới tuyến cách chia
Ơi Thạch Hãn! Ơi sông Hương! Ơi sông Hàn, sông Vệ!
Có nghe chăng hơi thở của Người phía vòng lá ngụy trang xạc xào rung trong gió?
Có nghe chăng tiếng bước chân Người trong rầm rập bước quân đi?
Bác là vị tư lệnh tối cao. Bác cũng là anh binh nhất, binh nhì,
Như hồi kháng chiến chín năm, Bác chia với lũ cháu con từng viên thuốc sốt,
Cùng lũ cháu con, Bác xách khẩu Bê bốn mươi lên đồn giữ chốt.
Không! Bác không vĩnh biệt chúng ta. Trong mất mát thương đau,
Bác vẫn gọi chúng ta: “Tiến lên chiến sỹ đồng bào!”
Tiến lên! Tiến lên! Ta dõi hình Người phía bóng hình cờ Đảng
Ba mươi triệu trái tim Việt Nam - ba mươi triệu trái tim Cộng sản
Ba mươi triệu trái tim con Lạc cháu Hồng
Ta dõi hình Người theo vóc tầm vỹ đại non sông.
Tiến lên! Tiến lên! Ta dõi hình Người theo từng dòng Di chúc.
Tiến lên! Tiến lên! Bác dẫn lối cho ta qua kế sách dùng binh tướng Giáp.
Ơi Người Anh Cả Của Toàn Quân, hai lăm năm xông pha trận mạc, được bao đêm có giấc ngủ yên lành?
Nhận trách nhiệm trước Đảng, trước Già Hồ, Anh dẫn dắt lớp lớp đàn em bảo toàn thế núi hình sông.
Lang sói mới bao phen tiếp vuốt nanh lang sói cũ,
Ta phải lớn lên từng ngày cho đủ sức đón nhận mọi cuộc đụng đầu lịch sử.
Từ bẫy đá hầm chông, ta có những phi đội máy bay MÍCH, những giàn tên lửa SAM
Từ những chiếc xe đạp thồ, ta đến với hàng lữ đoàn thiết giáp, xe tăng,
Ta bắt kẻ thù tự khoe khoang “thần” nọ, “rồng” kia thành dơi chuột.
Nay dù Bác đã đi xa, nhưng ánh sáng tư tưởng của Người hiển hiện trong tầm nhìn tướng Giáp
Lũ dơi chuột tác quái tác yêu sao nổi dưới vầng sáng mặt trời.
Chỗn vĩnh hằng xin Bác ngậm cười,
Vừa đánh giặc chúng con canh cho Bác tròn giấc ngủ,
Trận trước thắng to, trận sau càng thắng to hơn nữa.
Này Khe Sanh, Thành Cổ, này Biên Hòa, Phước Long,
Này Đồng Xoài hiên ngang, Sông Bé oai hùng,
Này Đường Chín sấm ran, Sơn Trà chớp giật,
Bị vây hãm giữa thiên la địa võng trong Nam, giặc cướp Mỹ lại rơi vào bát quái trận đồ ngoài Bắc
Và những Tiên Yên, Móng Cái, những Trại Cau, Cam Đường
Những Ba Vì, Tam Đảo… Yên Lãng, Sơn Dương,
Đã đào sẵn huyệt mồ cho lũ Con ma, Thần sấm
Cho lũ Pháo đài bay - lá bài chiến lược của không lực Hoa Kỳ thành những cây đuốc sống
Cháy đỏ rực bầu trời Hà Nội mười hai ngày đêm ĐIỆN BIÊN PHỦ trên không.
Miền Bắc, miền Nam chiến công nối tiếp chiến công
Chúng con dâng lên Người, chốn vĩnh hằng xin Người yên nghỉ.
2
Cả hành tinh thực sự nóng lên trong những ngày Việt Nam đánh Mỹ
Và cả hành tinh đã tìm thấy ở Việt Nam một tiếng nói chung:
Muốn “khuyến thiện”, phải biết “trừng gian”
Sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn như Đức Chúa Trời, nhưng quyết không chịu bị đóng đinh trên cây thập ác.
Đường đi đã chọn rồi, nhân loại không còn đường nào khác
Diệt những con thú từng ném bom nguyên tử xuống Na-ga-da-ki, Hy-rô-si-ma,
Từng giết nhiều người để cướp mỏ đồng của Chi-lê, mỏ bạc của Ác-hen-ti-na,
Mỏ vàng, mỏ kim cương ở Nam Phi, mỏ dầu ở I-rắc, I-ran, Cô-oét.
Mỏ chì kẽm, mỏ nhôm, kèn, mỏ than, mỏ sắt…
Đâu ngửi thấy mùi tiền, là đế quốc Mỹ nhào vào “khai hóa văn minh”.
Vùng lên! Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian
Vùng lên! Không để cho lương tâm loài người mỗi ngày thêm băng hoại,
Mở thêm nhiều trận Điện Biên trên thế giới,
Kìa ngay giữa lòng nước Mỹ lửa hận cũng đã sục sôi,
Thành “tiếng hát anh vang mọ nơi, chân lý tỏa sáng ngời”
Tóa sáng ngời từ ngọn lửa tự thiêu của Mô-rít-xơn trên bờ sông Pơ-tô-mác,
Của tín đồ đạo Gia-tô trước trụ sở hội đồng Liên Hợp quốc,
Của những cuộc biểu tình hàng chục vạn người giữa thủ đô Oa-sinh-tơn,
Những cuộc biểu dương lực lượng đốt hình nộm tổng thống Mỹ của tổ chức sinh viên.
Lửa gọi lửa lan tràn thành biển lửa
Thành lửa Điện Biên cháy giữa lòng nước Mỹ,
Điện Biien Phi-la-đen-pi, Điện Biên Đi-tơ-roi, Điện Biên Si-ca-gô,
Điện Biên vùng sông Mít-xit-xi-pi, Điện Biên Ca-li-phooc-nia, Điện Biên Hô-li-út,
Điện Biên Xăng-phơ-răng-xi-cô, Điện Biên Tếch-dát…
Nơi đâu trên đất Mỹ con người còn biết phẩm giá con người, thì nơi đó có Điện Biên.
Điện Biên trong lòng nước Mỹ, Điện Biên trên khắp hành tinh, hòa nhịp làn sóng tổng tiến công ở Việt Nam
Đẩy bọn lái súng Hoa Ký vào ngõ cụt
Lũ đầu sỏ sói lang bị gọi đúng tên, bị vạch rõ mặt,
Ních xơn hồn xiêu phách lạc, Ma-na-ma-ra run sợ cuống cuồng,
Bân-cơ, Oét-mo-len, A-bơ-ram táng đởm kinh hồn,
Giữa ba sáu chước, chước chuồn là thượng sách!
3
Đế quốc Mỹ đã bỏ của chạy lấy người, nhưng sông Bến Hải vẫn chưa lành vết thương chia cắt
Cái thây ma “Chính phủ cộng hòa” vẫn tiếp tục con đường bán nước buôn dân
Nắm trong tay nửa triệu chiến binh đủ cả hải, lục, không quân
Với giặc Mỹ, chúng vẫn cúc cung: “ăn cơm chúa, dốc lòng thờ chúa”,
Vẫn nuôi tham vọng: rạch đôi sơn hà, một phương hùng cứ
Ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pa-ri, thẳng tay đàn áp những ai đòi hiệp thương thống nhất nước nhà
Miễn rằng quan thầy Mỹ còn cho nhiều vũ khí, đô la.
Ôi Việt Nam! Con đường chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất nước nhà vẫn chưa đi tới đích.
Ta còn đánh Mỹ kể cả khi bóng dáng tên giặc Mỹ cuối cùng ở phía phương trời xa khuất.
Mỗi một người đã đội trên đầu mấy tạ bom, thì thêm ít nữa há sờn lòng,
“Thề cứu lấy nước nhà, thề hy sinh đến cùng”.
Tiến lên! Tiến lên! Ơi lớp lớp đàn em của bậc anh hùng – tướng Giáp
Anh luôn ở bên ta mọi nẻo đường trận mạc
Và lúc này Anh đã gọi ta vượt truông nhà Hồ, vượt sông Thạch Hãn, vượt phá Tam Giang.
Hãy nhanh tay cứu lấy những trẻ thơ ra khỏi bầu trời chất độc da cam,
Cứu lấy những thiếu nữ trắng trong ra khỏi cõi dâm ô trụy lạc,
Cứu mẹ cứu cha ra khỏi hàng rào điện tử Ma-na-ma-ra, ra khỏi Côn Đảo ngục tù roi đòn kìm kẹp.
Kìa! Anh đã gọi ta phía đèo Hải Vân, phía bến sông Hàn,
Phía ruộng muối Sa Huỳnh, phía vườn dừa Tam Quan,
Phía Chư Giang Sin ngút ngàn, phía Đăk-rông thác lũ,
Phía Thất Sơn mưa nguồn, phía Vũng Tàu chớp bể.
Ta gặp lại trên đường lão du kích Ba Tơ thuở trước, anh bộ đội đâm lê núi Thành năm xưa,
Ta gặp lại cậu Tám, chú Mười, cô Sáu, dì Ba,
Ta gặp lại anh Trỗi, chị Quyên, anh Đang, chị Sứ
Những con người bình thường đã có phút giờ làm nên lịch sử.
Tất cả vẫn nguyên lành lẫm liệt, trẻ trung
Cùng lớp lớp đàn em kết thành đội ngũ điệp trùng
Và thần tốc! Thần tốc! Tướng Giáp đã lệnh truyền: Thần tốc!
Bọn bù nhìn chạy đi đâu? Lưới trời đâu dễ lọt
Năm đạo hùng binh – năm cánh sao vàng.
Tiến về Sài Gòn! Tiến về Sài Gòn!
Những lữ đoàn xe tăng, những trung đoàn thiết giáp,
Những giàn tên lửa Ca-chiu-sa chói ngời, chói ngời những nòng đại bác,
Những phi đội máy bay xuất quỷ nhập thần.
Tiến về Sài Gòn! Tiến về Sài Gòn!
Đây là cuộc ra quân cả nước
Mười bốn triệu đồng bào Miền Nam, mười sáu triệu đồng bào Miền Bắc,
Đột nhập chợ Bến Thành, chiếm lĩnh trận địa cầu chữ Y,
Đánh chiếm trụ sở Bộ quốc phòng Ngụy, tòa Đại sứ Hoa Kỳ,
Đánh chiếm sở cảnh sát Đô thành, sân bay Tân Sơn Nhất,
Cắm cờ đỏ sao vàng trên nóc dinh Độc lập.
“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” cả ba chục triệu người chung một lời ca.
Miền Nam ơi! Bác đã về đây sau những ngày đi xa
Cho chị gặp em, cho con gặp mẹ
Cho bao nhiêu người vợ đằng đẵng chờ chồng không biến thành Tô Thị
Chấm dứt ba mươi năm chiến tranh xương chất thành núi máu chảy thành sông!
…
VanVN.Net – Cuốn trường ca kể về một con người, một vị anh hùng dân tộc, nhưng lại không có tên trong danh sách những người anh hùng. Vậy mà nói đến ông, từ cụ già đến các em bé, hầu như ai cũng biết. Cả thế giới đều biết, nhưng chẳng ai dám chắc là mình đã biết cặn kẽ về ông, kể cả nhà văn, nhà thơ Hoàng Bình Trọng, người đã có công sưu tầm tìm hiểu tư liệu và viết tập trường ca này… Tôi chợt nhớ đến một ông già bản mà tôi đã gặp trên đường vào Mường Phăng. Ông già hồ hởi: “…Vùng quê này là vùng quê của Đại tướng đới (đấy). Năm nọ Đại tướng có về quê. Đại tướng có nói chuyện với đồng bào mình bằng tiếng dân tộc. Đại tướng là già làng của chún ta đới. Nhà Đại tướng ở chỗ kia kìa…” Nói rồi, ông già chỉ lên núi Mường Phăng. Một dải rừng xanh um giữa mênh mông đồi trọc. Ở đây, người dân còn đói cơm, thiếu mặc, nhưng họ vẫn nâng niu gìn giữ khu rừng. Họ tự đặt tên cho khu rừng là Rừng Đại tướng. Đấy là một ngôi đền thiêng, một ngôi đền xanh thiên nhiên mà người dân đã tự lập để thờ ông. Bởi vì Đại tướng Võ Nguyên Giáp là “Người anh cả của toàn quân”. Trường ca “Người anh cả của toàn quân” khép lại. Nhưng câu chuyện về Tướng Giáp thì vẫn tiếp tục mở ra trong cõi nhân gian… (Nhà thơ Trần Đăng Khoa). Nhân dịp kỉ niệm 67 năm Ngày Quốc phòng toàn dân (22/12/1944 – 22/12/2011), VanVN.Net xin trân trọng giới thiệu đến bạn đọc 2 chương trích trong tập trường ca của nhà thơ Hoàng Bình Trọng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Chương II
1
Sau nhiều hôm gió bấc, mưa dầm
Trời bất ngờ tạnh ráo
Giữa bạt ngàn khu rừng Trần Hưng Đạo
Những cây sến cây lim đã chọc thủng sương lam,
Những cây giẻ, cây sồi đã giũ sạch lá vàng
Đón lũ chim sếu, chim bồ nông từ miệt Bằng Giang về tụ hội.
Những con khe, ngọn suối
Long lanh như ánh mắt cười,
Vầng mặt trời như chú bé tinh nghịch đua bơi
Bắn tung tóe những tia nước như tia sáng lửa hàn trên ghềnh cao thác đổ.
Và những bông lau phất phơ trước gió
Đỏ rực lên như chưa đỏ thế bao giờ,
Đỏ rực lên như sắc đỏ ngọn cờ
Trước đội quân ba mươi tư chiến sỹ.
Ba mươi tư cô gái chàng trai tuổi đời rất trẻ
Thuộc các dân tộc Kinh, Mèo, Mán,Thổ, Nùng…
Người sinh ra nơi sương mờ ải Bắc,
Nơi gió Lào cát trắng miềnTrung.
Người chài lưới đi về khơi lộng,
Người dạn dày chướng khí lam sơn,
Người nghè rèn, nghề mộc
Người chăm bón ruộng đồng…
Áo nâu lẫn áo chàm, súng trường chen súng kíp.
Vị chỉ huy- một người tầm thước
Tuổi ngoài ba mươi dáng vẻ thư sinh
Miệng cười hiền khô, giọng miền Trung ám áp chân tình
Vầng trán rộng sớm hằn nếp nhăn suy nghĩ.
Cánh lính tráng gọi tên Anh kèm theo từ “đồng chí”
“Đồng chí Võ Nguyên Giáp”, “đồng chí Văn”.
Và giờ đây, đứng trước hàng quân:
Chingr đốn trang phục… Nghiêm! – Anh hô dõng dạc
Ba mươi tư chiens sĩ cất cao giọng hát :
“ Đoàn quân Việt Nam đi”…
Ba mươi tư cánh tay giơ lên chào lá quốc kỳ
Ba mươi tư cặp mắt hướng thẳng về đồng chí Giáp.
“Sắc lệnh thành lạp đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân…”
Giọng Anh vang vang. Đang giữa mùa đông mà cả khu rừng tràn ngập nắng xuân.
Hoa bỗng nở trên mỗi khuôn mặt người, trên từng gốc cây ngọn cỏ,
Hoa bỗng nở trên mỗi khuôn mặt người, trên từng gốc cây ngọn cỏ,
Và cả sông núi hồn thiêng lan truyền “mười lời thề danh dự”.
Một xin thề: Vì Tổ quốc quyết chiến đấu đến giọt máu cuối cùng!
Hai xin thề: Không vì danh vọng tiền tài đi ngược lại lợi ích nhân dân!
Ba xin thề: Càng nhiều gian khó hiểm nguy, càng bền gan vững chí!
Xin thề! Xin thề! Xin thề!
Tiếng hô dội vào vách đá làm bão làm giông,
Vòng quanh thung sâu, đổ xuống đồng bằng,
Trèo lên đèo mây, xuyên qua rừng thẳm,
Trời như thêm cao, đất như thêm rộng.
Và những bản gần,
Và những mường xa,
Và những mái đình, bến nước, gốc đa
Mọi chân trời góc bể
Đã nghe rõ trong tiếng “xin thề” ba mươi tư chiến sĩ
Có nghe hô “sát Thát” thuở hội nghị Diên Hồng,
Có lời thề Lũng Nhai thời khởi nghĩa Lam Sơn,
Có lời thề trung trinh thời Nghệ An Xô Viết.
Và Xin thề! Xin thề! Xin… xin… thề… thề! Cả giang sơn từ Bắc chí Nam đồng thanh đáp lại.
Hôm nay: hăm hai, tháng mười hai, năm bốn tư – một ngày trọng đại
Ngày ra đời đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân.
2
Nếu Thánh Gióng mới lên ba đã vươn vai Phù Đổng Thiên Vương đi đánh giặc,
Thì đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân mới hai ngày tuổi đã lập chiến công Nà Ngần, Phai Khắt,
Vài tuần tuổi đã đứng vững giữa lòng dân,
Vài tháng tuổi, từ ba tư chiến sĩ đã được nhân lên thành nghìn, thành muôn,
Thành quân chủ lực, quân địa phương, dân quân tự vệ.
Một ngày bằng thế kỷ
Vùng tự do đã trải rộng khắp sáu tỉnh Cao, Bắc, Lạng, Thái, Hà, Tuyên,
Đánh cho thực dân Pháp thất điên,
Cho phát xít Nhật thảm bại.
Giữa tháng tám năm bốn lăm, Võ Nguyên Giáp dẫn quân tiến về Hà Nội
Phố phường tưng bừng mở hội, trào dâng nhịp sóng hoan hô.
Ta tìm thấy bóng dáng người thân trong sắc đỏ ngọn cờ,
Ta ứa lệ trước nụ cười héo hon của mẹ,
Trước ánh mắt hân hoan con trẻ.
Ta nhập hồn ta vào thành cổ rêu phong
Vào Tháp Bút, Đài Nghiên, bia đá, tượng đồng.
Ta nhập bước ta vào nhịp bước quân hành suốt bốn nghìn năm lịch sử.
Ta hiện tại
Ta tương lai
Ta quá khứ
Ta dòng nước trong xanh chảy giữa đôi bờ.
Ta trộn mơ vào thực. Ta trộn thực vào mơ.
Ta tỉnh mà say. Ta say mà tỉnh.
Ta về giữa Ba Đình nắng ấm
Nghe Bác Hồ đọc Tuyên ngôn
(Hay nghe Trần Hưng Đạo đọc “Tướng Sỹ Văn”?
Hay nghe Nguyễn Trãi đọc “Bình Ngô Đại Cáo”?)
Việt Nam muôn năm! Muôn muôn năm! Có phải chăng ơi những người từng đói cơm rách áo
Trong tiếng hô hôm nay, dường có tiếng quân reo thuở đánh trận Bạch Đằng
Dường có tiếng ngựa hý, gươm khua thuở đánh trận Chi Lăng
Tiếng trống thúc, loa truyền thuở Quang Trung nhập đô thành áo bào nhuộm đen thuốc súng.
Ta khóc. Ta cười. Ta cao lớn giữa triệu người cao lớn.
Ta tự hào công dân Tổ quốc Việt Nam
Từ hôm nay: Mùng hai tháng chín năm bốn lăm
Hai chữ “Việt Nam” đã in đậm trên bản đồ thế giới.
“Ta phải làm gì đây?” – Mỗi người đều tự hỏi
Ta phải làm gì đây trên mảnh đất này?
Cho ngày nay? Cho ngày mai?...
- Ai có công góp công. Ai có của góp của.
Của không nại ít nhiều, công không nề to nhỏ.
Nhiều gia đình ngày giáp hạt không đủ bát cơm ăn
Vẫn âm thầm góp đầy hũ gạo nuôi quân,
Và thu nhặt từng mẩu đồng mẩu sắt
Cho bộ đội có nhiều thanh gươm ngọn mác.
Tháng chín năm nay, cha đã lục tuần
Vẫn là thành viên trong trung đội dân quân
Vẫn luyện tập lăn, bò, đâm lê, bắn súng,
Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh
Huống nữa đấng mày râu đạp đất đội trời.
Dẫu không bằng bọn con gái, con trai
Ngày sản xuất tăng gia, tối về mẹ vẫn chuyên cần đến lớp bình dân học vụ.
Tóc đã ngả màu sương, mẹ vẫn ê a học bài cùng đàn cháu nhỏ:
I tờ giống móc cả hai…
Giết giặc dốt, giết giặc đói, giết giặc ngoại xâm, Bác Hồ đã dạy rồi
Làm công dân một nước độc lập, tự do, ai cũng đọc thông viết thạo.
Và một ngày đầu năm bốn sáu
Mẹ đã tự tay viết được tên Bác Hồ, Anh Giáp vào lá phiếu bầu đại biểu quốc hội khóa đầu tiên.
Niềm vui này cao cả thiêng liêng
Chẳng của riêng ai, của toàn dân tộc
Từ em bé mới cắp sách tới trường, đến cụ già phơ phơ đầu bạc,
Từ cô gái Mèo trên núi cao Lũng Cú, đến chàng trai Khơ-me chót mũi Cà Mau.
Ta chia sẻ cùng bạn bè bốn biển năm châu
Ta lại cất tiếng hô vang: Muôn muôn năm tự do độc lập!
3
Đến chết nết vẫn không chừa, giặc Pháp chưa từ bỏ dã tâm xâm lược
Vẫn tận cùng thèm khát những vựa lúa châu thổ Hồng Hà, Cửu Long,
Tận cùng thèm khát những mỏ than, sắt, vàng, bạc, kẽm, chì, đồng…
Ở Cẩm Phả, Thái Nguyên, Hòa Bình, Lao Cai, Bắc Cạn…
Những đồn điền cao su Phú Riềng, Dầu Tiếng,
Những rừng chè, rừng hồ tiêu Quảng Trị, Tây Nguyên…
Ôi! Việt Nam! Giang sơn của biển bạc rừng vàng!
Không từ bỏ được đâu, dẫu đã từng ôm đầu máu chạy tháo thân, giặc Pháp chẳng cam tâm từ bỏ.
Chúng lại đưa “tàu thiếc, tàu đồng” vào biển Đông giương oai diễu võ,
Lợi dụng quân đội đồng minh giải giáp lính Nhật đầu hàng,
Giặc Pháp kéo quân vào lãnh thổ Việt Nam mặc sức xây bốt, dựng đồn,
Nã đạn moóc-chi-ê vào mọi nơi, mọi chỗ.
Ngay giữa Hà Thành, chúng ngang nhiên đập phá các hiệu buôn, xé cờ đỏ sao vàng ném ra hè phố,
Cho xe tăng, thiết giáp án ngữ các nẻo đường,
Ngang nhiên cướp của, hãm hiếp, gây nhiều thảm họa, tai ương.
Dưới mắt chúng, Việt Nam nào khác một quốc gia vô chủ
Và dưới mắt người Việt Nam, bọn Pháp lại hiện nguyên hình loài dã thú.
Chẳng thể ngồi yên. Tất cả đứng lên!
Quyết chí tòng quân, thầy giáo, học trò tạm xếp bút nghiên,
Cắt bỏ mái tóc dài, chị cùng em đội mũ ca-lô, gia nhập dân quân, tự vệ,
Vác mã tấu, đại đao, các vị bô lão sống lại thời trai trẻ,
Các chú bé tuổi mười bốn, mười lăm tự vũ trang bằng gậy tầm vông,
Các dì, các cô dám nằm lăn ra đường thi gan với bánh xích xe tăng,
Chặt bỏ hết cây cối trong vườn cho bộ đội làm trận địa.
Ấm áp biết bao tiếng gọi “Đồng bào”, “Đồng chí”
Hai lăm triệu cháu con mẹ Âu Cơ biết sống vì nhau,
Vì danh dự cha ông thuở trước, vì vinh quang con cháu mai sau,
Vì niềm tin vô hạn vô hồi đối với Bác Hồ, Anh Giáp,
Hai con người tiêu biểu cho ý chí kiên cường, trí tuệ uyên thâm toàn dân tộc,
Trong thời khắc trọng đại này, là hạt nhân đoàn kết tình đồng chí, nghĩa đồng bào
Đủ tầm vóc đứng mũi chịu sào
Đưa con thuyền dân tộc qua mọi phong ba bão tố.
Họ quên ăn, cho mọi người được ăn no; quên ngủ, cho mọi người ngon giấc ngủ.
Chỉ cho mọi người nhìn rõ mặt, gọi đúng tên ai là bạn, ai là thù.
Trù liệu nước bước đường đi cho dân tộc như tính nước cờ
Nào tiến nào lui, nào hòa nào chiến,
Nào tự lực cánh sinh, nào tiệp nhận tình cảm sẻ chia của năm châu bốn biển,
Nào phát huy truyền thống dân tộc anh hùng, nào học tập kiến thức quân sự bốn biển năm châu.
Càng tích lũy được nhiều tinh hoa trí tuệ từ gió Mỹ, mưa Âu,
Ta càng hiểu thêm tài thao lược ông cha đã đánh thắng bao kẻ thù giữ yên bờ cõi.
Ưu điểm trội nhất cuộc kháng chiến đời Trần là mưu cao mẹo giỏi,
Ưu điểm trội nhất cuộc kháng chiến đời Hậu Lê là vững chí, bền lòng,
Ưu điểm trội nhất thời Quang Trung là thần tốc tiến công,
Thời đại Hồ Chí Minh là một cuộc ra quân tổng lực
Của những con người “Thà chịu chết không thà chịu nhục”.
Kìa, Bác Hồ gọi rồi, cả nước sẵn sàng:
Hỡi đồng bào…
Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm,
Không có súng gươm thì cuốc thuổng, mác dao, gậy gộc
Thà hi sinh quyết không chịu trở lại làm dân mất nước…
Và cỗ máy chiến tranh toàn quốc đã vận hành
Mọi trận địa đều xây đắp giữa lòng dân,
Đâu cũng là hậu phương, đâu cũng là tiền tuyến
Mọi người dân đều là người lính,
Chị em phụ nữ nào cũng giỏi việc nước đảm việc nhà,
Bà mẹ nào cũng là mẹ chiến sỹ cho những đứa con xa.
Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ
Một nơi súng nổ thì trăm nơi chia lửa.
Tàu bay giặc ném bom triệt hạ xóm làng ra ở Quỳnh Lưu, Nông Cống, thì ta tập kích chúng ở Văn Xá, Truồi Nong.
Chúng bắn giết con em ta ở Hòn Gai, Cẩm Phả, ta bắt chúng đền tội ở Cự Nẫm, Cảnh Dương
Ở Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết
Ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn, ở khắp ba miền Trung, Nam, Bắc.
Kẻ thù ỷ vào vũ khí tối tân, ta dựa vào dạ sắt gan vàng
Dựa vào “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh, kết đoàn chúng ta là sắt gang”
Dựa vào trí tuệ hai nhà chiến lược thiên tài: Bác Hồ, Anh Giáp.
Bìa cuốn Trường ca "Người anh cả của toàn quân"
Chương VIII
1
Giữa ngày Quốc khánh, Bác vội ra đi
Hành lý mang theo: một đôi dép cao su mòn, một bộ quần ka-ki bạc,
Như ngày xưa trên đường công tác
Rất nhẹ nhàng, nên Bác rất khoan thai.
Bác cầm tay thăm hỏi từng người
Hôn các cháu nhi đồng, chuyện trò cùng các cụ,
Mái tóc bạc... sao mà thương mà nhớ
Hoa tiễn đưa ơi thắt ruột thắt lòng!
Bác xắn quần, lội ruộng băng đồng
Tháng chín mưa nhiều, Bác cùng dân đắp đê chắn lũ.
Kìa bóng Bác trắng rừng ban, đất mỏ,
Đôi dép cao su qua suối, vượt ngàn.
Bác đội mũ tai bèo, chống gậy Trường Sơn,
Miền Nam ơi! Hai lăm năm trong tim Bác,
Hai lăm năm đỏ mắt mong chờ ngày sum họp
Nên lúc ra đi là lúc Bác trở về,
Sông Bến Hải không còn là giới tuyến cách chia
Ơi Thạch Hãn! Ơi sông Hương! Ơi sông Hàn, sông Vệ!
Có nghe chăng hơi thở của Người phía vòng lá ngụy trang xạc xào rung trong gió?
Có nghe chăng tiếng bước chân Người trong rầm rập bước quân đi?
Bác là vị tư lệnh tối cao. Bác cũng là anh binh nhất, binh nhì,
Như hồi kháng chiến chín năm, Bác chia với lũ cháu con từng viên thuốc sốt,
Cùng lũ cháu con, Bác xách khẩu Bê bốn mươi lên đồn giữ chốt.
Không! Bác không vĩnh biệt chúng ta. Trong mất mát thương đau,
Bác vẫn gọi chúng ta: “Tiến lên chiến sỹ đồng bào!”
Tiến lên! Tiến lên! Ta dõi hình Người phía bóng hình cờ Đảng
Ba mươi triệu trái tim Việt Nam - ba mươi triệu trái tim Cộng sản
Ba mươi triệu trái tim con Lạc cháu Hồng
Ta dõi hình Người theo vóc tầm vỹ đại non sông.
Tiến lên! Tiến lên! Ta dõi hình Người theo từng dòng Di chúc.
Tiến lên! Tiến lên! Bác dẫn lối cho ta qua kế sách dùng binh tướng Giáp.
Ơi Người Anh Cả Của Toàn Quân, hai lăm năm xông pha trận mạc, được bao đêm có giấc ngủ yên lành?
Nhận trách nhiệm trước Đảng, trước Già Hồ, Anh dẫn dắt lớp lớp đàn em bảo toàn thế núi hình sông.
Lang sói mới bao phen tiếp vuốt nanh lang sói cũ,
Ta phải lớn lên từng ngày cho đủ sức đón nhận mọi cuộc đụng đầu lịch sử.
Từ bẫy đá hầm chông, ta có những phi đội máy bay MÍCH, những giàn tên lửa SAM
Từ những chiếc xe đạp thồ, ta đến với hàng lữ đoàn thiết giáp, xe tăng,
Ta bắt kẻ thù tự khoe khoang “thần” nọ, “rồng” kia thành dơi chuột.
Nay dù Bác đã đi xa, nhưng ánh sáng tư tưởng của Người hiển hiện trong tầm nhìn tướng Giáp
Lũ dơi chuột tác quái tác yêu sao nổi dưới vầng sáng mặt trời.
Chỗn vĩnh hằng xin Bác ngậm cười,
Vừa đánh giặc chúng con canh cho Bác tròn giấc ngủ,
Trận trước thắng to, trận sau càng thắng to hơn nữa.
Này Khe Sanh, Thành Cổ, này Biên Hòa, Phước Long,
Này Đồng Xoài hiên ngang, Sông Bé oai hùng,
Này Đường Chín sấm ran, Sơn Trà chớp giật,
Bị vây hãm giữa thiên la địa võng trong Nam, giặc cướp Mỹ lại rơi vào bát quái trận đồ ngoài Bắc
Và những Tiên Yên, Móng Cái, những Trại Cau, Cam Đường
Những Ba Vì, Tam Đảo… Yên Lãng, Sơn Dương,
Đã đào sẵn huyệt mồ cho lũ Con ma, Thần sấm
Cho lũ Pháo đài bay - lá bài chiến lược của không lực Hoa Kỳ thành những cây đuốc sống
Cháy đỏ rực bầu trời Hà Nội mười hai ngày đêm ĐIỆN BIÊN PHỦ trên không.
Miền Bắc, miền Nam chiến công nối tiếp chiến công
Chúng con dâng lên Người, chốn vĩnh hằng xin Người yên nghỉ.
2
Cả hành tinh thực sự nóng lên trong những ngày Việt Nam đánh Mỹ
Và cả hành tinh đã tìm thấy ở Việt Nam một tiếng nói chung:
Muốn “khuyến thiện”, phải biết “trừng gian”
Sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn như Đức Chúa Trời, nhưng quyết không chịu bị đóng đinh trên cây thập ác.
Đường đi đã chọn rồi, nhân loại không còn đường nào khác
Diệt những con thú từng ném bom nguyên tử xuống Na-ga-da-ki, Hy-rô-si-ma,
Từng giết nhiều người để cướp mỏ đồng của Chi-lê, mỏ bạc của Ác-hen-ti-na,
Mỏ vàng, mỏ kim cương ở Nam Phi, mỏ dầu ở I-rắc, I-ran, Cô-oét.
Mỏ chì kẽm, mỏ nhôm, kèn, mỏ than, mỏ sắt…
Đâu ngửi thấy mùi tiền, là đế quốc Mỹ nhào vào “khai hóa văn minh”.
Vùng lên! Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian
Vùng lên! Không để cho lương tâm loài người mỗi ngày thêm băng hoại,
Mở thêm nhiều trận Điện Biên trên thế giới,
Kìa ngay giữa lòng nước Mỹ lửa hận cũng đã sục sôi,
Thành “tiếng hát anh vang mọ nơi, chân lý tỏa sáng ngời”
Tóa sáng ngời từ ngọn lửa tự thiêu của Mô-rít-xơn trên bờ sông Pơ-tô-mác,
Của tín đồ đạo Gia-tô trước trụ sở hội đồng Liên Hợp quốc,
Của những cuộc biểu tình hàng chục vạn người giữa thủ đô Oa-sinh-tơn,
Những cuộc biểu dương lực lượng đốt hình nộm tổng thống Mỹ của tổ chức sinh viên.
Lửa gọi lửa lan tràn thành biển lửa
Thành lửa Điện Biên cháy giữa lòng nước Mỹ,
Điện Biien Phi-la-đen-pi, Điện Biên Đi-tơ-roi, Điện Biên Si-ca-gô,
Điện Biên vùng sông Mít-xit-xi-pi, Điện Biên Ca-li-phooc-nia, Điện Biên Hô-li-út,
Điện Biên Xăng-phơ-răng-xi-cô, Điện Biên Tếch-dát…
Nơi đâu trên đất Mỹ con người còn biết phẩm giá con người, thì nơi đó có Điện Biên.
Điện Biên trong lòng nước Mỹ, Điện Biên trên khắp hành tinh, hòa nhịp làn sóng tổng tiến công ở Việt Nam
Đẩy bọn lái súng Hoa Ký vào ngõ cụt
Lũ đầu sỏ sói lang bị gọi đúng tên, bị vạch rõ mặt,
Ních xơn hồn xiêu phách lạc, Ma-na-ma-ra run sợ cuống cuồng,
Bân-cơ, Oét-mo-len, A-bơ-ram táng đởm kinh hồn,
Giữa ba sáu chước, chước chuồn là thượng sách!
3
Đế quốc Mỹ đã bỏ của chạy lấy người, nhưng sông Bến Hải vẫn chưa lành vết thương chia cắt
Cái thây ma “Chính phủ cộng hòa” vẫn tiếp tục con đường bán nước buôn dân
Nắm trong tay nửa triệu chiến binh đủ cả hải, lục, không quân
Với giặc Mỹ, chúng vẫn cúc cung: “ăn cơm chúa, dốc lòng thờ chúa”,
Vẫn nuôi tham vọng: rạch đôi sơn hà, một phương hùng cứ
Ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pa-ri, thẳng tay đàn áp những ai đòi hiệp thương thống nhất nước nhà
Miễn rằng quan thầy Mỹ còn cho nhiều vũ khí, đô la.
Ôi Việt Nam! Con đường chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất nước nhà vẫn chưa đi tới đích.
Ta còn đánh Mỹ kể cả khi bóng dáng tên giặc Mỹ cuối cùng ở phía phương trời xa khuất.
Mỗi một người đã đội trên đầu mấy tạ bom, thì thêm ít nữa há sờn lòng,
“Thề cứu lấy nước nhà, thề hy sinh đến cùng”.
Tiến lên! Tiến lên! Ơi lớp lớp đàn em của bậc anh hùng – tướng Giáp
Anh luôn ở bên ta mọi nẻo đường trận mạc
Và lúc này Anh đã gọi ta vượt truông nhà Hồ, vượt sông Thạch Hãn, vượt phá Tam Giang.
Hãy nhanh tay cứu lấy những trẻ thơ ra khỏi bầu trời chất độc da cam,
Cứu lấy những thiếu nữ trắng trong ra khỏi cõi dâm ô trụy lạc,
Cứu mẹ cứu cha ra khỏi hàng rào điện tử Ma-na-ma-ra, ra khỏi Côn Đảo ngục tù roi đòn kìm kẹp.
Kìa! Anh đã gọi ta phía đèo Hải Vân, phía bến sông Hàn,
Phía ruộng muối Sa Huỳnh, phía vườn dừa Tam Quan,
Phía Chư Giang Sin ngút ngàn, phía Đăk-rông thác lũ,
Phía Thất Sơn mưa nguồn, phía Vũng Tàu chớp bể.
Ta gặp lại trên đường lão du kích Ba Tơ thuở trước, anh bộ đội đâm lê núi Thành năm xưa,
Ta gặp lại cậu Tám, chú Mười, cô Sáu, dì Ba,
Ta gặp lại anh Trỗi, chị Quyên, anh Đang, chị Sứ
Những con người bình thường đã có phút giờ làm nên lịch sử.
Tất cả vẫn nguyên lành lẫm liệt, trẻ trung
Cùng lớp lớp đàn em kết thành đội ngũ điệp trùng
Và thần tốc! Thần tốc! Tướng Giáp đã lệnh truyền: Thần tốc!
Bọn bù nhìn chạy đi đâu? Lưới trời đâu dễ lọt
Năm đạo hùng binh – năm cánh sao vàng.
Tiến về Sài Gòn! Tiến về Sài Gòn!
Những lữ đoàn xe tăng, những trung đoàn thiết giáp,
Những giàn tên lửa Ca-chiu-sa chói ngời, chói ngời những nòng đại bác,
Những phi đội máy bay xuất quỷ nhập thần.
Tiến về Sài Gòn! Tiến về Sài Gòn!
Đây là cuộc ra quân cả nước
Mười bốn triệu đồng bào Miền Nam, mười sáu triệu đồng bào Miền Bắc,
Đột nhập chợ Bến Thành, chiếm lĩnh trận địa cầu chữ Y,
Đánh chiếm trụ sở Bộ quốc phòng Ngụy, tòa Đại sứ Hoa Kỳ,
Đánh chiếm sở cảnh sát Đô thành, sân bay Tân Sơn Nhất,
Cắm cờ đỏ sao vàng trên nóc dinh Độc lập.
“Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng” cả ba chục triệu người chung một lời ca.
Miền Nam ơi! Bác đã về đây sau những ngày đi xa
Cho chị gặp em, cho con gặp mẹ
Cho bao nhiêu người vợ đằng đẵng chờ chồng không biến thành Tô Thị
Chấm dứt ba mươi năm chiến tranh xương chất thành núi máu chảy thành sông!
…
VanVN.Net – Ngày 10/4/2012, tại Hà Nội, Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng, hiệu quả phê bình văn học” được tổ chức trong một ngày. Buổi sáng, hội thảo khai mạc với sự có mặt của hơn 100 đại ...
VanVN.Net - Cụ Nguyễn Khắc Niêm (1889 – 1954) đỗ Hoàng giáp năm Đinh Mùi (1907) khi tròn 18 tuổi; trẻ thứ nhì trong lịch sử khoa cử Việt Nam, sau Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Khi vua Thành Thái mời các ...
VanVN.Net – Sáng 05/4/2012, tại hội trường Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), Ban Nhà văn trẻ đã có buổi chuẩn bị cho tiết mục trình diễn thơ và văn xuôi ...
VanVN.Net - Từ trước đến nay, nhiều người (trong đó có tôi) vẫn cho rằng, không kể cuốn gia phả lịch sử viết dưới dạng tiểu thuyết chương hồi Hoan châu ký (cuối thế kỷ XVII, không rõ tác giả), thì ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn