Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Trần Ninh Hồ có nhắc đến một quan niệm về thơ của cổ nhân. Ông nói rằng, suy cho đến cùng, thơ rất cần có “tình”, có “cảnh” và có “sự”. Trong đó, “tình” để xuất phát, “cảnh” để diễn đạt, diễn giải và “sự” để gửi gắm, đúc kết.
Lẽ thường khi triển khai một tứ thơ, có thể ai cũng có “tình”, có “cảnh”, nhưng có “sự” hay không thì lại là một việc hoàn toàn khác.
Tuy cùng “tức cảnh sinh tình” trước hiện tượng lá rơi (hoặc lá rụng), nhưng Trần Đăng Khoa thấy khác, cảm khác và Hoàng Cầm thấy khác, cảm khác.
Đây là hai câu lục bát của Trần Đăng Khoa:
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Còn đây là hai câu lục bát của Hoàng Cầm:
Lá đa lác đác trước thềm
Vài ba vệt máu loang chiều mùa đông.
Nếu hai câu thơ trước thiên về sự tài hoa và nếu để thi tả cái lá nào rơi nhẹ nhất, thì phần thắng thuộc về Trần Đăng Khoa. Còn hai câu thơ sau, cùng một lúc đụng đến được đến mấy cái chết và có màu sắc tâm trạng rõ rệt. Nói quá lên thì đấy là “khoảnh khắc bừng rộ của tâm trạng”. Nói cho đến cùng, rõ ràng hai câu thơ sau, có “sự” hẳn hoi.
Từ lâu, tôi đã quan tâm đến “sự” trong thơ. Và tôi chán những câu thơ đèm đẹp, chỉnh chu, trơn trượt. Rồi chán hơn nữa khi thơ chỉ đơn thuần là trò chơi hình thức của những cá nhân đơn lẻ, ròi rạc. Một khi đã rút lui vào trò chơi hình thức thì cũng chính là lúc nhà thơ bắt đầu bất lực với chính mình.
Với một xuất phất như thế, tôi đã đọc “Trong thế giới ngụy trang” (Nhà xuất bản Trẻ, quý 2 năm 2014).
Ở ngay bài đầu tiên (“Sinh nhật bài thơ”), Phùng Hiệu đã bắt đầu từ “Nơi góc tường hành khất”, tự nhận mình là “Một gã khờ ngọng nghịu ngôn từ/ Bỏ mặc phía sau cuộc đời manh áo” để cập nhật với “Cánh gió hoàng ùa về/ Những áng mây dối lừa ngày bão/ Cây cổ thụ ngoài vườn bật gốc/ Đàn chim thiên di cõi mộng”. Rồi từ đó mà “Nơi góc hồn/ Một bài thơ…”
Một phác thảo ban đầu về Phùng Hiệu – người thơ và thơ, như thế là đã quá đầy đủ.
Đến “Số phận”, ta bắt gặp một Phùng Hiệu luôn biết chấp nhận tất cả và chấp nhận cũng có nghĩa là phải vượt lên: “Sự sống vẫn bừng lên mái đầu ngụp lặn” và “Giữa thế giới phồn vinh, xa hoa, phí phạm/ Thế giới đói nghèo, chiến tranh khủng bố/ Thế giới có nguy cơ diệt hủy loài người/ Ở đây, em vẫn lớn lên…”
Đến “Tưởng thức”, ý tưởng của “Trong thế giới ngụy trang” được lộ dần ra: “Bởi những đó kỵ, tranh giành, tham ô, đốp chát/ Được ngụy trang và quy hoạch đàng hoàng”. Còn đau gì hơn khi những cái xấu lại được ngụy trang và quy hoạch đang hoàng? Còn buồn gì hơn khi “Nơi có những bức tường được trang trí màu đen/ Thời gian không ngã giá” (“Cạm bẫy em”).
Đến “Sự lãng mạn và cái ác”, Phùng Hiệu đã tìm được sự cứu rỗi cho riêng mình. Có một khoảng “vượt thoát” đã đến với anh – đó chính là đôi cánh lãng mạn. Anh đã hướng vào mình để viết: “Sự lãng mạn không mang đến nguy hại cho con người/ Đôi khi lại làm nên tến tuổi”. Đặt trong điều kiện mà sự lãng mạn ngày đang ít dần đi, mới thấy hết giá trị của hai câu thơ này.
Không phải là không có lúc Phùng Hiệu không hoang mang và đặt ra câu hỏi: “Anh vẫn biết ngày mai là vô tận/ được em rồi/ mất nữa hay không?” (“Mặc định”). Nhưng bản tinh của thi sĩ là con người lãng mạn nên anh vẫn say, vẫn mê, vẫn nhớ trong tình thế ngoái lại:
Tình quê đeo lệch một vai
Mở trang kí ức ngắm ngày chiêm bao
Chạm tay vào thuở khát khao
Chợt nghe kỷ niệm hôm nào thoàng qua…
(“Mảnh trăng quê”
Rồi những câu thơ yêu vẫn đến với Phùng Hiệu thật tự nhiên và đắm đuôi:
Rưng rức ngập bờ mưa
Ướt khung trời mộng mị
Đêm – lạc loài góc phố
Mơ một vòng tay yêu”
(“Xin lỗi em”)
và
Đã mấy đông rồi – buổi tiễn đưa
Sương giăng lạc mất phía ngày xưa
Đêm nay lạnh lẽo vì sao lẻ
Phố vắng không em trận gió lùa
(“Phố vằng không em”).
Tôi thích những “Khuôn viên định mức” trong “Bình Lộc nguyên xanh”, “tư duy ngoại lệ” trong “Phát sinh”, “thanh trừng ngôn ngữ” trong “Lạc mấy dòng tin”…Đó là những từ ngữ khó dùng mà vẫn sống trong thơ Phùng Hiệu.
Nhìn chung, thơ Phùng Hiệu mang nhiều giá trị cảnh tỉnh, cảnh báo và hiệu ứng tức thì. Thơ ấy là thơ của một người nhiều băn khoăn, tâm sự, có dấu ấn rất mạnh của đời sống hôm nay.
Đọc “Trong thế giới ngụy trang”, tự nhiên tôi nhớ đến một đoạn trong “Zarathustra đã nói như thế” của Nietzsche – nhà triết học Đức: “Hỡi con người! Các người đã đeo quá nhiều mặt nạ và quen đến nỗi cứ tưởng đấy là mặt thật của mình.”
Trong một lần trò chuyện, nhà thơ Trần Ninh Hồ có nhắc đến một quan niệm về thơ của cổ nhân. Ông nói rằng, suy cho đến cùng, thơ rất cần có “tình”, có “cảnh” và có “sự”. Trong đó, “tình” để xuất phát, “cảnh” để diễn đạt, diễn giải và “sự” để gửi gắm, đúc kết.
Lẽ thường khi triển khai một tứ thơ, có thể ai cũng có “tình”, có “cảnh”, nhưng có “sự” hay không thì lại là một việc hoàn toàn khác.
Tuy cùng “tức cảnh sinh tình” trước hiện tượng lá rơi (hoặc lá rụng), nhưng Trần Đăng Khoa thấy khác, cảm khác và Hoàng Cầm thấy khác, cảm khác.
Đây là hai câu lục bát của Trần Đăng Khoa:
Ngoài thềm rơi cái lá đa
Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng.
Còn đây là hai câu lục bát của Hoàng Cầm:
Lá đa lác đác trước thềm
Vài ba vệt máu loang chiều mùa đông.
Nếu hai câu thơ trước thiên về sự tài hoa và nếu để thi tả cái lá nào rơi nhẹ nhất, thì phần thắng thuộc về Trần Đăng Khoa. Còn hai câu thơ sau, cùng một lúc đụng đến được đến mấy cái chết và có màu sắc tâm trạng rõ rệt. Nói quá lên thì đấy là “khoảnh khắc bừng rộ của tâm trạng”. Nói cho đến cùng, rõ ràng hai câu thơ sau, có “sự” hẳn hoi.
Từ lâu, tôi đã quan tâm đến “sự” trong thơ. Và tôi chán những câu thơ đèm đẹp, chỉnh chu, trơn trượt. Rồi chán hơn nữa khi thơ chỉ đơn thuần là trò chơi hình thức của những cá nhân đơn lẻ, ròi rạc. Một khi đã rút lui vào trò chơi hình thức thì cũng chính là lúc nhà thơ bắt đầu bất lực với chính mình.
Với một xuất phất như thế, tôi đã đọc “Trong thế giới ngụy trang” (Nhà xuất bản Trẻ, quý 2 năm 2014).
Ở ngay bài đầu tiên (“Sinh nhật bài thơ”), Phùng Hiệu đã bắt đầu từ “Nơi góc tường hành khất”, tự nhận mình là “Một gã khờ ngọng nghịu ngôn từ/ Bỏ mặc phía sau cuộc đời manh áo” để cập nhật với “Cánh gió hoàng ùa về/ Những áng mây dối lừa ngày bão/ Cây cổ thụ ngoài vườn bật gốc/ Đàn chim thiên di cõi mộng”. Rồi từ đó mà “Nơi góc hồn/ Một bài thơ…”
Một phác thảo ban đầu về Phùng Hiệu – người thơ và thơ, như thế là đã quá đầy đủ.
Đến “Số phận”, ta bắt gặp một Phùng Hiệu luôn biết chấp nhận tất cả và chấp nhận cũng có nghĩa là phải vượt lên: “Sự sống vẫn bừng lên mái đầu ngụp lặn” và “Giữa thế giới phồn vinh, xa hoa, phí phạm/ Thế giới đói nghèo, chiến tranh khủng bố/ Thế giới có nguy cơ diệt hủy loài người/ Ở đây, em vẫn lớn lên…”
Đến “Tưởng thức”, ý tưởng của “Trong thế giới ngụy trang” được lộ dần ra: “Bởi những đó kỵ, tranh giành, tham ô, đốp chát/ Được ngụy trang và quy hoạch đàng hoàng”. Còn đau gì hơn khi những cái xấu lại được ngụy trang và quy hoạch đang hoàng? Còn buồn gì hơn khi “Nơi có những bức tường được trang trí màu đen/ Thời gian không ngã giá” (“Cạm bẫy em”).
Đến “Sự lãng mạn và cái ác”, Phùng Hiệu đã tìm được sự cứu rỗi cho riêng mình. Có một khoảng “vượt thoát” đã đến với anh – đó chính là đôi cánh lãng mạn. Anh đã hướng vào mình để viết: “Sự lãng mạn không mang đến nguy hại cho con người/ Đôi khi lại làm nên tến tuổi”. Đặt trong điều kiện mà sự lãng mạn ngày đang ít dần đi, mới thấy hết giá trị của hai câu thơ này.
Không phải là không có lúc Phùng Hiệu không hoang mang và đặt ra câu hỏi: “Anh vẫn biết ngày mai là vô tận/ được em rồi/ mất nữa hay không?” (“Mặc định”). Nhưng bản tinh của thi sĩ là con người lãng mạn nên anh vẫn say, vẫn mê, vẫn nhớ trong tình thế ngoái lại:
Tình quê đeo lệch một vai
Mở trang kí ức ngắm ngày chiêm bao
Chạm tay vào thuở khát khao
Chợt nghe kỷ niệm hôm nào thoàng qua…
(“Mảnh trăng quê”
Rồi những câu thơ yêu vẫn đến với Phùng Hiệu thật tự nhiên và đắm đuôi:
Rưng rức ngập bờ mưa
Ướt khung trời mộng mị
Đêm – lạc loài góc phố
Mơ một vòng tay yêu”
(“Xin lỗi em”)
và
Đã mấy đông rồi – buổi tiễn đưa
Sương giăng lạc mất phía ngày xưa
Đêm nay lạnh lẽo vì sao lẻ
Phố vắng không em trận gió lùa
(“Phố vằng không em”).
Tôi thích những “Khuôn viên định mức” trong “Bình Lộc nguyên xanh”, “tư duy ngoại lệ” trong “Phát sinh”, “thanh trừng ngôn ngữ” trong “Lạc mấy dòng tin”…Đó là những từ ngữ khó dùng mà vẫn sống trong thơ Phùng Hiệu.
Nhìn chung, thơ Phùng Hiệu mang nhiều giá trị cảnh tỉnh, cảnh báo và hiệu ứng tức thì. Thơ ấy là thơ của một người nhiều băn khoăn, tâm sự, có dấu ấn rất mạnh của đời sống hôm nay.
Đọc “Trong thế giới ngụy trang”, tự nhiên tôi nhớ đến một đoạn trong “Zarathustra đã nói như thế” của Nietzsche – nhà triết học Đức: “Hỡi con người! Các người đã đeo quá nhiều mặt nạ và quen đến nỗi cứ tưởng đấy là mặt thật của mình.”
VanVN.Net – Ngày 15/5/2014, tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội), Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội ...
VanVN.Net – Sáng 23/9/2014, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội), Lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Trung tâm quyền tác giả văn học Việt Nam (VLCC) và ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn