Ngày 25 tháng 10 năm 2013, tại Paris, UNESCO đã quyết định sẽ cùng Việt Nam kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du vào năm 2015. Như vậy, Nguyễn Du trở thành “Danh nhân văn hóa thế giới” cùng với Nguyễn Trãi (năm 1980), Hồ Chí Minh (1990). Đây không chỉ là tin vui, mà là niềm tự hào của mọi người dân Việt Nam, nhất là đối với những ai yêu mến Truyện Kiều và Nguyễn Du.
Hiểu cặn kẽ kiệt tác Truyện Kiều là điều không dễ. Hai trăm năm qua đã có biết bao cuộc tranh cãi, trao đổi… và xem ra việc đó chưa dừng ở hiện tại và tương lai. Nhân dịp này, chúng tôi giới thiệu bài trao đổi của nhà thơ Vương Trọng, Ủy viên BCH hội Kiều học Việt Nam khi nhà thơ Mai Văn Hoan không tán đồng cách hiểu của học giả Đào Duy Anh.
Trong tạp chí THƠ của Hội Nhà văn tháng 7 năm 2013, có đăng bài viết “Phải chăng cụ Đào Duy Anh có sự nhầm lẫn” của nhà thơ Mai Văn Hoan. Tác giả bài viết đặt vấn đề: “Phải chăng vì sự “thiếu minh xác” trong ngôn ngữ Truyện Kiều mà cụ Đào Duy Anh đã có sự hiểu nhầm khi phân tích đoạn Nguyễn Du diễn tả tâm trạng nàng Kiều trong thời gian chờ đợi Thúc sinh”? Để chứng minh cụ Đào Duy Anh đã nhầm, Mai Văn Hoan phân tích đoạn thơ:
Nàng từ chiếc bóng song the
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu
Bóng dâu đã xế ngang đầu
Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi
Tóc thề đã chấm ngang vai
Nào lời non nước, nào lời sắt son
Sắn bìm chút phận con con
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?(*)
Theo cụ Đào Duy Anh thì: “Sau khi Thúc Sinh về thăm quê, Thúy Kiều ở lại Lâm Tri một mình nàng cũng nhớ cha mẹ trước rồi mới nhớ đến tình nhân, vì bây giờ mối tình của nàng đối với Kim Trọng không có vẻ đau đớn như trước lúc mới ra đi nữa. Nhưng tình với Kim Trọng cũng khác hẳn tình đối với Thúc Sinh. Cho nên khi nhớ về Kim Trọng thì nghĩ lại lời thề ước mà khi nhớ về Thúc Sinh thì chỉ lo không biết cái duyên lẽ mọn của
mình đối với chàng có được toàn vẹn hay không?” (Khảo luận về Kim Vân Kiều). Nhà thơ Mai Văn Hoan cho rằng cụ Đào Duy Anh đã nhầm vì ở đây Thúy Kiều không nhớ cha mẹ, không nhớ Kim Trọng…
Để dễ tiếp nhận đoạn thơ này, ta hãy trở lại xem nàng Kiều quan niệm như thế nào về chữ Hiếu và chữ Tình. Khi gặp cảnh gia biến, nàng đã cân nhắc: “Duyên hội ngộ, đức cù lao/ Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”? Và đã đi đến quyết định: “Để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nghĩa là nàng đặt chữ Hiếu lên trên chữ tình, một quyết định không hề dễ dàng. Đó không chỉ là ý nghĩ khi quyết định bán mình chuộc cha, mà là tình cảm của nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc, hiếu và tình luôn giằng xé trong trái tim nàng.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã năm lần diễn tả nỗi cô đơn, buồn nhớ của Thúy Kiều tại năm thời điểm khác nhau trong mười lăm năm lưu lạc, mà đoạn thơ(*) Mai Văn Hoan xem xét ý nghĩa chỉ là một trong năm đoạn đó.
Lần đầu tiên trên đường theo Mã Giám Sinh từ Bắc Kinh về Lâm Tri nàng đã nhớ:
Dặm khuya ngất tạnh, mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc xen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thân hôn
Thì nỗi nhớ nàng chia ra làm hai, một nửa nhớ chàng Kim, một nửa nhớ cha mẹ.
Lần thứ hai là trước lầu Ngưng Bích:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể trơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Tình cảm chia đều bên tình bên hiếu, bốn câu nói nỗi nhớ chàng Kim, bốn câu sau nhớ về cha mẹ.
Lần thứ ba, trong lầu xanh Lâm Tri:
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Mỗi ngày một ngả bóng dâu tà tà
Dặm ngàn nước thẳm non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình
Nhớ lời thề nguyện ba sinh
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Càng xuân đã bẻ cho người chuyền tay
Tình sâu mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa…
Thì sáu câu nói nỗi nhớ cha mẹ, sáu câu nói nỗi nhớ chàng Kim. Khi mối tình mới chỉ có với chàng Kim, thì nỗi nhớ của nàng thường chia ra hai nửa, một nửa dành cho cha mẹ, một nửa dành cho chàng Kim. Do hoàn cảnh đưa đẩy phải chia ly với người tình cũ, đến với người tình mới, khi cô đơn buồn nhớ, nhớ người tình mới đã đành nhưng nàng không hề quên người tình cũ và không nguôi nỗi nhớ mẹ cha.
Theo thứ tự thời gian, đoạn buồn nhớ của Thúy Kiều(*) là lần thứ 4 được tác giả mô tả. Còn lần thứ 5, là nỗi nhớ của nàng khi ở nhà chờ Từ Hải đi đánh trận:
Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa
Xót thay huyện cỗi, xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi
Chốc đà mười mấy năm trời
Còn ra khi đã da mồi tóc sương
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Duyên em dầu nối chỉ hồng
May ra khi đã tay bồng tay mang
Tấc lòng cố quốc tha hương
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
Thì 6 câu đầu nói về nỗi nhớ cha mẹ, những câu tiếp nói nỗi nhớ Thúc Sinh, Kim Trọng, Từ Hải và nhớ quê. Như vậy, trong bốn lần mô tả sự cô đơn thương nhớ của Thúy Kiều, dù đoạn thơ dài ngắn khác nhau (4 đến 12 câu), dù khi nàng chỉ mới có một mối tình với Kim Trọng hay đã qua Thúc Sinh, đến với Từ Hải… không bao giờ tác giả quên nói nỗi lòng nhớ cha mẹ của nàng. Chứng tỏ với Thúy Kiều, nỗi nhớ cha mẹ thường trực trên bước đường lưu lạc.
Trở lại đoạn thơ (*) chúng ta đang khảo sát, đó là nỗi nhớ của Thúy Kiều ở Lâm Tri khi xa Thúc Sinh mà chính nhà thơ Mai Văn Hoan đã trích dẫn.
Nguyễn Du nhất quán trong việc tả tâm trạng và nỗi nhớ của Thúy Kiều trong bước đường lưu lạc, không bao giờ tách Tình ra khỏi Hiếu, dù thứ tự có thể khác nhau, nhưng bao giờ cũng tồn tại với nhau. Với nhận thức như vậy, dù chưa phân tích đoạn thơ này, từ bốn đoạn thơ trên kia, ta tin trong lần nhớ này, chữ Hiếu không vắng bóng, nghĩa là Thúy Kiều có nhớ cha mẹ, cùng nỗi nhớ những người tình, lúc này là Kim Trọng và Thúc Sinh. Nhà thơ Mai Văn Hoan đã phân tích khá dài để đưa đến kết luận rằng, “Bóng dâu đã xế ngang đầu/ Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi” là Thúy Kiều nghĩ về bản thân mình:
“… Nguyễn Du dùng hình ảnh “bóng dâu tà tà” để nói về tuổi đời của cha mẹ nàng. “Bóng dâu tà tà” là khi mặt trời sắp lặn, là chặng cuối của đời người. Nói như dân gian: hai ông bà đã đến cái tuổi “gần đất, xa trời” rồi. “Nhớ ơn chín chữ cao sâu” và “nghĩ đâu thân phận con ra thế này” khẳng định rõ ràng “chủ từ” của “một ngày một ngả bóng dâu tà tà”. Còn việc xác định “chủ từ” cho “bóng dâu đã xế ngang đầu” khó khăn hơn nhiều,
vì không hề có chi tiết nào phụ thêm để có thể bấu víu. Đây là cách nói “thiếu minh xác” cần phải giải mã. “Bóng dâu đã xế ngang đầu” khác với “một ngày một ngả bóng dâu tà tà”. “Bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ khoảng thời gian quá giờ Ngọ (hơn 12 giờ trưa), nghĩa là đã hơn một nửa đời người.
Mà như thế thì không phù hợp với tuổi tác của cha mẹ nàng Kiều chút nào. Năm, sáu năm về trước (khi Kiều đang ở lầu xanh của mụ Tú Bà) họ đã về già, bây giờ chẳng lẽ ông bà trẻ lại? Thi hào Nguyễn Du không bao giờ làm chuyện ngược đời như vậy. Từ đó ta có thể suy ra: Ở đây có thể là Kiều đang nghĩ về cuộc đời ngắn ngủi của chính mình. Sau bao nhiêu năm chìm nổi, lênh đênh, lưu lạc… lúc này Kiều tưởng như mình đã sống quá nửa cuộc đời. Bước qua tuổi 20 với những phụ nữ ngày xưa phần lớn đã êm ấm
gia đình. Có người đã sinh hạ ba, bốn đứa con. Còn nàng thì vẫn chưa được yên thân: “Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi?”. Nàng hết sức lo lắng cho chính bản thân mình, nhất là khi đang phấp phỏng chờ đợi Thúc Sinh. Mặc dù đã phó thác đời mình cho chàng Thúc nhưng Kiều vẫn cảm thấy hết sức bấp bênh”.
Nhà thơ Mai Văn Hoan đã chính xác khi nói rằng “Nguyễn Du dùng hình ảnh “bóng dâu tà tà” để nói về tuổi tác của cha mẹ nàng Kiều”, nhưng lại quá máy móc để phân tích “Bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ khoảng thời gian quá giờ Ngọ (hơn 12 giờ trưa)! Sự thật, “bóng dâu tà tà” hay “bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ cùng một ý, cùng nói rằng cha mẹ đã “xế bóng”, đã già rồi chứ không hề “định lượng” sự hơn kém về độ già giữa hai hình ảnh ấy. Vì Mai Văn Hoan muốn kéo hình ảnh thứ hai về cho hợp với Thúy Kiều (theo ông), nên ông mới định lượng là mới “quá ngọ”, chứ thực ra, trong câu chữ của Nguyễn Du không hề có nội dung ấy. Cái nhầm của Mai Văn Hoan bắt đầu từ chỗ này, nên nghĩ “Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi” là nàng Kiều nói về mình. Sự thật, khá dễ hiểu, Thúy Kiều lo nghĩ về cha mẹ nơi xa không biết sinh sống, ăn uống ra sao?
Và hai câu tiếp: “Tóc thế đã chấm ngang vai/ Nào lời non nước, nào lời sắt son”. Mai Văn Hoan cũng cho rằng đó là Thúy Kiều nhớ Thúc Sinh, chứ không phải nhớ Kim Trọng. Ông viết: “Nguyễn Du đã “nhập thân” vào nàng Kiều một cách hết sức tài tình. Lúc này bóng hình Thúc Kỳ Tâm hầu như choán hết tâm trí của nàng: Đêm thu gió lọt song đào/ Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời (“ba sao” là ba chấm cùng với nét cong của nửa vành trăng khuyết kết thành chữ Tâm). Vậy nàng Kiều còn lòng dạ nào để nghĩ đến người khác lúc này nữa”?
Đúng là Kiều có nhớ nhiều về Thúc Sinh, nhưng kết luận rằng chỉ nhớ Thúc Sinh thôi mà không còn lòng dạ nào để nhớ đến người khác nữa, xem ra không ổn. Chúng ta đọc lại lần Thúy Kiều nhớ khi phải xa Từ Hải xem! Rõ ràng là Từ đã cứu vớt Thúy Kiều ra khỏi vũng lầy lầu xanh, Thúc Sinh cũng từng làm thế, nhưng về sau đầu hàng máu ghen của Hoạn Thư, đã dứt tình với Thúy Kiều khi tuyên bố: “Ái ân ta có ngần này mà thôi”, thế mà khi đợi Từ Hải, Thúy Kiều vẫn nhớ về chàng Thúc: “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”, thì sao có thể kết luận được khi ở Lâm Tri xa Thúc Sinh, Thúy Kiều chỉ nhớ Thúc Sinh mà không nhớ Kim Trọng?
Ngẫm lại những “nỗi nhớ” của Thúy Kiều trong mười năm lăm lưu lạc, ta thấy nàng là người “tình nặng, nghĩa dày”, không những có Tình không bao giờ quên Hiếu, mà mối tình nào cũng sâu nặng, không hề lãng quên mối tình trước khi hoàn cảnh đã dun dủi nàng tới mối tình sau. Hình như nhà thơ Mai Văn Hoan đã không lưu ý điều này nên đã hiểu lệch nỗi nhớ của nàng khi xa Thúc Sinh ở Lâm Tri, rồi tưởng học giả Đào Duy Anh đã nhầm lẫn, thực ra sự nhầm lẫn thuộc về chính Mai Văn Hoan!
Có vài ý nữa cũng muốn được trao đổi với Mai Văn Hoan. Thứ nhất, ông viết: “Năm, sáu năm về trước (khi Kiều đang ở lầu xanh với Tú Bà) họ đã về già, bây giờ chẳng lẽ ông bà trẻ lại”? Ở trên kia tôi đã nói rằng “bóng dâu tà tà” hay “bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ cùng một ý bố mẹ đã ngả bóng chiều, đã già mà không nói cụ thể già đến mức nào. Ở đây tôi muốn lưu ý rằng, Mai Văn Hoan bảo “năm, sáu năm về trước…”, nghĩa là ông cho rằng khoảng cách giữa hai lần nhớ (3) và (4) là năm hoặc sáu năm. Điều này không có căn cứ. Tôi đã bỏ khá nhiều thời gian để giải bài toán “ Thời gian trong Truyện Kiều”, cố xem một cách cụ thể trong 15 năm lưu lạc ấy, Thúy Kiều đã ở với ai, ở đâu… bao nhiêu thời gian, nhưng cuối cùng đành bó tay vì…không đủ giả thiết! Cụ thể không làm sao để biết được Thúy Kiều ở lầu xanh Lâm Tri trong bao lâu! Ta chỉ biết rằng sau khi Thúc Sinh hoàn lương Thúy Kiều, họ sống với nhau một năm thì Thúc Sinh về Vô Tích ở với Hoạn Thư một năm. Nỗi nhớ (3) của Thúy Kiều là khi ở lầu xanh, nhưng ta cũng không biết ở quãng đầu, giữa, hay cuối thời kỳ này. Còn nỗi nhớ (4) thì cuối thời kỳ chờ đợi Thúc Sinh, tức là cách ngày nàng rời lầu xanh chừng hai năm. Như vậy, ta chỉ kết luận được khoảng cách giữa nỗi nhớ (3) và (4) là “nhiều hơn hai năm” mà thôi! Thứ hai, trong bài viết của mình, ông tỏ ra đồng tình với Đoàn Phú Tứ khi nhận định “cách viết thiếu minh xác” của Nguyễn Du trong Truyện Kiều dẫn đến khó hiểu, làm như “thiếu minh xác” là một đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều. Nếu điều ấy đúng thì tin chắc Truyện Kiều không thể là tuyệt tác và Nguyễn Du khó thành Đại thi hào được UNESCO tôn vinh “Danh nhân Văn hóa thế giới” trong dịp kỷ niệm 250 năm ngày sinh vào năm 2015 sắp tới!.. Thơ khác với văn xuôi là không phải khi nào một câu cũng có đủ các thành phần, và nhiều khi tác giả sử dụng chủ ngữ ẩn. Nhưng nói chung, ngôn ngữ Truyện Kiều khá trong sáng. Tuy thơ cổ điển thường dùng nhiều điển tích, nhưng ngay trong trường hợp này, Nguyễn Du vẫn sử dụng một cách “thông thoáng” làm cho bạn đọc dễ tiếp nhận. Một điều đáng chú ý là trong Truyện Kiều tác giả dùng nhiều thủ pháp hoán dụ, mà nội dung của nó rút từ điển tích, cổ thi… khá quen thuộc trong thơ cổ điển buộc người đọc phải nắm bắt điều đó mới hiểu hiểu được nội dung của câu thơ. Ví như “tử”, “phần” là nói về quê hương, “mây tần” là nói nỗi nhớ quê, “bóng dâu tà tà” hay “bóng dâu đã xế” nói tuổi già cha mẹ… Cũng tương tự, khi Kim Kiều thề bồi: “Tóc mây một món dao vàng chia hai” thì “TÓC THỀ” đã trở thành biểu tượng cho mối tình Kim Kiều mà không thể nhầm sang mối tình khác. Cách diễn đạt trong những câu thơ như vậy không hề “thiếu minh xác” chút nào!
Tháng 11- 2013
Ngày 25 tháng 10 năm 2013, tại Paris, UNESCO đã quyết định sẽ cùng Việt Nam kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Đại thi hào Nguyễn Du vào năm 2015. Như vậy, Nguyễn Du trở thành “Danh nhân văn hóa thế giới” cùng với Nguyễn Trãi (năm 1980), Hồ Chí Minh (1990). Đây không chỉ là tin vui, mà là niềm tự hào của mọi người dân Việt Nam, nhất là đối với những ai yêu mến Truyện Kiều và Nguyễn Du.
Hiểu cặn kẽ kiệt tác Truyện Kiều là điều không dễ. Hai trăm năm qua đã có biết bao cuộc tranh cãi, trao đổi… và xem ra việc đó chưa dừng ở hiện tại và tương lai. Nhân dịp này, chúng tôi giới thiệu bài trao đổi của nhà thơ Vương Trọng, Ủy viên BCH hội Kiều học Việt Nam khi nhà thơ Mai Văn Hoan không tán đồng cách hiểu của học giả Đào Duy Anh.
Trong tạp chí THƠ của Hội Nhà văn tháng 7 năm 2013, có đăng bài viết “Phải chăng cụ Đào Duy Anh có sự nhầm lẫn” của nhà thơ Mai Văn Hoan. Tác giả bài viết đặt vấn đề: “Phải chăng vì sự “thiếu minh xác” trong ngôn ngữ Truyện Kiều mà cụ Đào Duy Anh đã có sự hiểu nhầm khi phân tích đoạn Nguyễn Du diễn tả tâm trạng nàng Kiều trong thời gian chờ đợi Thúc sinh”? Để chứng minh cụ Đào Duy Anh đã nhầm, Mai Văn Hoan phân tích đoạn thơ:
Nàng từ chiếc bóng song the
Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu
Bóng dâu đã xế ngang đầu
Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi
Tóc thề đã chấm ngang vai
Nào lời non nước, nào lời sắt son
Sắn bìm chút phận con con
Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?(*)
Theo cụ Đào Duy Anh thì: “Sau khi Thúc Sinh về thăm quê, Thúy Kiều ở lại Lâm Tri một mình nàng cũng nhớ cha mẹ trước rồi mới nhớ đến tình nhân, vì bây giờ mối tình của nàng đối với Kim Trọng không có vẻ đau đớn như trước lúc mới ra đi nữa. Nhưng tình với Kim Trọng cũng khác hẳn tình đối với Thúc Sinh. Cho nên khi nhớ về Kim Trọng thì nghĩ lại lời thề ước mà khi nhớ về Thúc Sinh thì chỉ lo không biết cái duyên lẽ mọn của
mình đối với chàng có được toàn vẹn hay không?” (Khảo luận về Kim Vân Kiều). Nhà thơ Mai Văn Hoan cho rằng cụ Đào Duy Anh đã nhầm vì ở đây Thúy Kiều không nhớ cha mẹ, không nhớ Kim Trọng…
Để dễ tiếp nhận đoạn thơ này, ta hãy trở lại xem nàng Kiều quan niệm như thế nào về chữ Hiếu và chữ Tình. Khi gặp cảnh gia biến, nàng đã cân nhắc: “Duyên hội ngộ, đức cù lao/ Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”? Và đã đi đến quyết định: “Để lời thệ hải minh sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Nghĩa là nàng đặt chữ Hiếu lên trên chữ tình, một quyết định không hề dễ dàng. Đó không chỉ là ý nghĩ khi quyết định bán mình chuộc cha, mà là tình cảm của nàng trong suốt mười lăm năm lưu lạc, hiếu và tình luôn giằng xé trong trái tim nàng.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã năm lần diễn tả nỗi cô đơn, buồn nhớ của Thúy Kiều tại năm thời điểm khác nhau trong mười lăm năm lưu lạc, mà đoạn thơ(*) Mai Văn Hoan xem xét ý nghĩa chỉ là một trong năm đoạn đó.
Lần đầu tiên trên đường theo Mã Giám Sinh từ Bắc Kinh về Lâm Tri nàng đã nhớ:
Dặm khuya ngất tạnh, mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Rừng thu từng biếc xen hồng
Nghe chim như nhắc tấm lòng thân hôn
Thì nỗi nhớ nàng chia ra làm hai, một nửa nhớ chàng Kim, một nửa nhớ cha mẹ.
Lần thứ hai là trước lầu Ngưng Bích:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể trơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Tình cảm chia đều bên tình bên hiếu, bốn câu nói nỗi nhớ chàng Kim, bốn câu sau nhớ về cha mẹ.
Lần thứ ba, trong lầu xanh Lâm Tri:
Nhớ ơn chín chữ cao sâu
Mỗi ngày một ngả bóng dâu tà tà
Dặm ngàn nước thẳm non xa
Nghĩ đâu thân phận con ra thế này
Sân hòe đôi chút thơ ngây
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình
Nhớ lời thề nguyện ba sinh
Xa xôi ai có thấu tình chăng ai
Khi về hỏi liễu Chương Đài
Càng xuân đã bẻ cho người chuyền tay
Tình sâu mong trả nghĩa dày
Hoa kia đã chắp cành này cho chưa…
Thì sáu câu nói nỗi nhớ cha mẹ, sáu câu nói nỗi nhớ chàng Kim. Khi mối tình mới chỉ có với chàng Kim, thì nỗi nhớ của nàng thường chia ra hai nửa, một nửa dành cho cha mẹ, một nửa dành cho chàng Kim. Do hoàn cảnh đưa đẩy phải chia ly với người tình cũ, đến với người tình mới, khi cô đơn buồn nhớ, nhớ người tình mới đã đành nhưng nàng không hề quên người tình cũ và không nguôi nỗi nhớ mẹ cha.
Theo thứ tự thời gian, đoạn buồn nhớ của Thúy Kiều(*) là lần thứ 4 được tác giả mô tả. Còn lần thứ 5, là nỗi nhớ của nàng khi ở nhà chờ Từ Hải đi đánh trận:
Đoái trông muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa
Xót thay huyện cỗi, xuân già
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi
Chốc đà mười mấy năm trời
Còn ra khi đã da mồi tóc sương
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng
Duyên em dầu nối chỉ hồng
May ra khi đã tay bồng tay mang
Tấc lòng cố quốc tha hương
Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời
Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm
Thì 6 câu đầu nói về nỗi nhớ cha mẹ, những câu tiếp nói nỗi nhớ Thúc Sinh, Kim Trọng, Từ Hải và nhớ quê. Như vậy, trong bốn lần mô tả sự cô đơn thương nhớ của Thúy Kiều, dù đoạn thơ dài ngắn khác nhau (4 đến 12 câu), dù khi nàng chỉ mới có một mối tình với Kim Trọng hay đã qua Thúc Sinh, đến với Từ Hải… không bao giờ tác giả quên nói nỗi lòng nhớ cha mẹ của nàng. Chứng tỏ với Thúy Kiều, nỗi nhớ cha mẹ thường trực trên bước đường lưu lạc.
Trở lại đoạn thơ (*) chúng ta đang khảo sát, đó là nỗi nhớ của Thúy Kiều ở Lâm Tri khi xa Thúc Sinh mà chính nhà thơ Mai Văn Hoan đã trích dẫn.
Nguyễn Du nhất quán trong việc tả tâm trạng và nỗi nhớ của Thúy Kiều trong bước đường lưu lạc, không bao giờ tách Tình ra khỏi Hiếu, dù thứ tự có thể khác nhau, nhưng bao giờ cũng tồn tại với nhau. Với nhận thức như vậy, dù chưa phân tích đoạn thơ này, từ bốn đoạn thơ trên kia, ta tin trong lần nhớ này, chữ Hiếu không vắng bóng, nghĩa là Thúy Kiều có nhớ cha mẹ, cùng nỗi nhớ những người tình, lúc này là Kim Trọng và Thúc Sinh. Nhà thơ Mai Văn Hoan đã phân tích khá dài để đưa đến kết luận rằng, “Bóng dâu đã xế ngang đầu/ Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi” là Thúy Kiều nghĩ về bản thân mình:
“… Nguyễn Du dùng hình ảnh “bóng dâu tà tà” để nói về tuổi đời của cha mẹ nàng. “Bóng dâu tà tà” là khi mặt trời sắp lặn, là chặng cuối của đời người. Nói như dân gian: hai ông bà đã đến cái tuổi “gần đất, xa trời” rồi. “Nhớ ơn chín chữ cao sâu” và “nghĩ đâu thân phận con ra thế này” khẳng định rõ ràng “chủ từ” của “một ngày một ngả bóng dâu tà tà”. Còn việc xác định “chủ từ” cho “bóng dâu đã xế ngang đầu” khó khăn hơn nhiều,
vì không hề có chi tiết nào phụ thêm để có thể bấu víu. Đây là cách nói “thiếu minh xác” cần phải giải mã. “Bóng dâu đã xế ngang đầu” khác với “một ngày một ngả bóng dâu tà tà”. “Bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ khoảng thời gian quá giờ Ngọ (hơn 12 giờ trưa), nghĩa là đã hơn một nửa đời người.
Mà như thế thì không phù hợp với tuổi tác của cha mẹ nàng Kiều chút nào. Năm, sáu năm về trước (khi Kiều đang ở lầu xanh của mụ Tú Bà) họ đã về già, bây giờ chẳng lẽ ông bà trẻ lại? Thi hào Nguyễn Du không bao giờ làm chuyện ngược đời như vậy. Từ đó ta có thể suy ra: Ở đây có thể là Kiều đang nghĩ về cuộc đời ngắn ngủi của chính mình. Sau bao nhiêu năm chìm nổi, lênh đênh, lưu lạc… lúc này Kiều tưởng như mình đã sống quá nửa cuộc đời. Bước qua tuổi 20 với những phụ nữ ngày xưa phần lớn đã êm ấm
gia đình. Có người đã sinh hạ ba, bốn đứa con. Còn nàng thì vẫn chưa được yên thân: “Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi?”. Nàng hết sức lo lắng cho chính bản thân mình, nhất là khi đang phấp phỏng chờ đợi Thúc Sinh. Mặc dù đã phó thác đời mình cho chàng Thúc nhưng Kiều vẫn cảm thấy hết sức bấp bênh”.
Nhà thơ Mai Văn Hoan đã chính xác khi nói rằng “Nguyễn Du dùng hình ảnh “bóng dâu tà tà” để nói về tuổi tác của cha mẹ nàng Kiều”, nhưng lại quá máy móc để phân tích “Bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ khoảng thời gian quá giờ Ngọ (hơn 12 giờ trưa)! Sự thật, “bóng dâu tà tà” hay “bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ cùng một ý, cùng nói rằng cha mẹ đã “xế bóng”, đã già rồi chứ không hề “định lượng” sự hơn kém về độ già giữa hai hình ảnh ấy. Vì Mai Văn Hoan muốn kéo hình ảnh thứ hai về cho hợp với Thúy Kiều (theo ông), nên ông mới định lượng là mới “quá ngọ”, chứ thực ra, trong câu chữ của Nguyễn Du không hề có nội dung ấy. Cái nhầm của Mai Văn Hoan bắt đầu từ chỗ này, nên nghĩ “Biết đâu ấm lạnh, biết đâu ngọt bùi” là nàng Kiều nói về mình. Sự thật, khá dễ hiểu, Thúy Kiều lo nghĩ về cha mẹ nơi xa không biết sinh sống, ăn uống ra sao?
Và hai câu tiếp: “Tóc thế đã chấm ngang vai/ Nào lời non nước, nào lời sắt son”. Mai Văn Hoan cũng cho rằng đó là Thúy Kiều nhớ Thúc Sinh, chứ không phải nhớ Kim Trọng. Ông viết: “Nguyễn Du đã “nhập thân” vào nàng Kiều một cách hết sức tài tình. Lúc này bóng hình Thúc Kỳ Tâm hầu như choán hết tâm trí của nàng: Đêm thu gió lọt song đào/ Nửa vành trăng khuyết, ba sao giữa trời (“ba sao” là ba chấm cùng với nét cong của nửa vành trăng khuyết kết thành chữ Tâm). Vậy nàng Kiều còn lòng dạ nào để nghĩ đến người khác lúc này nữa”?
Đúng là Kiều có nhớ nhiều về Thúc Sinh, nhưng kết luận rằng chỉ nhớ Thúc Sinh thôi mà không còn lòng dạ nào để nhớ đến người khác nữa, xem ra không ổn. Chúng ta đọc lại lần Thúy Kiều nhớ khi phải xa Từ Hải xem! Rõ ràng là Từ đã cứu vớt Thúy Kiều ra khỏi vũng lầy lầu xanh, Thúc Sinh cũng từng làm thế, nhưng về sau đầu hàng máu ghen của Hoạn Thư, đã dứt tình với Thúy Kiều khi tuyên bố: “Ái ân ta có ngần này mà thôi”, thế mà khi đợi Từ Hải, Thúy Kiều vẫn nhớ về chàng Thúc: “Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng”, thì sao có thể kết luận được khi ở Lâm Tri xa Thúc Sinh, Thúy Kiều chỉ nhớ Thúc Sinh mà không nhớ Kim Trọng?
Ngẫm lại những “nỗi nhớ” của Thúy Kiều trong mười năm lăm lưu lạc, ta thấy nàng là người “tình nặng, nghĩa dày”, không những có Tình không bao giờ quên Hiếu, mà mối tình nào cũng sâu nặng, không hề lãng quên mối tình trước khi hoàn cảnh đã dun dủi nàng tới mối tình sau. Hình như nhà thơ Mai Văn Hoan đã không lưu ý điều này nên đã hiểu lệch nỗi nhớ của nàng khi xa Thúc Sinh ở Lâm Tri, rồi tưởng học giả Đào Duy Anh đã nhầm lẫn, thực ra sự nhầm lẫn thuộc về chính Mai Văn Hoan!
Có vài ý nữa cũng muốn được trao đổi với Mai Văn Hoan. Thứ nhất, ông viết: “Năm, sáu năm về trước (khi Kiều đang ở lầu xanh với Tú Bà) họ đã về già, bây giờ chẳng lẽ ông bà trẻ lại”? Ở trên kia tôi đã nói rằng “bóng dâu tà tà” hay “bóng dâu đã xế ngang đầu” chỉ cùng một ý bố mẹ đã ngả bóng chiều, đã già mà không nói cụ thể già đến mức nào. Ở đây tôi muốn lưu ý rằng, Mai Văn Hoan bảo “năm, sáu năm về trước…”, nghĩa là ông cho rằng khoảng cách giữa hai lần nhớ (3) và (4) là năm hoặc sáu năm. Điều này không có căn cứ. Tôi đã bỏ khá nhiều thời gian để giải bài toán “ Thời gian trong Truyện Kiều”, cố xem một cách cụ thể trong 15 năm lưu lạc ấy, Thúy Kiều đã ở với ai, ở đâu… bao nhiêu thời gian, nhưng cuối cùng đành bó tay vì…không đủ giả thiết! Cụ thể không làm sao để biết được Thúy Kiều ở lầu xanh Lâm Tri trong bao lâu! Ta chỉ biết rằng sau khi Thúc Sinh hoàn lương Thúy Kiều, họ sống với nhau một năm thì Thúc Sinh về Vô Tích ở với Hoạn Thư một năm. Nỗi nhớ (3) của Thúy Kiều là khi ở lầu xanh, nhưng ta cũng không biết ở quãng đầu, giữa, hay cuối thời kỳ này. Còn nỗi nhớ (4) thì cuối thời kỳ chờ đợi Thúc Sinh, tức là cách ngày nàng rời lầu xanh chừng hai năm. Như vậy, ta chỉ kết luận được khoảng cách giữa nỗi nhớ (3) và (4) là “nhiều hơn hai năm” mà thôi! Thứ hai, trong bài viết của mình, ông tỏ ra đồng tình với Đoàn Phú Tứ khi nhận định “cách viết thiếu minh xác” của Nguyễn Du trong Truyện Kiều dẫn đến khó hiểu, làm như “thiếu minh xác” là một đặc điểm của ngôn ngữ Truyện Kiều. Nếu điều ấy đúng thì tin chắc Truyện Kiều không thể là tuyệt tác và Nguyễn Du khó thành Đại thi hào được UNESCO tôn vinh “Danh nhân Văn hóa thế giới” trong dịp kỷ niệm 250 năm ngày sinh vào năm 2015 sắp tới!.. Thơ khác với văn xuôi là không phải khi nào một câu cũng có đủ các thành phần, và nhiều khi tác giả sử dụng chủ ngữ ẩn. Nhưng nói chung, ngôn ngữ Truyện Kiều khá trong sáng. Tuy thơ cổ điển thường dùng nhiều điển tích, nhưng ngay trong trường hợp này, Nguyễn Du vẫn sử dụng một cách “thông thoáng” làm cho bạn đọc dễ tiếp nhận. Một điều đáng chú ý là trong Truyện Kiều tác giả dùng nhiều thủ pháp hoán dụ, mà nội dung của nó rút từ điển tích, cổ thi… khá quen thuộc trong thơ cổ điển buộc người đọc phải nắm bắt điều đó mới hiểu hiểu được nội dung của câu thơ. Ví như “tử”, “phần” là nói về quê hương, “mây tần” là nói nỗi nhớ quê, “bóng dâu tà tà” hay “bóng dâu đã xế” nói tuổi già cha mẹ… Cũng tương tự, khi Kim Kiều thề bồi: “Tóc mây một món dao vàng chia hai” thì “TÓC THỀ” đã trở thành biểu tượng cho mối tình Kim Kiều mà không thể nhầm sang mối tình khác. Cách diễn đạt trong những câu thơ như vậy không hề “thiếu minh xác” chút nào!
Tháng 11- 2013
VanVN.Net – Ngày 15/5/2014, tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam (số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội), Hội thảo khoa học quốc gia với chủ đề “Phát triển văn học Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội ...
VanVN.Net - Trong số các nhà thơ chống Mỹ, Hữu Thỉnh không phải là người gây được ấn tượng sớm. Hầu như phần lớn thành tựu trong sáng tác của ông đều xuất hiện sau năm 1975. Song, Hữu Thỉnh lại ...
VanVN.Net – Sáng 26/5/2014, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, Hai Bà Trưng, Hà Nội), lễ ra mắt Trung tâm dịch văn học Việt Nam đã được tổ chức trọng thể. Đến dự buổi ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn