6 BẢN THAM LUẬN TẠI HỘI THẢO THƠ NGUYỄN ĐÌNH ẢNH-NGUYỄN THỊ LAN THANH
Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch HNV VN tặng hoa nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh tại hội thảo
NGUYỄN ĐÌNH ẢNH - NHỮNG CÂU THƠ SINH RA TỪ HẠT SỎI
NGUYỄN VĂN TOẠI
Nguyễn Đình Ảnh người Sơn Dương, một xã hạ huyện, còn tôi người làng Dòng, xã Xuân Lũng, một làng văn hiến danh bất hư truyền. Khi còn ngồi trên ghế nhà trường cấp 2 Lâm Thao (Phú Thọ), ngôi trường nhỏ tọa lạc trên một quả đồi trọc, Ảnh và tôi thường nhặt những viên sỏi đỏ sạch tinh tươm bị xô lại thành từng đống sau mỗi trận mưa rào bỏ vào cặp sách của nhau, có lúc để vãi cả ra bàn học. Vì chúng tôi thuộc nhóm những học sinh có năng khiếu văn học nên thầy chủ nhiệm xếp cho ngồi cùng một bàn. Thầy thường bóc những bài thơ bích báo của Ảnh và tôi để đọc và bình cho cả lớp nghe. Tuy nhiên, cách tiếp cận với con đường sáng tác văn học sau này của chúng tôi thì không ai giống ai. Tôi có phần hơi kín cạnh. Ảnh thì phát lộ không chút dè dặt. Năm học lớp 10 (trường Hùng Vương đặt ở thị xã Phú Thọ), năm cuối cấp của hệ trung học mười năm, Ảnh càng tỏ ra đam mê văn chương hơn các bộ môn khác. Tôi rất ngạc nhiên không hiểu vì sao anh lại đọc được nhiều tác giả của nhóm Tự lực văn đoàn (TLVĐ) đến vậy? Nếu so với mảng tiểu thuyết về tình yêu, về sex bây giờ thì các ấn phẩm của TLVĐ nào có là gì, vậy mà một thời chúng đã bị cấm lưu hành, trước nhất là trong giới trẻ. Tôi thừa biết, Ảnh thường lén đọc và lặng lẽ chép thơ của TLVĐ vào lúc khuya, ở nơi anh trọ học, một ngõ nhỏ trong cái thị xã đìu hiu và yên tĩnh.
Một hôm, Ảnh chìa ra trước mặt tôi một cuốn sách in trên giấy xấu, gáy sách xộc xệch, chứng tỏ đã qua tay nhiều người và nói nhỏ: “Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Nxb “Đời nay” ấn hành năm 1934 đấy! Tao tin mày không phản bạn...”.
Trước thập kỷ 60 của thế kỷ trước, thế hệ chúng tôi chỉ biết đọc và học đến mờ cả mắt dưới ngọn đèn dầu lom đom mấy tác phẩm: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng. Văn học hiện thực phê phán có Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan. Các tác gia thuộc trường phái lãng mạn giai đoạn 1930-1945 thì tạm thời bị ém lại. Bấy giờ, cả huyện Lâm Thao chỉ có một trường cấp 2 đặt ở xã Xuân Lũng. Ảnh phải trọ học. Biết nhà tôi có nhiều sách quý do cha tôi lưu giữ, Ảnh gạ tôi cho đến nhà để thực mục sở thị. Cha tôi là một nhà sư phạm mực thước, tháng nào cũng trích tiền lương để mua sách và báo đọc hàng ngày. Tủ sách của ông có tới vài trăm quyển, chưa kể những tác phẩm bằng tiếng Pháp của Stendhan, Alphonse de Lamartine, Victo Hugo. Nhà thơ lãng mạn người Anh G. Byron... Rồi thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ bằng Hán văn. Ông rất chú ý đến việc đọc sách của các con. Và, với riêng tôi. Ông yêu cầu đọc phải có chọn lọc. Tủ sách của ông có cuốn Thép đã tôi thế đấy của văn hào Nga N. Ôxtơrôpxki, bản dịch tiếng Việt, bên cạnh đó là bản tiếng Pháp được “comble” rất cẩn thận - từ cha tôi ưa dùng để chỉ những cuốn sách được đóng bìa cứng. Tôi chỉ cho Ảnh thấy 3 cuốn bị thay bìa là Vượt Côn Đảo của Phùng Quán, Người người lớp lớp của Trần Dần và Đất nước đứng lên, đó chính là 3 tác phẩm mà cha tôi luôn nhắc chúng tôi “không được lướt qua!”. Bởi lúc đó, ngoài xã hội, đặc biệt là trong quân đội, người ta đang cổ vũ rùm beng cho những tác giả này. Đề cao là thế, nhưng khi Phùng Quán và Trần Dần dính vào vụ “Nhân văn - Giai phẩm” thì tác phẩm của họ cũng bị lãng quên một cách chóng vánh. Với nhà văn Vũ Trọng Phụng cha tôi chỉ cho phép đọc hạn chế. Ảnh cười bảo tôi: “Lúc nào ông bô lên lớp thì ở nhà lôi ra mà đọc...”. Anh rất muốn trao đổi sách với tôi và hứa sẽ cho tôi mượn Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính, bản chép tay, chữ con gái như gà bới. Có hôm, tôi đang mải đọc Giống tố của Vũ Trọng Phụng thì cha tôi đột ngột về nhà. Tôi lúng túng đem vùi cuốn sách vào cót lúa. Lần đầu tiên trong đời tôi thấy ông buồn ra mặt.
Điều kỳ lạ là khi đã vào học khoa Ngữ văn trường đại học Tổng hợp Quốc gia, Hà Nội, các sinh viên văn khoa vẫn bị lườm nguýt nếu quá đam mê các tác giả này. Ông già giữ sách của thư viện khoa lại càng khó tính hơn. Nguyễn Đình Ảnh vào học khoa Văn trường đai học Sư phạm Hà Nội, Cầu Giấy. Chúng tôi càng có cớ để gặp nhau. Ảnh đã khiến tôi phải sửng sốt khi anh khoe với tôi một cuốn sổ dễ đến cả ngàn trang chép tay toàn thơ lãng mạn của Xuân Diệu, Thế Lữ, Huy Cận, Nguyễn Bính... Nét chữ của Ảnh thì không thể lẫn được.
Ở Hội Văn học nghệ thuật Phú Thọ hồi ấy có hai hình người “dáng dấp thì hom hem - Mà lạ: đã bao giờ ốm” (Tự họa) thích đội mũ phớt, mùa hè cũng như mùa đông, đó là nhà văn Sao Mai và nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh. Hóa ra hai vị từng là lãnh đạo Hội này bị hói đầu khá nặng. Nguyễn Đình Ảnh làm quen với “tiên tửu” từ tuổi học trò. Anh “dạy khôn” tôi: “Thi nhân mà tửu lượng xoàng thì thơ không thể nồng được!”. Tôi hỏi lại anh “nồng là thế nào”, thì anh cười xòa. Tôi từng bắt gặp anh ngồi một mình trên đồi sỏi, mắt đăm đăm nhìn lên trời, bên cạnh là cút rượu đã vơi và cái chén hạt mít. Bây giờ, khi đã vào tuổi cổ lai hy tôi không khỏi bồi hồi thương nhớ bạn thơ Nguyễn Đình Ảnh. Rõ ràng, anh rất nghèo tiền bạc nhưng lại là người có bản lĩnh, sớm bộc lộ cá tính riêng. Ở anh luôn toát ra một cái gì đó tựa như bất cần đời. Có những buổi học anh vắng mặt không lý do hoặc lý do không xác đáng. Anh phải mượn vở học của tôi để chép lại bài giảng của thầy. Nhờ sáng dạ mà anh nhanh chóng bù lấp được những lỗ hổng kiến thức của mình. Riêng tiếng Nga, môn ngoại ngữ rất thịnh hành thời ấy thì anh phải nhờ vào sự trợ giúp của tôi.
Cùng đến với “nàng thơ” khá sớm nhưng Nguyễn Đình Ảnh chóng bén duyên hơn tôi. Anh chung tình với nàng đến nỗi ngồi trong lớp chểnh mảng nghe thầy giảng bài và hý hoáy viết thơ. Người làm sao bào hao thơ làm vậy. Ngoài đời anh vốn kiệm lời. Không thích những gì dữ dằn. Anh trầm tĩnh cả khi đáng nổi giận. Ngay từ năm học lớp 10, anh đã có thơ đăng trên một vài tờ báo trung ương. Đọc bài thơ viết về các chàng trai, cô gái Hà Nội xung phong lên nông trường trồng bông Tô Hiệu, địa phận Hát Lót, Sơn La, xây dựng quê hương mới, in trên báo Người giáo viên nhân dân tôi thật lòng mừng cho thành quả sáng tác đầu tay này của anh. Chỉ tiếc là bài thơ không có mặt trong Tuyển tập. Năm 1970, tôi đọc bài thơ Chào đất nước của anh in trên báo Nhân dân. Khi tình cờ gặp lại nhau, anh chủ động vào chuyện: “Đó là giây phút mình kịp đón được cảm hứng của thời đại. Không dễ gì lặp lại”. Đoạn, anh ghé tai tôi, giọng hào hứng: “Chà! Trăng đêm nay sáng quá! Có nhuận bút đây rồi. Đi uống rượu với mình!”. Tôi nói vui: “Đừng bắt chước Lý Bạch uống rượu ôm bóng trăng mà ngã xuống nước đấy nhé!” - Tôi nắm được tình tiết này qua cha tôi.
Đất nào, cây quả ấy.
Hãy tạm gác sang một những câu, những bài thơ “đại ngôn” mà một thời những người làm thơ chúng tôi đã vướng phải. Không gì khác là căn bệnh duy ý chí. “Khi chúng ta đi dưới vòm cây - Bao đồng chí còn đang nằm đợi giặc. Khi ta nắm bàn tay nhau và nói về hạnh phúc - Bao ngôi nhà giặc phá đã lành đâu”...
“Mốt thơ” bấy giờ phải thế! Trong cả dàn đồng ca chiến đấu, bất kỳ tiếng ca lạc lõng nào cũng đều bị loại trừ. Tuổi trẻ thời nay chắc chắn khó tiêu hóa nổi những suy nghĩ một chiều cứng nhắc như thế. Có gì phải lăn tăn? Chúng tôi tự giác chấp nhận, thậm chí tự hào là đã từng biết sống và hành động như vậy. Đã chẳng có chuyện nhà thơ nọ đương lúc đắm đuối ôm hôn người yêu bỗng nghe tiếng kêu thét (qua Đài) của bà con mình ở phía bờ Nam vì bị Mỹ Ngụy tàn sát đã phải tự ngắt giây phút hạnh phúc hiếm hoi của đời mình giữa chừng đó sao?
Bây giờ thì khác lắm. “Không yêu - trăng hóa mảnh sành - Yêu nhau ngắm đá cũng thành bông hoa!”. “Mảnh sành” và “đá” là những chi tiết hiện thực của trung du. Ra khỏi quân ngũ, Nguyễn Đình Ảnh tìm về ngay với quê hương đất Tổ và sống hết mình với rừng cọ, đồi chè. Anh tự hào: “Tôi đã qua bao nhiêu khúc sông, bao nhiêu mảnh đất nhưng có một khoảng trời trong tôi thương nhớ nhất: - trung du”. Trung du là một đề tài khá quen thuộc trong thơ ca Việt Nam hiện đại, thiết tưởng sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các thế hệ cầm bút hậu sinh. Nguyễn Đình Ảnh đã không làm bạn đọc thất vọng.
Nhà thơ từng một thời đội mũ tai bèo này có điều kiện đi rộng, biết nhiều và mỗi nơi đến đã gieo trong anh những ấn tượng không dễ quên. Gia tài thơ của anh khá đa dạng. Nhiều bài đạt đến độ triết lý sâu sắc. Tuyển tập này chỉ chở được phần nào. Cái vóc dáng người thơ có vì thế mà bị nhòa nhạt chăng? Ga trung du có những con đường “hồng sỏi đỏ và trắng phau hoa sở” đã đưa anh ra trận. Chưa bao giờ người lính làm thơ lại “thèm nghe một tiếng Bầm ơi!”, một hồi còi vọng thung sâu như những ngày tại ngũ. Sống giữa một vùng “với những triền đồi đất đỏ - những làng xa biếc xanh đồi cọ”. “người bạc tóc có thể quên mình già”... tất cả cứ ám ảnh tác giả cả trong bữa ăn lẫn giấc ngủ. Thơ anh luôn day dứt không chỉ vì đời “lắm kẻ dữ - người lành hóa hiếm hoi” mà có lúc còn vì một cái quắc mắt vô lý của mình khi đứa con gái nhỏ lỡ “vỗ bàn tay vào chiếc khăn vo tròn trước ngực”. Anh thốt lên: “Có mưa đá mới biết cây là cứng - Mây soi lòng suối thì mềm”. Tôi thích những câu, những bài thơ tình của Nguyễn Đình Ảnh, trong số đó đáng chú ý là những bài anh viết tặng người bạn đời yêu quý - nữ thi sĩ Nguyễn Thị Lan Thanh, đồng nghiệp nhà giáo và đồng nghiệp thơ của anh: “Mỗi lần qua đồi cọ - Anh lại hình dung ra em”. Hoặc, “tiễn em, em đã đi rồi - Sương khuya ướt cả triền đồi và anh”. Thương vợ “vừa tất tưởi nuôi con vừa học”. Anh không thể quên “đôi móng út dài dùng để kẻ thay chì”. Và, dường như hạnh phúc hơn hết đối với anh là được xách nước cho vợ tắm. Giếng đồi thường sâu hun hút, nước trong vắt, dây gầu phải dài, song điều làm người thơ thú vị nhất là chi tiết “bên trong em mặc chiếc áo thun màu đỏ” - một loại áo vệ sinh dài tay, sản phẩm của thời bao cấp eo hẹp.
Thơ tình chiến tranh của Nguyễn Đình Ảnh quả thật đôi khi còn gượng ép về ý và trong cách diễn đạt. Chỉ khi anh “trở về với trai tim mình” thì thơ hóa ra chân thật và mượt mà khác thường. Ở thủ đô Băng cốc, Sắc cầu vồng, Ngày ấy, bây giờ, Trái tim người đã khuất... có thể là những minh chứng. Quý ơi! bài thơ cảm động viết về người đồng đội đã ngã xuống ở mặt trận Đông Hà, Quảng Trị, năm 1972, hôm nay người đọc vẫn phải thắt lòng suy ngẫm. Nỗi đau mất mát đã 29 qua năm rồi sao vẫn còn âm ỉ? Người đời biết ơn những câu thơ tình cháy bỏng trang giấy như thế.
7 - 2016
N.V.T
KHÁT VỌNG TÌNH YÊU
TRONG THƠ NGUYỄN THỊ LAN THANH
TRẦN QUANG QUÝ
Tôi biết cô giáo dạy văn cấp III Nguyễn Thị Lan Thanh trước khi là nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh. Đó là những năm cơ hàn đầu thập niên 80 thế kỷ trước. Lúc đó ngôi nhà của vợ chồng nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh và cô giáo Lan Thanh ở chênh vênh bên sườn đồi khu Trường cấp III Việt Trì, đường trơn và dốc. Mùa mưa, bùn đỏ bết cứng dưới chắn bùn xe đạp, chỉ có thể vác xe vào sân nhà anh chị, hì hục cạy bùn. Nhưng ngôi nhà ấy cũng là nơi nhiều văn nhân lui tới, bạn bè tỉnh xa và Hà Nội ghé qua. Nhà văn Trung Trung Đỉnh kể, ông và nhà văn Nguyễn Trí Huân... từng tá túc ở đây những năm đi bán lịch ế ở mạn ngược. Những năm cả nước, từ nông dân, thị dân, viên chức, trí thức... đều chạy chợ, mưu sinh. Tôi coi anh Ảnh, chị Thanh như anh chị mình. Mỗi lần sang Việt Trì nghỉ lại, chỉ lạc rang và rượu quốc lủi đạm bạc mà câu chuyện văn chương của hai anh em cứ rì rầm đến khuya. Khi đó, nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh “tương lai” phải ém thơ, lầm lũi chức phận làm vợ, làm mẹ; vừa giảng dạy, vừa nuôi đàn con nhỏ 5 đứa nheo nhóc, nuôi mộng thi nhân lớn của chồng. Chỉ mãi sau này, khi anh Ảnh nghỉ quản lý ở Hội VHNT tỉnh, các con dần trưởng thành, Nhà giáo Nguyễn Thị Lan Thanh mới được “cởi trói”, được khuyến khích cho hồn thơ nữ sĩ tung tẩy, bay trên cánh đồng thơ mơ ước từ thuở nữ sinh sư phạm văn đầy lãng mạn của mình.
Thơ Nguyễn Thị Lan Thanh (Nxb Hội Nhà văn, 2015) là tập thơ chọn từ 8 tập thơ trước đó, như vậy. Những tập thơ của một người thơ xuất hiện muộn nhưng khá đều đặn, bung tỏa những tích tụ ẩn ức, da diết và đằm sâu kỷ niệm, những hồi ức về thân phận con người, về tình yêu cũng như vẻ đẹp của nỗi buồn, sự cô đơn trống vắng... Về tổng thể, thơ chị Thanh có nhiều mối quan tâm, nhiều địa hạt về con người, đất nước, vùng quê Đất Tổ. Nhưng ký ức sâu đậm, thảng thốt vẫn là quê làng thuở ấu thơ, những kỷ niệm về mái trường, đặc biệt là nỗi người trong những mối quan hệ nhân sinh và tình yêu. Tình yêu riêng tư và bao trùm tất thảy những điều tôi vừa nhắc, nó được “lồng ghép” vào mọi tâm tình, tình thơ. Đó là một tâm hồn đa cảm, lãng mạn và ăm ắp khát vọng yêu. Có lẽ chính điều ấy đã giúp chị vượt qua được nhiều rào cản và rộng lòng tha thứ trong cuộc sống riêng tư cũng như sự chịu đựng, hy sinh vì gia đình và trách nhiệm xã hội của mình.
Ở đây, ký ức quê làng, vùng đồng đất Sơn Dương, Lâm Thao nghèo khó, ám ảnh của những năm 60 thế kỷ trước cứ lởn vởn hiện ra, dù xa cách bao lâu. Mà ở đó, người mẹ là hình tượng trung tâm: “Mẹ gom cả mùa đông vào ổ rạ / Ủ cho con có được giấc nồng…/ Mẹ đi làm đồng/ Từ lúc còn tối đất/ Cơm không đủ no, áo chẳng được lành.../ Vậy mà…/ Mẹ cho con tất cả trời xanh/ Bao giấc mơ êm/ Dòng sông biết hát...”. Đó là ý thức bây giờ gắn vào hồi ức xa xăm. Trong thực tế, chị Thanh mồ côi mẹ từ năm 9 tuổi, mồ côi cha năm 14 tuổi, mãi bây giờ đọc thơ tôi mới biết về điều buồn thương, hẫng hụt này ở chị: “Hồi con lên chín tuổi đầu/ Đã không còn thấy mẹ đâu nữa rồi!/ Em con mới ba tuổi thôi/ Khăn xô chấm đất nói cười bi bô…/ Gia tài còn một thúng ngô/ Hai cái niêu đất, chiếc bồ rỗng không/ Ba gian nhà giột tứ tung/ Góc vườn trơ một cây sung đã còng” (Mẹ ơi!). Bóng hình mẹ đeo đẳng suốt cuộc đời, tiềm ẩn vào trữ năng thơ, dù mẹ đã đi xa nhiều năm tháng: “Con vẫn giữ nguyên cái cối giã trầu/ Ngày giỗ mẹ, thắp hương con nhớ mua cau, vỏ…/ Nơi nào con ở, con vẫn trồng một giàn trầu không/ Y như ngày xưa mẹ vẫn vun trồng/ Con nhớ mẹ/ Nhớ đồng làng, nhớ vị hương cỏ mật…/ Dù xa quê hơn bốn chục năm rồi” (Thì thầm với mẹ).
Ngay từ tuổi thơ chị Lan Thanh đã phải sắm vai người chị lớn, thậm chí người mẹ với em và sống côi cút với bà nội. Người bà: “Suốt đời nuôi cháu thay con/ Vai bà gánh cả nước non nhọc nhằn!” Những câu chuyện mùa đông thương nhớ, khía vào lòng ta ký ức quặn thương, nước mắt: “Mùa đông giá chăn không đủ đắp/ Đệm là rạ, là rơm, lá chuối khô, giường đất/ Bà ôm cháu vào lòng, cháu ôm chặt bà hơn…” (Bà ơi, bà!). Hình bóng mẹ và bà dường như xuyên suốt, trở đi trở lại trong hành trình thơ Nguyễn Thị Lan Thanh.
Những câu chuyện của Ngày xưa ấy còn bám riết trong mỗi nẻo đường quê, trong nỗi nhớ bạn bè: “Thân nhau từ thuở còn thơ/ Từng chia bùi sắn, chua mơ, ngọt hồng/ Mỗi người một ngả sang sông/ Thuyền theo lái, gái theo chồng đẩu đâu?/ Sương mai nhuộm trắng mái đầu/ Ngày xưa thức mãi trong nhau suốt đời!”. Và cũng những năm tháng đó, cô học trò Lan Thanh đang độ lớn đã yêu thầm nhớ vụng một trai làng: “Con thầm yêu một người/ Và người ấy cũng yêu con chân thật/ Tình yêu thuở học trò/ Giống như hương cỏ mật/ Lúc tươi - chẳng vị gì/ Khi héo - càng thơm…” (Thì thầm với mẹ). Câu chuyện tình yêu với anh trai làng học lớp trên, có tên Nguyễn Đình Ảnh, bắt đầu từ tuổi học trò như thế. Chị kể, chị đam mê văn chương bắt đầu từ cái tủ sách văn học của anh Ảnh. Tình cảm hai người bắt đầu từ những cuốn sách, từ những con đường quê hò hẹn, những ngày mưa trùm chung chiếc áo... Và điều ấy ta hiểu vì sao sau này thơ viết về tình yêu, thơ viết riêng cho anh Ảnh nhiều đến thế, có nhiều câu thơ ám ảnh, hụt hẫng về sự “vắng anh” đến thế.
Thơ kỷ niệm về mái trường, đặc biệt là những năm chiến tranh học ở Đại học Sư phạm Việt Bắc chiếm một vị thế rất đáng chú ý trong tâm cảm thơ của cô giáo Lan Thanh. Chị có nhiều bài thơ viết về ngôi trường này, về những bè bạn cùng trang lứa, về người thầy, về các trò khi đứng lớp giảng dạy. Đó là những tháng năm khó có thể quên: “Em vừa học, vừa nuôi con thay chồng/ Sơ tán vào rừng lại đúng mùa nước lũ” (Lửa từ đâu tới). Những sân ga đến, đi của năm tháng tựu trường, những buổi tiễn đưa nhau, tiếng còi tàu còn thảng thốt đến tận bây giờ: “Tiếng còi xa tít chơi vơi/ Mang theo hình bóng một người tôi yêu!/ Lặng thầm tóc đã muối tiêu/ Sân ga nhuộm những hồn chiều bơ vơ!” (Buổi ấy). Chị viết Nhớ về ngôi trường cũ, Qua trường cũ, Xa trường, Cổng trường, Nhớ Đại Từ, Ơn thầy, Mai sau, Hoài niệm, Một kỷ niệm khó quên... Những mùa hè quá vãng còn thẩm thắc mãi đời người: “Mai rồi kẻ ở người đi/ Sân trường lại vắng mỗi khi hè về/ Hàng cây náo động tiếng ve/ Ngỡ như cháy cả mùa hè biệt ly!” (Hè về).
Nhưng nổi hẳn lên trên phông thơ của cuộc đời cô giáo Lan Thanh, nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh là khát vọng tình yêu, nó không chỉ ở số lượng các bài thơ tự bạch về tình yêu mà còn ở cõi thẳm sâu rung cảm của trái tim... Tất nhiên rồi, thơ là “tiếng hát trái tim hát về chính nó” (Ý của Nguyễn Đình Thi), là sự “trỗi dậy” thi cảm trong những hụt hẫng, nứt vỡ, trống vắng... của tâm hồn. Và, giai điệu của trái tim ấy lại có vẻ rất hợp với lục bát của Nguyễn Thị Lan Thanh: “Vừa trao nhau nụ hôn đầu/Biệt ly đã chuốc mối sầu mênh mang/ “Ước gì sông rộng một gang”/ Dang tay đo hết trái ngang đời mình!” (Ước). Đây là sự hụt hẫng, trống vắng khác của chiều sâu tâm cảm: “Người đi với bạn Tây Hồ/ Ta gom nỗi nhớ sấy khô một mình!/ Người đi biển phú, sông thơ/ Ta ngồi lệch cả bến bờ cô đơn!” (Người đi). Và đây, một sự “rỗng” đến hoang mang của người yêu thương đã vĩnh viễn “đi”: “Anh “đi” rỗng cả mùa sau/ Lá rơi khô khốc, làm đau cả chiều/ Bao năm gom nhặt lời yêu/Hoa sương muối vỡ tiêu điều ngày đông!” (Đông). Đó thực sự là những câu thơ lục bát hay viết về những trống vắng và mất mát của tình yêu, những câu thơ có thể ngẩng mặt cùng thiên hạ. Sự cô đơn, trống vắng, cũng là hiển lộ khát vọng yêu, còn thấy điều đó ở ngay rất nhiều tên bài thơ thầm gợi: Lẻ, Thiếu, Gió mồ côi, Một mình, Lạnh, Lỡ... với những câu thơ thảng thốt: “Tri âm/ thì đã đi xa …/ Hoàng hôn lẻ bóng/ một ta/ lẻ đàn!” (Lẻ). Cái sự vắng lạnh, ám cả trong sắc màu vật chất thật sâu sắc và tinh tế: “Sao mà vội thế người ơi!/ Người “đi” chia một thành đôi… có buồn?/ Một lưng mà những hai giường/ Lạnh từ cái sắc vôi tường lạnh ra!” (Lạnh). Và đây nữa: “Đang hè nghĩ đã là đông/ Hỡi ai ngày ấy nay không của mình?/ Ngẩn ngơ tình viết thơ tình/ Mỗi câu như cứa tim mình nát tan!” (Tình). Vẫn là những câu thơ lục bát ám ảnh của hồn thơ mẫn cảm, thao thiết lửa yêu, cần một niềm sẻ chia, một điểm tựa của nhân ái.
Có thể kể ra hàng loạt bài thơ viết cụ thể về tình yêu của chị và anh Ảnh, viết cho anh Ảnh, đặc biệt là sau khi anh mất: Kỷ niệm vẫn còn đây, Anh đã đi, Ngày này, Thiếu, Sau lúc anh đi, Khi em có anh, Cùng chờ, Thơ, Gặp lần cuối, Tìm lại ngày xưa, Đi biển vắng anh, Xuân này vắng anh, Vũng Tàu ơi, Anh dặn, Tâm sự của người hút thuốc lào, Lời anh, Mưa, tâm sự với anh... Mỗi bài thơ ấy lại chứa chất những nỗi niềm tâm sự, những cô đơn trống vắng, những nuối tiếc, những dự định dở dang, những mơ ước, những bày tỏ và tự hào về con, cháu của họ hôm nay mà có lẽ không cần trích dẫn thêm nữa. Vả lại, bạn bè, những người yêu mến thơ chị, viết về chị cũng trích dẫn nhiều ở cuối sách. Trong đó có những câu thơ thảng thốt, xuất thần, có những câu thơ đằm thắm, sâu lắng.
Chắc hẳn không ít người sẽ ngạc nhiên về mối tình thủy chung từ tuổi học trò cho đến tuổi “xưa nay hiếm” mà vẫn lắng sâu, mặn nồng, dùng dằng đến thế. Hiếm có nữ nhà thơ nào lại viết về chồng nhiều đến “mệt nghỉ” như thế. Nhưng tôi thì tôi không ngạc nhiên. Bởi đọc thơ chị Thanh mới hiểu, có lẽ trời đã ấn chỉ mối tình này ngay từ tuổi học trò trong ngôi làng Sơn Dương nọ. Từ ngôi làng ấy, họ đã tìm thấy một nửa của nhau ngay từ ánh nhìn biết rung cảm giới đầu tiên. Và ngay từ tình yêu học trò ấy, anh đã là thần tượng, là nguồn lực thi ca của chị rồi.
Đọc thơ chị, có bài được bài còn vội gượng. Gượng là những bài thơ ngoài giăng níu, day trở của mình, là những bài thơ phần nhiều do “vãn cảnh” mà ra. Những bài được, bài hay là những bài viết về chính cố hương ăm ắp ký ức yêu thương của mình, về bà về mẹ, về người mình yêu dấu. Nghĩa là, những thứ đã trở thành máu thịt, được chắt ra từ máu thì lay thức, ngân vọng. Ở tập thơ này, có lẽ cũng chẳng cần bàn về nghệ thuật, thi pháp làm gì. Thơ chị là cuộc đời chị, cuộc đời giản dị, đằm thắm, nặng tình nặng nghĩa, cứ chân chất quê làng, cứ lục bát, xoan ghẹo... mà thảng thốt ra. Như những con đường quê tự nhiên xanh cỏ, như những ngày mùa thơm rơm rạ, như giàn trầu hàng cau quê mẹ, như giếng làng đã tuôn chảy mạch thơ. Thơ Nguyễn Thị Lan Thanh là thế!
Hà Nội, ngày 22/7/2015
T.Q.Q
TỰ SỰ GỬI BỐ
NGUYỄN ĐÌNH ÁNH
Thưa Bố!
Hôm nay (12/8/2016), theo dự báo sẽ là ngày có trận mưa sao băng lớn nhất trong lịch sử. Sự kiện này thêm một lần gợi nhớ trong con về kỷ niệm từ những ngày xa xưa bên bố, những đêm hè trăng sáng, những đêm thu không trăng, trên trời đêm hàng triệu triệu vì sao lấp lánh, lấp lánh…
Gọi là thuở ấy bởi lẽ cũng đã hơn 40 năm có lẻ, cứ mỗi khi nhớ về bố - cố Nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh, người mà con vô cùng tôn kính đã làm bạn với chúng con như chính chúng con của ngày hôm nay đang làm bạn với các cháu yêu quý của Người. Khi đó nhà mình nghèo nhưng con thừa nhận không lúc nào ngớt những tiếng cười. Con còn nhớ như in câu nói từ người bạn chí thân của bố - Nhà giáo Bùi Thanh Ninh: “Nhà văn - Nhà giáo - Nhà báo - Nhà đài/ cộng bốn nhà ấy bằng hai... nhà nghèo”. Vậy mà bố vẫn vịn vào thơ, vịn vào những ý nghĩ trong trẻo để sống một đời thánh thiện:
“Trước mặt: triền Tam Đảo
sau lưng: dãy Ba Vì
trăng gió chẳng thiếu gì
gạo, rau vừa đủ nấu
Nhà - những sách cùng báo
tủ bàn bé con con
chỉ trông núi cùng non
cũng đủ no đôi mắt...”
(Tự bạch)
Do cảnh nghèo mà nhiều đêm khó ngủ vì nóng nực. Nhà mình có hai cây cau trước cửa, cứ mỗi chiếc lá cau khô rơi là bố lại “thiết kế” thành vài cái quạt mo và thế là hằng đêm, rất khuya cả nhà chải chiếu xuống sân, con lại được nằm cùng bố. Và bố biết không, con đã hớp lấy từng lời bố nói về thiên nhiên, về vũ trụ với dải ngân hà long lanh, về những chòm sao Bắc Đẩu hình chiếc xe cải tiến; về những chuyến máy bay đêm và những vệ tinh do thám bầu trời tạo nên những vì sao biết đi; về thơ và về tất cả những gì con hỏi... Hình như bố biết tất cả. Bố như một “cuốn từ điển sống”... con nghĩ thế!
Có lần bố viết tặng Nhà văn Sao Mai câu thơ:
“Sao Hôm nào khác Sao Mai
Một ngôi sao sáng cả hai khoảng trời”
Phải chăng, tứ thơ này khởi tác lúc bố nằm bên con, đúng không ạ, thưa bố...?!
Từ khi có con ở trên cõi đời này cho đến khi con biết cảm nhận, ngoài làm bạn với mẹ và chúng con, bố còn luôn làm bạn với sách. Vậy mà tuyệt nhiên trong những tâm sự của bố không mảy may nói lời sách vở - bố nói toàn chuyện rất đời. Bố bảo rằng bạn của bố ở khắp cả nước, cứ nhà văn là bạn bố: Nguyễn Khoa Điềm, Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu, Hữu Thỉnh, Nguyễn Bùi Vợi, Trần Nhuận Minh, Thi Hoàng, Đăng Bảy, Nguyễn Trí Huân, Trần Đăng Khoa... Nhiều người vừa là bạn học, vừa là bạn thơ. Và con đã được gặp từng người trong số các bác, các chú đó về thăm nhà mình trước khi bố ra đi mãi mãi! Con ấn tượng vì bố có những tình bạn lớn, tình bạn từ thuở đi bộ gần hai chục cây số, vác trên lưng khăn áo, bị gạo mong kiếm được cái chữ để vào đời, lập nghiệp, thời phổ thông trung học; tình bạn của sự đồng cam thời bố học đại học những năm 60 của thế kỷ trước; tình bạn của những người dẫu là con một trong gia đình cũng vẫn cùng xung phong ra trận suốt những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước; tình bạn của một văn đàn cùng tỏa sáng và mong ước để đời những tác phẩm sáng giá cho hôm nay và mai sau.
Những năm cuối cùng của sự nghiệp (1998 - 2001), với vai trò là Bí thư Đảng Đoàn, Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh nhà, người ta vẫn nhận ra bố với dáng người mảnh dẻ, bước những bước chân chậm dãi, ngày nào cũng đến cơ quan đúng giờ; tác phong khoan dung, nho nhã; điệu cười hồn hậu, cởi mở. Bản thân con cũng học hỏi được ở bố tư chất của sự “vuông vắn” khi trải qua hơn mười năm binh nghiệp. Bố ngay ngắn trong cách sống, điềm tĩnh trong ứng xử, độ lượng trong giao tiếp... Như một lời “tổng kết” của sự nghiệp, bố từng viết:
“Trong trăm năm của kiếp người
may ta từng có một thời... như mơ
cái thời trong suốt, vô tư
đưa tiền thì lắc, trao thư thì cầm!”
Bố làm thơ và cuộc đời bố dành cho thơ một cách trọn vẹn. Bố dành tâm trí cho thơ đến nỗi nhiều lúc mắc lỗi với hàng xóm vì họ đi ngược chiều, cất tiếng chào bố nhưng do mải nghĩ nên có thể bố đã quên đáp từ. Con người nghệ sĩ nó vậy, những người làm văn nghệ hiểu nhưng người giữa đời thường thì lấy làm khó hiểu. Và con biết, cả đời bố không làm mất lòng ai - bố như là Phật sống, bố hiền, hiền tới mức suốt tuổi ấu thơ chúng con không bao giờ phải nhận đòn roi từ phía bố. Bố luôn nghiêm khắc mà đôn hậu biết nhường nào. Chính con đây, khi nóng giận với các cháu của bố mà nhỡ vung tay lên định “ra đòn” lại giật mình mà rằng, ngày xưa bố từng nói: Còn nhiều năm để lớn, đòn roi đâu phải là thứ làm con người ta... trưởng thành... Đến giờ, các cháu của bố đều học thuộc lòng rất nhiều bài thơ của ông bà nội, nhất là “Trước cổng trời” - bài thơ của bố được chọn đăng trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 mà các cháu luôn tự hào với các bạn cùng trang lứa.
Lần lượt như thế, chúng con và ngay cả các cháu của bố cũng chưa bao giờ rời xa văn học, nghệ thuật. Cũng có thể tiềm năng được phát tác một cách “di truyền” mà tự mỗi thành viên trong “gia đình nghệ thuật” của bố đón nhận và phát huy một cách rất đỗi tự nhiên. Giờ thì mẹ cũng đã là nữ Nhà văn theo nghiệp của bố, các chị em gái nhà mình chọn đường văn giáo của mẹ, là những người tham gia công tác quản lý giáo dục các cấp. Còn con, dù là cán bộ trong doanh nghiệp nhưng cũng chưa khi nào chểnh mảng với niềm hy vọng của bố - là sẽ trở thành một nghệ sĩ trong tương lai. Các cháu nội, ngoại của bố cũng đã phấn đấu đạt rất nhiều huy chương vàng, bạc cấp quốc gia về học tập, nghệ thuật, biểu diễn...
Bố tôn trọng nhân cách mà bản thân thường tự xưng là “kẻ sĩ”. Bố ngại xin xỏ, kể cả là sự trợ giúp kinh phí để in thơ; hơn thế, cũng có thể còn là sự đúc kết trong quan điểm của bố với cuộc sống “đơn giản là một sự phức tạp lớn” mà đến giờ con đã hiểu. Với chúng con, bố ngại đi họp phụ huynh khi phải ngồi bàn cuối cùng (vẫn biết là bố đùa - vì bố ngồi ở đâu là do thành tích của chúng con quyết định), chúng con hiểu là phải làm cho bố vui bằng khả năng thực sự của cá nhân mình. Bố tốt nghiệp Đại học Sư phạm, trường của Thủ đô, bố là sĩ quan nhưng... cầm bút, bố là thầy giáo tận tình chỉ bảo cho các đồng nghiệp trẻ để đến hôm nay các chú, các anh từng đón nhận sự gửi gắm ở bố, họ cũng đã thành danh, như Nhà thơ Trần Quang Quý, Nguyễn Hưng Hải, Ngô Kim Đỉnh, Hà Thành, Phạm Việt Đức...v.v.
Ngày đó, bố phát hiện ra một Trần Quang Quý chỉ với câu thơ: “Sỏi khô từ nỗi đợi mong/ Người đi sợi tóc mỏng trong mưa nguồn”, một Nguyễn Hưng Hải với: “Lá nằm úp thìa trên mặt cỏ/ thân còn lẩy bẩy tiếc cành cao” đã làm bố rất vui. Bố hay kể với mọi người về sự phát hiện này và khẳng định đây là những “hạt giống”, những “tiềm năng” của văn chương mà nhất định sau này sẽ “thành chính quả”. Thời gian qua đi, được chứng kiến sự “kết trái trong vườn văn” của họ - con lại càng thêm cảm phục về những phát hiện ấy của bố với các danh sĩ khi đó còn rất “tiềm ẩn”...
Sinh thời, bố dành cho chị em chúng con tình yêu thương vô bờ bến. Chỉ là cách cầm chổi mỗi sáng quét sân mà bố cũng rất nhẹ nhàng, vì sợ ảnh hưởng đến giấc ngủ của chúng con. Chắc lẽ, bố nghĩ giấc ngủ lúc gần sáng luôn là lúc có được độ ngon sâu nhất... phải vậy không, thưa bố...?! Hay như mỗi bữa ăn đông đủ cả nhà mình hoặc những ngày giỗ, tết, bố thường ăn đầu gà và những miếng xương, những củ hành khô thái lát, mấy củ lạc và bố nói rằng đấy là “sở trường” của mình. Con cũng đã nghĩ như vậy, cho đến khi lớn lên con dần hiểu là mình đã nhầm, nhất là khi đọc lời thơ bố viết cho bà nội của chúng con, thật sâu sắc và thấm thía trong bài “Bà”:
“... Bữa cơm, có miếng nào ngon
Bà “kiêng” không gắp - bà nhường cháu ăn...
... Một đời tóc bạc hai lần:
Một phần vì cháu, một phần vì con...”
Hàng ngàn đời nay, đa phần người ta ăn uống đơn giản là để có sức khỏe và duy trì sự sống, với những toan tính thiệt hơn, gắng có bát ăn, bát để. Nhưng không, bố của con lại lựa chọn cho riêng mình một lối tiếp cận với ẩm thực đạt đến tầm văn hóa. Bố cho rằng “Văn hóa sinh ra là để kiềm chế bản năng”, chỉ ở đỉnh cao của sự hiểu biết thì mới có được cái sự “nhường nhịn cỏn con” ấy, ở các giống loài khác sẽ nhất thiết phải tranh nhau để đảm bảo hai chữ: sinh tồn...
Con đã từng nhìn không chớp mắt những động tác của bố, dẫu rất đời thường thôi mà sao vẫn có được sự sang trọng, nồng ấm - bố chọn cách nhâm nhi những ly rượu theo lối “thưởng ngoạn” của cụ Tản Đà (Uống rượu từ lúc nửa đêm/mãi đến tận khi trời sáng - bài bố viết tặng Thi sĩ Tản Đà). Bố chọn cách gắp, rót nhỏ nhẹ, hoặc nhấp nhấp những hơi thuốc rồi nhả khói rất ngon lành của cụ Nguyễn Tuân. Và chắc chắn, sẽ không ai thấy bố uống một trăm phần trăm ly rượu hay cốc bia trên đời bao giờ... Bố ý thức về sự sống là hữu hạn, vì vậy nhỏ nhoi thôi thì cũng là... thưởng thức - thật chậm, thật chậm.
Suy nghĩ về những điều này, con chỉ còn biết ngửa mặt lên trời ngắm sao và để liên tưởng tới từng cử chỉ cao đẹp của bố một cách huyền diệu nhất có thể. Với con, muôn sự tiếc nuối ở đời cho đến giờ vẫn là không biết phải làm sao để dâng lên bố một miếng ăn ngon, dù chỉ là một chút thôi, bố ạ! Để con lại được say sưa dõi theo ánh mắt của bố, vừa mơ màng - thi sĩ, lại vừa bác ái - nhân từ.
Chùm thơ Ngẫu cảm hai dòng của bố để lại như là... trời cho - bố là thế!:
“Đã ai biết tuổi ta đâu
trông mắt thì trẻ, nhìn râu thì già!”
“Câu thơ mình viết cho mình
biết đâu thấu cả ân tình thế gian?”
“Thà uống một giọt giữa trưa
còn hơn uống cả cơn mưa cuối ngày!”
“Suốt đời mòn bút làm thơ
khéo khôn thì mất, ngẩn ngơ thì còn!”
Và nữa, hồi ấy, sáng mồng hai Tết Nguyên đán năm Tân Dậu - 1981. Tất thảy mấy chị em con tung tăng đi chơi cùng đám trẻ con trong cùng khu tập thể, chỉ còn lại một mình con ở nhà với bố mẹ (con mới vào lớp một). Lần đầu tiên trong đời con nghe và nhìn thấy bố khóc - khóc thành tiếng. Bố còn nhớ không? Con đã trèo lên chiếc giường tre, đó chính là chiếc giường cưới của bố mẹ năm xưa, lật chăn ra, rồi con lần tay lên, lau những giọt nước mắt cứ liên tục lăn dài trên gò má của bố. Con còn được chứng kiến cả mẹ khi ấy cũng khóc theo... Kỳ thực, con trai của bố mẹ lúc đó còn quá nhỏ nên không hiểu gì cả. Trấn tĩnh lại, bố mới nói: “Tại sao con không đi chơi cùng mọi người?”. Con đã trả lời thật vô tư và hồn nhiên rằng: “Bố ơi, con không có quần áo mới”. Một lần nữa, bố sờ lên mảnh vá trên vai áo con. Chỉ sau một câu nói tưởng chừng như vô hại ấy của con, nào ngờ đã động đến thẳm sâu nỗi đau của người làm cha mẹ, khi không kịp sắm sửa cho con một manh áo mới để chơi xuân, khiến cho bố phải bật khóc!...
Nhưng bố ơi! Cổ nhân có câu “Con không chê mẹ khó...” là hoàn toàn có lý. Ngay như con, suốt tuổi thơ nào biết đòi hỏi cho mình thứ gì bao giờ, bố nhỉ?
Thời điểm đó, giữa thành phố công nghiệp này, chúng con biết, nhà mình đông con nhất; và luôn biết cái nghề mà bố mẹ lựa chọn là nghề cao quý nhưng “đạm bạc” nhất; biết đến nước mình đang phải đối mặt với đầy rẫy gian khó, nghèo cực sau khi miền Nam mới giải phóng, thống nhất đất nước mới được vài năm; tiếp đến, lại gồng mình chống quân Bành trướng Trung Quốc (1979)...
Với nhà mình, bố luôn dành mọi thứ tốt đẹp cho bà nội, cho mẹ của chúng con và năm đứa con yêu quý. Bố bảo, chỉ cần dành 20% sự quan tâm cho bố, còn 80% các con nên dành cho mẹ, vậy là sao ạ? Rằng mẹ mới chính là người đã dành phần lớn thời gian của cuộc đời “hy sinh” cho bố con mình! Nhưng bố ơi, trên tất cả, bố đã định hình trong chúng con sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau; sự sẻ chia với quê hương, đất nước; sự giúp đỡ, quan tâm đến mọi người xung quanh; sự nỗ lực trong công tác và sự nghiệp; lòng đam mê văn học, nghệ thuật...
Bố muốn cho chúng con mỗi đứa có một cái nhà nhưng không phải ngôi nhà vật chất mà là “cái nhà trong đầu”. Bố muốn các con phải tốt nghiệp đại học, phải cống hiến cho Tổ quốc, khi đó bàn tay và khối óc của mình mới chính là căn nhà đủ rộng để đón nhận cuộc đời tươi đẹp...
Bố của chúng con sâu sắc là vậy!
Khi xưa, đồng nghiệp của mẹ, các cô giáo tổ Văn trường THPT Việt Trì đến nhà mình nghe bố luận thơ mà quên cả giờ về. Và con nữa, thẩm thấu thế nào không biết nhưng chắc chắn từ sự mê mải “nghe lỏm” bố nói chuyện thơ mà “dỏng tai” học được rất nhiều điều. Chưa biết chừng trong tương lai xa con có thể lại sẽ làm bạn của thơ, bố nhỉ?!
Con thì hay nhớ những bài thơ bố viết về gia đình, còn mẹ, hình như lại hay nhớ những bài bố viết tặng mẹ và các bạn trong “thế giới... của bố”.
Ví như, con nhớ mấy lời bố viết gửi cho bà nội:
“...Cây khế cha con trồng năm nao
Đã cao bằng ngần nào, hả mẹ
Cha con mất cuối mùa thu năm ấy
Hoa đã rụng rồi, tím cả mặt ao...”
(Gửi mẹ ở quê nhà)
Hay viết tặng mẹ từ dạo hai người mới yêu nhau:
“...Lan Thanh, Lan Thanh, Lan Thanh
Em là mây trắng, trời xanh, nắng vàng...”
(Gửi Lan Thanh)
“... Chưa thể hẹn được ngày anh về
khi em đã trở thành cô giáo
những ước mơ giản dị và táo bạo
bắt đầu từ một tình yêu...”
(Tạm biệt miền rừng)
“... Những hạt lạc đỏ và tròn xoe
cứ thơm dần lên khi nồi rang bén lửa
anh bế con ngồi bên bậc cửa
nhìn em, nhìn mãi, thế thôi!”
“... Những mất mát trong đời lại nuôi ta lớn lên
ai biết suối nông sâu - nếu chân không gặp đá
hạnh phúc! Ai hay tìm được nó
đôi khi phải đổi cả đời mình...”
(Tâm sự với em về hạnh phúc)
Và bố tặng chị gái cả Lan Hương trong bài Bên con:
“... Bao năm công tác ở xa
Về thăm quê với căn nhà, đêm đông
Ngỡ ôm con siết vào lòng
Thì bao sương giá mùa đông chẳng còn
Đâu ngờ từ lúc ôm con
Bao nhiêu hơi ấm... lại dồn sang cha...”
Bố tặng chị gái Việt Lâm:
“...Oa, oa..." tiếng con tôi
dội lên từ vắng lặng
ngỡ là đêm hửng nắng
trăng hóa ra mặt trời...”
(Đêm sinh con)
Với bản thân con (Nguyễn Đình Ánh):
“Lá không có cánh, bố à
Sao khi gió thổi gọi là lá bay
Sân trường có chiếc đu quay
Nó xoay tựa chiếc cối xay ở nhà
Dây cáp kéo được con phà
Sao nó khéo léo như là có tay
Lập lòe đom đóm đó đây
Bố ơi, kìa - cả vòm cây thắp đèn
Bao điều ngỡ quá thân quen
Lại tinh khôi trước cái nhìn trẻ thơ...!”
(Cái nhìn trẻ thơ)
“Trăng không có sợi râu nào
Sao bố cứ gọi ngọt ngào là ông
Bà con sao bố gọi bầm
Mẹ con sao bố gọi nhầm... là em...?”
(Nhầm)
Cho con gái Hồng Lân:
“Tay con cầm chiếc gối mềm
con khoe với bố rằng em ngủ rồi
con đi bỗng chiếc gối rơi
nâng lên khẽ nựng: em ơi, chị bồng...”
(Con bồng chiếc gối)
Và với con trai út Đình Việt:
“Con là trai út trong nhà
nên bao giờ cũng được bà quý yêu
được bố, được mẹ cưng chiều
cái gì chia cũng được nhiều hơn anh
từ gói kẹo đến bức tranh
cả nhà ai cũng để dành cho con...
Chỉ lo mai này lớn khôn
cuộc đời biết có chiều con như giờ?”
(Nói với con trai út)
Năm 2005, khi đưa bố về dự Hội Khoa Ngữ văn kỷ niệm 50 năm thành lập tại Đại học Sư phạm Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội), bố từng nói với con: “Chắc đây là lần cuối cùng bố được gặp các bạn”. Năm ấy bố 64 tuổi, đội mũ phớt, chống ba-toong… Bố gầy đi nhiều, lưng hơi còng, hai bố con đi xe khách xuôi Hà Nội. Trên đường, bố ghé tai con kể chuyện về các bạn của mình: “Sau cuộc chiến tranh, giờ thì mỗi người một nơi, người còn, người mất. Vậy nên, quý lắm con à, ngoài những dịp như thế này thì toàn gặp nhau trên... sách, báo!”
Hình như bố có dự cảm về sự ra đi trong nay mai, phải không ạ? Rằng, sau ngũ, lục thập niên “tri thiên mệnh”, đoán biết được mệnh trời, bố đã chuẩn bị đến từng chi tiết cho cuốn “Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Ảnh” rồi xếp gọn trên bàn. Bìa của Tuyển tập này con vẽ tặng, bố cầm lên xem và cũng đã hài lòng...
Thế và, căn bệnh quái ác đã làm bố phải nhập viện. Hai mươi tám ngày, bắt đầu từ thứ bảy và cũng đến ngày thứ bảy của bốn tuần sau đó, tháng Mười (âm lịch) năm 2006, bố đã vĩnh viễn chia tay chúng con để về cõi vĩnh hằng.
Con nhớ, hai mươi tám ngày với một bên chân tay không còn cử động được, bố vẫn vô cùng sáng suốt. Với tờ giấy A4 con in lên đó một bảng chữ cái, bố dùng cánh tay còn lại cầm bút chỉ vào từng chữ cho con ghép vần về những nhắn gửi của bố trước thời khắc chia xa. Bố nhắc đến các bạn... Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Đỗ Chu, Nguyễn Trí Huân... và như một phép màu, lần lượt mọi người đã về bên bố. Bác Phạm Tiến Duật bay chuyến bay cuối cùng trong ngày sau cuộc họp tại Thành phố Hồ Chí Minh và mượn chiếc xe máy cũ, từ Nội Bài chạy luôn lên nhìn mặt người bạn tâm giao từ những thuở nào! Một năm sau, cũng vào tháng Mười, bác Phạm Tiến Duật cũng theo bạn... về trời! Có bạn thơ của bố nói rằng Ảnh và Duật rủ nhau đi mây về gió vì họ chưa từng thiếu nhau sau cái bắt tay đầu tiên khi cùng bước vào mái trường cấp ba Hùng Vương (Thị xã Phú Thọ) yêu dấu…
Con cũng nhớ, ngày tiễn đưa bố, Nhà thơ Nguyễn Trí Huân ngậm ngùi đọc điếu văn trong tiếng khóc nấc lên của tất cả mọi người tiếc thương và tôn kính bố! Còn lúc này, ở bên ấy, chắc bố đang đàm đạo với các bậc tiền nhân, thi hữu? Đang phân tích những câu Kiều mà bố luôn cho rằng ở mỗi độ tuổi càng đọc, càng thấy thêm sâu sắc?...
Vâng, chỉ là khúc tự sự của riêng con thôi, bố à! Hơn ai hết, con luôn cảm nhận được một luồng điện vô hình như là sinh khí của bố đang truyền lại cho con. Con muốn được chăm sóc mẹ để mẹ viết tiếp những trang còn lại theo sự kỳ vọng của bố!
N.Đ.A
TRÊN ĐÔI CÁNH THI CA
BÙI VIỆT THẮNG
VỢ CHỒNG THI NHÂN
Trong tay tôi là hai tác phẩm thơ có sức nặng: Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Ảnh (Nxb Hội Nhà văn, 2007) và Thơ Nguyễn Thị Lan Thanh (Nxb Hội Nhà văn, 2015). Nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh đã “đi xa” 10 năm. Nhưng con người ông và thơ ông vẫn sống giữa lòng người thân ruột thịt và bạn bè đồng nghiệp văn chương. Ông hạnh phúc vì có người nối nghiệp thơ ca là người bạn đời - nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh.
Tôi dám chắc hiếm có ở xứ sở nào mà thi ca thịnh vượng như ở nước Nam ta ngày nay. Tôi cũng dám chắc hiếm có ở xứ sở nào mà nhiều cặp vợ chồng nhà văn như ở ta ngày nay. Những cặp vợ chồng viết văn còn được ghi trong lịch sử văn chương nước Việt thời hiện đại rất nhiều: Vũ Ngọc Phan - Hằng Phương, Vũ Tú Nam - Thanh Hương, Chế Lan Viên - Vũ Thị Thường, Bùi Minh Quốc - Dương Thị Xuân Quý, Hoàng Quốc Hải - Nguyễn Thị Hồng, Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh, Chu Lai - Vũ Thị Hồng, Lê Quang Trang - Trần Thị Thắng, Nguyễn Mạnh Tuấn - Hà Phương, Nguyễn Sỹ Đại - Trần Kim Hoa, Sương Nguyệt Minh - Vũ Minh Nguyệt, Nguyễn Thanh Mừng - Trần Thị Huyền Trang, Phạm Khải - Lê Hồng Nguyên,… Nhưng vợ chồng thi nhân và những trùng phùng duyên văn như Nguyễn Đình Ảnh - Nguyễn Thị Lan Thanh, lại không nhiều. Không nhiều nên hiếm và quý.
Thường khi người ta hay nói về những nét giống nhau của các cặp vợ chồng, từ tâm tính đến cả dung nhan (rất nhiều cặp vợ chồng chẳng đã hao hao giống nhau đấy thôi!?). Ít nhất thì tôi thấy hai thi nhân này rất nhiều cái “cùng”: Cùng quê (cùng một làng có cái tên nghe rất đặc trưng miền trung du - Sơn Dương), cùng họ … Nguyễn (một họ rất phổ biến ở Việt Nam), cùng học Sư phạm, cùng yêu thơ và cùng trở thành nhà thơ, cùng sống chậm, cùng đắm đuối với đời, với người. Và có vẻ ngẫu nhiên, khi cả hai nhà thơ đều sở hữu con số 9 gia tài thơ (nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh sở hữu 9 tập thơ: Chào Đất Nước, Trăng rừng, Hoa cỏ miền đồi, Trước cổng trời, Giã biệt một ánh sao chiều, Sắc cầu vồng, Vầng sáng và những kỳ tích, Thăm thẳm cõi người, Tuyển tập thơ Nguyễn Đình Ảnh; nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh cũng sở hữu 9 tập thơ: Mùa thu, Ký ức trường xưa, Khúc ca thời con gái, Thức mãi trong nhau, Tiếng gọi bầy, Lời mùa thu, Buồm chiều trong nắng mai, Lửa từ đâu tới, Thơ Nguyễn Thị Lan Thanh). Chín cộng chín bằng mười tám (9+9 =18) là một con số đẹp! Các cụ ngày xưa nói về tuổi vợ tuổi chồng, ứng vào hai thi nhân này thì đúng là “gái hơn hai trai hơn một” (Nguyễn Đình Ảnh sinh năm 1942, Nguyễn Thị Lan Thanh sinh năm 1943).
Và cả hai nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh - Nguyễn Thị Lan Thanh, tôi nghĩ, đã đến với thơ như là một cái “nghiệp” hơn là “nghề”, hơn thế như là: “Vần thơ định mệnh đã dành cho ai” (Nguyễn Thị Lan Thanh: Lỗi mùa). Nói thế có vẻ to tát quá chăng? Còn Nguyễn Đình Ảnh thì hầu như: “Đi khắp từ Bắc chí Nam/ Lấy thơ là bầu là bạn (…). Sống - còn có lúc cơ hàn/ Nhưng thơ chẳng bao giờ thiếu” (Chân dung tự họa). Trong bài Thơ, nhà thơ - vợ viết: “Thơ đã chắp cho ta đôi cánh (…). Thơ đã nối hai ta thành bạn đời tri kỉ”. Hai người thơ này gây ấn tượng về những “tao nhân mặc khách” xưa nay. Họ ít khi lập ngôn. Nhưng khi cần thiết thì vẫn phát ngôn một cách dè sẻn nhưng chí lí: “Thơ chính là tiểu sử tâm hồn của thi sỹ” (Nguyễn Đình Ảnh: Suy nghĩ về nghề văn).
NGHĨA TAO KHANG
Nếu chỉ là hai nhà thơ đồng hương thì lại là chuyện khác. Nếu chỉ là hai nhà thơ đồng nghiệp thì cũng lại khác. Nhưng họ là vợ, là chồng của nhau. Là hai thi sỹ. Nên tất nhiên trong thơ họ cái “nghĩa tao khang” như cổ nhân nói, rất rõ, rất mạnh, rất sâu. Riêng tôi thấy thì nó “toàn dân toàn diện trường kỳ”. Nhà thơ - chồng viết về nhà thơ - vợ, và ngược lại, xưa nay đâu hiếm. Viết đến đây tôi chợt nhớ tới bài thơ nổi tiếng Enxa ngồi trước gương của L. A-ra-gông (nhà thơ Cộng sản Pháp nổi tiếng). Sẽ có người cho rằng sự so sánh này, sự liên hệ này là khập khiễng. Thì đành lòng vậy cầm lòng vậy. Nhưng cứ thử đọc kĩ thơ của họ mà xem, thơ là cầu nối, thơ là giăng tơ hồng, thơ là con đường đi chung và là đích đến của cả hai người: “Anh làm thơ em cũng làm thơ (…). Thơ đã chắp cho ta đôi cánh (…). Thơ đã nối hai ta thành bạn đời tri kỷ” (Nguyễn Thị Lan Thanh: Thơ). Hãy đọc thơ Nguyễn Đình Ảnh trước. Sẽ thấy Em (tức vợ) tràn trề trong thơ. Cả trong thực lẫn trong mộng. Cả khi vui lẫn khi buồn. Cả khi được lẫn khi mất. Cả khi gần lẫn khi xa. Cả khi tóc còn xanh lẫn khi đã ngả sương. Ít nhất thì tôi “đếm” được 20 bài thơ nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh viết tặng Em (Vợ). Đó là: Tâm sự với em về hạnh phúc, Đêm Thái Nguyên, Sắc cầu vồng, Đợi, Tạm biệt miền rừng, Cây tường vi mùa đông, Trưa hè bên sông, Lời thương, Viết cho em bên chân núi Đúng, Nghĩ ngợi trước cơn giông, Tâm tình sau lúc em đi, Buổi tối ở Đại Từ, Đồi cọ em về, Ngày mai trời nắng, Điều khó nói, Hoa tặng, Chiều Tam Đảo, Qua xóm Phủ Tây Hồ, Ơi người đi xa có nhớ bến phà không? Thành phố đêm trăng. Ở đây tôi không nói về số lượng (tất nhiên cũng quan trọng). Mà là về chất lượng thơ. Thơ Nguyễn Đình Ảnh, theo tôi, viết có tình. Tình và Tứ. Tạo nên tình tứ thơ. Và điều này nữa cũng rất đặc trưng cho thơ Nguyễn Đình Ảnh: giọng thơ chất phác, khỏe khoắn, trong sáng, nồng hậu, lạc quan trong mọi tình thế, khi nói về tình yêu, hạnh phúc. Lại cũng cứng cỏi, mạnh mẽ, xốc tới ngay cả khi nói về mất mát, đau thương. Phải chăng đó là chất “lính” của nhà thơ?! Tâm sự với em về hạnh phúc là một ví dụ. Đọc bài thơ này tôi cứ váng vất nhớ tới Bài thơ về hạnh phúc của Dương Hương Ly một thời cả thế hệ thuộc lòng vì nó chân thành, gan ruột, ngời sáng chất mật ong lý tưởng. Thơ Nguyễn Đình Ảnh viết cho Em (Vợ) nhiều chia sẻ, động viên, nâng đỡ “một nửa” của mình. Tôi đặc biệt thích những câu thơ giản dị, ấm cúng: “Chiều quê hương gà rúc rích lên chuồng/ em cặm cụi ngồi thổi cơm dưới bếp/ mưa. Khói ẩm, không thể bay lên được/ quấn quanh anh làm mắt cứ cay xè/ Những hạt lạc đỏ và tròn xoe/ cứ thơm dần lên khi nồi rang bén lửa/anh bế con ngồi bên bậc cửa/ nhìn em, nhìn mãi, thế thôi”. Người ta cứ tưởng Nguyễn Đình Ảnh trong bài thơ này triết lý về tình yêu và hạnh phúc. Nhưng không. Và may mắn là độc giả không bị những “triết lý vặt” làm nhụt tình yêu thơ ca. Gia đình, vợ con là một phần máu thịt cuộc đời nhà thơ. Là một niềm hưng phấn của thơ ca. Là phần hay nhất trong thơ Nguyễn Đình Ảnh, dẫu cho nhà thơ có mở rộng biên độ sáng tạo đến bao nhiêu đi chăng nữa (như phần thơ viết về quê hương, về các danh nhân, về những bài thơ dịch như là cách vượt ra khỏi biên giới tinh thần).
Thơ của nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh viết về Anh (Chồng) - nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh - có cái vị, cái hương khác. Bởi là nữ thi nhân, nên “mượn lời mùa thu” (tiêu đề phần II trong Thơ Nguyễn Thị Lan Thanh) để bày tỏ nỗi niềm tâm sự, cả lúc gần cũng như lúc xa, cả trong thực lẫn trong mộng, cả lúc còn cũng như lúc nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh “đi xa”. Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên và thú vị khi tôi “đếm” được 20 bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh viết về Anh (Chồng) - nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh (Mắt, Kỷ niệm vẫn còn đây, Không anh, Ngày này, Thiếu, Một mình (2), Lạnh, Nửa kia cuộc đời, Sau lúc anh đi, Em - Anh, Cùng chờ, Khi em có anh, Thơ, Đi biển vắng anh, Xuân này vắng anh, Thương, Anh dặn, Lời anh, Mưa, tâm sự với anh, Tâm sự của người hút thuốc lào). Những bài thơ này đậm đà một “điệu nói”, dân dã, bình dị, nhiều dư vị của giãi bày, chia sẻ, tâm sự. Nói cách khác là nhà thơ “mở lòng” với đời, với người. Tôi gọi thi pháp thơ của Nguyễn Thị Lan Thanh là “thi pháp chân thành”. Hãy cùng nhau nhau đọc lại bài Cùng chờ: “Thế là anh nhập ngũ/ khoác súng vào chiến trường/ Có những đêm/ em nằm chung với mẹ chồng/ tay ôm gối vì ngại mình mê ngủ/hai cái thiếu sao cho thành cái đủ/ nên em và mẹ cùng chờ…!”. Bài thơ có ghi niên đại 1964 -1975. Bài thơ ngắn, có cả thảy 7 dòng 41 chữ, mà ấp ủ trong những 11 năm thì cũng là một kỷ lục. Thơ, vì thế, như được chắt ra từ ký ức đã trở nên đặc quánh, thăng hoa và phóng chiếu. Và không còn gì thành thực hơn khi ngủ cùng mẹ chồng mà “tay ôm gối vì ngại mình mê ngủ” (biết đâu trong cơn mê, cơn mơ cứ tưởng người bên cạnh là chồng!?). Đó là tình cảm thực của người vợ trẻ, khi mới hơn hai mươi tuổi chưa bén hơi chồng đã phải xa. Mà đâu có một năm. Dằng dặc 11 năm trời (nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh có 11 năm trong quân ngũ từ 1964 đến 1975). Không biết trong gần 4000 ngày khói lửa, trận mạc ấy có lần nào nhà thơ - chồng Nguyễn Đình Ảnh ngâm nga bài thơ Đợi anh về của nhà thơ Nga C. Xi-mô-nôp, để vợi nỗi nhớ nhà thơ - vợ tương lai? Bài thơ này đã được nhà thơ Tố Hữu chuyển ngữ từ tiếng Pháp sang tiếng Việt từ những năm kháng chiến chống Pháp. Bộ đội ta thời kỳ ấy rất thích bài thơ này cũng như đặc biệt thích Tây Tiến của Quang Dũng, Màu tím hoa sim của Hữu Loan, Thăm lúa của Trần Hữu Thung,… Sau khi nhà thơ - chồng “đi xa” thì nhà thơ - vợ lại càng nhờ thơ mà giãi bày chia sẻ tâm tình của một góa phụ, của một khối cô đơn đè lên đôi vai bé nhỏ như núi Thái Sơn. Từ nay làm gì, ngồi đâu, nghĩ gì, mong muốn gì trong đời sống cũng thấy thiếu, chỉ thấy có “một mình một ngựa”. Cái sự thiếu này của người vợ khi không còn chỗ dựa tinh thần được nhà thơ Hữu Thỉnh, đã viết rất hay về cái cách thế hàng ngày người vợ mỗi lần ngồi vào mâm cơm thấy “ngồi bên nào cũng lệch”. Với nhà thơ - vợ Nguyễn Thị Lan Thanh thì nỗi trống trải còn ghê gớm hơn nữa khi mà “Một lưng mà những hai giường/ Lạnh từ cái sắc vôi tường lạnh ra” (Lạnh). Tôi đã lên một cơn rùng mình nhẹ khi đọc bài thơ này. Nhưng nếu một mình chèo chống mưu sinh thì rồi đến một lúc nào đó con cái phương trưởng, cuộc sống đỡ bí bách hơn chí ít con người ta có thể thở phào nhẹ nhõm. Nhưng còn gánh nặng Thơ ca? Khi mà “Một mình gánh chữ vào mơ” như trong bài thơ Một mình (2) thì phần sung sướng tự hào là có, nhưng ít. Phần nặng nhọc, vất vả là nhiều bởi phái gánh vác nghiệp thơ cả cho người “đi xa”. Bởi gánh nặng tinh thần bao giờ cũng gấp trăm nghìn lần gánh nặng mưu sinh vật chất.
TÌNH CẢM CỐ HƯƠNG
Hồi đang còn là sinh viên Đại học Tổng hợp Văn, tôi rất thích truyện Cố hương của văn hào Trung Quốc Lỗ Tấn. Đọc rồi mới thấm thía cái tình cố hương như là cội rễ của con người ta dù ở bất kỳ quốc gia nào, thời đại nào. Dù ta thuộc sắc tộc gì, tôn giáo gì, giới tính gì, nghề nghiệp gì. Đọc thơ của hai nhà thơ chồng, vợ Nguyễn Đình Ảnh và Nguyễn Thị Lan Thanh, không riêng tôi, mà văn giới đều nhận ra cái ngọn lửa ấm áp của thơ ca được đốt lên trong lòng độc giả chính là tình cảm cố hương. Ở mỗi nhà thơ vợ, nhà thơ chồng, theo tôi, có 2 phần thơ hay nhất: một viết về người thân yêu ruột thịt, một viết về tình cảm cố hương. Đây là phần sở trường của cả hai nhà thơ. Trong bài thơ Cố hương, nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh khơi dậy trong mỗi chúng ta tình cảm cố hữu về nơi chôn nhau cắt rốn của mỗi người. Đó là những “làng” ở miền xuôi/ hay “bản” ở miền núi. Và nếu ai đó ở miền xuôi thì sẽ nhớ mỗi làng đều có những “ký tự văn hóa” như mái đình, cây đa, giếng nước, hội làng… Thậm chí đến cả những hương ước riêng độc đáo. Thơ viết theo lối chân quê: “Về quê thăm lại mái đình/ Cây thị giờ bay đâu mất?/ Cây sấu đã cao chất ngất/ Thấy mình lá vẫy rung rinh/ Hai ông hộ pháp canh đình/ Vẫn đứng nguyên hai bên cột/ Mái đình xưa bị Pháp đốt/ Hai ông đứng buồn lặng thinh/ Tuổi thơ vui rộn sân đình/ Xúm chơi bắt dê, thả đỉa/ Ao đình tập bơi một thuở/ Lũ bạn bây giờ ở đâu?”. Thời gian có thể làm phôi pha nhiều giá trị, nhất là trong thời đại bão tố thị trường. Nhưng với những người sống chậm như nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh thì: “Khôn nguôi nỗi nhớ cố hương/ Dẫu bấy nhiêu năm phiêu bạt/ Cây thị, ao đình có khác/ Vẹn nguyên một mảnh hồn quê”. Nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh có khoảng 20 bài thơ hay về tình cảm cố hương (ví như: Ký ức, Không gian, Đất quê, Chiều hôm, Bến Gành, Ngày xưa, Quê, Tháng mười, Chiều, Khoảng trời trung du,…)
Cũng là tình cảm cố hương nhưng có lẽ trong thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh có những hình hài, hương vị, đường nét và giai điệu khác đặc trưng cho quê hương cũng là miền Trung du mến yêu. Tôi cũng “đếm” được khoảng 20 bài thơ hay về tình cảm cố hương trong thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh (ví như: Đêm trăng vùng chè, Vào thăm Đền Giếng, Ga trung du, Gửi mẹ quê nhà, Dạo gót dưới trời xuân, Mùa xuân trên đất núi, Ao sân, Thăm quê, Hoàng hôn trung du, Nơi tôi sinh ra và tôi sống, Mười ba năm âm vang sông Thao, Sông đồi trung du, Giọng quê,…). Đi đâu, làm gì, trở thành ông thành bà gì đi chăng nữa thì cái làng Sơn Dương - nơi chứa đựng tuổi thơ - vẫn cứ hiển hiện trong thơ Nguyễn Đình Ảnh. Những lần đọc Raxun Gamzatôp, tôi nhớ nhất cái ý tưởng văn chương sâu sắc của nhà văn Nga về cái làng của mình. Đó là cái nhân của một cái quả. Đó là cái rễ của một cái cây. Đó là thượng nguồn của một con sông. Đó là những bước đi đầu tiên của một con người trên mặt đất. Viết về cố hương với giọng thơ hào sảng, tươi sáng là nét đặc trưng trong thơ Nguyễn Đình Ảnh: “Nơi tôi sinh ra và tôi sống/ cũng là nơi bà Âu Cơ sinh ra trăm trứng/ giống Rồng và nòi Tiên/ dạy các con trồng mía trên bãi sông/ dạy đào giếng, trồng dâu, dệt vải”. Có lẽ gần 4000 ngày balô trên lưng hành quân qua nhiều miền đất Tổ quốc đã cho nhà thơ cái cảm thức, cảm hứng lớn về quê hương của mình. Đọc những bài thơ hay của nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh về cố hương thấy một tâm hồn, tấm lòng phóng khoáng, hào hiệp. Ông trải lòng mình với quê hương, nơi sinh thành, và rộng hơn là quê hương đất nước của đồng bào mình. Không có gì lạ khi tập thơ đầu tay của ông mang tên Chào đất nước (1970). Rộng và hẹp, rộng và sâu, hướng ngoại và hướng nội là một kiểu bện kết tình cảm trong thơ Nguyễn Đình Ảnh khi viết về cố hương.
CHƠI LỤC BÁT
Đã cầm bút làm thơ ai cũng hơn một lần “chơi” lục bát - một thể thơ đặc trưng, đặc sản dân tộc Việt Nam. Nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh có 41 bài lục bát trên tổng số 232 bài sáng tác trong tuyển tập. Nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh có đến 82 bài lục bát trên tổng số 200 bài thơ chọn trong tuyển tập. Đó là một con số biết nói. Đọc lục bát thấy một nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh đa tình (đôi khi cả đa đoan, đa sự?): “Không yêu mười tuổi cũng già/ còn yêu - trăm tuổi vẫn là thanh xuân” (Ngẫu cảm hai dòng). Nhưng cứ suy ra thì thi nhân nào mà chẳng đa tình, nào có riêng gì nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh. Nhân vật Em (sau này là Vợ) chính là nguồn cảm hứng cho thơ, đã đành, lại còn là nguyên cớ cho những câu lục bát tinh tế, đằm thắm, kiểu như: “Trăng lên…cứ ngỡ là em/ hóa ra cây lá buông rèm trước sân…/ dẫu không có bóng tình nhân/ hương hoa… kéo cả sắc xuân vào nhà” (Hương sắc đêm xuân). Nếu với nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh lục bát chưa đến độ tràn bờ thì với nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, lục bát có cái vẻ sục sôi của nó. Con số 82 bài lục bát nói lên điều đó. Về vẻ đẹp của lục bát trong thơ của nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh thì nhà thơ Trần Quang Quý đã viết trong Lời giới thiệu tuyển tập thơ. Quá đầy đủ. Tôi không có phát hiện gì thêm. Viết đến đây tôi chợt nhớ tới bài viết của nhà phê bình Chu Văn Sơn về “Nguyễn Duy thi sỹ thảo dân” giới thiệu Tuyển tâp thơ Nguyễn Duy do nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành năm 2010. Lục bát đem lại vẻ đẹp hồn nhiên, tinh khiết, dân dã, cổ truyền cho thơ ca. Nó cứu nguy cho thơ ca khỏi nguy cơ bị khô héo, xơ cứng vì suy lí, vì biện luận, vì thậm chí “triết lí vặt”. Làm lục bát hay (kiểu như Đồng Đức Bốn) thì vẫn có thể mê hoặc độc giả ngày nay vốn thông minh nhưng hơi khó tính, thậm chí đôi khi hơi… đỏng đảnh.
VĨ THANH
Thực tình thì tôi không phải là người sành thơ. Nguyên do viết bài này là từ lời mời nhiệt thành của nhà thơ Trần Quang Quý “Viết rồi về Phú Thọ chơi!”. Nhưng khi đọc thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh và Nguyễn Thị Lan Thanh thì tự nhiên tôi quên đi lời mời của nhà thơ Trần Quang Quý. Chỉ còn hòa điệu với thơ. Chỉ còn muốn khám phá vẻ đẹp của thơ. Chỉ còn muốn viết điều gì đó về hai nhà thơ mà mình chưa hề gặp. Một người thì mãi mãi không bao giờ gặp. Một người thì biết sẽ gặp. Nhưng tôi đã nhìn thấy người này trong người kia, qua thơ. Có lẽ sự kì diệu của thơ ca chính là ở đó. Tôi đặt tên cho bài viết của mình là Trên đôi cánh thi ca là có cái nguyên cớ, cái cơ duyên của nó. Chúng ta hay bàn về tác phẩm đỉnh cao. Đã đành là lí tưởng. Nhưng chúng ta ít quan tâm tới việc nhà văn đã sống và viết như thế nào? Đọc thơ của hai nhà thơ chồng - vợ Nguyễn Đình Ảnh và Nguyễn Thị Lan Thanh, riêng tôi, thấm thía bài học muôn thưở “sống đã rồi hãy viết”. Sẽ có người nói “cũ như trái đất!”. Thậm chí “xưa rồi Diễm ơi!”. Không sao. Vì nghệ thuật không có “thời”. Không hề cũ nếu nó làm ta ám ảnh, nghĩ khác, sống khác, xúc động khác. Ít nhất thì thu hoạch của riêng tôi sau khi đọc thơ của hai nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh và Nguyễn Thị Lan Thanh đã nhận ra vẻ đẹp giản dị của đời sống và thi ca. Trên đôi cánh của thi ca chúng ta có thể bay tới những chân trời mới.
Hà Nội, tháng 8 năm 2016
NGUYỄN ĐÌNH ẢNH TRONG TÔI
NGUYÊN AN
Vào các năm 1965 - 1968 chúng tôi học cấp III trường Huỳnh Thúc Kháng dưới chân mấy dãy núi Hạ Khê - Thượng Khê - Phúc Điền ở phía Tây Bắc thành phố Vinh. Hầu hết bọn tôi được kết nạp vào Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, có anh (như Lê Nam Hưng, Lê Đức Thuý… được kết nạp vào Đảng LĐVN) không chỉ vì học giỏi, mà còn tích cực đắp đất đá cho xe bộ đội dễ đi qua chỗ lầy thụt hay đào đắp các hầm, các ụ nổi cho pháo cao xạ có chỗ ẩn nấp mà bất ngờ bắn trúng máy bay giặc. Đói quay quắt và mệt bơ phờ mà vẫn vui. Riêng tôi có bị nhắc nhở vì hay chép thơ Nguyễn Bính với Hàn Mặc Tử, nhưng lại được khen bởi biết kể chuyện rút ra từ Thép đã tôi thế đấy của Ôxtơrôpxki, từ Sống như Anh của Nguyễn Đức Thuận - Trần Đình Vân… và cả việc đọc cho bạn bè nghe những dòng thơ như:
Náo nức lối vào, rạo rực đường ra
ơi những dòng sông sóng vỗ, gió reo ca!
bụi đường tung hồng trên áo pháo
sóng xô bờ - hay đó: tiếng tim ta?
Xe anh qua nhà, xe anh về đâu
Em muốn em hoá thành nhịp cầu
Em muốn em hoá thành sóng nước
thành mái chèo khua dịu ngọt
đưa xe anh qua những dòng sông…
Ơi người đi xa có nhớ bến phà không?
Hồi đó, tôi chưa biết những câu thơ này là của ai.
Đâu như vào cuối mùa hè 1971, đội bóng đá liên quân các trường đại học phía Tây Hà Nội chúng tôi lên Phúc Yên đá giao hữu với đội bóng Phòng không - Không quân. Tôi ngồi dự bị, háo hức chờ vào đá thay ở hàng tiền đạo như đã được dặn. Rồi không biết ai đưa đến cho tôi một trang giấy chép thơ, tôi cầm đọc và miên man…
Âm vang sau tất cả tiếng bom
là tiếng em ta học bài trong lớp
là tiếng mõ trâu rền trên đỉnh dốc
tiếng hát theo chân người đi mở đường…
… Náo nức lòng người mỗi sáng mùa thu
Bỗng nhớ lại thời Vua Hùng dựng nước
mấy nghìn năm thăng trầm không đếm được
bao nhiêu lần nước mất lại về ta!
Hai mươi lăm năm! Thời gian trôi qua
nước sông Hồng vẫn không ngừng chảy xiết
chào đất nước của Hùng Vương bất diệt!...
Tôi được gọi vào vị trí số 11 (tiền đạo trái) nhưng chỉ chưa đầy hai mươi phút lại bị thay ra, vì sút hỏng một bàn, bị cướp bóng mất hai ba lần gì đó. Lại ra ghế dự bị ngồi, mà tôi vẫn lơ ngơ tơ tưởng đến nắng Ba Đình với thao thiết sóng sông Thao trong bài Chào đất nước của nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh.
Mãi nhiều năm sau tôi mới biết ông cũng là tác giả của nhiều bài thơ chúng tôi đã đọc say mê thời đi học, này là Bằng Việt, là Ca Lê Hiến, là Lưu Trùng Dương, là Bùi Minh Quốc… còn Tố Hữu thì chả phải bàn.
Một lần nữa, nhân dịp này, xin cho tôi, cho chúng tôi được cảm ơn thời cuộc, thời thế Việt Nam ta đã sinh ra và nuôi dưỡng nên những người vốn chỉ định làm nghề dạy học, hay công nhân cầu đường hoặc thiết kế công trình… nhưng họ lại vào bộ đội, đi đánh giặc vì lẽ tồn vong của đất nước… rồi “được dẫn gợi thế nào đó”, mà họ viết mê mải, chân thành. Say mê vì có ít năng khiếu, có nhiều vốn đời sống mà viết với sự thúc giục là hãy góp phần làm cho cuộc sống này thanh sạch hơn, con người trở nên nhân hậu và minh tuệ hơn… Dần dần, họ được người đời gọi là nhà thơ, nhà văn. Trong đó, Nguyễn Đình Ảnh là một nhà thơ khiêm dung và gần gũi, ông đẹp vẻ đẹp nghiêm cẩn mà hiền hoà. Như bất cứ thi gia đích thực nào, sau vẻ ngoài trầm lắng của một vóc dáng cao gầy và gương mặt như đã lắm dãi dầu, với mái tóc cũng già trước tuổi, Nguyễn Đình Ảnh có cả một sự xao động như sóng vỗ bờ, thể hiện một nội lực và sự tự biết tiết chế.
Tôi nghĩ là Nguyễn Đình Ảnh có ý thức tự tiết chế. Thơ của ông mới đọc, dễ bị cho là dàn trải, mà nếu cứ thế, dẫu cấu tứ gọn ghẽ, câu chữ vần điệu nhạc điệu đều ổn cả, thì vẫn có thể bị trôi lướt đi. Nhiều tác giả cùng thời với ông đã bị lẫn giữa cả một dàn thơ từng bừng sáng một thời, rồi trở thành muôn một chập chờn trong tâm trí bạn đọc đang ngày một có các xu thế cảm thụ tươi mới hơn. Xin nhắc lại, Nguyễn Đình Ảnh nhờ có sự tiết chế, nên cảnh và tình của ông trong thơ được dãi bày ra ngỡ như đã miên man mà thật chẳng lan man. Không hề lan man, đúng vậy, bạn cứ thử cầm tập tuyển thơ của ông lên mà đọc bất cứ bài nào, hay nhớ lại một số bài thơ của ông mà ta thuộc, sẽ thấy là ở mỗi bài ấy đều có ý tứ trọn vẹn nhất định, chúng được ra đời từ sự dụng công và dụng ý rõ ràng, đủ hiểu và dễ cảm.
Đặc điểm này Nguyễn Đình Ảnh, đã làm ta liên tưởng đến sự kỳ khu tỉ mỉ của bác sĩ Vũ Ngọc Chúc khi sáng tác mà thành nhà thơ Vũ Quần Phương, hay nhớ đến thầy giáo dạy Toán khi cấu trúc cấu tứ cho sáng tác của mình ở nhà thơ Vương Trọng.
Mỗi bài này là một lần ghi lại ký ức của tác giả, tâm trạng nhất thời và ý tình riêng của tác giả với cuộc sống, cuộc đời vừa bao la, sâu thẳm, lại vừa cụ thể, qua một đối tượng là một bà mẹ, một người thân thương, hay một danh nhân… hoặc một ánh vàng của nắng ngoài kia, một giá sách trong nhà, một chiếc gối mềm của con nhỏ…
Biết tự tiết chế, nên thơ Nguyễn Đình Ảnh thật hóm hỉnh như ở bài Lời thương:
Dùng dằng bước giữa phố đêm
lời thương líu ríu - nghe mềm tựa hoa…
Chuyện đời… với chuyện đôi ta
kìa em, khẽ chứ… kẻo va phải trời!
Và có lúc, mượn một cách làm thơ mà như nói thế này:
Sự sàng lọc khắc nghiệt của chiến tranh
khiến mọi thứ trơ ra, chỉ còn là cái lõi
những người ít chữ nghĩa và ít nói
lại làm bao chuyện phi thường…
(Nghĩ ngợi trước cơn dông)
Viết đến đây, tự nhiên tôi lại nhớ đến mấy dòng này:
Muốn nói đôi điều trước thành phố và em
trước bát ngát trăng đêm và ngọn gió
trước xa thẳm bầu trời và các vì tinh tú
có hai người trên trái đất, đêm nay…
Nhưng bối rối bên đường và bóng rợp hàng cây
cứ nắm chặt tay em và lặng lẽ…
Nguyễn Đình Ảnh có phải là một người ít chữ nghĩa và ít nói không? Tuỳ bạn. Còn tôi thì tin rằng cứ nắm chặt tay em và lặng lẽ… như thế, chắc là nhà thơ của chúng ta đã làm được một chuyện phi thường rồi!
Những người cả nghĩ, lại rất biết tự tiết chế, lấy cái chừng mực làm trọng, thì như ta biết, các tác giả này thường sáng tác ra những bài thơ khiến bạn đọc cảm phục (về ý tứ, tư tưởng…) nhiều hơn là những bài thơ được vang ngân với công chúng trong sự dìu dặt của nhạc điệu, trong sự ám ảnh của ngôn từ và hình ảnh.
Số nhà thơ vừa đủ ý đạt lời tưởng là nhiều, là đông đúc - vì nhờ có thế, họ mới tạo ra một trào lưu, một lực lượng nòng cốt, mới tạo ra thành tựu cắm mốc cho từng chặng đường phát triển của thơ ca… nhưng thời gian qua đi, nay ta nhìn nhận lại, thấy số này thật không nhiều lắm. Vả chăng, cái gọi là chiều cao sâu của tư tưởng là thế nào, sự dìu dặt vang ngân của nhạc điệu thơ là ra sao… vẫn đang là chuyện còn cần trao đổi, tuỳ vào cảm quan nghệ thuật cùng trình độ của mỗi người và bối cảnh cụ thể của các cuộc hội đàm.
Đọc thơ Nguyễn Đình Ảnh những ngày này, lại nhận ra hào khí và phong cách, cùng đặc sắc của thơ ca chống Mỹ cứu nước thủa trước đã xa xa mà vẫn thật gần gũi, cả trong thi liệu, và nhất là trong câu chữ, hình ảnh đã giàu chất biểu trưng tự nhiên của nó.
Ví dụ 1, bài Hoa dẻ rừng, nhà thơ kể:
Cái lúc gặp em ở rừng già
là lúc máy bay sà xuống thấp
bom nổ xoáy, xới tung mặt đất
em vẫn gùi trên lưng chiếc túi giao liên
…Từ đầu hôm đến lúc sáng mai
em đã lội qua bao khe, bao suối
dốc cao thế, chân em có mỏi
có phút nào em thấy nhớ quê không?
… Có ngờ đâu sau những loạt bom
em vẫn hồn nhiên bước lên đỉnh dốc
anh nhìn theo, bỗng thấy chiều vàng rực
hoa dẻ rừng thơm suốt lối đi.
Có lần tôi nói với Phạm Tiến Duật, rằng thơ của ông là thơ của thời có hàng vạn hàng chục vạn thanh niên mọi miền quê vượt núi cao sông hiểm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai”… Phạm Tiến Duật trầm ngâm: Quả có thế. Kì vĩ lắm. Thật lắm đấy… Nhưng thơ anh có thiên hướng lạc quan hoá? Nhà thơ nói như thì thầm: Đó cũng là ý nghĩ thật của mình, không lạc quan và thi vị hoá cái ác liệt thì vượt qua bom đạn, chết chóc sao được? Cậu đã ở khu IV hồi đó, chắc cậu đồng ý với bọn mình.
Lạc quan và đã có bông đùa tếu táo mà hay, đó là Phạm Tiến Duật. Nhà thơ hàng đầu này có chủ ý sáng tác như vậy. Chơi với nhau đã lâu, đã thuộc nhau, chắc Nguyễn Đình Ảnh đã ngẫm từ người bạn thân quý của mình mà tự lựa chọn một hướng đi, một lối viết riêng, phù hợp với cái tạng chất của mình. Bởi vậy nên Nguyễn Đình Ảnh mới viết ra như thế phải không? Và Nguyễn Đình Ảnh cũng thành công khi viết về chiến tranh qua lời thơ giản dị mộc mạc, nhịp thở suôn sẻ, tạo ra tính nhạc cũng tự nhiên.
Ví dụ 2, bài Điều khó nói… có đoạn:
Mùa hạ, năm đầu chiến tranh
ở sân bay Vinh
anh đến một đơn vị pháo
Cứ sau mỗi lần chiến đấu:
áo quần khét khói bom
cả khẩu đội ngồi thông nòng
đắp thêm cộng sự và lau đạn.
Một hạt gạo - hai hạt sạn
cơm ăn không bữa nào no
trực ban giữa trưa
gió Lào cháy trên mặt cát
đêm, nằm trong lán bạt
hơi đất lùa dưới lưng…
Lúc ấy anh nghĩ về Em
nghĩ về Tổ Quốc,
và những điều tưởng chừng không hiểu được
lại hoá nên rõ ràng…
Ví dụ 3, bài Ngày mai trời nắng…:
Trăng rất trong nên trời rất cao
mây xanh quá hóa ra nhẹ bẫng
câu quan họ rơi vào im lặng:
“Người ơi người ở đừng về…”
… Ánh trăng đêm nhoà các vì sao
chiếc kẹo bóc rồi, lại rơi xuống đất
que diêm cháy lên, tự nhiên vụt tắt
không ai hiểu hết cuộc đời?
Chắc chúng ta đều đồng ý với nhau: Thơ Nguyễn Đình Ảnh là thơ của một thời, hẳn nhiên. Nhưng tôi muốn nói thêm: Thơ ông cũng đã có những câu những đoạn, những ý có thể sống được với những thời sau nữa, như ở các ví dụ 2, ví dụ 3 này. Đó là những câu thơ giản dị, tự nhiên, toát lên chân lí nhân sinh mà không phải lúc nào ta cũng nhận ra được. Chiêm nghiệm và băn khoăn của tác giả như thế, đã theo đi cùng mỗi cuộc đời người đọc. Nói như Hữu Thỉnh, là ta hãy đọc Nguyễn Đình Ảnh một cách “chậm rãi, thư thái và trong một trạng thái cô đơn càng tốt, sẽ ngấm hết các dư vị của thơ anh”, Hữu Thỉnh viết tiếp: “Đó là thứ thơ giàu tâm tình, ít trang trí, coi trọng về chất.”
Khuyến nghị về cách đọc thơ Nguyễn Đình Ảnh của Hữu Thỉnh là khuyến nghị của một người bạn sáng tác kinh lịch, nên rất thích hợp. Tôi cũng đồng ý rằng thơ Nguyễn Đình Ảnh là “thơ giàu tâm tình, ít trang trí, coi trọng về chất”, song còn muốn nói thêm: Thơ ông cũng giàu nhạc điệu. Nhạc điệu này có lúc có khi ngỡ là “nhặt được” một cách tự nhiên từ cuộc sống (như các ví dụ trên), và nhiều khi cũng là do ông đã trau chuốt ngôn từ, tìm chọn hình ảnh mà tạo ra.
Tôi cũng thấy là thơ Nguyễn Đình Ảnh ngày nay, sau chừng ngót nửa thế kỉ sáng tác, sau 10 năm ông chia xa bè bạn, vợ con, mà vẫn được đọc và luận bàn, là vì như lẫn vào giữa mạch thơ nhạc thơ với bao thi liệu thời ấy, ông đã ý tứ và rất hợp lý mà găm vào tâm trí người đọc một số câu chữ có ý vị khái quát cõi nhân sinh… Ông có những dòng thơ viết về ai ai đấy, mà cũng viết tự mình, cho mình, để bao người đọc lại thấy đó cũng là phương châm sống cần theo.
Chẳng hạn:
- Giấu hết nỗi buồn trong túi
niềm vui gửi trọn trời xanh!
(Cảm nhận thơ Thiền)
- Có cái gì hay thì nhớ
còn cái dở… thì nên quên!
(Dặn trước các con, các cháu)
Ai hay ngồi máy bay đi đâu, đều có thể cảm nhận như Nguyễn Đình Ảnh:
thấy dưới chỗ mình ngồi: toàn mây là mây
như những đàn cừu trắng
lũ lượt kéo về xuôi
Rồi thôi, chỉ thế thôi. Nhưng là nhà thơ, Nguyễn Đình Ảnh buông ra hai dòng nữa:
Mới hay: ở lưng trời
lại thấy mây là thấp!
Hay một lần khác, ông có Mấy dòng tự bạch, đoạn đầu là kể:
Gia tài nào có gì đâu
năm bảy chồng sách ngộp đầu lút chân
chỉ đi - không biết bao lần
hết nơi xa lại chốn gần thế thôi!
Rồi xuống hàng, sau cái “thế thôi!” đầy ngụ ý này, là bộc bạch, vừa nhẹ nhàng, ý tứ, vừa ngay thẳng bộc trực như rất nhiều người đàn ông họ Nguyễn Đình chính hiệu từ gốc Tổ là Thái sư Cương quốc công Nguyễn Xý ở Cửa Lò xứ Nghệ:
Chót vót núi - thấy nhiều rồi
Thương lúp xúp… mấy vạt đồi quê ta
Từ lâu tôi vẫn cho rằng Nguyễn Đình Ảnh là nhà thơ chính danh. Nhà thơ này có vẻ ẩn nhẫn nhường nhịn thật đấy, và cũng có cả cái ngang tàng khí phách nữa, nhưng ông đã tự tin mà giấu đi, cũng là một lần tự tiết chế đấy thôi.
Xin lưu ý thêm:
1. Nhưng không phải suốt đời cầm bút, lúc nào nhà thơ của chúng ta cũng kìm nén tiết chế cả đâu nhé! Nếu thử đọc lại cho kĩ hơn, riêng chùm thơ Tứ tuyệt không đề và chùm bài Ngẫu cảm hai dòng, bài nào cũng ngắn, thấy Nguyễn Đình Ảnh lắm lời bạo ý ra trò đấy. Nhà thơ ta nhớ ai đây? (chắc là vợ?) mà to gan lớn mật quá chừng thế này:
Em, giờ xa lắc xa lơ
đêm đêm… sao những giấc mơ vẫn về
Giá cháy được nỗi đam mê
anh xin đốt trụi mùa hè, theo em…
Đôi khi chỉ một mảnh tình
Đủ nuôi sống trái tim mình trăm năm
Và: - Em ơi, chẳng hát bây giờ
mai kia em hát - ai chờ em nghe?
- Không yêu trăng hóa mảnh sành
yêu nhau - ngắm đá cũng thành bông hoa!
- Yêu em anh chớ tặng quà
Lá thì lâu héo, còn hoa… chóng tàn!
Ở đoạn trình bày trên, tôi đã nhắc tới lời nhà thơ dặn con cháu rằng Cái gì hay thì nhớ/ Còn cái dở… thì quên! Còn bây giờ, với mấy câu lục bát này thì có phải là Nguyễn Đình Ảnh đã nghiệm sinh mà dặn chúng ta không?
- Suốt đời mòn bút làm thơ
khéo khôn thì mất, ngẩn ngơ thì còn!
- Đẹp thì đẹp cũng nhiều bề
chớ thấy hoa cúc mà chê hoa nhài!
2. Tôi không rõ là trong di cảo, Nguyễn Đình Ảnh còn để lại cho gia đình và đồng nghiệp những bài thơ nào nữa. Thơ dịch từ bản Trung văn hay Nga văn của ông hẳn là còn nhiều. Nếu có dịp được đọc, chắc là chúng ta sẽ có điều kiện hiểu nhà thơ đầy đủ và sâu sắc hơn.
Xin cảm ơn các cơ quan của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Văn nghệ Phú Thọ cùng những người tổ chức và tham gia cuộc hội thảo này, đặc biệt là bà Lan Thanh cùng các con cháu, là nhà văn Nguyễn Trí Huân, nhà thơ Trần Quang Quý.
10.10.2016
N. A
KÝ ỨC XANH MIỀN ĐẤT VUA HÙNG -
QUÊ HƯƠNG TRĨU NẶNG, TÌNH ĐỜI THẲM SÂU
QUANG HOÀI
Tôi biết chị Nguyễn Thị Lan Thanh cách đây vài năm, khi được cùng nhà thơ Trần Quang Quý và nhà thơ Nguyễn Hồng Công đến thăm tư gia của chị. Bữa cơm trưa đầm ấm và gần gũi như những người bạn thân quen vốn lâu ngày xa cách bây giờ mới có dịp gặp lại nhau được chị thết đãi, khiến tôi hết sức cảm động. Cảm nhận của tôi về chị là sự chân thành, cởi mở, thân thiết và nồng hậu của một người phụ nữ miền sơn cước, của một cô giáo dạy văn cấp III hết lòng yêu quý học sinh dù đã nghỉ hưu, của một nhà thơ đang ấp ủ nhiều ý tưởng và dự định thi ca. Bẵng đi một thời gian, vừa qua tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn, tôi được đọc tập thơ khá đồ sộ của chị gần như một tuyển tập, có tên “Thơ Nguyễn Thị Lan Thanh” dày tới 440 trang, khổ 14x20,5 cm. Đọc thơ chị, những ký ức gặp chị lần đầu lại hiển hiện, khiến tôi không thể không viết ra đôi điều cảm nhận về thơ chị, nhất là khi tôi bị hút vào phần đầu của tập thơ, phần chị đặt cho cái tên là “Buồm chiều trong nắng mai” gợi cảm và nhiều thi vị. Những cảm nhận của tôi, ở góc nhìn và thẩm thấu của riêng mình xin được gọi chung là “Ký ức xanh miền đất vua Hùng - Quê hương trĩu nặng, tình đời thẳm sâu”.
Thơ chị Nguyễn Thị Lan Thanh là một tiếng thơ chân thực, dung dị và thuần phác, hướng mạnh vào nội tâm với những cảm xúc trực tiếp, trực diện, không cầu kỳ, lạ lẫm, dễ đọc và dễ cảm nhận. Đọc thơ chị không ai không nhận ra sự chân mộc, thực thà, nhưng cũng không kém phần sâu lắng của một hồn thơ nặng tình, nặng nghĩa với quê hương, với người thân, với nghề nghiệp mình theo đuổi và đam mê của một người ở một miền đất cổ vốn có truyền thống văn hoá lâu đời. Ở miền đất 18 đời vua Hùng dựng nước và giữ nước - đất Tổ của các thế hệ con Lạc cháu Hồng, thơ Nguyễn Thị Lan Thanh như được chắp thêm đôi cánh tự do để tung tẩy và bay lên, trên nền những ký ức sâu đậm của cuộc đời mình - những ký ức xanh rờn và tươi mới, không hề bị thời gian phủ mờ, bày tỏ tình quê hương trĩu nặng, tình đời sâu thẳm và những gì thâu nhận được, lắng đọng lại của một nữ thi nhân.
Ký ức đầu tiên găm sâu trong tâm khảm chị Lan Thanh là ký ức về Tổ Tiên, về mảnh đất cha ông. Đó là quê hương nơi chị sinh thành “Con đẻ của sông Hồng/ Qua bao năm thai nghén”. Ở đó có “Vạm vỡ đồng bằng, đặc quánh phù sa/ Một triền đê cao như núi/ Giống như con rắn khổng lồ uốn khúc bờ xa/ Nhào đắp bằng mồ hôi và máu... mọi nhà/ Tích tụ mấy ngàn năm từ thuở cha ông”. Ở đó có “Bến đò Gành giấu kín bao nỗi nhớ/ Lũ trẻ chúng tôi cười trên lưng trâu/.../ Con trai giỏi bơi, sải ra tít chỗ sâu/ Con gái nhút nhát hơn tắm ven bờ bãi”. Và ở đó còn có những kỷ niệm không thể phôi pha, một đi không trở lại: “Cây gạo già lốm đốm hoa/ Thấp thỏm chờ sấm tháng Ba chưa thấy!/ Chúng tôi xâu hoa râm bụt thành vòng tròn/ Đội lên đầu “cô dâu” dậy đỏ/ Những chân bát vỡ, những lá bí bầu.../ Bầy những quả duối chín vàng làm “cỗ cưới”, v.v... Những kỷ niệm tuổi thơ ấy như quấn riết lấy chị, dung dưỡng chị, sau này “Làm hồn cho những câu thơ” của chị. Một quê hương và quá vãng như thế, khổng thể hễ cứ xa là không ngong ngóng đợi chờ: “Mới xa gần tháng thôi/ Mà mấy năm cách trở/ Nhà mình như cái tổ/ Chỉ ấm khi ta về”. Bởi đó là đất quê với tầng tầng văn hoá vật chất và tinh thần nuôi dưỡng tâm hồn con người không bao giờ vơi cạn:
Ao xanh bè rau muống
Tim tím hoa lục bình
Nhót treo đèn thắp lửa
Nhún nhảy gọi bình minh!
Chùm cọ tím xinh xinh
Vẫy tay đùa với gió
Quả bàng xanh chát chúa
Dứa chín vàng như tơ...
Đền Hùng trong giấc mơ
Gặp toàn hoa sim tím
Cây đại xoà trước sân
Trắng màu hoa bịn rịn!
Thiên tuế như chữ tín
Chứng nhân dòng thời gian
Bốn ngàn năm đất nước
Sử nối dòng sang trang!
Đi đâu cũng nhớ làng
Bốn mùa thơm hoa trái
Xa... hút xa... dầu dãi
Quê vẫn đắm trong thơ!
(Đất quê)
Đó đâu chỉ là kể tả, mà là những câu thơ thực sự viết bằng hồn.
Tình quê hương đã như thế, hẳn tình đời không thể hạn hẹp, thiếu xênh xang. Tình cảm của chị Lan Thanh đối với học trò, với bạn bè, người thân, nhất là đối với các nhà thơ, nhà văn quê đất Tổ càng làm tôi xúc động. Với nghề cả đời chị theo đuổi - nghề “Trồng Người”, mỗi lần tiễn một lứa học sinh tốt nghiệp cấp III chuẩn bị bước tới những chân trời mới, lòng chị lại đầy bịn rịn, nhớ thương: “Phượng như đỏ mắt khóc thầm/ Góc sân/ Cây sấu/ Tần ngần quả xanh.../ Thôi đành/ ủ lá ru cành/ ủ hoa đỏ/ để dụm dành mai sau...” (Mai sau).
Với nhà thơ Hữu Thỉnh - người con của quê hương đất Tổ, nay giữ trọng trách Chủ tịch Uỷ ban Toàn quốc các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam và Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, chị thể hiện một tấm lòng trân trọng và biết ơn sâu sắc:
Những hạt vàng óng ánh
Từ “Cây” anh chắt ra
Thấm sâu tình nhân ái
Toả hương bay, bay xa!
(Thơ anh)
Với nhà thơ Phạm Tiến Duật - cũng một người con của quê hương đất Tổ, một cánh chim đầu đàn của thơ chống Mỹ, mới hôm nào “Thăm anh từ bệnh viện ra/ Trời! Sao rét đậm như là có gai?”, bỗng nghe tin sét đánh anh vội vã về trời, lòng chị tê tái, dào lên cảm xúc tiếc thương, cầu mong anh siêu thoát và đoan chắc rằng:
Hồn dù siêu thoát về trời
Thơ còn ấm lửa tình người thế gian!
(Người đi thơ còn ở lại)
Đặc biệt, với người chồng thân thương - nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh, chị đã dành cho anh một tình cảm hết sức sâu nặng, bằng nhiều bài thơ, câu thơ viết về anh, cho anh. Mới ngày nào anh chị vừa quen nhau ở cái bến Gành quê kiểng ấy: “Bên này là bến Lâm Thao/ Sao bên kia bến lạc vào Tam Nông?/ Hai bên chung một dòng sông/ Bên hoa gạo đỏ, bên đồng ngô xanh”, để cho chị mơ ước “Ước sông hẹp ở lòng tay/ Cho hai bến đợi... tại ngay tim mình”, rồi “hai cái bến đợi” ấy trở thành hiện thực, anh chị thành vợ thành chồng, mà nay thời gian như chớp mắt, anh đã đi xa, để lại cho chị bao tiếc nuối, xót thương, kỷ niệm xưa như vẫn còn đây:
Thoắt bốn mươi xuân chung sống
Năm đứa con tươi cành, đẹp nhánh...
Một nhà rộn tiếng cười vui!
Anh ao ước có phòng riêng để viết
...Thương anh nay xuôi, mai ngược
Chẳng biết tiêu tiền, chẳng biết mặc sang...
Cứ giản dị, hiền lành, thẳng như ruột ngựa
Cả đời thơ phú đa mang!
(Kỷ niệm vẫn còn đây)
Chị xa anh, cam chịu phận đời “lẻ bóng”, nhưng kế bước anh, chị tựa vào thơ để sống tiếp phần đời còn lại:
Vịn vào thơ em tìm ra lẽ sống
Nâng niu thời gian còn lại... ủ đáy lòng...
(Kỷ niệm vẫn còn đây)
Sau cái mất mát tháng 7-2009: “Em gọi, em gào... trời đâu có thấu/ Chỉ thấy lòng mình cuộn những cơn giông”, đành “Giấu kín tâm hồn thanh sạch đợi anh thôi!”, để rồi bừng ngộ “Tuổi tác nghĩa lý gì/ Khi con người tìm ra lẽ sống/ Một ngày nồng nàn/ Hơn trăm năm nhàn rỗng/ Đủ thắp sáng cho mình/ Rung động suốt nghìn năm”. Đó chính là điều khiến chị thuỷ chung với thơ, bởi chỉ có thơ mới làm anh ấm lòng nơi chín suối. Chẳng thế mà khi tự đặt ra câu hỏi: “Đi qua quá nửa cuộc đời/ Còn bao xuân nữa với người thế gian?”, chị đã tự trả lời: “Thơ đang ấp nhuỵ nồng nàn/ Muốn bay theo gió... hoà tan đất trời!”.
Cảm ơn chị Lan Thanh đã cho tôi được đồng cảm, sẻ chia với những tình thơ, ý thơ của chị. Mong chị tiếp tục sáng tác và gặt hái thêm nhiều thành công!