BẠN TÔI, MỘT NHÀ VĂN ÁO LÍNH
BÙI VIỆT THẮNG
Tôi theo dõi chương trình truyền hình trực tiếp “Mười ngày rung chuyển thế giới” kỷ niệm 100 cách mạng tháng Mười Nga trên VTV1 ngày 4-11-2017 một cách say mê, hào ứng. Thú vị nhất là khi tôi nhận ra trên màn ảnh nhỏ người bạn cùng khóa 14 khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Anh là nhà văn mặc áo lính sinh ra từ mảnh đất Quảng Bình “chang chang cồn cát...”, tác giả truyện ngắn nổi tiếng Hồi ức binh nhì...
Trên màn ảnh nhỏ hôm ấy Nguyễn Thế Tường mặc quân phục, đội mũ mềm có gắn sao, đeo kính, để râu... Bề ngoài là vậy nhưng tư thế, phong cách và khẩu khí thì không kém phần nghệ sỹ. Nói như cánh trẻ là rất “phiêu”. Anh hòa lời ca nồng nàn cùng 4 Nghệ sĩ Nhân dân danh tiếng. Khi bài hát được trình diễn trọn vẹn, tôi thấy cả 5 người cùng lặng đi vì xúc động. MC đặt câu hỏi với Nguyễn Thế Tường. Tôi run lên khi nghe bạn tôi nghẹn ngào: “Hôm nay tôi hát cùng bốn nghệ sĩ đây để tưởng nhớ hồi ức binh nhì, để tưởng nhớ năm anh em trên một chiếc xe tăng, đã cùng chia lửa chia máu ở mặt trận Cửa Việt, Quảng Trị mùa hè đỏ lửa năm 1972. Nhưng hôm nay thì chỉ còn lại một mình tôi hát. Đồng đội tôi, bốn người lính trẻ đã mãi mãi tuổi hai mươi”....
Binh nhì Nguyễn Thế Tường năm 1971
Màn ảnh nhỏ lập tức chuyển tới người xem trích đoạn “Nguyễn Thế Tường và đồng đội trên xe tăng”. Ngày ấy, trên một xe tăng có năm chiến sĩ. Nguyễn Thế Tường ở vị trí lái. Mỗi người còn lại một vị trí chiến đấu. Máu lửa, khắc nghiệt, hi sinh vẻ vang thì đã đành, vì chiến tranh đâu phải ngày hội hay trò đùa. Những cảnh chiến trận thì khỏi phải nói. Nhưng tôi đặc biệt chú ý đến cảnh “thư viện trên xe tăng”. Chao ôi, thanh niên bây giờ làm sao hình dung được các chiến sỹ trẻ măng thời ấy học tiếng Nga giữa hai trận đánh, đọc sách và ca hát dưới bụng xe tăng lúc chờ xuất kích. Nguyễn Thế Tường và đồng đội đã cất lên lời ca tiếng hát để át tiếng bom, trong đó không thể thiếu những bài hát Nga suốt một thời gian dài được yêu thích ở Việt Nam như Cuộc sống ơi ta mến yêu người, Thời thanh niên sôi nổi, Đôi bờ, Chiều ngoại ô Matxcơva, Kachiusa, Chiều hải cảng, Triệu bông hồng...
Một trích đoạn khác thấy Nguyễn Thế Tường đến viếng đồng đội đã hy sinh trong bảo tàng lịch sử quân sự, trong nghĩa trang liệt sỹ... Anh linh của hồn tử sỹ, liệt sỹ như khắc dấu trên nét mặt đau đớn của Nguyễn Thế Tường. Tôi thấy anh cứ nghẹn ngào, thổn thức với đồng đội cho đến giây cuối cùng trên sân khấu hoành tráng, lung linh. Lại một trích đoạn khác về các cựu chiến binh Thành cổ Quảng Trị 1972. Học theo các chiến sỹ Hồng quân Liên xô trong chiến tranh vệ quốc, trong chiến hào và công sự, các chàng lính trẻ Việt Nam má còn mượt lông tơ, mỗi ngày qua đi họ khắc dấu ngày tháng lên đất đá để biết mình sống được bao nhiêu thời gian giữa chiến trường bom rơi đạn nổ. Nhưng rất nhiều người trong số họ hôm nay khắc dấu lên vách chiến hào, công sự thì ngày mai đã vĩnh viễn không trở về, mãi mãi tuổi hai mươi. Những người còn sống sót trở về sau chiến tranh nói về đồng đội mà mắt đỏ hoe...
Sau năm 1975, Nguyễn Thế Tường trở về học tiếp khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Còn nhớ, mùa thu năm 1969, nhập học ở phố Lê Thánh Tông-Hà Nội xong, hơn 100 tân sinh viên khóa 14 rùng rùng kéo quân vào Hà Đông (lúc đó thuộc Hà Tây). Lớp Văn thì trụ lại ở làng La Khê (Suối Lụa) còn lớp Ngữ thì kéo sang La Nội. Nhập học được hơn một tuần thì cả khoa, cả trường, cả nước trải qua Quốc tang-Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Tôi còn nhớ ngày 5-9-1969 toàn khoa Ngữ văn tập trung tưởng niệm Bác Hồ vì không có điều kiện đến quảng trường Ba Đình tiễn biệt Người. Khi tập hợp đội hình thì không phân biệt khóa, hay ngành học. Ai đến trước thì đứng trước. Ai đến sau thì đứng sau. Tôi nhớ như in, mình đứng cạnh Nguyễn Thế Tường bên lớp Ngữ. Tôi nhớ rõ hôm đó anh cố kìm nhưng tiếng khóc nức nở vẫn bật lên...
Năm 1971, khoa Ngữ văn chuyển ra Thanh Xuân, ngụ tại cơ sở của trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (nay là Đại học Hà Nội), cạnh bến tàu điện Thanh Xuân. Ngày 6-9-1971, Nguyễn Thế Tường đang học năm thứ hai, đã trúng tuyển và lên đường nhập ngũ cùng với nhiều sinh viên các trường đại học khác ở miền Bắc. Có đến 3500 sinh viên các trường đại học nhập ngũ, thành lập một Sư đoàn 325B. Cuộc chiến tranh ngày càng khốc liệt. Những tân binh đang là sinh viên các trường đại học đã xếp bút nghiên theo việc binh đao. Sau này nhiều người trong số họ đã không trở về. Đó chính là mất mát lớn nhất của cuộc chiến tranh. Mất một thế hệ thừa lòng dũng cảm và trí thông minh. Không biết cơ duyên nào đã đưa Nguyễn Thế Tường vào binh chủng tăng thiết giáp, khi như người ta nói dân văn chương dài lưng tốn vải. Nhưng tôi nghĩ, chính hoàn cảnh chiến tranh đã trui rèn không chỉ Nguyễn Thế Tường mà cả thế hệ qua lửa đỏ và nước lạnh.
Nhà văn Nguyễn Thế Tường hiện nay
Tôi lại nhớ chi tiết trở thành như giai thoại khi Nguyễn Thế Tường trở về học tiếp ở khoa Ngữ văn: ngày ấy sinh viên bị cái đói hành hạ, Nguyễn Thế Tường ở bộ đội ăn no, nay về đời sinh viên thì cũng đói dài ra. Có một cô gái ở phòng hành chính “mê” chàng sinh viên vốn là lính tăng, có cái vẻ ngang tàng bất cần đời, nên thầm thích trộm nhớ, của đáng tội anh cũng thích ả cũng thích. Lại có chuyện, mâm cơm nào có Nguyễn Thế Tường ngồi đều có vẻ đầy đặn hơn, chưa kể những tảng cháy vàng rộm được bổ sung vô tận. Nhiều bạn bè được “ăn theo” Nguyễn Thế Tường. Cô này tôi biết. Trông rất đậm đà, mạnh mẽ, đa tình, chủ động. Nhưng cuối cùng thì đó cũng chỉ là “gia vị” đời sống. Tốt nghiệp, Nguyễn Thế Tường một mạch về quê. Lấy vợ. Sinh cơ lập nghiệp tít tận Quảng Bình gió Lào cát trắng. Rồi thành nhà văn, nhà báo. Rồi lúc khỏe, lúc yếu. Rồi cũng đến lúc hạ cánh an toàn. Nghĩa là nhận sổ hưu. Tháng 7-2015, tôi gặp anh ở Hà Nội, tại Đại hội Hội Nhà văn Việt Nam lần thứ IX. Anh vẫn cứ nói cười rổn rảng. Hỏi thăm bạn bè cùng khóa, quan tâm mọi vui buồn của đồng nghiệp. Chuyện văn chương tưởng như không bao giờ dứt. Trong ví của anh lúc nào cũng có ba cái thẻ: Thương binh - Nhà báo - Nhà văn. Nhưng tôi biết anh rất ít khi phải dùng đến nó.
Lúc nộp đơn vào học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội không ai nghĩ mình sau này trở thành nhà văn. Chỉ đơn giản nghĩ được học cái ngành mình yêu thích, chỉ nghĩ sau này sẽ theo đuổi con đường nghiên cứu. Thế nhưng khóa 14 Ngữ văn cũng đã kịp góp vào danh sách hội viên Hội Nhà văn Việt Nam 5 nhà văn: Bùi Việt Thắng, Nguyễn Thế Tường, Nguyễn Đăng An, Triệu Xuân và Bích Thu. Tôi cứ nghĩ, nếu không có chiến tranh, hoặc giả không vào quân đội, chưa hẳn Nguyễn Thế Tường đã trở thành nhà văn như bây giờ. Cái truyện ngắn Hồi ức binh nhì làm nên “thương hiệu” Nguyễn Thế Tường không bỗng dưng có được nếu anh không sống hết mình đến mức mấy chục năm sau vẫn không thể dứt ra khỏi cảnh ấy, tình ấy, trạng huống ấy. Từ Hồi ức binh nhì đến Người đàn bà không hóa đá, tôi thấy Nguyễn Thế Tường cứ một mực đau đáu với dĩ vãng đẹp. Anh viết không nhiều nhưng có can gì khi trong nghệ thuật cái quy luật “quý hồ tinh bất quý hồ đa” thật khắc nghiệt. Tuy ở xa nhau nhưng tôi âm thầm theo sát con đường văn chương của anh. Và tôi thật sự mừng cho anh, nguồ bạn đồng môn Đại học Tổng hợp Hà Nội, một đồng nghiệp văn chương, một cựu chiến binh chống Mỹ cứu nước...