VanVN.Net - So với lịch sử 170 năm ngành than (từ khi vua Minh Mạng cho phép tổng đốc Hải An Tôn Thất Bật mở mỏ khai thác than tại núi Yên Lãnh xã Đông Triều, huyện Đông Triều) thì 25 năm lịch sử thành lập mỏ than Khe Chàm (nay chính danh là Công ty TNHH một thành viên than Khe Chàm-Vinacomin) chỉ là đứa em út so với các mỏ than đàn anh có tuổi thọ từ trước khi thành lập Xí nghiệp Quốc doanh than Hòn Gai 1955…
Thế mà, có phải như các cụ hay nói “giầu con út, khó con út”, Than Khe Chàm ở vùng sâu vùng xa nhất Quảng Ninh, điều kiện đi lại khó khăn,
có tới dăm bẩy cây số đường mấp mô lầy thụt “như đường Trường Sơn” (thuộc quốc lộ 18, bởi ngày đêm miên man những đại xa, những xe công-te-nơ chở hàng đi về từ phía biên giới Việt Trung) lại được Tập đoàn TKV chọn Công ty này làm nơi áp dụng đầu tiên công nghệ cơ giới hoá đồng bộ khai thác than lò chợ, rồi Khe Chàm III cũng được giao tiếp cho Công ty này với công nghệ cơ giới hoá cao vào loại nhất ở Việt Nam. Hẳn Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã cân nhắc kỹ để “chọn mặt gửi vàng”!
Chuẩn bị đến với khu mỏ than xa nhất, hẳn là sẽ được tắm mình ngày đêm trong một không gian mờ ảo bụi than, nên tôi mặc ngay từ nhà bộ quần áo xám họ hàng với than. Sinh họat giữa những người công nhân dầu mỡ, than bụi, mình phải chia sẻ chan hoà với anh chị em chứ! Vì nghĩ thế, tôi trở thành lạc điệu ngay từ giây phút đầu tiên gặp họ. Tôi hơi bất ngờ: tất cả mọi người không trừ ai, đều một màu áo trắng, ngực áo thêu hai chữ K.C.(Khe Chàm). Văn phòng Công ty là dẫy nhà ba tầng khang trang bề thế, mường tượng như một cơ quan cấp bộ ở Hà Nội. Phía trước mặt là hàng cọ dầu lớn kếch.
Nhóm nhà văn chúng tôi được mời ngay vào cuộc giao ban đầu tuần của Công ty, cũng là để giám đốc giới thiệu chúng tôi với các cán bộ đầu ngành của mỏ. Giám đốc, chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Ngô Hoàng Ngân, một trung niên vạm vỡ trắng trẻo, anh như hoà lẫn vóc dạc người thợ với một trí thức vẻ thị thành. Anh giới thiệu các cán bộ đầu ngành của Công ty, rồi nhường lời cho nhà thơ Nguyễn Trác trưởng đoàn giới thiệu từng người trong nhóm nhà văn. Anh em tỏ ra nhận biết vài tên tuổi nhà văn quen thuộc khi được giới thiệu: A! Phan Thị Thanh Nhàn “Hương thầm” ? À! Nguyễn Việt Chiến “Tổ quốc nhìn từ biển”! …Để đáp lại nhiệt tình đón tiếp của các chủ nhân, Nguyễn Việt Chiến đọc sôi nổi bài thơ Tổ Quốc nhìn từ biển theo yêu cầu. Rồi chúng tôi thấy không nên chiếm thời gian của buổi giao ban, nên xin phép rút lui khỏi cuộc họp để dư âm bài thơ nói hộ: thơ văn của chúng tôi những ngày này đều cập nhật với những vấn đề nóng bỏng của đất nước…
Còn cái nóng kiên trì thầm lặng từ hàng thế kỷ, nhất là từ công cuộc đổi mới đất nước một phần tư thế kỷ nay, ứng ngay vào tuổi của Than Khe Chàm, được tách ra từ Mỏ than Mông Dương, làm người lính tiên phong trong mặt trận đào sâu vào lòng đất nước, cung cấp nhiều tài nguyên hơn nữa, hôm nay chúng tôi mới được thâm nhập!
Lần đầu tôi biết đặc điểm của Than Khe Chàm không từ cán bộ cơ sở mà từ bài viết của ông Phó Tổng giám đốc Tập đoàn TKV Vũ Mạnh Hùng nhận xét trong dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Công ty (1-1-1986-1-1-2011): “ Khe Chàm! Đồng nghĩa với đổi mới, Khe Chàm là nơi khởi thảo những đề án đổi mới trong khai thác than hầm lò của Than Việt Nam: Cột chống ma sát, cột chống thuỷ lực đơn, giá chống mang ký hiệu XDY đến máy khấu MG 200 hệ thống cảnh báo khí CH4…Và tới đây sẽ là dàn chống siêu nhẹ, cột thuỷ lực nước, trạm giám sát người ra vào lò bằng hệ thống kiểm soát định vị trên thẻ từ cũng được khởi đầu từ đây…”
Một chuỗi danh từ kỹ thuật với những khái niệm mà chỉ nghe giải thích không tận mắt nhìn cũng chả hiểu là bao. Tôi chỉ nghĩ khái quát đơn giản qua những con số: Trong điều kiện than lộ thiên đã khai thác sắp hết, nay phải khai thác xuống tầng sâu. Đào xuống đã vậy, mở rộng ra thành nhiều nhánh nhiều vỉa, phải chống đỡ làm sao cho an toàn khối lượng đất đá dầy và khí độc hại cho trên 1.500 thợ lò ngày đêm lao động. Và tôi xem hiệu quả cuối cùng bằng con số tấn than các anh đã khai thác để hình dung ra phần nào khối lượng công việc. Thử nhặt 3 con số trong bản thống kê 25 năm: Năm 1986 đào 2.101 mét được 146.980 tấn than
Năm 2000 đào 3.932 mét được 391.221 tấn than
Năm 2010 đào 12. 600 mét được 1.100.000 tấn than
Tất nhiên, ta cũng quan tâm đến quân số 1.040 CBCNV năm 1986 và tăng dần lên đến nay là 3.100 CBCNV. Quân số tăng gấp 3, số mét đào gấp 6, thì sản lượng tăng gấp 7,5 lần. Tất nhiên làm được như vậy là do trang thiết bị ngày một hiện đại hơn, nhưng càng đào sâu xuống, càng nhiều khó khăn hơn. Một tấn than hầm lò tất nhiên phải chi phí trí tuệ, công sức, tài và lực gấp 5,6 lần tấn than khai thác lộ thiên.
Thợ lò đến 50 tuổi là được nghỉ hưu với đủ mọi chế độ, để thấy hoàn cảnh lao động, môi trường lao động dưới hầm sâu khắc nghiệt, suy giảm sức khoẻ người thợ đến thế nào. Ta thử tìm hiểu một chút về khí methane (CH4), kẻ thù ác hại của thợ hầm lò. Khí này được hình thành cùng với với quá trình hình thành than trong lòng đất. Do các biến động địa chất, một phần khí này thoát ra ngoài, một phần tích tụ trong các vỉa than. Phần tích tụ càng lớn, nguy cơ cháy nổ càng cao. Ở mỏ Khe Chàm, nồng độ khí CH4 được xếp loại 3 trong 4 nấc nguy hiểm dễ cháy nổ. Vụ nổ sẽ xẩy ra khi có nguồn phát hỏa và nồng độ CH4 lớn quá ngưỡng. Từ 1998, có 11 vụ nổ khí CH4 tại Quảng Ninh làm 41 người thiệt mạng (trong đó có vụ nổ tại chính mỏ này năm 2008 làm 9 người thiệt mạng). Hệ thống thông gió phải đủ mạnh để tách khí độc, phá vỡ liên kết khí với than, tạo kênh dẫn khí. Nhiều nước đã có hệ thống giếng khoan tháo khí, rồi phương pháp khí hóa than ngầm, các lỗ khoan trong lò có đường kính lớn, lắp đặt các thiết bị dùng để thổi nén không khí và đưa khí CH4 lên mặt đất, có thể tái xử dụng làm chất đốt. Ở ta, chưa đủ điều kiện an toàn và tận dụng được như vậy!
Phó giám đốc phụ trách sản xuất kiêm bí thư Đảng ủy Vũ Quang Tuyến là một trong số người có thâm niên cao nhất ở Khe Chàm: Tháng 10/1987 mới 18 tuổi anh đã vào mỏ than Mông Dưong, học trường đào tạo công nhân kỹ thuật hầm lò, rồi làm việc ngay ở công trường khai thác, rồi công trường chế biến than thuộc Mông Dương-Khe Chàm. Rồi anh rời Mông Dương, cùng lớp thợ đầu tiên “ra ở riêng” xây dựng Than Khe Chàm. Năm 1992 được học tại chức 5 năm, 1996 làm phó quản đốc. Năm 1998, làm phó rồi trưởng phòng kiểm tra chất lượng. Đầu năm 2008 làm trợ lý Giám đốc rồi đề bạt Phó giám đốc, tháng 6 vừa rồi kiêm thêm chức Bí thư đảng ủy. Với bề dầy thời gian, kinh qua nhiều công tác trực tiếp hoặc gián tiếp, anh nắm con người và công việc của mỏ như trong lòng bàn tay. Bà vợ làm lao động tiền lương bên mỏ Cao Sơn liền kề, con gái đầu đang học Cao đẳng Tuyển khoáng. Ở Quảng Ninh, một gia đình 3,4 thế hệ gắn bó với ngành than, hoặc một hai thế hệ vợ chồng cha con, dâu rể đều góp phần sản xuất than là khá phổ biến. Môi trường than cũng mở rộng cửa cho chi tiến thủ của lớp trẻ với những chuyên gia, thạc sĩ, tiến sĩ ngành than không hiếm. Khai thác thật nhiều than cho đất nước trở thành lý tưởng sống của cả một cộng đồng than.
Ấy thế mà cũng có lúc sự gắn kết truyền thống nghề nghiệp ấy như bị loãng ra, bị thay thế bằng nỗi hoang mang giao động…Đó là thời điểm xẩy ra vụ nổ ngày 8 tháng 12-2008, 10 người thiệt mạng, trong đó có cả đồng chí phó giám đốc phụ trách an toàn. Điều này trước hết nói được tinh thần trách nhiệm của người phụ trách, anh đã biết và có mặt ở nơi nguy hiểm nhất để tìm cách khắc phục. Nhưng với người giao động thì lại nghĩ khác: đến người phụ trách an toàn cũng không an toàn thì còn mong gì mình được bảo vệ! Một không khí tang tóc lan toả khắp vùng, thấm vào từng bữa ăn giấc ngủ những gia đình thợ mỏ. Tai nạn nghề nghiệp từ xưa thì không có gì lạ. Nhưng lần này, khác với tai nạn do bất cẩn cá nhân, đây là cái chết không nhìn thấy được mà tránh né. Là tai nạn, nhưng ở nơi khác xa, rất khác cái chết nhỡn tiền của bạn cùng đơn vị, thậm chí là anh em mình, là chú, bác mình, ngay tại chỗ ngày mai mình sẽ đến đúng cái vỉa than ấy, cái độ sâu ấy mà đào bới!…Đã xuất hiện ý nghĩ: định hướng cho con cái đi học ngành khác. Có ý nghĩ: mình sẽ xin nghỉ trước vài năm, hoặc tìm một công việc nào không phải “ăn cơm dương gian, làm việc âm phủ”…Bỗng thiếu vắng những nụ cười, những câu đùa mà lúc này trở thành bất nhẫn trước cái tang chung! Giờ giấc, kỷ luật lơi lỏng...
Chúng tôi được nghe anh Tuyến điểm lại quá trình xây dựng mỏ, có bất trắc thảm thương đó, và hình dung thêm để thấy hoàn cảnh khó khăn khi anh Ngô Hoàng Ngân được cử về làm Giám đốc Than Khe Chàm, ngay sau vụ tai nạn chưa đầy một tháng (1-1- 2009). Bộ máy quản lý lãnh đạo cũ tất nhiên phải cùng giám đốc mới lo toan phục hồi lại sinh khí của khu mỏ. Công tác tư tưởng phải được nhuần thấm tới mọi cấp, nhất là với hàng ngũ thợ lò. Bên cạnh vấn đề trách nhiệm, lương tâm người thợ vùng than, có thể thấy không ngành nào không có tai nạn nghề nghiệp. Khe Chàm hôm nay có hơn 3.000 CBCNV, trong 25 năm xây dựng, mất 25 sinh mạng vì tai nạn, tỷ lệ đó không phải là cao nếu so với tai nạn giao thông đoạn đường 18 xuyên qua khu vực than Quảng Ninh, chả hạn!
Giám đốc Ngô Hoàng Ngân tìm hiểu thêm cả lề lối làm việc trước khi xẩy tai nạn, tức trước khi anh có mặt ở Công ty. Anh thấy chỉ phục hồi như trước thôi là chưa đủ. Nhân cuộc chấn chỉnh này, phải bắt đầu xây dựng một nếp sống văn hoá doanh nghiệp, tác phong công nghiệp cho mỗi CBCNV như một số hầm mỏ tiên tiến nước ngoài anh từng du học, qua thăm. Điều này không phải dễ khi phần lớn lớp thợ trẻ lại xuất thân từ nông thôn.
Thời điểm anh về nhận công tác tuy không thuận lợi, nhưng về nghiệp vụ sản xuất thì Than Khe Chàm từ 2005, đã được đầu tư công nghệ cơ giới hoá đồng bộ khai thác than lò chợ, là công nghệ hiện đại nhất lúc bấy giờ trong Tập đoàn TKV, cán bộ công nhân đã ứng dụng thành thạo. Cơ giới hoá đã chiếm đến 2/3 sản lượng. Khối lượng công việc trước đây phải 400 người làm, nay chỉ cần 100 người. Trước mắt, anh còn phải tiếp tục đầu tư công nghệ giá khung thuỷ lực di động thay cho công nghệ thuỷ lực đơn, đưa tự động hoá vào sản xuất như hệ thống khoan tháo khí CH4, tăng cường kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, giảm sức lao động cho công nhân…rồi thăm dò tình trạng mỏ để quyết định dự án đầu tư cho Khe Chàm III.
Việc đầu tiên anh quan tâm là xây dựng quy chế mới, khơi gợi để anh chị em tự thấy những điều chưa hợp lý, vấn đề nhà ăn, nhà chờ, rồi đường xá còn phụ thuộc Mỏ Cao Sơn, cần giải quyết, vấn đề may đồng phục, môi trường đã xanh sạch, có thể mặc trắng để tăng ý thức giữ gìn vệ sinh, lòng tự tôn, thực hiện 100% CBCNV được đưa đón bằng ô tô…Mọi người cùng góp ý đề xuất, rồi xây dựng những quy ước thành văn.
Nhất trí với nhau thì không khó, nhưng thực hiện, đòi hỏi một sự kiên trì và kiên quyết ngay từ đầu...Kinh nghiệm những năm công tác ở Uông Bí, Vàng Danh anh đã thấy, từ nhân nhượng, nể nang một sai sót nhỏ sẽ dẫn đến những sai phạm không lường được.
Mọi người còn nhớ buổi họp đầu tiên thực hiện nội quy mới: họp giao ban đúng giờ. Đúng 8 giờ sáng, mới có độ ba phần tư số người vào phòng họp. Cũng có một số người đã đến, nhưng cho rằng chưa đủ người thì còn phải đợi như mọi khi, nên cứ nhẩn nha đứng tán chuyện ngoài sân. Sau tiếng chuông báo giờ, giám đốc ra lệnh đóng và khóa cửa hội trường, không mở cho người đến chậm. Chánh văn phòng được lệnh đứng bên ngoài phát giấy cho mỗi người, kể cả vài người đến trước nhưng nghe chuông chưa vào phòng họp. Bản tự kiểm phải viết rõ đến muộn mấy phút, lý do? với lời cam kết không vi phạm. Chánh văn phòng căn cứ vào đó làm biên bản chi tiết. Đến buổi giao ban sau, cánh cửa vẫn đóng sập đúng giờ, và theo đúng nội quy: người đến muộn phải nộp 200 ngàn vào công quỹ. Cho đến bây giờ thì người lề mề nhất cũng không dám tới chậm. Và thấy ra những thuận lợi khi cần phối hợp với đơn vị bạn ngay từ đầu giờ, không phải chờ hoặc tìm gặp người này người khác như trước.
Điều nghiêm cấm tuyệt đối: Không được mang bất cứ vật gì của mỏ ra ngoài, hễ bảo vệ bắt được, làm biên bản nộp cho tổ chức. Và khỏi cần vật đó đáng giá hay không, chỉ có một mức kỷ luật là đuổi việc. Một thợ lò lâu năm nhặt một nắm dây đồng vụn khoảng 1 kg, gói lại mang về, bảo vệ bắt được làm biên bản. Hôm sau đã có quyết định sa thải…mặc những điều tiếng trách tổ chức quá nguyên tắc làm đơn vị mất một thợ giỏi. Nhưng vài tháng sau, thấy anh thợ không xin được việc chỗ khác, Công ty cho người đến hỏi anh có muốn trở lại làm việc không thì viết đơn giám đốc xét. Rồi được nhận lại làm công việc cũ, nhưng anh ta đã thành người chín chắn hơn, không còn tham vặt. Chỉ vài trường hợp như vậy, tác động đến những người thợ khác là chuyện dĩ nhiên, không còn ai dám nhặt nhạnh của công, để “cái sẩy nẩy cái ung”… Tờ báo tường trước đây chỉ dán những bài viết, nhân những ngày kỷ niệm. Nay, có một tổ thi đua mang máy ảnh đi khắp mỏ, chụp những hành động, tác phong đáng phê phán và những việc làm tốt đưa lên báo. Số độc giả báo tường, ở bảng thông tin tăng hẳn lên, được quan tâm nhất là những tin sáng kiến này việc tốt khác được tiền thưởng của mỏ…
Tận dụng được hết những quyền lợi người lao động được hưởng mà Tập đoàn đã quy định, thí dụ xây nhà ăn, bàn ghế, quạt máy, điều hòa…đều tính vào chi phí sản xuất…Công ty lần lượt xây dựng, kiện toàn những cơ sở vật chất. Điều kiện làm việc cho người lao động được đầu tư gấp nhiều lần so với năm 1986. Văn phòng Công ty khang trang sạch đẹp nâng thành ba tầng trên diện tích 2.100 m2, hai mươi hai phòng ban chức năng được trang bị đầy đủ các thiết bị đáp ứng nhu cầu công việc. Năm 2.000 Công ty hoàn thiện khu văn phòng. Gần đây, quy định mặc áo trắng đồng phục, có thêu hai chữ tắt K.C. được chấp hành nghiêm chỉnh, khiến bộ mặt văn phòng Công ty sáng trưng. Công ty may cho mỗi CBCNV 2 bộ/ năm, nữ văn phòng được thêm đôi váy xẫm màu. Chúng tôi đến nhà ăn của văn phòng, gặp mấy cô gái xinh đẹp tiếp viên, mặc áo trắng muốt thêu K.C trên ngực, nhưng “nữ tính” hơn ở chếp nếp áo ngực, áo vai bồng, váy màu tím than. Đẹp và sang chẳng khác các tiếp viên của khách sạn 3,4 sao. Một nhà báo trẻ hỏi trêu: Em ơi! K.C. là gì hả em? Hay là …Không Cấm? Cô gái nở nụ cười rất tươi, láu lỉnh đáp: Nhà báo đoán nhầm rồi, K.C. là Không Cho!
Đầu năm 2009, khánh thành trạm xá. Tháng 5- 2009 khánh thành nhà sinh hoạt công nhân. Cuối năm 2009 khánh thành nhà ăn công nhân. Nhà ăn hai tầng, mỗi tầng chứa một lúc 1.200 người ăn. Cán bộ quản lý, lực lượng gián tiếp ngồi tầng dưới, tầng trên dành cho các thợ lò với cách ăn tự chọn 24 món, với khẩu hiệu “ăn đủ, ăn no, tránh lãng phí”. Ngoài bữa ăn chính còn mang theo bữa phụ giữa ca một chiếc bánh mì và một hộp sữa nước. Bánh mì ở đây thì…được khen đứt lưỡi, bởi chất liệu là bột mì loại 1, bơ, đường và trứng (trị giá 42.000 đồng/xuất, miễn phí, không phí dịch vụ). Khánh thành sân vận động tháng 12-2002 (phong trào bóng đá nữ Quảng Ninh khởi nguồn từ than Khe Chàm). Còn nhà nghỉ Khe Chàm Hotel ở Trà Cổ đã hoạt động từ 2006. Gọi thế, vì ngoài chức năng cho CBCNV nghỉ dưỡng còn phục vụ cả khách du lịch biển Trà Cổ, tận dụng công suất.
Trước đây, lắp máy điều hòa rất chóng hỏng do môi trường nhiều bụi bị hút vào máy. Nay Công ty cho bê tông hoá toàn bộ không chỉ khu văn phòng mà cả khu điều hành mỏ, khu nhà ăn…, nên máy điều hòa nhiệt độ được trang bị khắp nơi cần thiết. Có khoảng đất nào trống, đều đuợc trồng cây xanh. Khu văn phòng cách khu nhà điều hành mỏ mấy cây số. Người công nhân từ khu tập thể ngoài Cẩm Phả được ô tô của mỏ đưa đón (25 cây số) vào đến văn phòng, hoặc vào thẳng khu khai thác đều có thể mặc áo trắng mà không dính bụi than. Vào đến đây, có phòng thay quần áo bảo hộ. Hết giờ làm việc, vào phòng tắm, quần áo bảo hộ thay ra có người giặt. Lại có thể mặc quần áo trắng sạch, đi…ăn cưới cũng được! Do ở “ vùng sâu vùng xa”, trước đây nhiều người hay dùng xe máy, nhưng nay, chỉ khi có công tác đặc biệt của mỏ mới được dùng. Đi làm xa bằng phương tiện riêng như vậy không khỏi ảnh hưởng đến giờ giấc, tai nạn bất trắc dọc đường…
Khi vào ca, từ phòng thay quần áo, công nhân đi bộ khoảng năm trăm mét đến cửa hầm khai thác. Hai năm nay, con đường được lợp mái che mưa nắng, mà trước đây ngỡ như không cần thiết. Thản hoặc giữa đường gặp mưa, quần áo bảo hộ có ướt rồi cũng khô. Thản hoặc, từ hầm lò ra, gặp mưa, thân nhiệt thay đổi, có người bị cảm, nhưng chuyện nhỏ…như con thỏ với những con người dày dạn. Việc lợp mái cho con đường tưởng như quá nhỏ, nhưng đã thể hiện sự quan tâm đến từng bước đi của người thợ lò!
Anh Tuyến đưa chúng tôi đến khu vực điều hành, có nhà nhận lệnh, có trung tâm quan sát. Mọi hoạt động quan trọng duới hầm lò đều thể hiện ngay trên màn hình, Màn hình hiện lên 9 ô hình chữ nhật, người trực ngồi tại chỗ vẫn nắm được diễn biến chung.
Chúng tôi được mặc bộ quần áo bảo hộ với đủ tất, ủng, mũ có gắn đèn thợ mỏ, đặc biệt là chiếc máy cứu hộ, trợ thở, hình thù như chiếc máy ảnh đeo vào thắt lưng. Khi có cảnh báo nguy hiểm, phải thao tác nhanh úp lên mặt. Học thao tác mà cứ lo lo, nhỡ lúc gấp lại quên hết các thao tác! Chúng tôi được dẫn qua cửa hầm khá rộng, thấy một đường ray và hai toa xe trần với mỗi hàng ghế ngồi được hai hay ba người, mỗi toa chứa được 24 người, vị chi mỗi chuyến xuống 48 người. Chạy dọc theo đường ray trên trần hầm là hai đường ống sắt lớn phi 400, bơm nước đã xử lý vào lò. Tại cửa hầm xuống lò có gắn chiếc quạt máy lớn cực mạnh, hẳn đủ sức bóc tách khí CH4 khỏi than, khí và bụi than bị xua bạt, theo con đường khác ra khỏi hầm mỏ.
Hai toa xe bánh sắt chuyển động ầm ầm, đằng sau là chiếc quạt máy khổng lồ quạt thốc luồng gió lớn, cứ ngỡ như hai toa xe bị chiếc quạt đó thổi bay. Tự nhiên nghĩ: Nếu về Hà Nội mà kể: đường xuống hầm khai thác than hàng trăm mét dưới mực nước biển mà không có bụi, sạch hơn…phổ Tràng Tiền Hà Nội, thì chắc không ai tin! Hôm đó, chúng tôi đã xuống theo một góc chếch 25 độ, trên đoạn ray dài 750m, xuống tới – 168m thì dừng ở một ngách ngang đầu tiên cho những thợ lò cần xuống ở khai trường này. Hai toa tàu còn đi tiếp và dừng ở những ngách sâu hơn, có nhiều ngách toả ra chằng chịt. Tôi hình dung như mạch máu trong cơ thể hoặc một tổ kiến khổng lồ mà nếu nối các mạch nhỏ lại, sẽ dài tới 150 km. Cụm thợ tập trung khai thác đông nhất là 30 người. Mỗi ca trung bình có 750 thợ lò đang làm việc trong lòng đất. Anh Tuyến cho chúng tôi xuống đi bộ vào một nhánh lớn, nhưng không dám cho khách đi xa khỏi đường trục,vì tất nhiên càng xa luồng gió lớn càng dễ nguy hiểm! Chúng tôi ngắm chiếc máy tời điều khiển xe goòng (mà có bạn thợ gọi là xe song loan theo tiếng Trung quốc), cỗ máy tời lớn kếch JK-25 đường kính 2,5m.
Sau tuần làm việc ở mỏ, giám đốc có nhã ý mời nhóm nhà văn ra nhà nghỉ của Khe Chàm ở Trà Cổ. Nhà nghỉ lịch sự chẳng kém một khách sạn hạng trung. Chủ nhiệm nhà nghỉ là Thùy Trang, một phụ nữ xinh đẹp trên 30 tuổi, hẳn là cỡ hoa hậu của Mỏ, lại lắm tài. Cô từng học Đại học văn hoá và học thêm văn bằng 2 khoa báo chí, tuyên truyền, cô có giọng hát hay, duyên dáng.
Kể chuyện cho chúng tôi, cánh nhà văn già có, trẻ có, cô nói thẳng tưng những điều mà một cô gái Hà nội chắc sẽ không dám nói: Chồng em trước mỗi cuộc thi đấu vật của Công ty, nếu em không “tập huấn” mấy đêm trước cho anh thì anh chỉ đạt giải nhì! Phạm Tiến Đồng (mà Trang hay gọi ngược là Đống Tiền) còn là một phó quản đốc giỏi, thương anh em. Về cuối ca, thợ lò yếu sức, động tác không chuẩn, anh hay vào trợ giúp. Thùy Trang thản nhiên tuyên bố: “Em mà yêu ai thì không ai thoát được tay em, em sẽ…” rồi cô đọc liền một hơi như đọc yếu lĩnh của xạ thủ khiến chúng tôi cười chẩy cả nước mắt (có ghi kịp lời cô thì cũng không thể hiệu quả bằng nghe chính giọng cô nói). Tất nhiên ai cũng biết cô đùa, nhưng nhìn đôi bắp tay để trần, thân hình cân đối dẻo dai của một vận động viên, chắc cô sẽ làm thế thật, sẽ không ai “thoát”, thì đến như đô vật hạng nhất Phạm Tiến Đồng!..
Một ấn tượng đậm của Than Khe Chàm với chúng tôi là được dự một bữa tiệc mừng sơ kết 6 tháng đầu năm của các cán bộ khoa học kỹ thuật mỏ, 85 anh chị em, đại bộ phận là cánh trẻ, tại một nhà hàng nổi ở Vân Đồn. Được thấy cái vui xả láng, lành mạnh của những trí thức vùng than, từ giám đốc đến một kỹ sư mới ra trường đều hát hò, trêu đùa nhau thoải mái. Sau cuộc vui, ngay ngày mai họ lại chuẩn bị, hoàn thiện tiếp mọi khâu kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ đào lò cho việc khai thác sản lượng Khe Chàm III mà Tập đoàn TKV giao cho Công ty làm chủ đầu tư xây dựng và khai thác từ năm 2010. Mỏ than Khe Chàm III sẽ là mỏ hiện đại nhất Việt Nam, có công nghệ cơ giới hoá cao nhất, trữ lượng công nghiệp tới 37.708. 000 tấn. Từ năm 2011 đến 2015, bằng vào kinh nghiệm những năm qua, với công nghệ hiện đại, sản lượng Khe Chàm III sẽ tăng dần từ 1.000.000 tấn đến 3.250.000 tấn vào năm 2015. Đó là niềm vinh dự của họ, là sự chờ đợi của cả ngành than!
Tháng 7 – 2011
VanVN.Net - So với lịch sử 170 năm ngành than (từ khi vua Minh Mạng cho phép tổng đốc Hải An Tôn Thất Bật mở mỏ khai thác than tại núi Yên Lãnh xã Đông Triều, huyện Đông Triều) thì 25 năm lịch sử thành lập mỏ than Khe Chàm (nay chính danh là Công ty TNHH một thành viên than Khe Chàm-Vinacomin) chỉ là đứa em út so với các mỏ than đàn anh có tuổi thọ từ trước khi thành lập Xí nghiệp Quốc doanh than Hòn Gai 1955…
Thế mà, có phải như các cụ hay nói “giầu con út, khó con út”, Than Khe Chàm ở vùng sâu vùng xa nhất Quảng Ninh, điều kiện đi lại khó khăn,
có tới dăm bẩy cây số đường mấp mô lầy thụt “như đường Trường Sơn” (thuộc quốc lộ 18, bởi ngày đêm miên man những đại xa, những xe công-te-nơ chở hàng đi về từ phía biên giới Việt Trung) lại được Tập đoàn TKV chọn Công ty này làm nơi áp dụng đầu tiên công nghệ cơ giới hoá đồng bộ khai thác than lò chợ, rồi Khe Chàm III cũng được giao tiếp cho Công ty này với công nghệ cơ giới hoá cao vào loại nhất ở Việt Nam. Hẳn Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã cân nhắc kỹ để “chọn mặt gửi vàng”!
Chuẩn bị đến với khu mỏ than xa nhất, hẳn là sẽ được tắm mình ngày đêm trong một không gian mờ ảo bụi than, nên tôi mặc ngay từ nhà bộ quần áo xám họ hàng với than. Sinh họat giữa những người công nhân dầu mỡ, than bụi, mình phải chia sẻ chan hoà với anh chị em chứ! Vì nghĩ thế, tôi trở thành lạc điệu ngay từ giây phút đầu tiên gặp họ. Tôi hơi bất ngờ: tất cả mọi người không trừ ai, đều một màu áo trắng, ngực áo thêu hai chữ K.C.(Khe Chàm). Văn phòng Công ty là dẫy nhà ba tầng khang trang bề thế, mường tượng như một cơ quan cấp bộ ở Hà Nội. Phía trước mặt là hàng cọ dầu lớn kếch.
Nhóm nhà văn chúng tôi được mời ngay vào cuộc giao ban đầu tuần của Công ty, cũng là để giám đốc giới thiệu chúng tôi với các cán bộ đầu ngành của mỏ. Giám đốc, chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Ngô Hoàng Ngân, một trung niên vạm vỡ trắng trẻo, anh như hoà lẫn vóc dạc người thợ với một trí thức vẻ thị thành. Anh giới thiệu các cán bộ đầu ngành của Công ty, rồi nhường lời cho nhà thơ Nguyễn Trác trưởng đoàn giới thiệu từng người trong nhóm nhà văn. Anh em tỏ ra nhận biết vài tên tuổi nhà văn quen thuộc khi được giới thiệu: A! Phan Thị Thanh Nhàn “Hương thầm” ? À! Nguyễn Việt Chiến “Tổ quốc nhìn từ biển”! …Để đáp lại nhiệt tình đón tiếp của các chủ nhân, Nguyễn Việt Chiến đọc sôi nổi bài thơ Tổ Quốc nhìn từ biển theo yêu cầu. Rồi chúng tôi thấy không nên chiếm thời gian của buổi giao ban, nên xin phép rút lui khỏi cuộc họp để dư âm bài thơ nói hộ: thơ văn của chúng tôi những ngày này đều cập nhật với những vấn đề nóng bỏng của đất nước…
Còn cái nóng kiên trì thầm lặng từ hàng thế kỷ, nhất là từ công cuộc đổi mới đất nước một phần tư thế kỷ nay, ứng ngay vào tuổi của Than Khe Chàm, được tách ra từ Mỏ than Mông Dương, làm người lính tiên phong trong mặt trận đào sâu vào lòng đất nước, cung cấp nhiều tài nguyên hơn nữa, hôm nay chúng tôi mới được thâm nhập!
Lần đầu tôi biết đặc điểm của Than Khe Chàm không từ cán bộ cơ sở mà từ bài viết của ông Phó Tổng giám đốc Tập đoàn TKV Vũ Mạnh Hùng nhận xét trong dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Công ty (1-1-1986-1-1-2011): “ Khe Chàm! Đồng nghĩa với đổi mới, Khe Chàm là nơi khởi thảo những đề án đổi mới trong khai thác than hầm lò của Than Việt Nam: Cột chống ma sát, cột chống thuỷ lực đơn, giá chống mang ký hiệu XDY đến máy khấu MG 200 hệ thống cảnh báo khí CH4…Và tới đây sẽ là dàn chống siêu nhẹ, cột thuỷ lực nước, trạm giám sát người ra vào lò bằng hệ thống kiểm soát định vị trên thẻ từ cũng được khởi đầu từ đây…”
Một chuỗi danh từ kỹ thuật với những khái niệm mà chỉ nghe giải thích không tận mắt nhìn cũng chả hiểu là bao. Tôi chỉ nghĩ khái quát đơn giản qua những con số: Trong điều kiện than lộ thiên đã khai thác sắp hết, nay phải khai thác xuống tầng sâu. Đào xuống đã vậy, mở rộng ra thành nhiều nhánh nhiều vỉa, phải chống đỡ làm sao cho an toàn khối lượng đất đá dầy và khí độc hại cho trên 1.500 thợ lò ngày đêm lao động. Và tôi xem hiệu quả cuối cùng bằng con số tấn than các anh đã khai thác để hình dung ra phần nào khối lượng công việc. Thử nhặt 3 con số trong bản thống kê 25 năm: Năm 1986 đào 2.101 mét được 146.980 tấn than
Năm 2000 đào 3.932 mét được 391.221 tấn than
Năm 2010 đào 12. 600 mét được 1.100.000 tấn than
Tất nhiên, ta cũng quan tâm đến quân số 1.040 CBCNV năm 1986 và tăng dần lên đến nay là 3.100 CBCNV. Quân số tăng gấp 3, số mét đào gấp 6, thì sản lượng tăng gấp 7,5 lần. Tất nhiên làm được như vậy là do trang thiết bị ngày một hiện đại hơn, nhưng càng đào sâu xuống, càng nhiều khó khăn hơn. Một tấn than hầm lò tất nhiên phải chi phí trí tuệ, công sức, tài và lực gấp 5,6 lần tấn than khai thác lộ thiên.
Thợ lò đến 50 tuổi là được nghỉ hưu với đủ mọi chế độ, để thấy hoàn cảnh lao động, môi trường lao động dưới hầm sâu khắc nghiệt, suy giảm sức khoẻ người thợ đến thế nào. Ta thử tìm hiểu một chút về khí methane (CH4), kẻ thù ác hại của thợ hầm lò. Khí này được hình thành cùng với với quá trình hình thành than trong lòng đất. Do các biến động địa chất, một phần khí này thoát ra ngoài, một phần tích tụ trong các vỉa than. Phần tích tụ càng lớn, nguy cơ cháy nổ càng cao. Ở mỏ Khe Chàm, nồng độ khí CH4 được xếp loại 3 trong 4 nấc nguy hiểm dễ cháy nổ. Vụ nổ sẽ xẩy ra khi có nguồn phát hỏa và nồng độ CH4 lớn quá ngưỡng. Từ 1998, có 11 vụ nổ khí CH4 tại Quảng Ninh làm 41 người thiệt mạng (trong đó có vụ nổ tại chính mỏ này năm 2008 làm 9 người thiệt mạng). Hệ thống thông gió phải đủ mạnh để tách khí độc, phá vỡ liên kết khí với than, tạo kênh dẫn khí. Nhiều nước đã có hệ thống giếng khoan tháo khí, rồi phương pháp khí hóa than ngầm, các lỗ khoan trong lò có đường kính lớn, lắp đặt các thiết bị dùng để thổi nén không khí và đưa khí CH4 lên mặt đất, có thể tái xử dụng làm chất đốt. Ở ta, chưa đủ điều kiện an toàn và tận dụng được như vậy!
Phó giám đốc phụ trách sản xuất kiêm bí thư Đảng ủy Vũ Quang Tuyến là một trong số người có thâm niên cao nhất ở Khe Chàm: Tháng 10/1987 mới 18 tuổi anh đã vào mỏ than Mông Dưong, học trường đào tạo công nhân kỹ thuật hầm lò, rồi làm việc ngay ở công trường khai thác, rồi công trường chế biến than thuộc Mông Dương-Khe Chàm. Rồi anh rời Mông Dương, cùng lớp thợ đầu tiên “ra ở riêng” xây dựng Than Khe Chàm. Năm 1992 được học tại chức 5 năm, 1996 làm phó quản đốc. Năm 1998, làm phó rồi trưởng phòng kiểm tra chất lượng. Đầu năm 2008 làm trợ lý Giám đốc rồi đề bạt Phó giám đốc, tháng 6 vừa rồi kiêm thêm chức Bí thư đảng ủy. Với bề dầy thời gian, kinh qua nhiều công tác trực tiếp hoặc gián tiếp, anh nắm con người và công việc của mỏ như trong lòng bàn tay. Bà vợ làm lao động tiền lương bên mỏ Cao Sơn liền kề, con gái đầu đang học Cao đẳng Tuyển khoáng. Ở Quảng Ninh, một gia đình 3,4 thế hệ gắn bó với ngành than, hoặc một hai thế hệ vợ chồng cha con, dâu rể đều góp phần sản xuất than là khá phổ biến. Môi trường than cũng mở rộng cửa cho chi tiến thủ của lớp trẻ với những chuyên gia, thạc sĩ, tiến sĩ ngành than không hiếm. Khai thác thật nhiều than cho đất nước trở thành lý tưởng sống của cả một cộng đồng than.
Ấy thế mà cũng có lúc sự gắn kết truyền thống nghề nghiệp ấy như bị loãng ra, bị thay thế bằng nỗi hoang mang giao động…Đó là thời điểm xẩy ra vụ nổ ngày 8 tháng 12-2008, 10 người thiệt mạng, trong đó có cả đồng chí phó giám đốc phụ trách an toàn. Điều này trước hết nói được tinh thần trách nhiệm của người phụ trách, anh đã biết và có mặt ở nơi nguy hiểm nhất để tìm cách khắc phục. Nhưng với người giao động thì lại nghĩ khác: đến người phụ trách an toàn cũng không an toàn thì còn mong gì mình được bảo vệ! Một không khí tang tóc lan toả khắp vùng, thấm vào từng bữa ăn giấc ngủ những gia đình thợ mỏ. Tai nạn nghề nghiệp từ xưa thì không có gì lạ. Nhưng lần này, khác với tai nạn do bất cẩn cá nhân, đây là cái chết không nhìn thấy được mà tránh né. Là tai nạn, nhưng ở nơi khác xa, rất khác cái chết nhỡn tiền của bạn cùng đơn vị, thậm chí là anh em mình, là chú, bác mình, ngay tại chỗ ngày mai mình sẽ đến đúng cái vỉa than ấy, cái độ sâu ấy mà đào bới!…Đã xuất hiện ý nghĩ: định hướng cho con cái đi học ngành khác. Có ý nghĩ: mình sẽ xin nghỉ trước vài năm, hoặc tìm một công việc nào không phải “ăn cơm dương gian, làm việc âm phủ”…Bỗng thiếu vắng những nụ cười, những câu đùa mà lúc này trở thành bất nhẫn trước cái tang chung! Giờ giấc, kỷ luật lơi lỏng...
Chúng tôi được nghe anh Tuyến điểm lại quá trình xây dựng mỏ, có bất trắc thảm thương đó, và hình dung thêm để thấy hoàn cảnh khó khăn khi anh Ngô Hoàng Ngân được cử về làm Giám đốc Than Khe Chàm, ngay sau vụ tai nạn chưa đầy một tháng (1-1- 2009). Bộ máy quản lý lãnh đạo cũ tất nhiên phải cùng giám đốc mới lo toan phục hồi lại sinh khí của khu mỏ. Công tác tư tưởng phải được nhuần thấm tới mọi cấp, nhất là với hàng ngũ thợ lò. Bên cạnh vấn đề trách nhiệm, lương tâm người thợ vùng than, có thể thấy không ngành nào không có tai nạn nghề nghiệp. Khe Chàm hôm nay có hơn 3.000 CBCNV, trong 25 năm xây dựng, mất 25 sinh mạng vì tai nạn, tỷ lệ đó không phải là cao nếu so với tai nạn giao thông đoạn đường 18 xuyên qua khu vực than Quảng Ninh, chả hạn!
Giám đốc Ngô Hoàng Ngân tìm hiểu thêm cả lề lối làm việc trước khi xẩy tai nạn, tức trước khi anh có mặt ở Công ty. Anh thấy chỉ phục hồi như trước thôi là chưa đủ. Nhân cuộc chấn chỉnh này, phải bắt đầu xây dựng một nếp sống văn hoá doanh nghiệp, tác phong công nghiệp cho mỗi CBCNV như một số hầm mỏ tiên tiến nước ngoài anh từng du học, qua thăm. Điều này không phải dễ khi phần lớn lớp thợ trẻ lại xuất thân từ nông thôn.
Thời điểm anh về nhận công tác tuy không thuận lợi, nhưng về nghiệp vụ sản xuất thì Than Khe Chàm từ 2005, đã được đầu tư công nghệ cơ giới hoá đồng bộ khai thác than lò chợ, là công nghệ hiện đại nhất lúc bấy giờ trong Tập đoàn TKV, cán bộ công nhân đã ứng dụng thành thạo. Cơ giới hoá đã chiếm đến 2/3 sản lượng. Khối lượng công việc trước đây phải 400 người làm, nay chỉ cần 100 người. Trước mắt, anh còn phải tiếp tục đầu tư công nghệ giá khung thuỷ lực di động thay cho công nghệ thuỷ lực đơn, đưa tự động hoá vào sản xuất như hệ thống khoan tháo khí CH4, tăng cường kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, giảm sức lao động cho công nhân…rồi thăm dò tình trạng mỏ để quyết định dự án đầu tư cho Khe Chàm III.
Việc đầu tiên anh quan tâm là xây dựng quy chế mới, khơi gợi để anh chị em tự thấy những điều chưa hợp lý, vấn đề nhà ăn, nhà chờ, rồi đường xá còn phụ thuộc Mỏ Cao Sơn, cần giải quyết, vấn đề may đồng phục, môi trường đã xanh sạch, có thể mặc trắng để tăng ý thức giữ gìn vệ sinh, lòng tự tôn, thực hiện 100% CBCNV được đưa đón bằng ô tô…Mọi người cùng góp ý đề xuất, rồi xây dựng những quy ước thành văn.
Nhất trí với nhau thì không khó, nhưng thực hiện, đòi hỏi một sự kiên trì và kiên quyết ngay từ đầu...Kinh nghiệm những năm công tác ở Uông Bí, Vàng Danh anh đã thấy, từ nhân nhượng, nể nang một sai sót nhỏ sẽ dẫn đến những sai phạm không lường được.
Mọi người còn nhớ buổi họp đầu tiên thực hiện nội quy mới: họp giao ban đúng giờ. Đúng 8 giờ sáng, mới có độ ba phần tư số người vào phòng họp. Cũng có một số người đã đến, nhưng cho rằng chưa đủ người thì còn phải đợi như mọi khi, nên cứ nhẩn nha đứng tán chuyện ngoài sân. Sau tiếng chuông báo giờ, giám đốc ra lệnh đóng và khóa cửa hội trường, không mở cho người đến chậm. Chánh văn phòng được lệnh đứng bên ngoài phát giấy cho mỗi người, kể cả vài người đến trước nhưng nghe chuông chưa vào phòng họp. Bản tự kiểm phải viết rõ đến muộn mấy phút, lý do? với lời cam kết không vi phạm. Chánh văn phòng căn cứ vào đó làm biên bản chi tiết. Đến buổi giao ban sau, cánh cửa vẫn đóng sập đúng giờ, và theo đúng nội quy: người đến muộn phải nộp 200 ngàn vào công quỹ. Cho đến bây giờ thì người lề mề nhất cũng không dám tới chậm. Và thấy ra những thuận lợi khi cần phối hợp với đơn vị bạn ngay từ đầu giờ, không phải chờ hoặc tìm gặp người này người khác như trước.
Điều nghiêm cấm tuyệt đối: Không được mang bất cứ vật gì của mỏ ra ngoài, hễ bảo vệ bắt được, làm biên bản nộp cho tổ chức. Và khỏi cần vật đó đáng giá hay không, chỉ có một mức kỷ luật là đuổi việc. Một thợ lò lâu năm nhặt một nắm dây đồng vụn khoảng 1 kg, gói lại mang về, bảo vệ bắt được làm biên bản. Hôm sau đã có quyết định sa thải…mặc những điều tiếng trách tổ chức quá nguyên tắc làm đơn vị mất một thợ giỏi. Nhưng vài tháng sau, thấy anh thợ không xin được việc chỗ khác, Công ty cho người đến hỏi anh có muốn trở lại làm việc không thì viết đơn giám đốc xét. Rồi được nhận lại làm công việc cũ, nhưng anh ta đã thành người chín chắn hơn, không còn tham vặt. Chỉ vài trường hợp như vậy, tác động đến những người thợ khác là chuyện dĩ nhiên, không còn ai dám nhặt nhạnh của công, để “cái sẩy nẩy cái ung”… Tờ báo tường trước đây chỉ dán những bài viết, nhân những ngày kỷ niệm. Nay, có một tổ thi đua mang máy ảnh đi khắp mỏ, chụp những hành động, tác phong đáng phê phán và những việc làm tốt đưa lên báo. Số độc giả báo tường, ở bảng thông tin tăng hẳn lên, được quan tâm nhất là những tin sáng kiến này việc tốt khác được tiền thưởng của mỏ…
Tận dụng được hết những quyền lợi người lao động được hưởng mà Tập đoàn đã quy định, thí dụ xây nhà ăn, bàn ghế, quạt máy, điều hòa…đều tính vào chi phí sản xuất…Công ty lần lượt xây dựng, kiện toàn những cơ sở vật chất. Điều kiện làm việc cho người lao động được đầu tư gấp nhiều lần so với năm 1986. Văn phòng Công ty khang trang sạch đẹp nâng thành ba tầng trên diện tích 2.100 m2, hai mươi hai phòng ban chức năng được trang bị đầy đủ các thiết bị đáp ứng nhu cầu công việc. Năm 2.000 Công ty hoàn thiện khu văn phòng. Gần đây, quy định mặc áo trắng đồng phục, có thêu hai chữ tắt K.C. được chấp hành nghiêm chỉnh, khiến bộ mặt văn phòng Công ty sáng trưng. Công ty may cho mỗi CBCNV 2 bộ/ năm, nữ văn phòng được thêm đôi váy xẫm màu. Chúng tôi đến nhà ăn của văn phòng, gặp mấy cô gái xinh đẹp tiếp viên, mặc áo trắng muốt thêu K.C trên ngực, nhưng “nữ tính” hơn ở chếp nếp áo ngực, áo vai bồng, váy màu tím than. Đẹp và sang chẳng khác các tiếp viên của khách sạn 3,4 sao. Một nhà báo trẻ hỏi trêu: Em ơi! K.C. là gì hả em? Hay là …Không Cấm? Cô gái nở nụ cười rất tươi, láu lỉnh đáp: Nhà báo đoán nhầm rồi, K.C. là Không Cho!
Đầu năm 2009, khánh thành trạm xá. Tháng 5- 2009 khánh thành nhà sinh hoạt công nhân. Cuối năm 2009 khánh thành nhà ăn công nhân. Nhà ăn hai tầng, mỗi tầng chứa một lúc 1.200 người ăn. Cán bộ quản lý, lực lượng gián tiếp ngồi tầng dưới, tầng trên dành cho các thợ lò với cách ăn tự chọn 24 món, với khẩu hiệu “ăn đủ, ăn no, tránh lãng phí”. Ngoài bữa ăn chính còn mang theo bữa phụ giữa ca một chiếc bánh mì và một hộp sữa nước. Bánh mì ở đây thì…được khen đứt lưỡi, bởi chất liệu là bột mì loại 1, bơ, đường và trứng (trị giá 42.000 đồng/xuất, miễn phí, không phí dịch vụ). Khánh thành sân vận động tháng 12-2002 (phong trào bóng đá nữ Quảng Ninh khởi nguồn từ than Khe Chàm). Còn nhà nghỉ Khe Chàm Hotel ở Trà Cổ đã hoạt động từ 2006. Gọi thế, vì ngoài chức năng cho CBCNV nghỉ dưỡng còn phục vụ cả khách du lịch biển Trà Cổ, tận dụng công suất.
Trước đây, lắp máy điều hòa rất chóng hỏng do môi trường nhiều bụi bị hút vào máy. Nay Công ty cho bê tông hoá toàn bộ không chỉ khu văn phòng mà cả khu điều hành mỏ, khu nhà ăn…, nên máy điều hòa nhiệt độ được trang bị khắp nơi cần thiết. Có khoảng đất nào trống, đều đuợc trồng cây xanh. Khu văn phòng cách khu nhà điều hành mỏ mấy cây số. Người công nhân từ khu tập thể ngoài Cẩm Phả được ô tô của mỏ đưa đón (25 cây số) vào đến văn phòng, hoặc vào thẳng khu khai thác đều có thể mặc áo trắng mà không dính bụi than. Vào đến đây, có phòng thay quần áo bảo hộ. Hết giờ làm việc, vào phòng tắm, quần áo bảo hộ thay ra có người giặt. Lại có thể mặc quần áo trắng sạch, đi…ăn cưới cũng được! Do ở “ vùng sâu vùng xa”, trước đây nhiều người hay dùng xe máy, nhưng nay, chỉ khi có công tác đặc biệt của mỏ mới được dùng. Đi làm xa bằng phương tiện riêng như vậy không khỏi ảnh hưởng đến giờ giấc, tai nạn bất trắc dọc đường…
Khi vào ca, từ phòng thay quần áo, công nhân đi bộ khoảng năm trăm mét đến cửa hầm khai thác. Hai năm nay, con đường được lợp mái che mưa nắng, mà trước đây ngỡ như không cần thiết. Thản hoặc giữa đường gặp mưa, quần áo bảo hộ có ướt rồi cũng khô. Thản hoặc, từ hầm lò ra, gặp mưa, thân nhiệt thay đổi, có người bị cảm, nhưng chuyện nhỏ…như con thỏ với những con người dày dạn. Việc lợp mái cho con đường tưởng như quá nhỏ, nhưng đã thể hiện sự quan tâm đến từng bước đi của người thợ lò!
Anh Tuyến đưa chúng tôi đến khu vực điều hành, có nhà nhận lệnh, có trung tâm quan sát. Mọi hoạt động quan trọng duới hầm lò đều thể hiện ngay trên màn hình, Màn hình hiện lên 9 ô hình chữ nhật, người trực ngồi tại chỗ vẫn nắm được diễn biến chung.
Chúng tôi được mặc bộ quần áo bảo hộ với đủ tất, ủng, mũ có gắn đèn thợ mỏ, đặc biệt là chiếc máy cứu hộ, trợ thở, hình thù như chiếc máy ảnh đeo vào thắt lưng. Khi có cảnh báo nguy hiểm, phải thao tác nhanh úp lên mặt. Học thao tác mà cứ lo lo, nhỡ lúc gấp lại quên hết các thao tác! Chúng tôi được dẫn qua cửa hầm khá rộng, thấy một đường ray và hai toa xe trần với mỗi hàng ghế ngồi được hai hay ba người, mỗi toa chứa được 24 người, vị chi mỗi chuyến xuống 48 người. Chạy dọc theo đường ray trên trần hầm là hai đường ống sắt lớn phi 400, bơm nước đã xử lý vào lò. Tại cửa hầm xuống lò có gắn chiếc quạt máy lớn cực mạnh, hẳn đủ sức bóc tách khí CH4 khỏi than, khí và bụi than bị xua bạt, theo con đường khác ra khỏi hầm mỏ.
Hai toa xe bánh sắt chuyển động ầm ầm, đằng sau là chiếc quạt máy khổng lồ quạt thốc luồng gió lớn, cứ ngỡ như hai toa xe bị chiếc quạt đó thổi bay. Tự nhiên nghĩ: Nếu về Hà Nội mà kể: đường xuống hầm khai thác than hàng trăm mét dưới mực nước biển mà không có bụi, sạch hơn…phổ Tràng Tiền Hà Nội, thì chắc không ai tin! Hôm đó, chúng tôi đã xuống theo một góc chếch 25 độ, trên đoạn ray dài 750m, xuống tới – 168m thì dừng ở một ngách ngang đầu tiên cho những thợ lò cần xuống ở khai trường này. Hai toa tàu còn đi tiếp và dừng ở những ngách sâu hơn, có nhiều ngách toả ra chằng chịt. Tôi hình dung như mạch máu trong cơ thể hoặc một tổ kiến khổng lồ mà nếu nối các mạch nhỏ lại, sẽ dài tới 150 km. Cụm thợ tập trung khai thác đông nhất là 30 người. Mỗi ca trung bình có 750 thợ lò đang làm việc trong lòng đất. Anh Tuyến cho chúng tôi xuống đi bộ vào một nhánh lớn, nhưng không dám cho khách đi xa khỏi đường trục,vì tất nhiên càng xa luồng gió lớn càng dễ nguy hiểm! Chúng tôi ngắm chiếc máy tời điều khiển xe goòng (mà có bạn thợ gọi là xe song loan theo tiếng Trung quốc), cỗ máy tời lớn kếch JK-25 đường kính 2,5m.
Sau tuần làm việc ở mỏ, giám đốc có nhã ý mời nhóm nhà văn ra nhà nghỉ của Khe Chàm ở Trà Cổ. Nhà nghỉ lịch sự chẳng kém một khách sạn hạng trung. Chủ nhiệm nhà nghỉ là Thùy Trang, một phụ nữ xinh đẹp trên 30 tuổi, hẳn là cỡ hoa hậu của Mỏ, lại lắm tài. Cô từng học Đại học văn hoá và học thêm văn bằng 2 khoa báo chí, tuyên truyền, cô có giọng hát hay, duyên dáng.
Kể chuyện cho chúng tôi, cánh nhà văn già có, trẻ có, cô nói thẳng tưng những điều mà một cô gái Hà nội chắc sẽ không dám nói: Chồng em trước mỗi cuộc thi đấu vật của Công ty, nếu em không “tập huấn” mấy đêm trước cho anh thì anh chỉ đạt giải nhì! Phạm Tiến Đồng (mà Trang hay gọi ngược là Đống Tiền) còn là một phó quản đốc giỏi, thương anh em. Về cuối ca, thợ lò yếu sức, động tác không chuẩn, anh hay vào trợ giúp. Thùy Trang thản nhiên tuyên bố: “Em mà yêu ai thì không ai thoát được tay em, em sẽ…” rồi cô đọc liền một hơi như đọc yếu lĩnh của xạ thủ khiến chúng tôi cười chẩy cả nước mắt (có ghi kịp lời cô thì cũng không thể hiệu quả bằng nghe chính giọng cô nói). Tất nhiên ai cũng biết cô đùa, nhưng nhìn đôi bắp tay để trần, thân hình cân đối dẻo dai của một vận động viên, chắc cô sẽ làm thế thật, sẽ không ai “thoát”, thì đến như đô vật hạng nhất Phạm Tiến Đồng!..
Một ấn tượng đậm của Than Khe Chàm với chúng tôi là được dự một bữa tiệc mừng sơ kết 6 tháng đầu năm của các cán bộ khoa học kỹ thuật mỏ, 85 anh chị em, đại bộ phận là cánh trẻ, tại một nhà hàng nổi ở Vân Đồn. Được thấy cái vui xả láng, lành mạnh của những trí thức vùng than, từ giám đốc đến một kỹ sư mới ra trường đều hát hò, trêu đùa nhau thoải mái. Sau cuộc vui, ngay ngày mai họ lại chuẩn bị, hoàn thiện tiếp mọi khâu kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ đào lò cho việc khai thác sản lượng Khe Chàm III mà Tập đoàn TKV giao cho Công ty làm chủ đầu tư xây dựng và khai thác từ năm 2010. Mỏ than Khe Chàm III sẽ là mỏ hiện đại nhất Việt Nam, có công nghệ cơ giới hoá cao nhất, trữ lượng công nghiệp tới 37.708. 000 tấn. Từ năm 2011 đến 2015, bằng vào kinh nghiệm những năm qua, với công nghệ hiện đại, sản lượng Khe Chàm III sẽ tăng dần từ 1.000.000 tấn đến 3.250.000 tấn vào năm 2015. Đó là niềm vinh dự của họ, là sự chờ đợi của cả ngành than!
Tháng 7 – 2011
VanVN.Net - Hưởng ứng tinh thần “Trẻ em là hiền tài và nguyên khí của quốc gia” theo kế hoạch phát triển giáo dục đến năm 2020. Từ ngày 3-8/8/2011 tại Trung tâm Triển lãm Giảng Võ (148 Giảng Võ – ...
VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...
VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...
VanVN.Net - NXB Dân Trí vừa cho ra mắt tập truyện ngắn Hoa mẫu đơn của tác giả Lê Toán. Đây là tập truyện giả tưởng - cũng là món quà thứ tư, tác giả dành tặng cho thiếu nhi, sau ...
Tiếp tục chương trình hoạt động của kỳ họp thứ 4 (Khóa VIII), hôm nay, ngày 7/8/2011, BCH Hội Nhà văn VN đã có chuyến đi thực tế tại trại sản xuất giống tu hài của công ty TNHH Đỗ Tờ ...
VanVN.Net - Nửa đầu thế kỷ XIX là sự bắt đầu vương triều Nguyễn với cuộc lên ngôi của Gia Long vào 1802. Tôi muốn gọi đó là một thời “khó sống” khi viết về Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn