Những ban đêm thành cột mốc tháng năm/ Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng/ Đêm thao thức đón chờ ánh sáng/ Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời. (Đêm trắng - Nguyễn Văn Thạc)
Gửi thư    Bản in

Tùy bút của Nguyễn Linh Khiếu

19-08-2013 07:45:28 AM

VanVN.Net – Nhà văn Nguyễn Linh Khiếu dự định xuất bản tập tùy bút có tựa đề: “Lễ hồi sinh” gồm hơn 50 tùy bút nhỏ được viết trong mấy năm qua với bút danh Khiếu Linh. Nhân những ngày lễ lớn của dân gian trong dịp tháng 7 âm lịch, nhà văn chọn ba tùy bút gửi tới VanVN.Net chia sẻ cùng bạn đọc…

Nhà văn Nguyễn Linh Khiếu

 

Rằm tháng bảy

Khi những ngọn thu dài rộng lồng lộng đỉnh trời, những giọt thu sụt sùi ngậm ngùi trời đất, nắng sớm khoe vàng bất chợt và khi những cánh đồng lúa mùa thơm ngát, dòng sông ăm ắp phù sa đỏ cuồn cuộn về xuôi... Ấy là tháng bảy của xứ Bắc với biết bao cảm xúc ngổn ngang lòng người. Trời đất như thế, lòng người sao mà thờ ơ, yên ổn được. Người trẻ bồn chồn rạo rực, người già xao xác nỗi niềm xa xăm.

 

Tháng bảy mưa ngâu. Rằm tháng bảy lễ Vu lan, xá tội vong nhân. Dân gian thì chả phân biệt gì nhưng thực ra đó là hai việc khác nhau. Một đằng là báo hiếu, cầu siêu cho cha mẹ, ông bà tổ tiên và một đằng làm phúc, bố thí cho những vong hồn chúng sinh côi cút, vật vờ không nơi thờ cúng. Cả hai tích này đều có nguồn gốc từ các kinh sách cổ nhà Phật.

Lễ Vu Lan  

Tích xưa kể rằng, ông bà Phổ Tướng và Thanh Đề sinh người con trai tên là La Bộc. Do nhà nghèo, La Bộc phải xa nhà lặn lội đi buôn bán ở tỉnh Kiên Liên. Khi khá giả, La Bộc sai người mang tiền về biếu mẹ. Mẹ ông là người hoang tàng với bao việc làm quái dị, ngược đời. Bà không chỉ tiều sài hết nhẵn số tiền con vất vả xứ người dành dụm gửi về mà còn giết con chó nhà nuôi làm nhân bánh biếu sư, báng bổ Phật giới. Nhưng khi con về, bà lại nói bao nhiêu tiền con gửi bà đã đem dâng cúng cả vào đền chùa.

La Bộc đinh ninh như thế, khi mẹ chết, sau khi chịu tang mẹ ba năm, ông đi về nơi đất Phật và xin ở lại tu luyện theo hầu. Phật giao cho thầy Kha Na cắt tóc ông, đưa ông về chùa Lã Bí ở rừng Quít Sơn tu và đặt tên hiệu là Đại Mục Khiên Liên. Muốn đến rừng Quít Sơn phải đi qua chùa Thiên Giai là nơi những âm hồn lẩn quất nghe kinh. Mục Liên giật mình chỉ thấy hồn cha mà không có hồn mẹ. Phật hiện lên bảo rằng: mẹ ông khi sống điêu ngao, gian ác, lừa lọc nên bị đày xuống ngục - A Tỳ (âm ty địa ngục). Sau khi tu luyện chứng quả, Mục Liên lập tức tìm xuống địa ngục và tận mắt chứng kiến cảnh mẹ đang chịu muôn ngàn cực hình khủng khiếp. Gặp con, người mẹ vô cùng ân hận khóc lóc xin con tìm cách cứu bà ra khỏi địa ngục. Người con dắt tay mẹ đi nhưng lũ quỷ không cho đi.

Mục Liên cầu cứu đức Phật. Ngài chỉ rằng dù đã có phép thần thông, dù lòng hiếu thảo của ông có thấu trời đất nhưng một mình Mục Liên không thể cứu được mẹ bởi nghiệp chướng quá nặng. Phật dạy, phải thành kính đi rước chư tăng - nhất là các vị tu tập đã chứng quả - khắp mười phương về đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi mới có thể cứu vong linh mẹ thoát khỏi địa ngục. Ngài chỉ dẫn, Mục Liên phải chăm lo cho các chư tăng chu đáo, nhằm ngày rằm tháng bảy lập trai đàn cầu nguyện. Phật dạy các chư tăng không chỉ chú tâm cầu nguyện cho mẹ Mục Liên thoát khỏi địa ngục mà đồng thời phải cầu nguyện cho ông bà tổ tiên bảy đời của thí chủ được hoàn toàn siêu thoát.

Quả nhiên, sau đó mẹ Mục Liên được giải thoát khỏi kiếp ngọa quỷ nơi địa ngục mà sinh về cảnh giới lành và tổ tiên cũng đều được siêu thoát. Đó là sự tích lễ Vu Lan - rằm tháng bảy. Về chữ nghĩa, thực ra chữ Vu Lan có nguồn gốc từ chữ Sanscrit là Ullambhana được phiên âm sang tiếng Hán Việt là Ôlambàna và đọc thành Vu Lan bồn, nói tắt là Vu Lan và nghĩa gốc của nó là sự giải thoát.  

Tích xưa cho thấy, những người gian ác nơi trần gian khi chết sẽ bị đày xuống chín tầng âm ty địa ngục và lòng hiếu thảo của con người cần không ngừng hun đúc để không chỉ cảm hóa đồng loại mà còn phải cảm động cả trời Phật. Chỉ có thế mới cầu siêu thoát được cha mẹ và ông bà tổ tiên ở thế giới bên kia.

Xá tội vong nhân

Chuyện rằng, vào một tối khi ông A Nan Đà - thường gọi là A Nan - đang ngồi tu trong tịnh thất thì một con ngạ quỷ thân gầy đét, cổ dài thượt, mặt cháy, miệng ngậm lửa (diệm khẩu) bước vào. Con quỷ đói phán rằng ba ngày nữa A Nan sẽ chết và luân hồi vào cõi ngạ quỷ và cũng sẽ bị miệng lửa mặt cháy như nó. A Nam hoảng sợ cầu xin quỷ đói giúp đỡ. Quỷ đói bày rằng: ngày mai ông phải thí cho bọn chúng nhiều thức ăn; đồng thời phải tổ chức lễ cúng dường Tam bảo, có thế ông mới thoát nạn và lũ ngạ quỷ cũng được giải thoát luân hồi sang cõi lành. A Nan thưa với Phật: Phật ban cho bài chú: “Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ đa la ni” để tụng trong lễ cúng bố thí và cầu nguyện giải thoát cho loài quỷ đói miệng lửa. Lễ cúng này các tín đồ nhà Phật gọi là lễ Phóng diệm khẩu - tức cúng bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ mặt cháy. Sau khi cúng ông A Na thoát nạn và lũ quỷ miệng lửa cũng được giải thoát khỏi kiếp đày ải nơi địa ngục.

Chuyện nguyên là thế, nhưng khi được lưu truyền trong dân gian lễ cúng này được mở rộng ra là lễ cúng cô hồn, chúng sinh - tức là cúng những vong không nơi nương tựa, không người thờ cúng. Từ lễ Phóng diệm khẩu - thả quỷ miệng lửa, theo cách hiểu của nhà Phật thành tha tội cho vong nhân, cho tất cả người chết - thành xá tội vong nhân. Đó là sự từ tâm khoan dung, độ lượng cao cả của nhân gian.

Như thế, đó là hai tích truyện hoàn toàn khác nhau nhưng trong dân gian chẳng hiểu từ đâu và từ bao giờ cũng lại lưu truyền rằng, khi ông Mục Liên được sự giúp đỡ của Đức Phật xuống địa ngục giải thoát cho mẹ đã được Ngài giao thêm nhiệm vụ cùng với việc cứu mẹ phải giải thoát cho những linh hồn lầm lạc bị giam cầm cùng mẹ dưới địa ngục. Nghĩa là khi giải thoát cho mẹ cũng đồng thời phải giải thoát - xá tội cho mọi vọng nhân đang cùng bị đọa đầy cùng mẹ mà không có người cứu giúp dưới đó. Với cách hiểu nôn na như thế, nên Rằm tháng bảy vừa là lễ cúng báo hiếu, vừa là lễ cúng xá tội vong nhân. Đa số dân ta hiểu theo cách thông thường này, nên lễ cúng Rằm tháng bảy được bày cúng chung. Thực là kinh sách hàn lâm khó mà sánh được với tâm thức đời sống sinh động.

Rằm tháng bảy

Chả hiểu những tích xưa tiếp biến văn hóa Việt hóa từ bao giờ. Chỉ biết hàng ngàn năm nay, Rằm tháng bảy là một ngày lễ lớn trong hệ thống lễ cúng truyền thống hàng năm của văn hóa dân gian Việt Nam. Dân gian rằng, tết cả năm không bằng Rằm tháng bảy. Lễ được tổ chức tại gia, tại đền, chùa, miếu, phủ, nghĩa trang và nơi công cộng linh thiêng. Ngoài cỗ, vật phẩm cúng trời đất, thánh, thần, phật, cha mẹ, ông bà, tổ tiên... như xôi gà, hoa quả, cơm canh, quần áo (gồm quần áo thần linh, ông bà tiên chủ, cha mẹ, chúng sinh...), vật dụng cá nhân, tiền vàng và các loại hàng mã; bao giờ cũng có lễ vật đặc trưng cúng các cô hồn như bỏng ngô, bỏng gạo, kẹo vừng, bánh chè lam, cơm nắm, khoai luộc, trầu cau... Đặc biệt, nếu cúng báo hiếu bắt buộc phải có bát canh thì lễ xá tôi vong nhân dứt khoát phải có cháo. Đó là cháo hoa. Cháo trong các gia đình được cúng bằng bát còn nơi công cộng cháo được đựng trong các bồ đài bằng lá mít cắm dọc theo vệ đường cho chúng sinh. Cúng cháo với tục cướp cháo của trẻ mục đồng và tục đốt nhiều vàng mã, quần áo, tiền vàng... là những nét đặc sắc của lễ cúng Rằm tháng bảy. Bên cạnh đó, ngoài cúng người đã “quy tiên”, Rằm tháng bảy mỗi gia đình truyền thống còn phải làm một mâm cơn thịnh soạn cung kính dâng biếu cha mẹ già. Đây là một nét đẹp truyền thống văn hóa dân tộc thể hiện sâu sắc bản sắc đạo hiếu Việt Nam.

Rằm tháng bảy với lễ Vu Lan báo hiếu, siêu thoát cho ông bà tổ tiên và lễ Xá tội vong nhân làm phúc, bố thí cho mọi vong linh côi cút không nơi nương tựa là minh chứng hùng hồn cho sức sống trường tồn của bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc. Rằm tháng bảy thể hiện những giá trị nhân văn cao quí của dân tộc ta. Đó là sự hiếu đễ, thủy chung, từ tâm, bao dung, nhân hậu, thương người. Đó là ứng xử văn hóa của một dân tộc thiện tâm thấm nhuần đời sống tâm linh.

Tái bút

Viết đến đây tôi chớt nhớ lễ cúng Rằm tháng bảy năm ngoái. Chuyện thế này, trong một đêm ngâu sụt sùi, hơi may lành lạnh phảng phớt trước rằm trằn trọc mãi không ngủ được và khi thiếp đi chợt tôi thấy cô em gái của tôi chết đã mấy chục năm bỗng hiện về đứng lấp ló sau bụi dứa dại nơi đầu ngõ. Em vẫn nhỏ bé và gầy guộc như ngày xưa, quần áo có phần rách rưới. Tôi gọi mãi em cứ đứng trân trân ở ngoài đường làng nhìn tôi mà không chịu đi vào ngõ. Khi tôi đi ra tới nơi thì em bỗng biến đâu mất tôi gọi mãi không được. Sau đó tôi giật mình tỉnh dậy bâng khuâng nằm nghe mưa buồn tới sáng.

Tôi kể lại chuyện này với mẹ, mẹ tôi nói thế là ở dưới âm còn nhiều người đói rét lắm nên quần áo nhà mình vẫn gửi xuống cho em nhưng đã bị ma đói ma rét người ta cướp mất. Vì thế em mới phải mặc quần áo rách, thế có tội không chứ. Rằm Tháng bảy năm ấy mẹ tôi mua nhiều đồ cúng, đồ lễ và vàng mã hơn mọi năm. Tôi biết, mẹ muốn gửi cho em, cho ông bà tổ tiên và dĩ nhiên cho cả các vong linh lang thang cơ nhỡ không nơi nương tựa nhiều hơn để dưới âm bớt phần nào đói rách. Bởi lẽ, trong tâm thức mọi người, dương sao âm vậy.

 

Lễ hội mùa thu

Lễ hội truyền thống Việt Nam tưng bừng diễn ra quanh năm. Đặc biệt, mùa xuân và mùa thu được mệnh danh là mùa lễ hội. Từ ngàn xưa dân gian đã lưu truyền: tháng tám giỗ Cha tháng ba giỗ Mẹ. Tháng ba là trung tâm lễ hội mùa xuân và tháng tám là trung tâm lễ hội mùa thu.

 

Truyền thuyết lễ hội

Lễ hội Mùa xuân gắn liền với tục thờ Nữ thần -  thờ Mẫu và qua tiếp biến văn hóa dân gian mà ngày nay chính là hội - giỗ thánh Mẫu Liễu Hạnh. Lễ hội Mùa thu gắn liền với truyền thống thờ Thủy thần - đức vua Cha Long thần Bát Hải Đại Vương và rồi cũng qua tiếp biến văn hóa dân gian mà gắn liền với ngày giỗ Cha, đó là sự tích hợp văn hóa gồm cả ngày giỗ Cha Long thần và Đức Thánh Trần.

Vua Cha Bát Hải Đại Vương thuộc dòng Thủy thần - Long Thần - Lạc Long Quân, được thờ ở đền Đồng Bằng (làng Đào Động) - xưa là nơi gặp gỡ của các con sông lớn, nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Truyền thuyết kể rằng, ngày xưa có hai vợ chồng người đánh cá già không có con. Một hôm mưa to gió lớn, người vợ thấy dáng rồng ấp bỗng dưng cảm động mà thụ thai, sau sinh ra một bọc nước trong có ba con rắn thần. Từ bọc trứng bò ra, ba con rắn bơi theo ba ngả sông ra cửa biển.

Đời Hùng Vương thứ 18 nước có giặc Thục xâm lược. Vua truyền chiếu trong dân gian kêu gọi người tài ra đánh giặc cứu nước. Con rắn lớn cùng hai rắn nhỏ hóa thành ba chàng trai lực lưỡng dẫn đoàn thủy quân bao gồm cả muôn vàn thủy thần rầm rộ lên đường đánh giặc, cứu nước. Thắng lợi trở về, người anh cả được Hùng Vương phong là Trấn Tây A Nam Vĩnh cống Bát Hải Đại Vương. Hai người em cũng được Vua phong đẩy đủ chức tước.

Khi hóa, Bát Hải Đại Vương được nhân dân lập đền thờ ở Đào Động và được tôn vinh là Thành Hoàng làng. Qua hàng ngàn năm lịch sử, ông được tôn sùng là Vua cha Bát Hải Đại Vương cùng mười người con - mười ông Hoàng thần thánh - rất linh thiêng và nhiều quyền năng trấn giữ các vùng trọng yếu biên ải, cửa sông. Tháng tám giỗ Cha nguyên cội rễ xa xưa chính là lễ hội Mùa thu nhân ngày giỗ của Vua Cha Bát Hải Đại Vương - ngày 28 tháng 8 (âm lịch).

Tiếp biến văn hóa lễ hội

Tâm thức dân gian có những quy luật vận động độc đáo riêng như một lẽ thường tình của đời sống văn hóa tâm linh. Từ lễ hội Mùa thu với khởi nguồn là lễ hội tưởng nhớ Vua Cha - Long thần, đã từng bước trở thành lễ hội chung của Bát Hải Đại Vương và Đức Thánh Trần. Cái lý của dân gian là: thứ nhất, ngày giỗ của Vua Cha và của Đức Thánh Trần cùng vào cuối tháng tám; thứ hai, Bát Hải - Long thần là dòng Thủy Thần và Triều Trần có nguồn gốc từ những ngư dân sông nước gốc gác cũng được coi thuộc Thủy Thần (tô tem thủy tộc); và, thứ ba, trước khi cầm quân chống quân Nguyên, Trần Hưng Đạo mang theo Phạm Ngũ Lão đến đền Đồng Bằng cầu xin Vua Cha Bát Hải Đại Vương phù trợ đánh thắng giặc... và đã linh ứng. Vì lẽ đó, nơi nào thờ Vua Cha cũng phối thờ Đức Thánh Trần và Lễ hội Mùa thu trở thành lễ hội hai trong một.

Lễ hội Mùa thu là một trong hai lễ hội lớn nhất của văn hóa truyền thống dân tộc Việt. Lễ hội có cội rễ cổ xưa từ tục thờ Long thần - Thủy thần tô tem của cư dân sông nước châu thổ sông Hồng. Nó diễn ra ở khắp mọi niềm đất nước. Ở đâu có đền thờ Thủy thần và Đức Thánh Trần thì ở đó cứ vào tháng tám nhân dân lại tổ chức lễ - giỗ. Trong những ngày “giỗ Cha” diễn ra ở đền Đồng Bằng và Kiếp Bạc ngoài các nghi thức tôn vinh Vua Cha Bát Hải và Đức Thánh Trần ta thấy còn diễn ra hầu như tất cả nghi lễ văn hóa truyền thống của cư dân sông nước và các ma thuật trừ ma trừ tà thủy quái.

Tâm thức lễ hội

Lễ hội bao giờ cũng là dịp để tưởng nhớ những vị anh hùng kiệt xuất của dân tộc. Nhân dân tổ chức lễ rước trên sông và hội đua thuyền. Các đoàn thủy rước gồm hàng trăm chiến thuyền treo đèn, cờ, hoa lộng lẫy với chiêng, trống, mõ, thanh la rầm rộ từ muôn ngả sông nước đổ dồn về bến sông trước cửa đền Đồng Bằng hay bến Lục Đầu Giang trước đền Kiếp bạc. Ở trung tâm đoàn rước đó là kiệu Vua Cha Bát Hải Đại Vương và Đức Thánh Trần.

Trong những ngày lễ hội, ngoài những đoàn rước chở kiệu diễu hành hoành tráng trên sông nước và hội đua thuyền truyền thống, còn diễn ra nhiều điệu múa và trò tích dân gian tái hiện những hoạt động xa xưa của các vị anh hùng như: múa võ, múa chiến trận, múa chèo tải lương, múa gươm, múa kiếm, múa hổ, múa sư tử, múa lân, múa rồng... Đồng thời, cũng như mọi lễ hội truyền thống dân gian thường diễn ra các trò chơi dân gian như cờ người, chọi gà, thi thả chim, đấu vật, kéo co, trèo cột và tổ chức múa hát như hát chèo, hát quan họ, hát trống cơm, múa rối nước, rối cạn, xiếc... Đặc biệt, trong lễ hội Mùa thu, bên cạnh những nghi lễ thờ phụng, cúng tế bao giờ cũng diễn ra hát chầu văn và các hoạt động đồng bóng ma thuật rất sội động linh thiêng huyền bí. Nếu trong lễ hội Mùa xuân việc hầu đồng là để cầu xin tài lộc, may mắn, sức khỏe thì trong lễ hội Mùa thu việc hầu đồng là để tiễu trừ tà ma và các thế lực đen tối quấy phá đời sống yên lành của lương dân.

Đặc biệt, trong lễ hội Mùa thu ta còn bặt gặp sự hiện diện giao thoa, tiếp biến văn hóa. Đó là trên mảnh đất châu thổ sông Hồng, từ thuở khai hoang lập đất đã là nơi hội tụ giữa cư dân biển cả sông nước và cư dân lục địa núi đồi. Giữa bản chất mênh mông phóng khoáng và khuôn thước vững bền. Giữa mới mẻ biến động và cổ truyền ổng định. Giữa tâm linh sơn thần và tâm linh thủy thần… Chính sự giao lưu văn hóa ấy đã tạo nên sự hỗn dung văn hóa đa cội nguồn, đa sặc diện và đa động lực tinh thần. 

Lễ hội Mùa thu từ thẳm sâu cội nguồn tín ngưỡng và tâm thức dân gian dân tộc chính là lễ hội của cư dân vừng châu thổ sông nước. Đó là cư dân đánh cá (biển và sông), cư dân trồng lúa nước, cư dân trồng dâu nuôi tằm dệt lụa, … với xác tín thiêng liêng tổ tiên là Thủy Thần - Lạc Long Quân. Đó là căn bản cội rễ ngọn nguồn của dân tộc. Tưng bừng lễ hội Mùa thu không chỉ hiển thị tinh thần thượng võ hiên ngang bất khuất của dân tộc Việt trước những thế lực ngoại xâm phương Bắc đen tối mà còn phát lộ những giá trị tinh thần cao quý, những bản thể tâm linh huyền bí căn cốt sinh tồn của dân tộc.

Và, hơn hết, với lễ hội Mùa thu mọi con người, mọi sinh linh đều bình đẳng hòa nhập vào không gian lễ hội - không gian văn hóa truyền thống rộn rã sắc màu và tràn trề sinh lực của văn minh châu thổ sông Hồng chài lưới đánh bắt cá và canh nông lúa nước. Đó thực là một điều giản dị, nhưng là sự giản dị sinh động trường tồn của dân tộc Việt Nam.

 

Linh thiêng châu thổ

Trong tâm thức dân gian, sông Hồng là dòng sông Mẹ. Hạ lưu châu thổ sông Hồng chính là nơi hội tụ và lan tỏa trầm tích văn hóa tâm linh của dân tộc Việt. Sau hàng ngàn năm hành trình bồi tụ và gây dựng miền hạ lưu châu thổ trù phú mỡ màu với bao truyền thuyết, huyền thoại và di tích đã trở thành nơi chốn khám phá và thưởng ngoạn của biết bao khách thập phương.

 

Truyền thuyết

Chuyện kể rằng, Hùng Vương thứ 3, có nàng công chúa Tiên Dung nhan sắc tuyệt trần. Đến tuổi cập kê nhưng nàng mải mê ngao du sơn thủy không muốn lấy chồng. Một ngày đẹp trời, nàng sai đưa thuyền du ngoạn dọc sông Hồng. Đến gần cửa sông, non nước hữu tình, cỏ hoa tươi thắm. Nàng cho dừng thuyền và sai tỳ nữ quây màn trên bãi cát để tắm. Khi nước dội cát trôi, bất ngờ hiện ra một chàng trai trẻ không quần áo. Chàng trai vô cùng hoảng sợ. Còn nàng, sau giây phút ngỡ ngàng, tự nghĩ, mình đã có ý không lấy chồng, nay gặp một chàng trai cũng trần truồng như mình thì quả là duyên trời định. Nàng bèn bảo chàng trai đừng sợ và sai nô tỳ mang quần áo cho chàng mặc. Sau đó, nàng cho tổ chức đám cưới ngay trên du thuyền.

Chàng trai đó là Chử Đồng Tử, người làng Chử Xá, nhà nghèo, mẹ mất sớm, nhà bị hỏa hoạn cơ nghiệp còn sót lại một chiếc khố, hai bố con thay nhau mặc khi ra khỏi nhà. Khi người bố sắp chết đã cám cảnh dặn con, khi chôn bố, con để lại chiếc khố mà dùng. Vì hiếu thảo, chàng Chử đã mặc khố cho bố, còn mình từ đó suốt ngày dầm mình dưới nước để mò cua bắt ốc và trao đổi với khách thương. Hôm đó, khi đang dầm mình dưới sông Hồng chàng thấy thuyền rồng lướt tới, hoảng sợ chàng bò lên bờ và vùi mình trong cát. Thật bất ngờ, nơi chàng ẩn trốn lại chính là nơi Tiên Dung quây màn tắm.  

Khai phá, hội tụ và lan tỏa

Nghe tin công chúa tự ý lấy một kẻ dân gian mò cua bắt ốc vô gia cư, Hùng Vương giận lắm. Ngài cấm không cho về triều. Tiên Dung đành ở lại cùng chàng Chử lập nghiệp nơi hạ lưu châu thổ sông Hồng. Vùng đất nơi gặp gỡ của mối tình của họ là vùng gần cửa sông Hồng đất mới mỡ màu sinh sôi bồi tụ. Đó là nơi gần cửa sông lớn giao thương nối liền cả một vùng núi rừng, trung du và đồng bằng với biển cả.

Công chúa vốn ở triều đình, nơi đô hội, trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của cả một vương quốc, khi về sống cùng dân gian, đất mới tụ cư, nàng rõ ra một con người quá giỏi giang, hiểu biết, tinh thông. Nàng không chỉ cùng chồng đánh bắt cá tôm, mà còn dạy dân trồng dâu nuôi tằm dệt vải, dệt chiếu, trồng lúa, tỉa ngô và chế biến các loại bánh trái; nàng còn chỉ dẫn dân kiếm tìm những cây thuốc để tự chữa bệnh. Đặc biệt, với suy nghĩ của một công chúa, nàng đã cùng chồng “mở bến chợ, lập phố xá” buôn bán giao thương với các thương gia nước ngoài…

Chính những việc làm của vợ chồng công chúa, đã thu hút muôn dân quần tụ về vùng hạ lưu châu thổ sông Hồng sản xuất, buôn bán, làm ăn sinh sống. Chẳng bao lâu, từ một vùng đất mới bồi tụ chua mặn, sình lầy, đầm trũng hoang vu đã trở thành một trung tâm kinh tế, văn hóa và quần cư sầm uất thịnh vượng. Không chỉ phát triển, văn hóa, xã hội mà cả tôn giáo tín ngưỡng, phong tục, tập quán cũng từng bước được du nhập và hình thành.

Truyền thuyết Tiên Dung - Chử Đồng Tử, không chỉ tôn vinh mối tình bất hủ của cha ông, hơn thế, đã phản ánh một cách sinh động cuộc thiên di vĩ đại của dân tộc Việt trên con đường khai phá và mở cõi từ miền trung du Nghĩa Lĩnh, hành trình nam tiến lan tỏa xuống vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng đất mới. Sự hội ngộ giữa Tiên Dung và Chử Đồng Tử mang bóng dáng cuộc gặp gỡ huyền thoại cội nguồn văn hóa dân tộc giữa Tiên và Rồng, giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân, giữa lục địa và biển cả, giữa núi đồi và đồng bằng, giữa gieo trồng và đánh bắt thủy sản, giữa trồng trọt, ngành nghề và buôn bán,..

Truyền thuyết cũng phản ánh các lớp tầng văn hóa trầm tích chồng lấn của cư dân Việt cổ trong giao lưu và hội nhập trên miền đất mới. Hình tượng công chúa Tiên Dung tự do du ngoạn, tự ý quyết định và cưới chồng, dạy dân mở mang ngành nghề, buôn bán giao thương, làm thuốc chữa bệnh cho dân, cưới vợ lẽ cho chồng… phản chiếu phần nào chế độ mẫu hệ đang trị vì các quan hệ xã hội. Thực vậy, sông Hồng khi đó được gọi là sông Cái và đặc biệt, trước khi Tiên Dung về đây cùng chồng thì hạ lưu châu thổ sông Hồng là một vùng hoang vu sình lầy, từ khi vợ chồng bà lập nghiệp ở đó, vùng đất này thành nơi đô hội sầm uất giầu có và nhộn nhịp giao thương buôn bán.

Theo các nhà nghiên cứu, Tiên Dung là biểu tượng của hành trình văn hóa của người Việt cổ từ vùng trung du xuống đồng bằng; còn Chử Đồng Tử là biểu tượng của cư dân sông nước bản địa cửa sông ven biển. Sự khai phá châu thổ sông Hồng cũng chính là sự tiếp xúc và giao thoa của hai nền văn hóa căn bản đó tạo nên một nền văn hóa dồi dào bản sắc của dân tộc ta. Dấu vết của sự tiếp xúc văn hóa này vẫn in đậm trong các lễ hội dân gian truyền thống đến tận ngày nay.

Địa chỉ văn hóa tâm linh

Với sự khai phá và tạo dựng nơi quần cư, với sự tiếp xúc và tích hợp văn hóa, suốt tiến trình hàng ngàn năm thăng trầm cùng lịch sử dựng nước và giữ nước, châu thổ sông Hồng đã trở thành cội rễ của văn hóa dân tộc. Cùng với sự hình thành các cộng đồng làng xã, các trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, nếp sống, lối sống, phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng của dân cư cũng hình thành và định hình. Bẳn sắc văn hóa của cư dân sông Hồng ngày càng phát triển rực rỡ và trở thành cái nôi của nền văn minh sông Hồng.

Vùng đất hạ lưu châu thổ sông Hồng nơi diễn ra cuộc gặp gỡ “thiên định” giữa Tiên Dung và Chử Đồng Tử xưa nay đã trở thành một địa chỉ văn hóa du lịch tâm linh với hệ thống lễ hội dân gian, hệ thống đền, chùa, miếu, phủ, làng nghề nổi tiếng và các trò chơi dân gian đặc sắc… Đặc biệt, ở đó là cả một kho tàng văn hóa dân tộc ngày càng phát nộ rực rõ cuốn hút biết bao khách thập phương hành hương về chiêm bái, thưởng ngoạn và dung dưỡng tinh thần.

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn