Thu về trên tóc/ Đông đọng trong hồn/ Nhổ được tóc bạc/ Nhổ chăng nỗi buồn? (Hỏi mình - Phạm Đức)
Gửi thư    Bản in

Văn học Quảng Bình – thừa và thiếu

(Nhân kỷ niệm 50 năm (1961-2011) thành lập Hội VHNT Quảng Bình và trao giải thưởng văn học Lưu Trọng Lư lần thứ IV)

Hoàng Vũ Thuật - 26-12-2011 09:10:12 AM

VanVN.Net - Văn học không thể khu biệt trong một vùng miền, cho dù vùng miền ấy sản sinh nhiều tên tuổi nổi tiếng chăng nữa. Văn học phi biên giới. Sản phẩm văn học dù ở đâu, xa xôi hẻo lánh như xứ Đaghextan cũng là sản phẩm của nhân loại. Bởi vậy khi bàn về văn học Quảng Bình, chúng ta không thể không đặt nó trên mặt phẳng chung của cả nước, trước và sau chiến tranh, Nam và Bắc, nhất là thời kì hội nhập toàn cầu hóa.

Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật

Nếu như trước đây Quảng Bình là nhịp cầu trong lửa đạn, cõng trên lưng cuộc chiến, để rồi thành sự kiện, nhân vật, hình tượng sáng tạo cho các tác phẩm văn học, thơ ca nghệ thuật, thì bây giờ Quảng Bình dường như trở nên xa xôi, cách biệt dễ chừng bị bỏ qua, không còn là xứ sở hấp dẫn của nguồn cảm hứng sáng tạo. Trong hoàn cảnh đó, nếu chúng ta khép kín, tự cô lập mình, đóng lại cánh cửa văn học, tức là tự đào thải, biến thành ốc đảo trơ trọi, rồi cứ thế mà hành xử theo cách riêng, quả thật không biết điều gì sẽ xảy ra.

Tôi trộm nghĩ hình như trong mỗi người đang hình thành một thứ lô cốt, biệt lập, theo kiểu đèn nhà ai nhà ấy rạng. Sáng tạo muôn đời nay là công việc cá nhân, không ai làm thay cho nhau được. Chúng ta thử ngoảnh lại chặng đường đã đi không ai không thấy sự ngô nghê đơn giản trong buổi đầu đến với văn học. Chính nhờ sự hòa nhập, học hỏi, kích thích lẫn nhau mà đi tới hôm nay, trong đó một phần tối trọng nhờ vào tác động của lí luận-phê bình văn học. Có thể nói lí luận-phê bình văn học là đòn bẫy kích ứng sự sáng tạo, làm chỗ dựa cho sáng tạo. Do sự nông nổi ấu trĩ trong một thời gian dài, chúng ta đã coi hiện thực xã hội chủ nghĩa là phương pháp duy nhất, như một thứ kim chỉ nam cho sáng tác. Tác phẩm văn học nào đi ra ngoài quỹ đạo ấy là xa rời đời sống, là nguy hiểm. Người tạo ra nó sẽ bị hệ lụy cùng số phận của nó.

Bây giờ khác, quyền tự do sáng tạo đã được cấp chứng chỉ đỏ(1). Người viết có thể tung hoành trong các khuynh hướng sáng tác, miễn sao mang đến cho độc giả tác phẩm nghệ thuật xứng đáng. Khi bàn đến lí luận-phê bình văn học ở đô thị miền Nam chúng ta đã có cái nhìn khách quan, thừa nhận vị trí xứng đáng trong nền lí luận-phê bình dân tộc(2). Bởi phương pháp sáng tác, xu hướng và các trào lưu của nó phong phú, tạo được sự đa thanh, đa diện, cách tiếp cận đời sống thông thoáng, mở rộng hơn miền Bắc thời ấy.

Đưa ra điều này, tôi muốn nhấn mạnh, dù đây chỉ là ý kiến cá nhân, rằng, văn học Quảng Bình từ sau năm 1975, nhất là thời kì đổi mới đến nay, đang đứng yên. Phương pháp sáng tác không thay đổi, còn quá ít tác giả mạnh dạn tìm tòi, thử nghiệm, tiếp cận các xu hướng nghệ thuật để ứng dụng vào công việc sáng tạo. Mỗi lần hội thảo, tọa đàm chúng ta thường nhắc đến tên tuổi các lớp nhà văn đàn anh đến nhàm mòn. Cứ thế, những con người ấy, gương mặt ấy là rường cột cho một vùng đất văn học gần như mang tính địa phương chủ nghĩa. Vì thế sự xuất hiện tác phẩm mới, tên tuổi mới, ít nhiều có tính bứt phá dễ dàng bị khuất lấp, như một thứ xa lạ, em út chưa đến lúc phải bàn.

Những năm gần đây nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, tập thơ và trường ca ra đời. Có tiểu thuyết dày tới năm, sáu trăm trang, trường ca dài đến vài nghìn câu. Một khối lượng đồ sộ so với vùng đất trên tám mươi vạn dân. “Chân trời mùa hạ” của Hữu Phương, “Lửa của cỏ”“Những mái đầu xanh” của Hoàng Thái Sơn, “Về với mẹ” của Hoàng Bình Trọng có cái để đáng đọc. Trong đó “Chân trời mùa hạ” được Hội Nhà văn trao giải B cuộc thi tiểu thuyết vừa qua. Còn hầu hết chất lượng, thật khó nói. Tôi không thể định giá hết thành công của những tác phẩm mà tôi đã may mắn được đọc. Tuy nhiên qua đấy tôi cũng có thể nhận thấy cái thừa và thiếu, được và chưa được của văn học Quảng Bình. Cái được, đó là xu hướng sáng tạo mới đã bắt đầu xuất hiện ở một vài tác giả. Hiện tượng này rất đáng khuyến khích, cho dù còn le lói chăng nữa vẫn là tín hiệu tốt lành.

 

Dẫn dụ, tiểu thuyết Những mái đầu xanh của nhà văn Hoàng Thái Sơn khi ra đời không được nhiều độc giả đón nhận tích cực. Bởi Hoàng Thái Sơn chọn cho đứa con tinh thần một thi pháp khác. Thành công trong Những mái đầu xanh không chỉ về mặt tư tưởng và nội dung mà nhà văn chuyển tới độc giả. Xu hướng nghệ thuật  Hoàng Thái Sơn theo đuổi là vấn đề cốt lõi của tiểu thuyết mà ông muốn gửi gắm. Ông chọn lối viết của văn học huyền ảo. Đại biểu của văn học huyền ảo là Franz Kafka (1883 - 1924), Tiệp Khắc. Nhiều nhà văn trên thế giới coi ông là bậc thầy và lấy làm khuôn mẫu sáng tác. Hoàng Thái Sơn cũng vậy, bằng cách sử dụng các yếu tố phi lí làm chủ đạo anh đã trình bày một không gian huyền tưởng khá xa lạ so với các tiểu thuyết ra đời cùng một thời điểm. Nhưng không gian huyền tưởng trong Những mái đầu xanh không xa lạ, đối lập với hiện thực cuộc sống. Hiện thực trong tiểu thuyết có chiến tranh hòa bình, có phố phường nông thôn và thời mở cửa. Điều ấy chứng tỏ tác giả rẩt nhạy cảm về đề tài và thủ pháp nghệ thuật đang được nhiều nhà văn khai thác. Phải chăng vì thế mà trong chương trình “mỗi ngày một cuốn sách”, Đài Truyền hình Việt Nam đã chọn để đưa lên giới thiệu cùng độc giả cả nước. Với thủ pháp nghệ thuật này ông đã mang đến sự mới lạ cho văn xuôi đương đại Quảng Bình.

Dẫn dụ khác. Thể loại trường ca hiện nay đang nở rộ, như sự thử nghiệm về quy mô đề tài và sức viết của mình. Trong nhiều trường ca, trừ trường ca viết về Nguyễn Du của nhà thơ Lý Hoài Xuân, còn lại chọn đề tài chiến tranh yêu nước. Thái Hải viết Đồng Hới quê anh, một vùng đất nổi tiếng trong chiến tranh, nơi từng tạo ra cảm hứng bao thế hệ văn nghệ sĩ tên tuổi. Nhắc đến Đồng Hới là người ta nhớ đến Xuân Hoàng với nhiều bài thơ hay, trong đó có cả trường ca viết về Đồng Hới. Liệu Thái Hải có làm cuộc phiêu lưu trong văn học không, khi tên tuổi Xuân Hoàng đã hiện trên đầu mình? Ấy vậy mà anh không chút phiêu lưu mạo hiểm nào cả. Nếu trường ca Đồng Hới của Xuân Hoàng giàu tính sử thi với bút pháp hiện thực, tự sự làm chủ đạo, thì khả năng điều khiển tư duy cảm xúc, tạo ra những câu thơ giàu tượng trưng, đào sâu vào tâm thức người đọc là chỗ mạnh của Thái Hải. Mỗi khúc chương cùng đồng hiện trong trường ca Đồng Hới - khúc huyền tưởng của Thái Hải là bút pháp năng động mới mẻ. Có thể xem đây là cặp trường ca sóng đôi, xuất hiện hai thời kì lịch sử tương tác, bổ sung cho nhau, mà không hề ảnh hưởng, trùng lặp khi cùng chung một đề tài.

Dẫn dụ khác nữa. Điều lấy làm lạ, trong hơn một trăm hội viên văn học, một số lượng chưa từng thấy, nhưng tên tuổi mới thì quá ít. Các tác giả như Hương Duyên, Lê Na, Phan Văn Chương, Hoàng Đăng Khoa, Hoàng Thụy Anh được nhắc đến như niềm tự hào của văn học. Bởi ít nhiều họ tạo ra được không khí trẻ trung về giọng điệu, chất liệu và khả năng tiếp nhận cái mới. Trong số ấy rất ít người để ý đến Trần Thị Huê. Sở dĩ, vì Huê không có những bài thơ nổi tiếng gắn với địa danh quê hương, được in lên trang đầu, ngâm ngợi và phổ nhạc. Huê đến với thế giới văn chương như chiếc bóng khiêm nhường lặng lẽ. May thay tôi đọc tất cả thơ Huê vài ba năm nay và nhận ra trong con người ấy cả một thế giới nội tâm riêng biệt. Đau đớn và khát vọng, mãnh liệt và yếu đuối, yêu thương và cách trở, dường như bao nhiêu thân phận con người đều hội tụ nơi Huê: Tất cả đáng giá bằng một đồng xu/ Của cụm từ bán được/ Khốn khổ hơn gã ăn mày yêu thơ/ Dằn vặt môi đen, ngậm bùn và cọng rơm ủ làm cây nấm/ Thế gian chật hẹp đi rồi/ Nỗi buồn rũ rượi đi rồi/ Chỉ còn cọng rơm lên men và mỗi cánh đồng (Ẩn số ). Đêm đối với Huê như là sự hối thúc của phận người cô đơn, lạnh lẽo: Ở đây một miền đặc đêm// Tôi bước trống ngực tuột ra ngoài// Một hàng cây đứng lầm lỳ/ Nó nhìn tôi bằng năm ngón…Những câu thơ trên khiến người ta liên tưởng đến vai trò vô thức mà Freud từng giải luận trong phân tâm học. Sáng tạo có ý thức chỉ có thể viết được câu thơ hay, chỉnh chu về ngữ nghĩa, nhưng rất khó để làm ra câu thơ xuất thần. Thơ được dồn nén, ẩn ức bật ra trong vô thức lúc nào chính Huê cũng không lí giải nổi. Đó là thơ vụt hiện, bản năng, được cất lên từ một trái tim nhỏ bé, yếu đuối nhưng đầy ắp khát vọng. Tôi cho rằng Trần Thị Huê là một hiện tượng trong làng thơ Quảng Bình.

Những điều nêu lên không nhằm mục đích đề cao nhà văn này, tác giả kia, nhưng qua tác phẩm, tôi nhìn thấy đã có sự khám phá, thay đổi về mặt thi pháp, xu hướng sáng tác trong một số người viết. Xét về phương diện nghệ thuật, tác giả của nó đã cố gắng tìm tòi sao cho ngôn ngữ, chất liệu tác phẩm của mình không mang hình bóng quen thuộc, không dẫm chân trên con đường ''độc đạo'' cũ kĩ và bế tắc, tự mình chọn lối đi riêng. Một nền văn học phát triển, nền văn học ấy phải chấp nhận và tôn trọng các trào lưu, phong cách, khuynh hướng sáng tác, biết chắt lọc tinh túy của các thế hệ đi trước và tinh hoa nhân loại. Nền văn học đó mới thật sự tạo điều kiện cho tài năng nảy nở và tác phẩm có giá trị ra đời. Văn học Quảng Bình bấy nay bình chân, chậm đổi mới, thì đây là những dấu hiệu đột phá đầu tiên. Thành công tới mức nào, chưa phải lúc đúc kết, song chừng ấy thôi cũng đáng nâng niu trân trọng.

Hiện tượng trên lẽ ra chúng ta cần kịp thời tổ chức những cuộc trao đổi, hội thảo, đánh giá nhằm tìm ra một giải pháp bổ ích, có lợi cho văn học, tiếc rằng cho tới bây giờ vẫn chưa làm được.

Văn học Quảng Bình vẫn đang là bài toán chưa có đáp số. Ẩn số văn chương vẫn còn nằm đâu đấy, có thể đang khuất lấp trong chật hẹp của sự phán xét, có thể đang lóe sáng mà ít người để ý, hoặc không nhìn thấy, hoặc có thể có người mặc cảm, đố kị bởi nó còn xa lạ với thói quen sáng tạo lâu nay. Nhưng tự thân mỗi người không thể bế quan tỏa cảng chính mình, đi ngược xu thế đổi mới của văn học, của thời đại. Học hỏi, giao lưu, đúc rút kinh nghiệm, mở cửa hội nhập vẫn là bài học chung. Không nên làm cái việc mình tự đánh giá mình theo lối chủ quan, cố thủ.

Mọi dòng sông đều đi ra biển. Văn học Quảng Bình cũng vậy.

 

                                                                                                  Đồng  Hới, 6/7/2009 – 16/12/2011

______

(1) Nghị quyết TW, số 23-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới

(2) Lí luận phê bình văn học đô thị miền Nam trước năm 1975 (Báo Văn Nghệ số 17+18, ngày 25-4 và 2-5-2009)       

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn