Thu về trên tóc/ Đông đọng trong hồn/ Nhổ được tóc bạc/ Nhổ chăng nỗi buồn? (Hỏi mình - Phạm Đức)
Gửi thư    Bản in

Nguyễn Du và các nhân vật lịch sử Trung Quốc

(Tham luận tại Hội thảo quốc tế: Những lằn ranh văn học)

PGS. TS Lê Thu Yến - 23-12-2011 02:26:49 PM

VanVN.Net - Các nhân vật trong lịch sử Trung Quốc qua con mắt Nguyễn Du hiện lên thật sắc nét. Trong từng lời, từng ý hiện rõ sự ngưỡng mộ và sự phê phán theo cách này hay cách khác, tựu trung tiếng nói của ông thể hiện sự đồng tình cũng như sự bất bình một cách mạnh mẽ. Nguyễn đã tổng kết, đánh giá hàng loạt những vấn đề tai nghe mắt thấy và qua những tấm gương tiêu biểu: cùng khổ, tài hoa, bất hạnh, tốt, xấu, gian ác… được đọc trong sách, tận tường hơn khi đến nơi, cảm được khung cảnh, nhận rõ sự việc… Nguyễn như càng sáng thêm chân lý cuộc đời.

  

Người ta hay lấy câu nói của Goethe để nói về vai trò của tính dân tộc: “Không một nghệ sĩ nào lẫn trường phái nào được quan sát một cách biệt lập, nó liên quan tới vùng đất nơi anh ta sống, với công chúng của dân tộc mình, với thế kỷ này[1]. Như vậy đặc tính của mỗi dân tộc chi phối đặc điểm nghệ thuật của dân tộc đó. Dân tộc thế nào thì văn nghệ thế đó. Và cũng lấy ý kiến của Goethe khi ông trả lời câu hỏi: Bao giờ và ở đâu sẽ xuất hiện một tác gia dân tộc cổ điển? Điều đầu tiên ông cho rằng một nghệ sĩ chỉ trở thành thiên tài dân tộc khi anh ta tìm thấy trong lịch sử dân tộc mình những sự kiện lớn lao trọng đại. Đó là những sự kiện của một dân tộc có thế nói với mọi dân tộc. Thứ hai là khi anh ta không làm mất cá tính lớn lao trong tư tưởng đồng bào mình và cái sâu sắc trong tình cảm của họ, khi anh ta tìm thấy dân tộc của mình ở trình độ cao của văn hóa. Và thứ ba là anh ta sẽ hoàn thành tác phẩm lớn trong những năm tháng tốt nhất của cuộc đời mình[2]. Như vậy, một thiên tài nghệ thuật không chỉ có năng khiếu bẩm sinh  mà còn nhờ sự hỗ trợ của dân tộc mình. Thiên tài được quy định một phần nhờ ở tài năng bên trong và niềm tin riêng, một phần nhờ vào dân tộc và thời đại. Nguyễn Du của chúng ta có phải là một người như vậy không? Câu trả lời chắc ai cũng hiểu. Và không chỉ có Truyện Kiều mới là tiếng nói của một dân tộc đến với mọi dân tộc, mới làm nên đại danh Nguyễn Du mà một vùng sâu thẳm tâm linh khác cũng chất chứa những vấn đề lớn lao của thời đại, của nhân loại, đó là miền thơ chữ Hán với những khúc tâm tình nho nhỏ, rỉ rả, thâm trầm mà thực ra nó là cả một đại dương mênh mông với bao con sóng nổi chìm về số kiếp cũng như thân phận con người.

Hiểu về Truyện Kiều đã khó, thơ chữ Hán lại còn khó hơn. Hai trăm năm mươi bài thơ là bao nhiêu xúc cảm ở đâu vận vào, bao nhiêu nỗi niềm riêng tư ấp ủ, bao nhiêu cảm nhận chìm khuất im lìm… để rồi thông qua câu chữ hiện hình lên thành một Nguyễn Du luôn đau đời và thắm tình người. Có như thế người ta mới lờ mờ nhận ra tại sao có một Nguyễn Du luôn mày mò làm một cuộc đi tìm mình một cách mệt nhoài, khắc khoải Bình sa nhân ảnh tại tà dương (Bóng người in trên cát buổi chiều tà) trong suốt 3 tập thơ chữ Hán như thế, mà có tìm được câu trả lời nào đâu Cổ kim hận sự thiên nan vấn (Xưa nay những mối hận khó mà hỏi trời được). Và để hiểu hết Nguyễn Du càng là một điều khó hơn nữa. Người Việt Nam hiểu Nguyễn Du đã là một điều khó, người nước ngoài hiểu Nguyễn Du càng khó. Nhưng đại danh của Nguyễn Du đã lan rộng, vươn xa khắp thế giới, bởi vì như Phạm Công Thiện đã nói: “Khó lòng thấy được một người ngoại quốc nào, dù có cái học sâu sắc thông thái về ngôn ngữ và văn hoá Việt Nam mà có thể thưởng thức, hiểu nổi tất cả cái không khí thơ mộng tràn trề lai láng của thơ Nguyễn Du, nhưng sở dĩ Nguyễn Du được ngoại quốc biết tên là do đại danh của Nguyễn Du đối với dân tộc Việt Nam[3]. Nói như thế cũng chính là nói Nguyễn Du đã mang hồn cốt của dân tộc, của quê hương làm bến bờ neo đậu để rồi từ đó tỏa đi khắp mọi nẻo đường đời. Và thế giới cũng đã bắt gặp ở Nguyễn Du tiếng nói chung của dân tộc mình.

Thế mới thấy Nguyễn Du nói chuyện nước mình, dân tộc mình còn chưa hết nữa là. Vậy mà khi bước chân ra khỏi đất nước, nhìn thấy cảnh sống của con người nước khác Nguyễn Du lại tiếp tục đắm chìm trong những suy tư, đắm chìm trong những khắc khoải để thâm nhập vào cõi xa xưa với bao lớp trầm tích, cõi của những người đã nằm dưới mộ an hưởng thế giới thanh tịnh, cõi của được mất, hơn thua, đúng sai, ấm lạnh… một thời, đến nay vẫn còn là tiếng nói chi phối thế sự. Hình như Nguyễn không chỉ là người con của đất Việt mà còn là người con chung của nhân loại.

Có người nói Nguyễn Du đã thay mặt người Trung Quốc để tổng kết đánh giá nhận xét về văn hóa nói chung của đất nước này. Điều này không sai, trên những nẻo đường lắm gian nan ở đất nước Trung Hoa, vị sứ thần nước Việt đã dừng lại ít nhiều để chiêm ngưỡng, để nhìn tận nơi, để thấu hiểu mọi lẽ theo cách riêng của mình mà luận bàn và đưa ra ý kiến. Việc làm này cho thấy Nguyễn đã vượt thân phận của một vị sứ thần rong chơi nước bạn, đề thơ vịnh cảnh ca ngợi xứ người cho thắm tình giao hảo như các sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc từ trước tới giờ vẫn làm, Nguyễn đã làm một thiên sứ nối sợi dây thương yêu của đồng loại vào với nhau và trên cơ sở đó, trên lập trường văn hóa dân tộc Việt, với cách nhìn cách nghĩ của người Việt bắt gặp tiếng nói chung của nhân loại để đánh giá nhận xét. Quan trọng là những nhận xét đánh giá ấy có được số đông chấp nhận hay là không? Goethe cũng đã nói rằng thiên tài làm ra tác phẩm và tác phẩm đã mang lại cho anh ta danh dự, làm cho đồng bào của anh ta vui mừng và đồng thời khuyến khích anh ta đi xa hơn [4]. Với Nguyễn Du, dân tộc ta, đồng bào ta đã vui mừng chào đón “ngôi sao” Truyện Kiều và cũng đã nâng niu từng hạt ngọc quý thơ chữ Hán của ông. Thơ chữ Hán là một bước xa hơn, rộng hơn để Nguyễn dấn tới tầm nhân loại.

Những nhân vật lịch sử của Trung Quốc nổi tiếng không chỉ ở đất nước Trung Quốc. Thế giới đã biết đến một Khuất Nguyên tài ba mà cuộc đời chịu nhiều u uất, một Nhạc Phi dũng mãnh vô song lại nhận lãnh án oan, một Đỗ Phủ tài thơ lừng danh mà phải lang thang cùng cực để kiếm sống… Có khoảng hơn 40 nhân vật của đất nước Trung Hoa được Nguyễn cùng luận bàn, cùng sẻ chia tâm sự. Hơn thế nữa, ai cũng biết Nguyễn “có con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” và với con mắt đó, tấm lòng đó, Nguyễn thật thà bày tỏ suy nghĩ của mình và quan trọng là điều đó đôi khi không trùng khít với những suy nghĩ chung của người Trung Quốc. Không trùng khít nhưng cũng không phải là hoàn toàn đối nghịch lại, mà là một cách nhìn khác, cách lí giải khác. Thực ra khi đứng ở tầm nhìn nhân loại để nhìn nhận vấn đề vẫn có chỗ khác với tầm nhìn hạn hẹp của một quốc gia hay một vùng miền nào đó. Lấy một ví dụ về cách nhìn của Nguyễn đối với tượng đá vọng phu trong bài Vọng phu thạch. Nguyễn đã có những suy nghĩ rất khác người. Ai cũng hiểu đá vọng phu được xem như một tượng đài vinh danh người phụ nữ trong một đất nước nhiều chiến tranh, lắm thiên tai, địch họa… Người ta ca ngợi lòng sắt son kiên định, sự chung thủy, chờ đợi chồng về qua bao mùa chiến chinh khói lửa của người chinh phụ, người ta thấy vinh dự khi đất nước mình có những tượng đài như vậy. Đó là niềm tự hào của cả nước. Nhưng Nguyễn Du lại thấy khác, ông nặng lòng nêu lên câu hỏi: Đá chăng, người chăng, đấy là người nào? Đứng một mình nơi đầu núi nghìn trăm năm. Muôn kiếp không hề có giấc mộng mây mưa. Một chữ trinh lưu lại tấm thân cho thiên cổ - (Vọng phu thạch). Lời thơ dằn xé nặng nề, tiếc thương hơn là trân trọng, tự hào. Bởi vì theo ông có gì để mà tự hào, người phụ nữ ấy lưu danh thiên cổ để được cái gì? Để được đứng một mình trên đầu núi nghìn năm ư? Để được cái điều là muôn kiếp không hề có được giấc mộng mây mưa ư? Đấy chỉ có thể là đá, là đá nên lạnh, nên đứng một mình, cách xa cõi người, không có được chút ấm áp của cõi người. Chỉ có thể là đá thôi, mà đá cũng không nên đứng đó. Không cần có nó, càng không nên để mọi người nhìn thấy nó. Đúng như Lưu Trọng Lư nói: “…đối với cái tượng chờ chồng của Nguyễn Du, không phải người đời chỉ cám cảnh, đau thương, mà cuối cùng như chỉ muốn xô ngã đi, không muốn cho cái cảnh đau lòng còn mãi đó giữa cuộc đời[5]. Một nhà thơ Trung Quốc cũng có một bài phú cùng tên (Ở Trung Quốc cũng có tượng đá vọng phu), ca ngợi đá vọng phu của nước mình, nhưng ý hoàn toàn ngược lại với Nguyễn. Bao nhiêu trung trinh tiết liệt, bao nhiêu đạo lý cao đẹp nghìn đời… nhà thơ ấy đều dồn hết vào cái tượng này. Mưa nắng vẫn kiên trinh, sương tuyết vẫn không sờn… tất cả là ngọc trong đá, tượng đá chính là ngọc, ngọc sáng ngời với bao điều tiết nghĩa kia. Nhưng hình như nhà thơ Trung Quốc quên mất bản thân cái tượng, chỉ biết đến những đạo lý tốt đẹp quấn quanh thân tượng. Chính cái điều quên của nhà thơ Trung Quốc ấy, Nguyễn lại cảm một cách thống thiết, đau đớn. Ông hình dung mưa ba tháng thu dội xuống thân tượng bao nhiêu thì nước mắt của người phụ nữ cũng rơi bấy nhiêu. Vì một chút trinh cho đời soi mà người ấy, tấm thân ấy mãi vùi trong khô héo, tủi hận trong mong chờ muôn nghìn kiếp… Nguyễn đau cho kiếp người chịu nhiều khiếm khuyết, xót cho niềm vui trần thế phí hoài… Câu cuối trong bài thơ còn nhấn mạnh thêm: Nhìn bốn phía núi liền nhau mênh mông/ Riêng để cho người nhi nữ giữ đạo luân thường. Núi liền núi, mênh mông là thế, nam giới đâu mà để cho nữ giới phải giữ đạo luân thường? Phụ nữ bản thân đã yếu đuối mong manh, mưa gió, sương tuyết còn thêm dập vùi, muôn kiếp được nhắc hoài cảnh ngộ thương tâm đó. Nguyễn khác người mà cũng thật sâu sắc lẽ đời, phải chăng đó là những suy nghĩ thuộc tầm nhân loại?

Trung Quốc và ta hai nước gần nhau, núi liền núi, sông liền sông, hình thức nhà nước, lễ hội truyền thống, tâm linh, lối sống, ứng xử… đều có những điểm giống nhau. Dù bị đồng hóa hay ảnh hưởng một cách tự nhiên, tự nguyện thì cũng không ai có thể chối cãi về những điểm giống nhau này. Nhưng nếu cẩn thận đặt lên dải đất sông liền sông, núi liền núi đó một đường biên văn hóa thì chúng ta sẽ nhận ra những điểm khác biệt dù nó chỉ là những lằn ranh hết sức mong manh. Ít nhất cũng thấy được: người Trung Quốc mặc áo sườn xám, người Việt Nam mặc áo dài; người Trung Quốc ăn nước tương, người Việt Nam không bỏ được nước mắm; trong 12 con giáp người Trung Quốc không con mèo, người Việt Nam lại không có con thỏ; và nhất là người Trung Quốc thường nói phu phụ (chồng trước vợ sau) nhưng người Việt thường nói vợ chồng (vợ trước chồng sau)… Đôi điều như vậy để thấy không phải là khó nhận ra những nét khác biệt. Chẳng thế mà những suy nghĩ của Nguyễn về các nhân vật lịch sử của Trung Quốc có khi lại rất khác với suy nghĩ của người Trung Quốc.

Tất nhiên trên đường Nguyễn đi qua, những con người khốn khó của đất nước Trung Quốc được ông đặc biệt chú trọng. Từ mấy mẹ con người ăn xin (Sở kiến hành), những người chạy loạn (Trở binh hành), ông già hát rong (Thái Bình mại ca giả) đến những người đánh xe (Hà Nam đạo trung khốc thử), những người tình cờ gặp trên đường (Thương Ngô trúc chi ca V)… Những người này họ ở đâu, họ là ai không cần phân biệt, chỉ biết họ khổ và vất vả. Họ có bản chất tốt đẹp nhưng cuộc đời họ trần trụi, khổ ải thật đáng thương. Nguyễn đã nhận ra giữa nét chung là những nhọc nhằn cay cực đói kém, ở họ vẫn còn nét hồn nhiên đáng yêu Hàm răng hạt bầu hé cười vì thấy ta là người phương Nam (Thương Ngô trúc chi ca V) không phải vị sứ thần nào, kẻ du lãm nào cũng có được cái nhìn ưu ái và đong đầy thiện cảm với tầng lớp nhân dân lao động nghèo khổ không phải là người nước họ như thế.

Đối với những nhân vật lịch sử thông qua những di tích bắt gặp trên đường đi Nguyễn luôn có những suy nghĩ rất riêng về những con người này. Ông rất khâm phục và ngưỡng mộ các bậc hiền tài của đất nước Trung Quốc. Người tài vốn dĩ xưa nay hiếm, lại hay bị trời đất ghen ghét. Nguyễn mến họ vì họ là những người trung nghĩa, yêu nước thương nòi, trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa lớn quên mình, một lòng tận trung báo nước. Nguyễn hết lời tuyên dương họ và nêu bật được những nét tích cực nhất của họ. Nguyễn ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành, nghìn năm nằm dưới đất tóc ông vẫn dài, nhất định không chịu hàng phục nhà Thanh (Quế Lâm Cù các bộ). Ông thông cảm cho Liễu Tông Nguyên, một trong bát đại danh gia, thương cho số kiếp đày đọa của con người tài hoa, thấu hiểu vì sao cỏ cây hoa lá, khe suối nơi ông ở đều có tên là Ngu (Vĩnh Châu Liểu Tử Hậu cố trạch). Qua sông Hoài nhớ Hàn Tín, chuyện thắng thua, thành bại của Hàn Tín, Nguyễn không luận bàn mà chỉ nhắc đến nghĩa cử cao đẹp: đền ơn Phiếu Mẫu, tình nghĩa đối với vua…theo Nguyễn đó là nghĩa trọng tình thâm (Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu). Cũng trên sông Hoài, lịch sử còn ghi danh Văn Thiên Tường tác giả “Chính khí ca” nổi tiếng, Nguyễn vừa phục tài thơ vừa thâm cảm chính khí của người anh hùng dân tộc thời Nam Tống (Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tướng). Nguyễn cũng ngưỡng mộ Âu Dương Tu, người được mệnh danh là Hàn Phi đời Tống. Âu Dương Tu là người tài giỏi, tính cương trực thẳng thắn, làm quan thanh liêm, không được lòng bọn quyền quý, nhiều lần bị giáng chức vẫn hết lòng can vua. Đó là một người vừa có tài vừa có đức (Âu Dương Văn Trung công mộ). Bùi Độ đời Đường cũng vậy, tướng mạo tầm thường mà văn võ song toàn, một đời xả thân cống hiến nhưng cứ bị bọn hoạn quan lộng quyền, phải cáo quan về nghỉ (Bùi Tấn Công mộ). Tỷ Can, Liêm Pha, Dự Nhượng, Kinh Kha đều là những bề tôi trung nghĩa. Tỷ Can chết một gò cây cỏ đều được thành nhân. Lạn Tương Như là bậc đại dũng không cần đến sức mạnh mà có thể bảo đảm cho nước Triệu không trở thành gò đống. Liêm Pha nghìn thuở tên tuổi vẫn còn truyền. Kinh Kha một lần ra đi làm lạnh cả dòng nước sông Dịch. Gương trung liệt của Dự Nhượng nghìn đời sử sách còn ghi… Nguyễn không chỉ thương cảm số phận bi đát của họ mà ông còn khâm phục họ là những bậc hiền tài, dẫu họ chết thế nào: hy sinh, bị hại, bị lưu đày… đứng trước mộ người xưa, mấy nén hương tưởng niệm, lau chùi bia, chảy nước mắt… thậm chí xuống cả xe để tỏ lòng kính trọng. Nguyễn thật chí tình.

Lòng thương bao trùm nhưng khi luận bàn về thái độ, hành động ứng xử của một số nhân vật, Nguyễn có những nhận định khác biệt so với những nhận định cũng như cách làm, cách nghĩ của nhân dân Trung Quốc đối với những người con của dân tộc họ.

Nhạc Phi có đền thờ lớn, tượng thờ, mộ…trong một khu đất rộng lớn gần Hồ Tây. Đó là cách người đời sau thâm tạ, kính trọng, ngưỡng vọng người anh hùng Nhạc Phi. Nhưng Nguyễn buồn đến cháy lòng khi nghĩ về ngày ấy: Anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung nguyên/ Thương thần dài trượng tám, cung nặng sáu thạch (Nhạc Vũ Mục mộ) . Vậy mà: (Mười hai tấm kim bài để lại mối hận/ Ba ngàn quân kỵ chỉ còn lại đám mây chiều/ Mười năm huyết chiến để làm nên cái việc/ Bị giết ở đình Phong Ba để triều đình tạ tội với người Kim (Yển Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ). Quả thật là sự đời lắm đảo điên, anh hùng thế đấy mà số phận sao cay nghiệt phũ phàng, công đâu không thấy chỉ thấy tội. Ngàn thu sau trong mắt Nguyễn gió vẫn thổi, núi Thê Hà chìm trong bóng chiều nhưng cây tùng cây bách vẫn hiên ngang ngạo nghễ lao vào trong gió bão (Nhạc Vũ Mục mộ). Với Nguyễn hình như ông không bằng lòng trước hiện tại mọi thứ đã yên vị đâu đó, người xưa đã mất đi rồi nhưng sự bất bằng, bất công kia phải trả giá. Đã mất một Nhạc Phi rồi không thể mất thêm những Nhạc Phi của đời sau nữa. Con người anh hùng ấy mãi mãi là cây tùng cây bách hiên ngang vững chãi trước mọi thử thách của cuộc đời. Lời thơ Nguyễn là nỗi niềm thống thiết bi thương, người đọc cũng u hoài trước những bi hài của nhân tình thế thái.

Khuất Nguyên cũng là một người mà Nguyễn hết sức trân trọng và ngưỡng mộ. Nguyễn viết đến sáu bài về Khuất Nguyên, chừng như trong khuôn khổ một bài thơ Đường luật khí trầm uất không thoát ra được, Nguyễn phải viết nhiều lần, ở nhiều bài mới có thể phần nào giải tỏa được nỗi lòng nhưng lời thơ vẫn nặng trịch, đau điếng, tê dại. Nguyễn coi Khuất Nguyên như một tượng trưng đau đớn về số phận con người tài hoa mà bất hạnh. Con người suốt đời “tỉnh một mình” kia luôn là nhân chứng mạnh mẽ thuyết phục cho chế độ khắc bạc với người tài. Hoa lan, hoa chỉ là loại cỏ thơm tượng trưng cho tấm lòng cao khiết mà Khuất Nguyên vẫn thường đeo bên mình được Nguyễn nhắc lại nhiều lần biểu hiện sự tri âm tri kỷ. Cũng chính vì thế mà ông phản đối hết tất cả những gì người đời không hiểu về Khuất Nguyên. Tống Ngọc (người Trung Quốc) cho là hồn phách Khuất Nguyên sắp tiêu tan nên gọi hồn về để có nơi nương tựa. Bài văn chiêu hồn chính là để minh oan, chiêu tuyết cho Khuất Nguyên, coi như người đời sau thông cảm và thấu hiểu Khuất Nguyên. Tống Ngọc cũng như nhân dân Trung Quốc đã cảm thấy an lòng khi làm được việc đó, nhưng Nguyễn thì lại nghĩ khác, ông viết hẳn một bài dài hơi Phản chiêu hồn để trực tiếp phản ứng lại bài Chiêu hồn của Tống Ngọc. Nếu Tống Ngọc gọi hồn về thì Nguyễn khuyên hồn nếu không lên trời, không xuống đất được thì hãy sớm thu tinh thần vào cõi hư vô, đừng trở lại đây để người ta mai mỉa. Nguyễn cho rằng khắp mặt đất này ai ai cũng là Thượng Quan, đâu đâu cũng là Mịch La thì làm gì có chỗ cho người có cái tâm trong suốt kia có chỗ tựa nương… Còn Giả Nghị (người Trung Quốc) trong khi luận bàn về Khuất Nguyên thì có ý chê Khuất Nguyên ôm lòng cô trung, không đi khắp chín châu mà tìm vua khác. Nguyễn bác bỏ ý kiến này bằng câu hỏi gằn, nhấn: Không đi qua Hồ Nam/ Sao biết được nước sông Tương sâu?/ Không đọc bài phú Hoài sa/ Sao biết được lòng Khuất Nguyên? (Biện giả). Bởi vì theo Nguyễn, làm sao Giả Nghị có thể hiểu được một cách sâu sắc rằng Khuất Nguyên không cố chấp ôm lấy nước cũ… mà Khuất Nguyễn đau khổ vì Sở Hoài Vương tin vào bọn nịnh thần, mắc mưu Tần Vương để cho mất nước. Nước đã mất, nhà đã tan thì còn sống làm gì nữa, có vua nào thay thế Sở Hoài Vương để lấy lại nước đâu? Việc không đơn giản như suy nghĩ của Giả Nghị. Hay ngày mồng 5 tháng 5 hàng năm người dân Trung Quốc kỷ niệm Khuất Nguyên bằng cách tổ chức đua thuyền tượng trưng cho việc tìm xác ông, Nguyễn phản ứng lại cách nói này, ông cho rằng như vậy là không thực sự hiểu và thương tiếc Khuất Nguyên, mà chỉ là cách bày trò mua vui chứ nắm xương tàn của Khuất Nguyên rắn rồng đã rút rỉa rồi còn đâu mà tìm Nghìn thuở gọi hồn nhưng cuối cùng hồn chẳng về/ Đầy sông đua tranh, thật chẳng có nghĩa lý gì/ Trông khói sóng mênh mông, lòng ta luống những đau thương oán giận/ Hằng năm chiên trống chỉ để vui chơi nô đùa (Ngũ nguyệt quan cạnh độ). Nguyễn đau đớn, oán giận, tại sao lúc Khuất Nguyên sống không ai trân trọng tài năng con người ông, bây giờ ông đã chết mất xác rồi thì còn tìm kiếm làm gì. Nhìn cảnh vui chơi đời nay, nghĩ đến hoàn cảnh người xưa lòng Nguyễn buồn vô hạn, chẳng là cõi nhân gian đâu đó vẫn còn đầy dẫy rắn rồng quỷ quái, hồn Khuất Nguyên biết tìm chốn nào để nương náu?

Với Đỗ Phủ, nhà thơ lớn đời Đường, Nguyễn có sự đồng cảm sâu sắc. Nguyễn yêu mến Đỗ Phủ, thân thiết với Đỗ Phủ như người bạn cùng thời. Hoàn cảnh hai người rất giống nhau: một đời trôi giạt, nghèo đói tha phương cầu thực, lận đận chốn quan trường, yếu đuối bệnh tật, giỏi làm thơ…Nguyễn coi Đỗ Phủ là bậc thầy của muôn đời và bản thân ông Trọn đời khâm phục chẳng chút đơn saiBan đêm mộng hồn thường nhập vào thơ Thiếu Lăng (Lỗi Dương Đỗ Thiếu lăng mộ I). Mỗi lần nhắc đến Đỗ Phủ là mỗi lần rơi nước mắt. Nguyễn thương Đỗ Phủ, khâm phục tài thơ Đỗ Phủ nhưng còn điều quan trọng hơn, cái mà Nguyễn quan tâm hơn đó chính là nấm mộ không, nấm mộ cô đơn của Đỗ Phủ gửi ở nơi đất khách (Lỗi Dương). Người ta ai cũng “sống gửi thác về”, Đỗ Phủ lại mất ở quê người, bốn mươi năm sau, con cháu ông mới cải táng hài cốt ông đưa về quê nhà, người dân tiếc thương vẫn giữ lại nấm mộ không để tưởng nhớ. Nguyễn thấy đau lòng trước nấm mộ của con người tài hoa gửi ở nơi đất khách ấy Người ta khen về tài thơ bậc thầy trăm năm của ông. Riêng tôi buồn cho nấm mộ cô đơn của ông gửi ở nơi đất khách (Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ II). Đó là một điều cực kỳ đau khổ của người xưa. Sống đã trôi giạt tha phương, chết cũng không được yên nơi yên chỗ. Nguyễn đã thể hiện cái bi của mình đối với Đỗ Phủ, quả là có sự cộng hưởng lớn lao giữa hai tâm hồn nghệ sĩ. Độc là một mình, nghĩa là trên đời này chỉ có mình Nguyễn. Mỗi một mình Nguyễn buồn (bi) cho ông. Buồn cái gì? Buồn cho nấm mộ (phần), nấm mộ cô đơn (cô phần) của ông gửi (ký) ở nơi đất khách (dị vực). Nghĩa cả câu: riêng tôi buồn cho nấm mồ cô đơn của ông gửi ở nơi đất khách. Câu thơ bảy chữ, bốn thanh trắc trong đó có ba thanh nặng kéo xuống, gây âm hưởng đục nặng (độc, dị, vực) khiến cho câu thơ có gì đó như uất nghẹn, trầm thống, động thấu đến tận bên trong con tim khối óc người đọc. Từng tầng lớp nối tiếp, đắp thêm, chất cao lên để cho sự bi phẫn lên đến tột cùng. Nấm mồ ấy, sự cô đơn ấy, cái dật dờ nơi đất khách ấy đã làm bật lên kiếp sống đày đọa của một con người tài hoa. Người ta khen ông nhưng không thể chia xẻ cùng ông nỗi đau cùng cực ấy. Nguyễn buồn và bi phẫn thay cho Đỗ Phủ. Người sao lúc sống đã khổ, chết rồi vẫn khiến cho người khác phải rơi nước mắt.

Viết về Dương Phi, Nguyễn không chỉ xót thương một đệ nhất mỹ nhân của đời Đường mà còn bênh vực và phản ứng lại những kết luận của người đời. Cách suy nghĩ của Nguyễn khác với cái nhìn chung của người dân Trung Quốc. Nguyễn đã gác sang một bên “tội lỗi” của Dương Phi theo cái nhìn của tất cả mọi người ngày ấy, Nguyễn cho rằng tội thua trận, tội làm suy yếu đất nước là tội của triều đình: Từ đấy cả triều đều là người đứng như phỗng/Mà nghìn năm còn đổ tội oan cho sắc đẹp khuynh thành (Dương Phi cố lý). Theo Nguyễn, sắc đẹp không có tội. Giữ nước, bảo vệ đất nước, dẹp yên loạn lạc là bổn phận của kẻ làm trai, bổn phận của các quan trong triều, tại sao lại đổ tội cho người đẹp? Mọi người chỉ nhìn một phía, chỉ nghĩ đến việc Đường Minh Hoàng say mê nhan sắc của Dương Quý Phi chứ không nghĩ rằng cả triều đình trên dưới lúc bấy giờ cũng đã mục nát, bệ rạc… nên mới không dẹp được loạn An Lộc Sơn. Suy nghĩ của Nguyễn đi ngược lại cách suy nghĩ của nhân dân Trung Quốc nói chung, nhưng lại là cách suy nghĩ biện chứng, có lý và rất thuyết phục. Ngày xưa nhân vật Điêu Thuyền từng là người có công lớn trong việc chia rẽ cha con Đỗng Trác và Lữ Bố, nhưng vẫn bị người đời lên án chê khen. Lê Thánh Tông, một ông vua anh minh của đất Việt đã từng có lời ca ngợi: Gươm phấn giết không loài Đỗng, Lữ. Dao vàng đem lại Hán sơn xuyên. Nguyễn cũng đã theo cách nghĩ của người Việt mà nhìn nhận vấn đề. Nguyễn ngậm ngùi xót thương, nhìn cảnh cũ nhớ người xưa, Cung Nam Nội, nơi ở của người đẹp xưa kia bây giờ mênh mông hiu hắt, cỏ bồng mọc lên cao ngất, cánh đồng Tây Giao, nơi người đẹp bị buộc chết, gò đống đã bị san bằng. Giờ đây biết tìm thấy cánh hồng tàn rơi tơi tả ở đâu, gió đông cứ thổi khiến cho lòng người lạnh buốt (Dương Phi cố lý). Ngậm ngùi, thương tiếc, oán giận, trách hờn…Nguyễn mang hết vào trong thơ khiến người đọc cũng lay lắt buồn về số kiếp má hồng phận mỏng ngày xưa.

Và đôi khi là một câu chuyện hết sức nhẹ nhàng, hết sức đơn giản cũng được Nguyễn mang ra luận bàn, tất nhiên như một chuyện tình cờ. Vinh Khải Kỳ, một ẩn sĩ thời Xuân Thu, sách Liệt tử chép: Khổng tử đi chơi, thấy Vinh Khải Kỳ ngoài đồng vừa đi vừa hát, bèn hỏi: Tiên sinh có điều gì vui mà hát thế? Vinh Khải Kỳ đáp: Tôi có 3 điều vui: vui được làm người quý hơn muôn vật, vui được làm người đàn ông quý hơn đàn bà, vui được sống lâu 90 tuổi, không chết non. Đó là 3 điều vui vậy! Câu chuyện về Vinh Khải Kỳ có lẽ chỉ có vậy, người ta bàn luận về điều này nhầm nhấn mạnh ý nghĩa sống trong cuộc đời của những người tri chỉ, tri túc…vui với cuộc sống mình hiện có. Nguyễn nghĩ xa hơn rằng: cái điều đơn giản ấy chỉ một Vinh Khải Kỳ biết, chỉ một Vinh Khải Kỳ thấy vui mà ai cũng không biết, ai cũng không thấy vui. Chính điểm này là điểm mà Nguyễn muốn nhấn mạnh: Mọi người đều có ba cái vui của ông/ Sao chỉ có một mình ông biết? (Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ). Đó chỉ là một người mót lúa, người mót lúa đồng thời cũng là một người hiền và tiếng tăm của người hiền sẽ lưu mãi ở đất này, muôn đời sau người ta vẫn ghi nhớ mãi.

Còn đối với những nhân vật mà Nguyễn có ý phê phán chúng ta thấy Nguyễn cũng có cách suy nghĩ ngược lại với số đông, mà ông lại rất có lý lẽ và lý lẽ ấy lại rất thuyết phục. Điển hình là nhân vật Tần Cối và vợ là Vương thị. Nguyễn viết bốn bài về hai nhân vật này, ý chừng trong một bài thơ tám câu không dễ gì nói hết ý cũng như kể hết tội. Tần Cối và vợ là hai trong bốn người đã hại chết Nhạc Phi. Nhân dân Trung Quốc đã dựng tượng 2 tên này ở tư thế quỳ tạ tội với cha con Nhạc Phi trong khuôn viên đền thờ Nhạc Phi. Người đời sau làm như thế cũng phải, người dân đến viếng thăm Nhạc Phi, thắp nén nhang cho Nhạc Phi và đi ra phía sau phỉ nhổ hoặc đánh, gõ vào đầu, vào mặt tượng vợ chồng tên này để trừng trị tội thay cho Nhạc Phi. Nhưng theo Nguyễn, dựng tượng kẻ xấu tuy là để trừng phạt nhưng như thế tức là vô tình để cho cái ác, cái xấu tồn tại mãi, Nguyễn muốn cái ác, cái xấu phải vĩnh viễn mất đi. Hơn nữa tượng vợ chồng Tần Cối còn ở đó bên cạnh tượng người anh hùng Nhạc Phi thì hóa ra chừng nào còn người anh hùng này thì hai kẻ xấu kia cũng vẫn còn tồn tại: Cây cối bên điện vua đã bị bổ làm củi từ năm nào rồi/ Sao (tên Cối) còn đến dựa dẫm bên mộ Nhạc Vương/ Đúng sai là chuyện ngàn năm định luận/ Đánh mắng có làm đau đớn gì cái thân giả ấy? (Tần Cối tượng 1); Trong ngục người trung thần khi còn sống đã phải đổ máu/Dưới thềm hành quyết tên gian ác đã chết, chỉ uổng công/ Được cùng với bậc trung thần đồng bất hủ/ Cái phúc lạ lớn tày trời của nó thật quá vô lý (Tần Cối tượng 2). Có nghĩa là vô tình để nó bất hủ cùng với người anh hùng Nhạc Phi. Và một điểm quan trọng nữa người đời không thấy, nhân dân Trung Quốc không thấy, chỉ mỗi Nguyễn thấy, đó là việc Nghìn năm cục sắt sống kia phải mang nỗi oan kỳ lạ. Quả thật đây là điều ít người nghĩ ra, lấy cục sắt sống đúc thành kẻ xấu để rồi nó bị mắng chửi, phun nhổ…thì rõ ràng nó mắc một nỗi oan lạ lùng. Cục sắt sống có tội tình gì đâu? Dù nó vô tri vô giác nhưng làm như vậy thật bất công. Đấy là cách nói đầy nhân văn về phía cục sắt nhưng đồng thời cũng là cách ràng buộc, nhấn mạnh thêm tội lỗi của kẻ xấu để mọi người lưu ý thêm. Vợ của Tần Cối là Vương thị cũng bị Nguyễn Du nặng nhẹ không kém. Thường thì Nguyễn rất trân trọng nâng niu phụ nữ nhưng với Vương thị, Nguyễn đã không tiếc lời chửi mắng: Đây là hạng gà mái gáy sớm (Vương thị tượng 2), Một đời bụng dạ rắn độc hệt như chồng/ Nghìn năm thân xác của y thị chỉ làm nhục cho nữ giới mà thôi (Vương thị tượng 1)…Mọi người bằng lòng với cách trừng trị kẻ xấu như thế nhưng Nguyễn thấy cần triệt tiêu mầm xấu, ác ấy đi, không cho nó tồn tại giữa cuộc đời này. Lời thơ Nguyễn chuốt thêm lý lẽ, nặng thêm về mức độ để làm nổi bật sự oan uổng, sự vô lý trong cái chết của Nhạc Phi và làm người ta căm ghét hơn tên gian thần hại người nhân, hại nước.

     Đối với Tào Tháo, Nguyễn phê phán nhẹ nhàng nhưng không kém phần sâu sắc. Nguyễn có nhiều cách nói: nói xa, nói gần, nói thẳng, nói thật, thậm chí châm biếm, mai mỉa. Một con người như Tào Tháo, cả đời tung hoành ngang dọc, xem thường vua, lấn át các vương hầu, oai hùm một cõi, mưu tính thâm sâu… vậy mà lúc cuối đời bụng dạ lại nhỏ nhen, đòi cúng bái dâng thức ăn, tấu ca nhạc…sau khi chết. Nguyễn cho là tính khí giống như đàn bà. Bậc trượng phu lỗi lạc sao như thế?/ Kẻ gian hùng riêng tự có mưu thâm khác trong lòng/ Chẳng phải là kêu thương ủy mị như tính khí đàn bà (Đồng Tước đài). Ông ta xây đài Đồng Tước định bắt chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều nhốt vào trong đấy nhưng Nguyễn nói: Chỉ tiếc rằng đài nguy nga cũng vô ích/ Vì đến già Tiểu Kiều vẫn là vợ của Chu Lang. Một nụ cười đa nghĩa hiện ra đằng sau câu nói ấy. Sự tính toán mưu trí của họ Tào còn bị Nguyễn chỉ trích ở chỗ hắn cho xây bảy mươi hai ngôi mộ giả. Người đời có thể ngưỡng mộ hắn là một con người thông minh, đa mưu túc trí, nhưng Nguyễn cho sử dụng mưu trí để làm việc này thật là uổng phí. Phí hết tâm trí của một con người. Luống để lại mối ngờ cho muôn thuở. Tiếng thối đầy săng giấu kỹ để làm gì? Nắm xương một tên giặc ngàn đời có chửi mắng cũng không biết. (Thất thập nhị nghi trủng). Chôn giấu kỹ để làm gì khi tiếng xấu chứa đầy trong quách? Nói như vậy Nguyễn muốn cho người đời thấy rõ giá trị thực của vấn đề. Cái xấu, cái gian ác dù có che đậy đắp điếm thế nào, người ta vẫn thấy. Còn cái đẹp, cái tốt dù không phô trương, giá trị của nó vẫn bất hủ. Cách nói của Nguyễn nhẹ nhàng nhưng rất thuyết phục.

 

     Trong bài Kỳ lân mộ, Nguyễn cũng không tiếc lời lên án Yên Vương Đệ Minh Thành Tổ, một tên vua gian ác làm nhiều điều xấu: cướp ngôi của cháu, giết trung thần; thời ông ta cai trị xương trắng chất thành núi, mặt đất thấm máu…Nhưng quan trọng hơn là ý của Nguyễn muốn nói đến con kỳ lân. Con kỳ lân là con vật quý hiếm, dân gian cho rằng khi nó xuất hiện là có điềm lành, đất nước có vua hiền, tôi trung… nhưng nó lại xuất hiện vào thời của tên vua gian ác Minh Thành Tổ. Khi nó chết, nhân dân Trung Quốc yêu mến nên mới chôn cất  như đối với con người. Nguyễn thì lại mắng nó: Ôi kỳ lân! nếu mày xuất hiện vì người ấy thì mày chỉ là loài yêu quái, có gì đáng quý? Nhưng ông cũng rất thông cảm vì nó xuất hiện nhầm, nên đến chốn này nó phải bỏ mình trước. Nguyễn nói như vậy để gián tiếp khắc sâu thêm tội ác của tên vua bạo ngược kia. Người đời xem con kỳ lân là vật quý hiếm, Nguyễn không xem trọng điều đó, Nguyễn chỉ muốn vạch trần tội ác của kẻ xấu và gián tiếp chê trách con kỳ lân nếu vì một vị vua nhân đức mà xuất hiện thì thuở ấy sao nó không dạo chơi phương Nam? (vua nước Nam bấy giờ là Lê Lợi).

 

    Với Tô Tần cũng vậy, những việc làm hay dở, đúng sai của thời trước Nguyễn không nói tới, chỉ chú ý đến nhân cách con người này. Một nhân cách tầm thường nhỏ nhen, ti tiện. Đâm dùi vào vế để học, để khỏi bị chia trí, điều này tưởng là điều hay. Ngày xưa người ta thường khuyên con cháu phải học như Tô Tần. Đó là tấm gương về việc học. Nhưng người có học thì phải trở thành người hiền. Tô Tần không phải là người hiền, ông ta là một kẻ có dã tâm, ông ta học chỉ để mưu cầu danh lợi, lấy được ấn sáu nước chỉ để về nhà lên mặt với người thân?: Kế lớn tung, hoành có thể lừa phỉnh được bọn vua chúa tầm thường/Ấn sáu nước tiêu tan chỉ còn bãi cát mịt mùng/ Một ngôi đình trong cảnh thu muộn, cỏ rậm rạp (Tô Tần đình 1). Cao hơn bước nữa Nguyễn phê phán cả người đời nay, dù thấy gương Tô Tần treo trước mắt, sách chép dày ra đó, mà họ vẫn u mê theo đường danh lợi. ấn sáu nước không còn, vàng ngọc cũng mất dấu, ngôi đình cỏ thu mọc đầy…ấy vậy mà con người vẫn ngày một lao thân vào vòng danh lợi đó. Kế hợp tung chẳng nhầm để chống nước Tần hùng mạnh/ Mà nhầm để kiêu căng khoe giàu sang với người thân/ Dùi đâm vế vốn là để mưu quyền lợi/ Than ôi người ấy khí độ nhỏ nhen thay!/ Trong sách nghe danh Tô Tần đã lắm/ Nay trên đường đi lại qua đình Tô Tần/ Ngựa xe vàng ngọc không còn dấu vết/ Trước đình chỉ thấy cỏ mọc xanh tươi/ Người đời lắm kẻ đọc Tô Tần/ Thế mà còn để cho địa vị, giàu sang làm hại đời mình (Tô Tần đình 2). Buồn cho tình đời, buồn cho con đường danh lợi lắm người theo, trong khi đó, hơn ai hết, Nguyễn thấy rất rõ xưa nay kẻ hiền người ngu rốt cuộc chỉ còn lại một nấm đất mà thôi Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ (Hành lạc từ 2)

 

    Lưu Linh là một người nổi tiếng, là một trong “Trúc Lâm thất hiền”, Nguyễn không bàn về Lưu Linh nhiều. Theo cách của Lưu Linh nói (theo Tửu đức tụng) thì trong vũ trụ này chỉ có rượu là có ý nghĩa, mọi đạo lý đều chìm trong một hớp rượu. Nguyễn cũng có lúc không muốn mình tỉnh táo, và đôi khi trách mình quá tỉnh táo, vì quá tỉnh táo nên đau thương cho thế sự, ngập chìm trong đau khổ trước những điều trái tai gai mắt…tại sao không chìm trong rượu để được say quên ngày tháng, để không còn biết gì sự đời[6]. Điều này Nguyễn đã từng nói nhiều Cuộc đời trăm năm chỉ ước được say suốt ngày (Đối tửu) nhưng với Lưu Linh, Nguyễn không nói chuyện rượu mà Nguyễn muốn nói đến hành động của Lưu: Khi Lưu đi chơi, đem theo rượu, sai người vác mai theo, nói rằng: chết ở đâu thì chôn ở đó. Việc này, theo Nguyễn, không cần thiết phải như vậy. Lưu đã theo thuyết “Tề vật luận” của Trang Chu, coi muôn vật trong tự nhiên là ngang nhau thế thì cần gì chôn cất, hãy để thuận theo tự nhiên, làm như thế có nghĩa là vẫn còn lo cho cái thân xác của mình… Nguyễn thật hóm hỉnh, biết cách nói, nói như thật, khiến cho người ta phải suy xét lại hành động của mình.

 

          Xưa nay ít ai đề cập đến tinh thần yêu nước trong sáng tác của Nguyễn Du. Trong thơ chữ Hán của mình, khi đối diện, đối thoại, đối chất …với cảnh và người Trung Quốc, Nguyễn đều rất rạch ròi. Ý thức dân tộc rất rõ, ý thức về lãnh thổ cương vực luôn tồn tại trong từng chữ từng lời, nhất là khi ông từng bước qua lãnh thổ đất nước mình để đi tới một đất nước khác, thêm nữa, đất nước ấy lại từng nhiều lần xâm phạm bờ cõi nước ta. Đọc các bài Trấn nam quan, Quỉ môn quan, Nam quan đạo trung, Mạc phủ tức sự… ta sẽ thấy rõ tấm lòng của Nguyễn: Núi liền nhau đỉnh cao vút tận mây xanh/ Đầu cửa ải này là nơi phân ranh giới Nam, bắc (Quỉ môn quan), Hai nước phân chia bằng mặt lũy lẻ loi này. Một cửa ải hùng vĩ trấn giữa lòng muôn vạn núi (Trấn Nam quan). Hơn ai hết Nguyễn xác quyết ranh giới đất nước và ý thức rằng mình đang đi làm nhiệm vụ cũng là đang xa đất nước yêu quý của mình. Tâm sự Nguyễn ghi rõ qua từng bước đi: hai tuần, mấy tuần, mấy tháng, một năm đã qua…thời gian càng dài, không gian càng xa, lòng Nguyễn càng thêm thương nhớ: Kinh tuần khứ quốc tâm như tử (Mạc phủ tức sự) (Qua mấy tuần xa nước lòng như chết rồi). Nhị tuần sở kiến đản thanh san (Nam quan đạo trung) (Cả hai tuần chỉ thấy một màu cỏ xanh). Não sát thù phương lão sứ thần (Quá Thiên Bình) (Não lòng ông sứ thần già ở phương khác đến, buồn muốn chết đi được). Điều đó càng lý giải vì sao trên đường xa vạn lý, Nguyễn cứ luôn hồi thủ, hồi đầu…: Thương tâm thiên lý nhất hồi thủ (Vũ Thắng quan) (Ngoài nghìn dặm bùi ngùi quay đầu lại), Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai (Vọng Quan Âm miếu) (Ngoảnh lại đã xa cách muôn trùng núi non). Tấm lòng Nguyễn đối với nước non thể hiện rất rõ trong thơ chữ Hán, nhất là tập Bắc hành. Càng thấy rõ hơn qua cách ông bàn luận về nhân vật Mã Viện. Có đến 3 bài thơ Nguyễn nhắc đến Mã Viện. Mã Viện là một tên giặc đối với dân tộc Việt (ông ta chính là người đã đem quân đánh Hai bà Trưng) nhưng lại là một danh tướng của nhà Hán, nhiều nơi trên đất nước Trung Quốc (phía Nam) có đền thờ Mã Viện vì ông ta có công lớn đối với nhà Hán. Đi qua Quỉ môn quan nhớ chuyện họ Mã, nhìn cảnh núi cao hiểm trở, khí lam chướng đầy đồng, rõ ràng đây là vùng đất hiểm... ngày xưa Mã Viện từng gặp khó khăn ở đây, Nguyễn buông lời châm biếm: Suốt từ xưa nay gió lạnh thổi vào xương trắng/ Tướng nhà Hán lấy gì để được tiếng kỳ công? (Quỉ môn quan). Hay nhắc đến cột đồng, Nguyễn càng nặng lời hơn: Cột đồng trụ chỉ lừa được đàn bà con gái đất Việt/ Xe ngọc châu luống để lụy cho con cái trong nhà/ Tên tuổi của ông chỉ đáng được ghi trên gác Vân đài/ Sao lại còn ngoảnh về phương Nam đòi cúng tế hằng năm? (Giáp thành Mã Phục Ba miếu). Luận về những việc làm của Mã như việc vua Hán thương Mã đã 60 tuổi có ý muốn cho ở nhà nghỉ ngơi, không đi đánh trận nữa, nhưng Mã mặc áo giáp nhảy lên mình ngựa chứng tỏ mình còn sức khỏe và được vua Hán khen; rồi việc gác bỏ lời người em họ khuyên can, sau đó thấy hối hận khi đánh Hai bà Trưng mãi không được, lui quân về Lãng Bạc (trời nóng bức, hơi độc dưới hồ bay lên làm cho cả diều hâu cũng không bay được) lúc đó mới nhớ lời khuyên của người em… Nguyễn hỏi một cách mỉa mai: Sóng gió Đại Than còn lưu dấu công lao to lớn ngày trước/ Cây tùng, cây sam ở ngôi miếu cổ xa cách quê nhà/ Chiều tà dưới lớp gai góc phía Tây thành/ Nổi hận ở Dâm Đàm rốt lại như thế nào rồi? (Đề Đại Than Mã Phục Ba miếu). Nguyễn công nhận cái công lớn trùm đời Cái thế công danh tại sử thư của Mã nhưng rốt cuộc gia đình con cái Mã nhận được gì hay cũng bị ảnh hưởng xấu bởi những việc làm của ông ta? (Mã Viện khi về nước có mang theo một xe hạt ý dĩ (hạt bo bo), nhưng có người tố cáo Mã đem về một xe châu ngọc, vua Hán nổi giận, sau ông chết vợ con không dám đem xác về mà chỉ dám chôn cất ở Tây Thành, Hồ Nam). Vì có nhiều miếu thờ Mã Viện nên mỗi lần đi ngang qua, Nguyễn cũng thành kính như đối với một người đã chết, một linh thần của nước bạn, nhất là mỗi lần vượt qua thác ghềnh nguy hiểm ai cũng mong có được sự phò trợ của thánh thần (Hạ than hỷ phú) nhưng khi luận về hành động và việc làm của Mã Viện thì Nguyễn nói lời ngay thẳng theo ý mình, theo lẽ phải ở đời dù rằng đó có là một vị công thần của nhà Hán, một vị thần rất thiêng của nhân dân Trung Quốc xưa.      

 

    Nhìn chung các nhân vật trong lịch sử Trung Quốc qua con mắt Nguyễn Du hiện lên thật sắc nét. Trong từng lời, từng ý hiện rõ sự ngưỡng mộ và sự phê phán theo cách này hay cách khác, tựu trung tiếng nói của ông thể hiện sự đồng tình cũng như sự bất bình một cách mạnh mẽ. Nguyễn đã tổng kết, đánh giá hàng loạt những vấn đề tai nghe mắt thấy và qua những tấm gương tiêu biểu: cùng khổ, tài hoa, bất hạnh, tốt, xấu, gian ác… được đọc trong sách, tận tường hơn khi đến nơi, cảm được khung cảnh, nhận rõ sự việc… Nguyễn như càng sáng thêm chân lý cuộc đời. Cái gì có thực – tồn tại mãi, cái gì thoáng qua – mất hút trong hư vô. Cái gì mang giá trị vĩnh cữu, cái gì bị chôn vùi theo tháng năm? Bằng lý lẽ của mình, bằng cái nhìn đậm chất Việt và cả tầm suy nghĩ lớn lao vượt biên giới một đất nước, Nguyễn đã tìm đến sự đồng tình đồng điệu một cách chân thành với người đọc, tìm thấy ở đấy tiếng nói chung của cả người Trung Quốc lẫn dân tộc Việt. Tuy cách nói của Nguyễn có nhiều điểm khác biệt so với cách hiểu, cách làm của nhân dân Trung Quốc, nhưng đó là cách làm rõ vấn đề, nhấn mạnh, khơi sâu ý nghĩa của từng câu chuyện, từng nhân vật để cho những trắng đen, đúng sai, phải trái… phải thật phân minh. Đặt một đường biên văn hóa để rồi xóa nó đi, mở ra một chân trời mới, chân trời của thế giới đại đồng, của thương yêu, của chân tình, của niềm tin bất tuyệt. Đó là tiếng nói đi từ trái tim đến trái tim, từ một dân tộc đến với mọi dân tộc. Làm được điều này chỉ có thể là Nguyễn Du, một đại thi hào của Việt Nam đồng thời cũng là một danh nhân văn hóa của thế giới.

                                                                                                           3-10-2011

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Mai Quốc Liên (chủ biên) - Nguyễn Du toàn tập, tập 1, NXB Văn học, 1996
  2. Lê Thu Yến - Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du. NXB Thanh niên, năm 1998
  3. J.W. Goethe – Về nghệ thuật và văn học, tuyển tập – NXB Văn học và Rice – 1995
  4. Phạm Công Thiện – Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, Viện Triết lý Việt Nam và Triết học thế giới, U.S.A, 1996      

 

 


[1] J.W. Goethe - Về nghệ thuật và văn học, tuyển tập - NXB Văn học và Rice – 1995, trang 149

[2] Như trên

[3] Phạm Công Thiện - Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc, Viện Triết lý Việt Nam và Triết học thế giới, U.S.A, 1996

[4] J.W. Goethe - Về nghệ thuật và văn học, tuyển tập - NXB Văn học và Rice – 1995, trang 166

[5] Lưu Trọng Lư – Nhật ký đọc Kiều, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội 1995, tr 115

[6] Xem thêm: Lê Thu Yến - Cuộc “hành lạc” trong thơ (Thơ chữ Hán Nguyễn Du)- Bình luận văn học, Niên giám 2009, NXB Văn hóa Sài gòn, 2009

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn