Lẽ ra, nhà thơ Hữu Thỉnh- Chủ tịch Hội Nhà văn, Chủ tịch UBTƯ Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam- là trưởng đoàn. Nhưng trước khi bay, anh Thỉnh phải ở lại vì lý do sức khỏe và tôi bất đắc dĩ, được chỉ định làm trưởng đoàn thay anh.
Thế là đoàn còn lại 4 người. Ngoài tôi có dịch giả Đào Minh Hiệp, nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ Phú Yên, từng dịch lời cho các phim “Người giàu cũng khóc”, “Trở về Eden”... từ những năm 90 của thế kỷ trước; nhà thơ nữ Nguyễn Thu Nguyệt, quê Đồng Tháp, công tác tại báo Tuổi trẻ TP. Hồ Chí Minh và chị Đào Kim Hoa, Phó ban Đối ngoại Hội Nhà văn. Chị Hoa từng dịch thơ Israel ra tiếng Việt, từng học tiếng Anh tại Liên Xô cũ, nên vừa là thành viên, vừa phiên dịch cho cả đoàn, rất thông suốt.
Trước khi lên đường, tôi và chị Hoa, theo kế hoạch, tới chào Đại sứ Israel tại Hà Nội. Ông Đại sứ cùng bà Phó Đại sứ tiếp chúng tôi thân mật và giới thiệu qua về tình hình Israel. Tôi bảo: “Tôi coi việc đến thăm sứ quán là sự bắt đầu của chuyến thăm Israel và tôi muốn có một bức ảnh ở đây.” Ông Đại sứ cho một cán bộ sứ quán chụp ngay và hẹn sẽ mail cho tôi. Ông đã làm đúng như vậy.
Trong bảy ngày ở Israel thì sáu ngày, người dẫn đường của chúng tôi là Shimon Eyal. Khá nhiều lần, có thêm Ruth Schatz. Ruth Schatz là người của Bộ Ngoại giao, còn Shimon Eyal là người lái xe. Ruth hiền hậu, ít nói. Shimon thì nói suốt dọc đường, không bao giờ tỏ ra nhàm chán hay mệt mỏi với công việc của mình. Chỉ có một lần duy nhất, tối, khi đi chơi Biển Chết và thăm Masada về, dọc đường, Shimon xin dừng xe, để “Một cốc cà phê cho tôi”- Anh đã dẫn chúng tôi đi suốt cả một ngày!
Lúc đầu, Ruth ngồi ghế trước. Nắng quá! Tôi vui lòng đổi chỗ vì vừa dễ quay camera, chụp ảnh, lại được tha hồ nói chuyện với Shimon.
Thấy ở tay phải của Shimon có một vết sẹo, sâu vào tận khuỷu, ăn cả lên cẳng tay lẫn cánh tay và cũng lớn cỡ bàn tay, tôi hỏi, Shimon bảo, đó là sẹo do vết thương xưa để lại, vết thương khi Shimon là lính và đi đánh nhau ở Li Băng, năm 1978. “Bị thương nặng lắm. Vào viện, tay trái tôi ôm lấy tay phải. Tôi nói với bác sĩ, hãy cứu lấy cánh tay này cho tôi. Tôi còn trẻ và còn nhiều việc phải làm”. Họ đã cứu được và bây giờ, trông Shimon càng có vẻ phong trần. Nhân tiện, Ruth kể, chị cũng đã thực hiện nghĩa vụ quân sự. Vì thông thạo cả tiếng Hebrew, tiếng Anh và tiếng Arab, chị chuyên thu lượm và dịch tin chiến sự. Còn Shimon thì ở đơn vị chiến đấu. Thế là trên xe có ba cựu chiến binh, tính cả tôi. Shimon còn giống tôi ở chỗ, chỉ có hai con gái. Shimon kém tôi mười tuổi, bằng tuổi vợ tôi. Con gái lớn của anh làm ở hãng Hàng không Tel Aviv, đường bay Tel Aviv - Bangkok. Con gái nhỏ mới có 7 tuổi. Ruth bảo: “Shimon không chỉ là lái xe. Anh ấy còn là hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp. ở Israel, để trở thành hướng dẫn viên du lịch, phải học rất nhiều”.
Thảo nào, cái gì Shimon cũng biết. Đang đi trên đường cao tốc số 6, chạy từ Jerusalem tới Haifa, Shimon bảo, con đường này dài 130 km. Người ta còn làm dài nữa, để nó thành cao tốc Bắc - Nam. Rồi trỏ sang phải, Shimon nói: “Đó là Bờ Tây, trước cuộc chiến tranh 6 ngày là của Jordan, nhưng cổ xưa là của chúng tôi, rộng gần 6.000 km2. Bên trái ta là vùng của người Palestin. Người Do Thái cũng không vào được”. Đi một hồi nữa, Shimon lại chỉ sang trái: “Kia là Ramala, có các cơ quan đầu não Palestin”. Rồi Shimon trỏ một chóp nhà cao trên đồi nơi đó: “Đây là nóc nhà Nghị viện Palestin”. Tôi hỏi về “Bức tường phía Tây”, Shimon chỉ vào hàng rào điện tử bên đường cao tốc và cho biết, đó chính là cái mà người ta gọi là “Bức tường phía Tây”. Từ khi có nó, xung đột gần như không còn. Người Palestin, nếu có giấy thông hành, nếu được chủ lao động Do Thái bảo đảm, có thể sang vùng đất của người Do Thái để làm việc. Israel cũng xuất khẩu những “Bức tường” này sang một số nước. “Anh đừng nghĩ người Palestin nghèo. Trong làng, nhiều nhà có cả bể bơi”- Shimon nói tiếp. Lại nhớ hôm đến thành phố cổ Jafa, Shimon bảo, Tel Aviv mới có 1.500 năm tuổi. Jafa có từ hơn 4.000 năm, dưới thời Đế chế Hy Lạp. Anh trỏ một nhà thờ cổ và nói: “Kia là Nhà thờ Thánh Peter. Trên cây cầu vào nhà thờ, có 12 biểu tượng của 12 tháng. Ai sinh vào tháng nào, khi đi qua cầu, đặt tay lên biểu tượng của tháng ấy mà cầu nguyện và sẽ toại nguyện. Nhà thờ Thánh Peter, khi Napoleon chiếm Israel, đã trở thành bệnh viện dã chiến của chúng tôi và đã cứu được rất nhiều người”. Tôi sinh tháng Tư, biểu tượng hình con dê. Tôi đặt tay lên hình con dê, cầu cho Nhà thờ Thánh Peter không bao giờ còn phải trở thành bệnh viện dã chiến nữa. Lúc đến Ceasaria, một thành phố cổ khác, nay được phục chế để thành khu du lịch, Shimon bảo: “Tên thành phố là từ tên tướng Ceasa (Xê-da) của La Mã. Thành phố có từ đời vua Herold, 2.500 năm trước. Khi chiếm nó, Ceasa xây rộng ra, to đẹp lên”. Quả nhiên, cái máng nước dài 25 km, đưa nước từ độ cao 30 m, từ núi về, vẫn còn gần như nguyên vẹn. ở những hố thám sát khảo cổ, rất nhiều cột đá cẩm thạch trắng lộ ra, thứ đá đặc trưng của người La Mã. Rồi Shimon hướng dẫn chúng tôi xem nhà tắm hơi La Mã, đấu trường và nhà hát La Mã. Thời Ceasa, nhà hát chứa được 6.000 người, xây hình xoắn ốc. Giờ đang phục chế, đã chứa được 3.500 người. Shimon dẫn tôi đi theo đúng lối đi của diễn viên ngày xưa, tức là đi theo đường hầm rồi leo lên sân khấu theo một cầu thang hình xoắn ốc, rồi bảo tôi: “Anh hát đi!”. Tôi đã đứng đó và hát một đoạn trong Trường ca sông Lô của Văn Cao. Shimon cười: “Very nice!”.
Trên đường đi Biển Chết, từ đồi Olive, nơi có thể thấy “Mộ Chúa” và “Bức tường than khóc” của Jerusalem, khi xe xuống đèo, Shimon bảo: “Dưới chân đèo, là bắt đầu tới Sa mạc Judea. Ta còn đang ở độ cao 250 m so với mực nước biển”. Xuống đèo, qua một cái cầu, Shimon nói: “Thế là ta đã xuống thấp hơn mặt nước biển. Bên trái ta là Jerico. Bên kia Biển Chết, chỗ dãy núi kia kìa, là Jordan. Jordan và Israel đã ký hiệp định hòa bình. Ai cập cũng vậy. Không đánh nhau với hai nước này nữa” v.v...
Khi tôi khen con gái Do Thái đẹp. Shimon bảo: “Nếu anh đến đây vào mùa hè thì anh hỏng hết mắt. Mùa hè, con gái Israel mặc váy ngắn đến mức không thể ngắn hơn được nữa”.
Tóm lại, tôi đã viết, Shimon rất hay chuyện và chuyện rất hay. Tôi đùa gọi anh là “Shimon no Peres!”. Shimon Peres là Tổng thống Israel bây giờ. Anh cười, nhận tên họ mới.
*
Nhưng chuyện Shimon kể mà tôi nhớ nhất là chuyện về pháo đài Masada.
Pháo đài Masada nằm trên sa mạc Judea, giáp Biển Chết, ở phía đông nam Jerusalem. Tháp pháo đài cao 450 m so với mực nước biển, xung quanh là những ngọn núi đá dựng đứng, cao tới 300m. Herold Đại đế đã cho xây ở đây một tổ hợp cung điện với những bức tường và tháp canh bao quanh. Nhà sử học Josephus, trong tác phẩm “Những cuộc chiến của người Do Thái”, đã đánh giá Masada là pháo đài mạnh mẽ nhất trong tất cả các pháo đài. Vào những năm 70 sau Công nguyên (tức là sau Khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở ta 30 năm), khi quân La Mã chiếm được Jerusalem và phá hủy nhà thờ Do Thái (cuộc phá hủy lần thứ hai, để giờ chỉ còn “Bức tường than khóc”), Masada trở thành thành trì cuối cùng của người Do Thái. 970 người Do Thái gồm có 300 chiến binh và vợ con họ, từ Jerusalem chạy về cố thủ ở đây. Trong pháo đài có 23 kho lương, có rất nhiều bể nước. Người Do Thái xưa đã buộc dây, treo người ngoài sườn núi, đục những lòng máng xoắn ốc để dẫn nước mưa vào các bể chứa của họ. Với lực lượng ít ỏi như vậy, với số lương thực từ 23 kho lẫm và những bể nước ấy, họ đã chống lại đội quân La Mã đông đến 10 vạn người cùng 15 vạn nô lệ lo hậu cần, suốt ba năm ròng. Kiệt quệ vì bị vây kín, họ còn cho phụ nữ lên mặt thành hát múa và tắm để quân La Mã phát thèm nước nôi của họ, để giễu cợt La Mã. Vô cùng tức giận, viên tướng La Mã xua quân hạ pháo đài bằng được. Khi pháo đài sắp thất thủ, những người Do Thái họp nhau lại. Người chỉ huy pháo đài nói: “Thành trì bị hạ, chúng ta sẽ chết. Vợ con chúng ta sẽ trở thành nô lệ của La Mã. Bây giờ, chết với thành hay là làm nô lệ?”. Tất cả đều xin được chết chứ không ai hàng giặc, không làm nô lệ! Nhưng thế thì phải tự sát. Mà tự sát là điều cấm kỵ của luật Do Thái. Cuối cùng, 300 chiến binh kia giết vợ con họ trước. Rồi 100 người trong số 300 chiến binh phải giết 200 đồng đội. Rồi 10 người được chọn giết 90 bạn chiến đấu của mình. Rồi 1 người trong số 10 người cuối cùng giết 9 người bên cạnh. Rồi... anh ta tự sát. Thế là “chỉ có một người phạm luật Do Thái”.
Kể xong, Shimon im lặng. Chúng tôi cũng im lặng. Cáp treo Masada vẫn chạy. Nắng Biển Chết vẫn soi rõ từng ô vuông đánh dấu các đội hình tấn công của quân La Mã.
Tôi không biết, Biển Chết có tên ấy là vì nước mặn quá, không sinh vật biển nào sống được; hay do nước ngọt chảy vào không đủ để bay hơi, mà một đời biển chết dần? Hay là... hay là chính vì cái chết của 970 con người “Bất thụ nô lệ” thời thượng cổ kia, làm nên cái tên Biển Chết?
Thật là bi hùng! Sao loài người lại cứ “viết” ra những chuyện bi hùng thế nhỉ? Không thể biết được. Chỉ biết rằng, Masada đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng Do Thái.
Tháng 12-2010
Đỗ Trung Lai