Tác phẩm chọn lọc

9/9
9:56 AM 2016

LÂU ĐÀI ĐỎ VÀ LŨ CHIM ÉN CỤT ĐUÔI

Truyện ngắn của NGUYỄN DUNG-Một sáng mùa thu đẹp trời, lại đúng hôm chủ nhật. Sương đêm còn lãng đãng. Khu phố vẫn như thiêm thiếp, mê man trước cảnh bình minh tuyệt mỹ của vùng đất phương Nam. Lát sau, những cửa sổ nhỏ xíu bắt đầu hé mở, phảng phất ra mùi đàn ông đàn bà qua đêm làm tình còn nồng nàn.

 

Hơi thở nhẹ mềm như giấc mơ của những em bé. Lũ chim non vừa nở trong đêm, giờ đang cựa quậy trong những cái tổ bằng lông tơ mềm, ẩn kín dưới những tán lá. Đâu đó trong góc vườn bên, những bông hoa nguyệt quế mỏng manh tinh khiết chưa kịp khép hương đêm, làm thanh nhẹ lớp không khí thơm tho của buổi sớm thu.

Giữa lúc con người và cảnh vật còn chìm trong niềm hạnh phúc đang ngái ngủ, bỗng dựng đứng một hồi kèn tò tí te và hồi trống vang rền từ một khu biệt thự cuối phố. Đó là sự khởi đầu của một đám ma tống tiễn một con người nào đó vừa được gạch tên ra khỏi danh sách của Định mệnh. Tiếng trống phách thúc vào buổi sớm như muốn chia cái thế giới này ra làm đôi: một bên là u buồn chia ly, bên kia là phần còn lại của cuộc sống hối hả, nhộn nhạo vốn chưa bao giờ dứt đi nỗi niềm tham sống và sợ chết.

Ngôi biệt thự cuối phố này là biệt thự duy nhất ở khu phố lao động nghèo, dáng dấp như một lâu đài trong những bức vẽ thời Trung cổ. Nó vươn mấy cái nóc nhọn lên trời xanh lồng lộng, tỏa cái bao la ra khu đất xung quanh – vùng đệm cách ly với khu dân nghèo. Nếu phóng tầm nhìn suốt con phố, sẽ thấy tòa lâu đài nổi lên như một uy quyền siêu việt trong cái thế giới thấp bé mạt hạng của những mái nhà lợp tôn hoen gỉ, siêu vẹo. Nhiều chỗ còn được chắp vá bằng những ngọn lá dừa, bao bố, thậm chí bằng cả mấy miếng các – tông. Những hình khối ngả nghiêng, lụp xụp được gọi là “nhà phố” như thế, phần lớn mọc lên từ thời chiến tranh, bấy giờ khu vực này đầy dẫy lính Mỹ và lính Hàn Quốc.  Nhưng, khu biệt thự này – theo những người am hiểu thời cuộc - thì mới chỉ xuất hiện sau hòa bình khoảng vài ba chục năm.

Trong khu biệt thự, người ta bắt đầu sửa sọan cho khách đến phúng viếng. Mọi việc trong tang gia đều dễ dàng thống nhất. Riêng việc chọn tấm hình thờ người quá cố thì gây nên một cuộc tranh cãi khá căng thẳng, kéo dài hàng giờ đồng hồ; như thể sau khi người sống chọn đúng tấm ảnh thờ thì giúp người chết có thể sống lại được! Vì thế, ai cũng hăng hái đưa ra ý kiến. Trong hoàn cảnh như vậy thì việc to tiếng được coi là phương tiện hữu hiệu để thuyết phục người khác.

Lúc sinh thời, chị Đầm – người nằm trong quan tài - có khá nhiều ảnh chụp. Thời con gái, chị có hình nữ sinh nghiêng nón, tay cầm bông phượng bùng cháy khôn nguôi dưới một bầu trời mùa hạ trong vắt, xanh thẳm. Trưởng thành hơn, chị có hình chụp giả nữ quý tộc đội mũ lông chim cưỡi ngựa trong thung lũng Tình yêu ở Đà Lạt, hay một người đẹp tha thướt mái tóc dài đang ngồi tựa mạn thuyền trên dòng Hương giang ở Huế. Nhưng chung quy, chỉ có hai loại ảnh chụp trước và sau khi chị sửa nhan sắc.

Cuối cùng mọi người đều đồng ý lấy tấm hình chụp chân dung sau khi sửa nhan sắc của chị làm linh ảnh thờ. Bởi vì ở đó, cặp mắt xếch trắng dã có vẻ đàn ông của chị đã được chuyển thành đôi mắt hình quả trám nền nã hơn. Cái gò má cao nhưng mũi tẹt lòng chảo của chị được bàn tay phẫu thuật khéo léo đảo ngược tình thế, khiến cho người khác thấy chị trở nên ưa nhìn bội phần. Ánh mắt tự đắc và thấu suốt của chị trong tấm chân dung này cho thấy chị đang ở thời kỳ vinh quang của đời người. Tưởng rằng, chị sẽ còn vinh quang với số của nả kiếm được dư dả ba đời thụ hưởng chưa hết, chứ không ai nghĩ rằng chị lại đoản mệnh ở cái tuổi ngoài bốn mươi.

Từ khi nghe tiếng kèn trống đám ma trong khu biệt thự, dân phố mới dò hỏi nhau xem ai là người chết trong cái tòa lâu đài im ỉm suốt ngày đóng cửa và nuôi chó dữ này. Đầu tiên người ta nghĩ rằng, đó là cái chết của ông chủ, vì thấy ông này già hơn vợ chục tuổi.  Cứ theo lối suy diễn cũa họ, thì ai sinh trước phải chết trước, giống như thứ tự được dựng lên trong bài đồng dao: “Con vỏi con voi, cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước, hai chân sau đi sau…”. Nhưng cuộc đời lại rất khác đồng dao, nên phần đông cư dân ở đây đã nhầm. Cuối cùng, họ phải chấp nhận một sự thật hiển nhiên: bà chủ căn biệt thự chứ không phải ông chủ – là người đang thiêm thiếp trong cỗ quan tài gỗ trầm hương bạc tỉ kia.

Nhưng làm sao bà ấy chết được chứ? – Đám hàng xóm, kẻ nhai cơm, người gặm khoai mì, đứng lom nhom từng túm, tò mò nhìn nhau xét hỏi. Bà ấy còn trẻ, xung quanh bà ấy của chìm của nổi, người hầu kẻ hạ, bà ấy đâu có thiếu tiền chữa bệnh như họ. Giàu cỡ bà ta, thì chả bao giờ phải nghe câu nói hàm ý của mấy ông bác sỹ với con bệnh kinh niên đã nhẵn túi vì tiền thuốc, về cái phác đồ điều trị tiếp theo; đại loại rằng:

  • Ổn rồi đấy! Ông (bà) vui lòng về nhà, thèm gì thì cứ nói con cháu mua cho ăn, cũng đừng quên soạn lời dặn dò con cháu trước nhé!

Thế mà vẫn có người tưởng bệnh của họ “ổn” thật, về nhà làm y lời thầy thuốc dặn!

Phần đông người giàu thường có những bí mật muốn dấu tịt người khác, nhất là việc họ có bao nhiêu tài sản, họ bị bệnh gì, họ đang gặp hạn ra sao. Còn hạng bình dân xem ra ưa sự tò mò, cũng thích khoe khoang và thường khoe hơn những thứ mình có. Vì thế trong dân gian, mọi chuyện trên trời dưới đất, sớm muộn rồi cũng được công khai. Nguồn cảm hứng của dư luận và sự đàm tiếu của đám đông, nhờ thế được nuôi dưỡng đầy đủ. Kinh nghiệm trên đây có lẽ cũng đúng với những tộc người sống trên sa mạc.

  • Bà ấy bị chết vì nhiễm trùng máu đấy!

Sau rất nhiều giả thuyết, cuộc điều tra dân gian đã tạm xác định cho bà chủ khu biệt thự một nguyên nhân khả dĩ đưa bà đến cái chết.

Thực ra, cái chết của chị Đầm không phải do một nguyên nhân duy nhất như họ nghĩ. Cũng có thể, đó là nguyên nhân cuối cùng đưa chị về gặp Đấng Cao cả. Ở vào thời đại này, người ta thường tay trắng đi sang thế giới bên kia bởi những thứ thuộc tâm bệnh, hơn là bởi những di chứng của căn bệnh ho lao, thổ tả hay đậu mùa.

Chị Đầm vốn là ái nữ của tổng giám đốc một công ty sản xuất và kinh doanh xuất - nhập khẩu. Từ lúc mới chào đời, cô bé Đầm đã sở hữu một khuôn mặt ngang ngược với hai gò má nghển quá cao, sống mũi tẹt và đôi mắt xếch dữ dằn như mắt sư tử. Thời gian không làm mềm đi sự tương phản, mà phô diễn thêm sự thô kệch trớ trêu trên gương mặt thiếu nữ ngang bè của chị. Cha chị – một quan chức nhà nước, luôn bận rộn bởi những mối quan hệ làm ăn của một vị tổng giám đốc, đã đứt mạch máu não trên bàn nhậu với một số chiến hữu, nhưng cũng kịp bố trí cho con gái ông chức trưởng phòng kinh doanh khi Đầm vừa lấy được tấm bằng đại học tại chức. Ông còn kịp kiếm cho con gái một tấm chồng nối nghiệp gia tộc đang phất của mình. Anh này mặt rỗ hoa như chàng Trương Chi trong chuyện cổ tích, da cũng đen và lông lá như Trương Chi, nhưng không lãng mạn bằng Trương Chi.

II

Thời con gái, ngoài nỗi buồn kém nhan sắc, chị Đầm còn có thêm nỗi khổ tâm khác rất kín nhẹm, hao gầy cả vóc xuân; đó là việc chị tương tư một người đàn ông cấp dưới của cha mình. Anh này tên Trực, vợ chết, chưa có con; trước đi bộ đội, lên tới cấp thượng úy thì chuyển ngành. Ngoại hình anh ta không có gì đặc sắc, song tính nết thì rất nam nhi, nói được làm được. Chị đã phải lòng từ ánh mắt cương nghị của anh, bước đi đĩnh đạc của anh, cho đến mùi thuốc lá thơm anh hút cũng làm chị ngây ngất như được trôi vào một thung lũng riêng tư đầy nhục cảm. Chị càng tự ti với nhan sắc của mình bao nhiêu, thì càng đơn phương vẽ vời anh trong tưởng tượng bấy nhiêu.

Hằng đêm, trong căn phòng trống trải, Đầm thấy lòng mình cồn lên nỗi nhớ nhung, vương vấn, lo sợ. Sự phải lòng của một cô gái tân với người đàn ông đã chết vợ chất lên tâm hồn Đầm những gánh nặng cảm xúc, bỏng giẫy như nham thạch vừa phun ra từ miệng núi lửa. Có lần, trái tim chị bỗng loạn nhịp khi tưởng tượng về buổi hò hẹn đầu tiên giữa hai người. Họ đi dọc một triền sông nở đầy hoa trắng không tên, không rõ miền đất mà hai người đang đến. Cứ như vậy, dòng sông tâm tưởng của cô gái trẻ đang yêu, ngày này qua ngày khác thao thiết chảy. Đến nỗi Đầm gầy rộc đi sau mấy tuần lễ, do niềm tương tư thiêu đốt và do những phiền muội của chính mình gây nên.

Mẹ chị là người đầu tiên biết con gái mình đã si tình gã đàn ông chết tiệt kia. Nhưng bà cũng phải công bằng mà thừa nhận rằng, bà đã không sinh ra được một nhan sắc thiên hương, để bắt lũ đàn ông trên thế gian này phải đau tim. Khi bà đẻ ra một sinh vật xấu xí, lại thuộc phái nữ - thì đối với bà - đó là nỗi thống khổ vô biên. Thế mà chồng bà lại còn nghi ngờ vợ mình đã từng không đứng đắn. Ông chồng nghĩ tướng tá mình thế này thì mặt mũi con cái phải tương tự, chứ sao xấu xí thế! Trong ông bắt đầu trồi lên nỗi hoang mang lẫn cảm giác trống trải, hoài nghi sau cữ sinh nở của vợ.

Từ thủa nhỏ, cô bé Đầm đã nhìn cha như một người đàn ông lạ lùng trong nhà. Người đàn ông ấy ngủ với mẹ cô, không ghét bỏ, cũng khó lòng nói là yêu thương cô. Ông thường đi sớm về tối trong hơi men của những bữa nhậu thù tạc với những người đàn ông bụng phệ khác. Cả tuổi thơ mình, cô bé chỉ gần gũi mẹ, cùng mẹ đếm tiền hàng giờ trong buồng và ngắm nghía vốc hạt xoàn đựng trong một cái rổ nhựa màu đỏ. Đối với cô, đó là một công việc chán ngắt mà cứ phải lặp đi lặp lại nhiều lần, còn chán hơn cả việc cô ngắm cái nhan sắc tệ hại của mình trong gương. Bà mẹ thì chỉ lựa lời an ủi cô; đồng ý với cô là phải sửa gấp cái nhan sắc khiêm nhường cho con gái khi cô bước vào tuổi thiếu nữ.

Việc cô bé Đầm mấy năm sau đó trở thành thiếu nữ là một lẽ tự nhiên, nhưng sự cải thiện nhan sắc của cô bé lại mang tính nhân tạo, nên ban đầu không thuận ý như mẹ cô tưởng.

Người đầu tiên phản đối chuyện sửa nhan sắc của Đầm chính là cha cô bé. Vào một đêm mùa hạ, trăng sáng, vạn vật tĩnh lặng, trong phòng riêng của cha mẹ cô, tiếng hai người thì thầm to nhỏ. Lựa lúc hai vợ chồng nồng nàn nhất với nhau, mẹ cô bảo: “Mình phải lo sửa nhan sắc cho con Đầm, thì con bé mới sớm lấy được chồng, ông ạ!”

  • Việc gì cũng phải đúng thời điểm, vả lại, đây là chuyện lớn, bà lo làm gì? - Cha cô trả lời.

Sau đó hai người lời qua tiếng lại, nhưng ông chồng vẫn gạt phắt chuyện ấy đi. Đêm ấy, bà tổng giám đốc mất ngủ. Từ khi ông chồng lên chức to, vui quá bà cũng mất ngủ, lo – cũng mất ngủ, buồn - cũng mất ngủ!

  • Chả lẽ ông ấy không hiểu được tầm quan trọng của nhan sắc đối với một thiếu nữ - hơn nữa - là mụn con gái duy nhất? Bà vợ tủi thân, nghĩ.

Bà điểm lại hơn chục năm qua, kể từ khi con Đầm mở mắt ra để thấy cái thế giới oan khổ này, chồng bà vẫn chưa chuẩn bị cho nó một chỗ đứng trong bản dài liệt kê mọi tính toán sự đời mà ông đã tỉ mỉ sắp đặt. 

Đêm trăng ấy chứng kiến những giọt nước mắt oán hận của người đàn bà nằm ngay đơ cạnh chồng. Bà mong suy nghĩ của chồng bà sẽ thay đổi. Thế rồi, hai mẹ con tiếp tục sống những ngày chờ đợi. Bao nhiêu mộng tưởng thiếu nữ và thái độ khinh bạc từ đó đã âm thầm nhen nhóm trong tâm hồn ngang bướng của Đầm. Cô bé giận cha mình như một kẻ hắc ám đã phá nát giấc mơ thời con gái của cô, khiến cho cô hết cả hứng thú học tập. Việc cô bé Đầm chểnh mảng chuyện học hành cũng từ bận ấy.

Bẵng đi mấy năm, một buổi tối, ông tổng giám đốc chợt nhắc lại vợ chuyện giải phẫu thẩm mỹ cho con gái. Lần này ông muốn vợ cùng con gái thu xếp một chuyến qua Seoul Hàn Quốc để sửa sang diện mạo mỹ nhân. Bà vợ xúc động, chảy cả nước mắt trong lúc hai đồng tử bà dãn lớn, biểu hiện trạng thái kinh ngạc và bất ngờ của bà. Cuối cùng thì ông ấy cũng thương mẹ con bà. Con gái bà cần xinh đẹp đã đành, phần bà dù đã luống tuổi nhưng vẫn thích làm dáng. Tuổi tác và những phiền muội trong cuộc sống gia đình, đã làm thân hình bà trở nên xộc xệch. Dù tiền son phấn của bà mỗi năm một tăng, không phải do trượt giá, mà chủ yếu vì cái da mặt của bà ngày càng cần phết dầy hơn.

III

Mãi sau này người ta mới hiểu vì sao ông tổng giám đốc chịu để cho con gái sửa sang nhan sắc, trước đó thì không. Số là lúc Đầm vừa bước vào tuổi thiếu nữ, khá nhiều người ở thành phố này đã ra ngoại quốc giải phẫu thẩm mỹ. Họ là những người nhiều tiền của, may mắn vì không phải giải thích với xã hội rằng tại sao họ giàu, rất nhanh giàu; và cũng chả phải khai báo chính xác nguồn thu nhập khủng khiếp của mình với đoàn thể nào cả. Nhưng cha chị lại khác. Bấy giờ ông đang được cấp trên cơ cấu vào vị trí quan trọng hơn, nghĩa là từ giám đốc một công ty nhỏ thăng lên tổng giám đốc một công ty lớn. Tại thời điểm nhạy cảm ấy, không ai dại gì mà khoe khoang, nhất là khoe mình tiêu tiền vào những việc xa xỉ trong khi biết bao người xung quanh còn đang đói rã họng.

Nhưng sau những chờ đợi khắc khoải, con đường công danh một lần nữa lại âm vang tiếng bước chân ông. Khi đã quấn mình chắc chắn trong cái ghế to sụ, nồng ấm quyền lực của một tổng giám đốc, khạc lửa vào mặt hàng nghìn nhân mạng dưới quyền, quan hệ với hàng trăm manh mối làm ăn, quen biết hàng chục vị tai to mặt lớn mà trước đây ông không có đủ tư thế hầu chuyện họ, thì ông bắt đầu nhận ra những tín hiệu mới có thể giúp người ta rút ngắn thời gian làm giàu hàng trăm năm. Trong tâm tưởng ông hiển lộ linh cảm về một thời đại phong quang, ở đó những ván cờ người sẽ không còn đấu theo luật lệ cũ. Sự chấn động tinh thần lần này khiến thân thể ông cứ lạnh toát từ huyệt dũng tuyền lên tới bách hội, làm toàn bộ con người ông ngây ngấy khó chịu suốt ba tháng trời.

Đó là ba tháng công ty ông hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa. Bên cạnh chức vụ tổng giám đốc, ông còn sắm thêm được chức chủ tịch hội đồng quản trị. Ngân phiếu số mệnh một lần nữa lại chìa ra để hóa kiếp cho ông từ một con vạc ăn đêm trở thành con chim đại bàng tung cánh dọc ngang giữa một bầu trời xốn xang quyền lực. Thời cơ chế tập trung bao cấp, phải sống trong bao nhiêu chính sách và quy định ngặt nghèo, ông thấy mình như một con ngựa bị trói chân bằng dây kẽm gai và rọ mõm bằng hàm thiếc; nhưng nghề lãnh đạo tự nó cũng đã tôi luyện cho ông khả năng chuyển những đồng tiền ngân khố nhà nước thành những vốc hạt xoàn và những bó ngoại tệ để vợ con ông có thể ngồi hàng giờ trong buồng kín mà thôi miên.

Giờ đây, ông giống như một vị tổng thống, thậm chí còn cao hơn vì quốc dân của ông không phải là những công dân, mà chỉ là những thần dân của một vương quốc nào đó từng tồn tại trong những thế kỷ xa xăm thời trung cổ. Ở đó, ông hiện nguyên hình là một ông vua với những bầy tôi phần lớn là bà con ruột thịt tin cẩn.

Tuy nhiên, trong khi xây dựng cái ngai vàng uy nghiêm chói lọi của mình, ông cũng có một sai lầm nho nhỏ. Nói là chuyện nhỏ nhưng cũng đủ làm cho ông tổng giám đốc nghẹn cơm và sặc canh hai năm trời, khi mỗi tối ông ngồi vào bàn ăn với vợ và con gái.

Kẻ làm ông nhai cơm nuốt nghẹn cổ họng chính là cậu Trực – chủ tịch công đoàn, gã đàn ông mà con bé Đầm phải lòng. Ban đầu, ông muốn dùng Trực để gia cố thêm cái ngai quyền lực của mình vốn đã vững chắc quá mức cần thiết, nên đã ủng hộ cậu ta nắm chức vụ đại diện cho quyền lợi của các thần dân trong vương quốc của mình.

Tội lớn nhất của cậu Trực – theo ông – là cái tội phạm thượng, dám có ý kiến trái ngược với với ông; và tình trạng này không chỉ xảy ra một lần. Trong các cuộc họp lãnh đạo, duy nhất chỉ có cậu ta lên tiếng chất vấn ông phải điều chỉnh chỗ này, minh bạch chỗ kia, công khai những khoản chi hoa hồng hay giao tế. Trong thâm tâm ông nghĩ thế là phải; chỉ có điều, nếu thực hiện đúng lời cậu ta nói thì không ai trên đời này còn thiết làm quan nữa.

Trong lúc ông đang hậm hực tìm cách tống cổ gã đàn ông góa vợ này đi cho khuất mắt, thì mụn con gái duy nhất của ông lại lòng thòng gã, mới đau chứ. Mặc dù nó xấu gái, nhưng là gái tân, hơn nữa lại là ái nữ của vị tổng giám đốc lừng danh trong giới làm ăn như ông. Thường mấy thằng trai quèn bao giờ cũng lóa mắt trước nhan sắc mong manh của các cô gái, mà bỏ quên sức mạnh danh gia vọng tộc của đối tượng. Họ say mê tình yêu nhưng lại cằn nhằn vì cuộc sống khó nhọc sau khi cưới nhau. Vớ vẩn quá! Theo ông, chỉ những gã trai thức thời mới nhận ra rằng: việc đầu tư sự nghiệp và hôn nhân cùng con gái ông là một.

Những ý nghĩ của ông tổng giám đốc về gã đàn ông tên Trực chua chát bao nhiêu, thì tấm lòng của con gái ông với người đàn ông này lại ngọt ngào, chan chứa bấy nhiêu. Đầm không hiểu sao, mỗi khi gặp anh là cả thể xác và tâm hồn cô đều rạng lên, như mặt hồ nước tinh mơ buổi sớm, lấp lánh ánh bình minh. Thể xác cô hình như chỗ nào cũng âm vang khúc hoan ca của một tình yêu kín nhẹm, say đắm. Cô thấy những ánh tóc bạc trên đầu anh mang vẻ đẹp phong trần, gan góc và mớ ria tua tủa quanh môi anh như bằng chứng phi thường về sự dũng mãnh và bản năng đàn ông siêu hạng, cho dù anh ấy đã qua một đời vợ. Đầm biết mình hơi xấu xí, nhưng được bù lại bằng một dáng vẻ cực chuẩn với toàn bộ những đường cong hài hòa của một phụ nữ có thân hình mộc vương. Mỗi bận soi gương, cô chỉ thích ngắm nước da trắng ngà của mình, cặp vú mơn mởn với hai đốm hồng nhẹ bâng, thanh khiết; cặp đùi non thuôn dài, tròn trịa, ấm nóng như ẩn chứa một sinh lực vô tận. Mỗi lần ngẫu nhiên họ gặp nhau, cô lại thả nỗi khao khát của lòng mình vào sâu trong ánh mắt anh, còn Trực thì vẫn thản nhiên như chẳng nhận ra điều gì giữa hai người.

Nhiều lần ngồi cô đơn trong phòng vắng, Đầm hay buột miệng kêu tên người đàn ông của lòng mình, rất da diết; trong bộ dạng hai tay buông thõng như một kẻ bất lực, đầu nghẹo sang một bên, trên mình có độc chiếc áo sơ mi trắng khoác hờ. Sau tiếng kêu bức bối của cái tâm hồn đang chịu đọa đày trong ngọn lửa ái tình, cô lại bắt đầu độc thoại không dứt với hình bóng người đàn ông mà cô tương tư. Lúc ấy, phía dưới lườn bụng nõn nà, thon thả của cô -  một đồi vệ nữ e ấp với những túm lông nhỏ xinh, cũng như đang trong nỗi niềm bịn rịn khắc khoải. Cô thấy anh vô lý biết bao! Cô muốn trách móc bà mụ đã uổng công thay mặt Tạo hóa, chế tác ra một vẻ đẹp phụ nữ dang dở như cô.

 Lần cuối cùng, mệt quá cô thiếp đi, với gương mặt đẫm nước mắt. Đúng lúc ấy thì mẹ cô gõ cửa phòng, thông báo rằng trong tháng tới, hai mẹ con cô sẽ đi Hàn Quốc để làm phẫu thuật thẩm mỹ. Cô sung sướng nhảy cẫng lên như một bé gái, ôm chặt bà mẹ làm cả hai cùng lăn đùng xuống nệm. Trong tâm thức cô lần đầu tiên xuất hiện ý niệm về sức mạnh của tiền bạc có thể thỏa mãn những đòi hỏi từ đơn sơ đến kỳ dị nhất của con người. Cô sẽ không cần bà mụ nữa, chính đồng tiền sẽ tạo ra những bà mụ tài giỏi và tận tụy.

Giờ đây, người cung cấp cho cô cái khoái lạc tinh thần – có lẽ còn mạnh mẽ và đê mê hơn cái khoái lạc thể xác – chính là cha cô. Người mà mấy năm trước đây khăng khăng từ chối lời cầu khẩn của mẹ cô – đã đột ngột thay đổi thái độ trong cách đối đãi với vợ con. Sự thay đổi tư tưởng của ông ấy không phải là ngẫu nhiên; trái lại, mang tính tất yếu.

Chuyện đó xảy ra đúng vào cái đêm mà ông tổng giám đốc thấy khó ngủ lạ lùng. Bầu trời đêm hôm ấy bức bối như một gã khổng lồ bị ủ trong một nồi nước xông nóng rẫy. Ông lò mò ra ngoài ban công, mặt mũi ông lập tức vướng vào những ngọn gió kỳ dị; một phần hơi nóng như vừa thổi từ vùng xích đạo tới, phần khác là hơi lạnh buốt mà ông đoán chắc là từ đỉnh Hi mã lạp sơn đưa về; và chúng xeo lại với nhau tại thân thể ông, gây ra cơn rùng mình chấn động đến tận xương tủy. Trong lúc khép cặp mắt sưng mọng vì mất ngủ, ông vẫn như nhìn thấy bầu trời đêm hôm ấy chồng chất những núi mây thê lương đỏ độc, rồi từ nơi khôn cùng nào đó của vũ trụ bỗng vụt xuống một ánh sao băng xanh lét. Một cảm giác chợn rợn về ngày mai bất định bỗng thức dậy trong ông khiến đầu óc ông ngoắc nguơ như một con gà rù, còn đôi chân ông như bị đóng chặt xuống một bàn chông nứa nhọn hoắt.

Nhẩm lại quá khứ, ông thấy mình đã thành công trong cuộc thảo phạt ngấm ngầm để bảo vệ ngôi chủ soái trong lãnh địa của mình. Dưới trướng ông, những đứa có tài một chút là tỏ ra ngang ngạnh, tài hơn chút nữa thì ra mặt chống đối. May mà ông rất tỉnh. Bọn người ấy nhất định sẽ bị ông xử rốt ráo, nhẹ nhàng như người ta di chết một lũ kiến hôi. Cậu chủ tịch công đoàn kia rồi sẽ không chịu nổi những ngón đòn thâm hậu của ông mà phải xin chuyển công tác, hoặc bỏ việc ra ngoài mà làm nghề tự do. Tổ chức của ông, cuối cùng vững như bàn thạch với những kẻ tâm phúc, bao gồm con cháu họ hàng nhà ông.

Nhưng ông phải thừa nhận rằng, cái nội các đậm màu huyết thống do ông tốn công sắp xếp, sau mấy năm xem ra rất xập xệ. Ông nghiệm thấy con cháu nhà mình phần đông, không chỉ là lũ bất tài, mà còn rất tham lam. Chúng ganh ghét nhau vì trong công việc đứa này kiếm chác được, đứa kia không. Chúng kèn cựa nhau để đưa chị vợ, em chồng, cậu họ; tóm lại, là những dây mơ rễ má vào đầy trong cơ quan để hưởng lương và chạy việc vặt. Ngay thằng cháu gọi ông là bác ruột cũng tỏ vẻ bất mãn khi ông chưa kịp bố trí nó làm sếp một phòng ban nào đó. Theo lý sự của nó - thì ông bây giờ phải là người có trách nhiệm gồng gánh cả dòng họ. Giống như trước đây, cả dòng họ chịu đói chịu khát để lo tiền cho ông đi học, chịu nghèo hèn để ông phấn đấu công thành danh toại. Như thế trong gia tộc, ông chính là kẻ mắc nợ, chứ không phải là người giúp đỡ hay ban phát bổng lộc cho ai.  Từ đấy, trong thâm tâm ông thảng hoặc lại dấy lên nỗi thất vọng tê buốt về những người cộng sự, từ kẻ khác máu tanh lòng như cậu chủ tịch công đoàn dở hơi, đến thằng cháu ruột quá vị kỷ.

Sau cơn choáng váng vì những cảm xúc mãnh liệt không rõ từ đâu dội xuống, ông tổng giám đốc bắt đầu định thần trở lại. Đầu óc ông chợt sáng rực lên vì những suy nghĩ mới mẻ, giống như ai đó vừa mò ra chân lý từ những lầm lạc. Thì ra từ trước đến giờ ông vẫn phân tâm cho người khác, coi việc mình sống là vì họ! Nhưng từ rày trở đi, ông bắt họ phải sống vì mình. Ông sẽ sử dụng họ như những viên sỏi lát đường ông đi, như miếng ván gỗ làm ghế ông ngồi. Ông vỡ lẽ ra rằng: phạm trù đạo đức chỉ vận dụng cho hạng thường dân thôi; những người có tâm chí lớn như ông, thì hành động phải tự do, tùy việc tùy thời như mây trôi nước chảy. Ông sẽ trở thành một vị quan bảo dân suốt đời, tên tuổi ông phải được lưu truyền ở cái vương quốc này trong vài thế hệ. Ông chợt liên tưởng đến mụn con gái và khuôn mặt ngếu ngáo của nó.

Nghĩ đến đây, bỗng dưng ông tổng giám đốc rít lên một hơi, nghe thật lạ lùng. Một âm thanh sắc nhọn xộc thẳng vào khứu giác làm ông buốt cả vách mũi. Sau đó, ông còn phải chịu một trận nấc cụt dữ dội, khiến lồng ngực ông muốn bể vụn. Trên cao, những vì sao khuya đã tắt ngấm, bầu trời chuyển sang màu đen thẫm, cô quạnh. 

IV

Khi cô Đầm cùng bà mẹ hoàn thành chuyến du lịch từ Hàn Quốc trở về, thì nội tình trong công ty cha cô có những xáo trộn lớn. Sau đại hội đại biểu toàn đơn vị, anh Trực (lúc này đã rớt chức chủ tịch công đoàn) và một số cán bộ chủ chốt đã xin chuyển công tác; một vài bộ mặt mới xuất hiện, trong đó nổi lên chàng Đào – phu quân sau này của cô.

Anh chàng Đào hơn cô lối mười tuổi, chưa vợ, được cấp trên bố trí về phụ trách công tác thi đua khen thưởng. Một con người có duyên ăn nói nên đã phần nào lấp liếm được cái mặt rỗ hạng nặng của mình. Bất cứ ai gặp chàng ta ban đầu, đều phải rùng mình trước một cái mặt đen sì, thô lỗ, cục súc; nhưng chỉ ít phút tiếp xúc sau, họ sẽ phát hiện ra một anh chàng Đào hoàn toàn khác bởi kỹ năng hấp dẫn người đối thoại bằng lối nói chuyện bông lơn cởi mở.

Lúc máy bay sắp đáp xuống phi trường, Đầm thấy lòng mình nhen nhúm một ao ước là trong số người ra đón cô sẽ có Trực. Người đàn ông góa vợ ấy sao làm cô nhớ đến phát cuồng! Cô sung sướng chờ đợi giây phút trước mặt mình mà Trực vẫn không nhận ra, vì trong mắt anh, cô vẫn là một con quạ khoang xấu xí (Đầm quả quyết đó là lý do vì sao anh xa lánh cô). Lúc ấy, cô sẽ kêu to lên với anh, giản dị, kiêu hãnh:

  • Em nè! Đầm nè, anh thấy em được hông (từ cuối, cô nói giọng lơ lớ Nam bộ)?

Cô thấy anh lần đầu tiên bối rối trước nhan sắc cô, bởi vì lần này cô đã hiện lên trong mắt anh như một con công mái yêu kiều, tin cậy. Thế là chấm dứt những tháng ngày anh đọa đầy cô bằng sự im lặng. Cô sẽ là bà chúa uy quyền cầm tù trái tim anh và ngự trị luôn trong đó. Cô cảm nhận con đường hôn nhân của cô từ nay đã quang quẻ, thẳng tắp; không còn chông gai nào đâm vào gót sen tình ái của cô nữa.

Tại ga đến của phi trường, người ngợm qua lại đông nghịt. Đầm lia ánh mắt ra bốn phía lóng nhóng tìm Trực, trong khi cha cô đã đứng trước mặt cô từ lúc nào. Ông sung sướng ôm choàng vai con gái, rồi chỉ vào một người đàn ông đứng bên cạnh.

  • Cậu Đào đấy, cán bộ tăng cường vừa về.

Bấy giờ Đầm mới định thần trở lại và hướng ánh mắt vào người đàn ông tên Đào. Trước mặt cô là một tay trung niên đậm người, da ngăm đen, tay hơi lông lá, gương mặt còn lưu dấu vết tàn phá của một trận đậu mùa dữ dội từ thời niên thiếu, đang mỉm cười nhìn cô.

  • Xin chào cô Đầm! Cô xinh đẹp quá! Người đàn ông nói giọng miền Trung thân thiện nhìn cô, ánh mắt anh lộ rõ vẻ ngưỡng mộ.

Bao nhiêu cảm giác hoang mang, lạ lẫm chợt nhào đến, xâm chiếm lòng Đầm. Chúng như tố cáo rằng: cô đã quen cái thú mường tượng mọi thứ quanh mình, rồi coi chúng như thật; chẳng khác nào một kẻ mộng du say sưa đuổi bắt cơn ảo giác, trong khi cuộc đời cô vẫn là một chuỗi những bí ẩn đang giấu mình ở phía trước.

Theo sự toan tính của cha cô, người đàn ông mà cô cần thể hiện uy quyền của gia tộc trong hôn nhân của cô không phải là Trực, mà là Đào. Cha cô cho rằng, Trực là gã đàn ông đã góa vợ, lại không thức thời. Sự ngay thẳng, chân thực của anh ta chẳng phải là những giá trị đạo đức anh ta theo đuổi, mà chỉ là những nhân tính hão huyền còn sót lại của thời đại cũ. Còn cậu Đào thì trẻ hơn, chưa vợ, lại phù hợp cả mạng tuổi với con gái ông. Bố cậu ấy cũng là một quan chức kha khá, dù đã nghỉ hưu non. Cậu ta có hơi xấu trai thì con gái ông càng dễ sai bảo. Hơn nữa, cậu ta xuất thân từ gia đình đông con nên không nặng gánh gia tộc. Cậu ta có thể sánh duyên cùng con gái ông, giúp ông nối dõi tông đường vì ông chỉ có một mống con gái.

Còn vợ ông tổng giám đốc thì tỏ vẻ thương con gái mình, khi phải lấy một anh chàng vừa mặt rỗ, vừa đen đủi. Thực ra, con gái bà dáng vẻ trâm anh đài các, chỉ tội khuôn mặt hãm sắc một chút, nhưng đã được sửa sai bằng những nhát kéo phẫu thuật cực kỳ khéo léo của những chuyên gia cao cấp chuyên ngành phẫu thuật thẩm mỹ Hàn Quốc rồi kia mà! Lẽ ra, nó phải kiếm được một tấm chồng danh giá hơn, chứ đâu chịu kiếp nâng khăn sửa túi cho một anh chàng mặt rỗ đen, rỗ đỏ như thế.

Tình trạng ông chẳng bà chuộc trong việc lo chuyện hạnh phúc trăm năm cho con gái đã gây nên hết đợt sóng gió này đến cơn ba động khác trong nhà ông tổng giám đốc. Xem ra, ông bà tổng không chỉ muốn sở hữu cuộc đời mình, mà còn muốn sở hữu luôn cuộc đời cô con gái; muốn sống thay con, mặc dù không thể chết thay con. Còn trong tâm trí Đầm thì luôn nảy sinh nỗi dằn vặt, day dứt vì sao Trực ra đi lặng lẽ như thế? Cha cô có can hệ gì đến việc ra đi của anh không? Cô cũng không biết bây giờ anh đang làm gì, ở đâu. Cô có cảm giác rằng cuộc đời này không dung thứ cho những con người trung thực như anh.

Rồi vào một đêm cùng quẫn, Đầm đã nốc một vốc thuốc ngủ cực mạnh hòng đoạn tuyệt với những cơn bão lòng đang ngày đêm cuộn lên từ gan ruột và tim phổi cô. Trong làn ranh của sự sinh tử, cô mơ màng hiểu ra tình yêu, của cải, quyền lực trên đời không phải là những cái độc lập riêng rẽ với nhau; trái lại, chúng dính vào nhau hổ lốn như một nồi cám lợn. Việc cô trở về từ cõi chết cũng đồng nghĩa với sự quy hàng số phận mà cha cô đã sắp đặt.

 Chuyện cô Đầm tự tử được gia đình giấu nhẹm đi; sau đó, được đồn đại như là câu chuyện về một cơn xung tình khao khát đàn ông của con gái ông tổng giám đốc.

Thế rồi, những câu chuyện thầm kín trong gia đình ông tổng giám đốc cũng đến tai Đào – chàng rể tương lai mà ông tổng giám đốc đã chọn. Nhưng anh ta không bận tâm lắm. Người đàn ông này đã có ý đồ riêng của mình. Thứ nhất, anh ta biết rằng ông tổng giám đốc không có con trai, nếu làm con rể ông thì tất nhiên sẽ được kế thừa cả giang sơn sự nghiệp của cha vợ; thứ hai, cô Đầm cũng là một giai nhân chứ kém cỏi gì (anh chưa biết khuôn mặt trước đây của cô, có lẽ về sau cũng chả biết). Trải qua nhiều năm được các cấp lãnh đạo tin cậy, Đào đã đủ khôn ngoan để biết rằng, những mưu sự lớn thì chẳng mấy khi thực hiện dễ dàng cả.

Đám cưới anh Đào - chị Đầm như trôi đi trong sự hoan hỉ của đủ mặt quan khách và bạn bè. Trong những lời chúc phúc cho đôi tân lang phát ra từ miệng những quan khách lớn tuổi, người ta thấy như vang lên sự thừa nhận rằng: ông tổng giám đốc rất khôn, biết kéo dài thời gian sử dụng quyền trượng của mình một cách hợp pháp. Còn những lời chúc phúc vụt ra từ miệng đám khách trẻ cho thấy, họ đã ngửi ra mùi ấu chúa của một thời đại mới đang đến.

Tuy nhiên, sau đám cưới mấy năm mà vẫn không thấy Đào nhích lên được chức vụ nào, trong khi một vài vị trí quan trọng còn lại đã được ông tổng giám đốc trám nốt bằng những nhân vật mà Đào không ngờ tới.  Anh vẫn sống chung với bố mẹ vợ và hy vọng một ngày nào đó sẽ làm chủ nhân ông cái cơ nghiệp của bố vợ. Trong thời gian mai phục chiếc gậy quyền lực rơi xuống tay mình, anh và chị Đầm cũng kịp sinh hạ hai đứa con: đứa đầu lòng con gái, kế tiếp là cậu con trai. Cậu con trai thì không có gì để phàn nàn, riêng cô con gái đầu lòng thì càng lớn càng xấu: da đen điểm lớp lông thưa cứng, người dáng thô, gương mặt võng sâu làm cho gò má như bành ra hai bên. Đào chỉ thừa nhận đứa con gái giống mình ở cái da đen có lông thưa như lông móc, còn dáng thô, mặt xấu thì không rõ nguồn gốc từ đâu. Có lẽ vì lý do này mà Đào cho rằng, anh phải có bổn phận thông cảm với những ông bố có con gái tương tự như con gái anh. Đại loại với những ông bố ấy, mỗi bận nhìn thấy đứa con gái xấu xí trong nhà – như bằng chứng về sự kém hoàn hảo của nòi giống - lòng họ lại trào lên nỗi mặc cảm khổ sở; và họ luôn phải đối diện với một sự ấm ức vô ngôn.

Những suy nghĩ day dứt kiểu như vậy, nhiều khi xộc đến làm Đào khổ tâm, nhưng anh ngại nói với vợ. Lấy nhau đã gần chục năm mà vợ chồng chưa xô xát nhau, có vẻ cuộc hôn nhân của họ đã được thời gian kiểm định ở mức khó đổ vỡ. Song, cũng không vì thế mà đinh ninh trước được điều gì, bởi mọi nguy hiểm luôn lấy bóng tối làm nơi sinh trưởng.

Cuộc cãi vã đầu tiên sau gần mười năm chung sống của vợ chồng Đào không ngờ lại dữ dội đến thế. Lý do ban đầu chỉ là chị Đầm bàn với chồng việc đổi họ theo đằng ngoại cho thằng Khu – con trai họ - vì ông ngoại thằng Khu thích vậy. Theo chị Đầm, thằng Khu trước sau cũng sẽ thừa hưởng toàn bộ gia tài sản nghiệp của ông ngoại; còn việc mang họ ngoại chỉ là hình thức.

Đó là cái đêm bình yên cuối cùng trong đời sống hôn nhân của vợ chồng Đào. Người vợ thủ thỉ câu chuyện đúng vào lúc anh chồng sắp ấp lên bụng vợ để giao hòa âm dương. Sợ chồng  hâm hấp trong cơn hứng tình, nghe  không rõ; chị vợ khép nhẹ cái đầu gối tròn nóng khiến anh chồng có cảm tưởng bị mất quyền chiếm hữu như mọi khi, lóng ngóng chờ…

Thế rồi, họ bỏ dở cuộc yêu trong nỗi thất vọng của người vợ và sự hậm hực của người chồng. Những câu đối đáp giữa hai người ban đầu còn khe khẽ, sau cứ to dần; cuối cùng thì chỉ còn nghe thấy những tiếng la hét dữ dội. Có thể tường thuật vắn tắt sự thể như sau: Khi nghe cô vợ ngỏ ý đổi sang họ ngoại cho con trai, Đào bắt đầu ngờ ngợ về địa vị của mình và ván bài bố vợ sắp đặt. Thằng Khu được ông ngoại chăm sóc và gần gũi, dần dần nhiễm điệu dạng, cử chỉ đặc trưng của ông nó. Thằng bé biết tỏ uy quyền không chỉ ở trong nhà, mà còn trong đám bạn cùng lớp, dù chỉ qua những chuyện lặt vặt. Những câu nói của nó mặc dù chưa biết đúng sai, nhưng luôn là những ý kiến có tính quyết định hoặc chỉ dẫn người khác phải làm. Có ai đó hỏi đùa rằng sau này lớn lên nó thích làm gì, nó nói thích làm quan như ông ngoại - nhiều tiền và nhiều người phải sợ. Thời gian trôi đi làm cho tình cảm của thằng bé ngày càng gắn bó với ông ngoại – nhưng với Đào, cha ruột nó  –  thì lại có vẻ hơi hững hờ như đối với một chú khách trong nhà; tình trạng này càng bộc lộ ngang nhiên trong những năm sau.

 Rõ ràng là ông bố vợ đang cố thực hiện việc biến thằng cháu trai thành một đứa nối dõi tông đường cho nhà ông ta – anh con rể tức tối suy ngẫm trong khi cảm thấy gan ruột mình như đang bị nướng khét trong một lò than tổ ong.

  • Tao không phải là thằng đĩ đực…là con heo nọc nhà mày!

Đào hét vào mặt vợ những lời lẽ cục súc nhất mà lẽ thường người ta chỉ dùng để thóa mạ những kẻ thù địch. Cảm giác bị lợi dụng trong cuộc hôn nhân khiến anh ta lồng lộn như một con cọp sa bẫy, giận dữ rống lên những tiếng kêu chứa chất căm hờn như bị dồn nén từ muôn năm trước.

Tiếng la hét giữa đêm của Đào làm rung cả những cánh cửa lớn của căn biệt thự, khiến ông tổng giám đốc đang trong cơn mơ ngủ như bị một lưỡi dao lá lúa lụi sâu vào tim. Sau một hồi định thần, ông lảo đảo cùng bà vợ chạy xuống cầu thang đến phòng con gái. Qua khung cửa mờ tối leo lét ánh sao đêm, ông thấy căn phòng tan hoang như một bãi tha ma, ngổn ngang những mảnh đồ đạc quý bị vỡ; con gái ông như cái xác vô hồn, ủ rũ dựa vào một góc giường. Đằng kia, bóng chàng rể thu lại thành một khối đen thẫm, từ đó lồi ra hai con mắt long sòng sọc như mắt thú hoang đang săn mồi.

Sau trận xung đột đó, Đào đưa vợ ra ở riêng, việc con cái vẫn do ông bà ngoại chăm sóc. Hai vợ chồng ít nói chuyện với nhau, nhưng mỗi khi mở miệng thì họ đều mang đến cho nhau những thương tổn tinh thần ghê gớm. Họ như bị nhốt chung vào một cái lò lửa sân hận để cãi vã nhau; nhưng chưa bao giờ đạt tới sự cãi nhau thỏa thích, cũng như chưa bao giờ họ thấy việc nhục mạ nhau là điều nhàm chán. Nhiều đêm, cuộc khẩu chiến giữa hai vợ chồng kéo dài đến tận gà gáy sang canh, trăng non vô tình mọc ngay đầu nhà, hắt xuống bốn con mắt ráo hoảnh của họ một thứ ánh sáng buồn tênh, tê tái cả lục phủ ngũ tạng.

Đó là những năm tháng nhạt nhẽo và đau đớn nhất trong đời sống vợ chồng Đào. Dù hai người luôn nghĩ rằng phải tự kiềm chế bản thân, nhưng nhiều khi, những cảm xúc uất ức nóng bỏng lâu ngày tưởng đã chết, bỗng vụt dậy như những tia sét quất ngang cuộc đời họ. Vợ anh bắt đầu chịu đựng những cơn đau tim âm ỉ, còn Đào thì thấy trong miệng mình như mọc thêm nhiều răng nanh nhọn hoắt – hệ quả của những ngôn từ độc địa mà anh dành cho vợ và ông nhạc.

 

 

V

Việc từ mặt thằng con rể của ông tổng giám đốc có nguy cơ làm tan vỡ cuộc hôn phối của con gái ông – điều mà vợ ông không muốn. Nhiều lần bà khóc lóc với chồng, mong ông giải hòa cùng các con, nhưng ông không chịu. Ông tính, nếu vợ chồng chúng nó chia tay thì lúc ra tòa, chắc chắn con gái ông được quyền nuôi dưỡng lũ trẻ. Thằng rể khốn nạn chỉ còn đường tay không mà cuốn xéo.

Một buổi sáng chủ nhật, trong lúc uống cà phê ngoài vườn ông đã bộc lộ suy nghĩ này với vợ. Thắc mắc mấy năm rồi sao chúng nó vẫn không chịu bỏ nhau, ông bảo khẽ với vợ:

  • Đúng là quân mặt rỗ, đến nước này mà nó vẫn không chịu bỏ con Đầm nhà mình!

Không khí buổi sớm hôm ấy thật thanh nhã. Đâu đó, mùi hoa ngâu còn ngậm sương đêm, vương vấn dễ chịu. Nhưng lòng bà tổng giám đốc thì sôi lên những cảm xúc bất mãn cao độ khi vấp phải cái điều đức phu quân vừa nói. Cặp mắt bà trước đây thường nhém nước khi bàn chuyện gia đình với chồng, bây giờ lại ráo hoảnh.

  • Ông là kẻ nhẫn tâm – bà nói -   mình chỉ có mụn con gái, không thương nó thì thương ai?

 Im lặng, bà lại nói: “Ông mất hàng núi tiền để xây nhà thờ tổ, lo công ăn việc làm cho lũ con cháu, lo quyền to chức nhỏ cho dòng họ. Thế mà giờ, ông bị chúng nó vừa được ăn vừa được chửi!”

Ông vẫn im lặng, bà lấn tiếp - Tôi vốn đàn bà ít học, nhưng cũng thấy quyền thế có thời, không khéo là mất hết.  Ông có giết tôi thì tôi cũng không bỏ vợ chồng nhà nó!

Dù bà cố gắng bộc bạch bằng một giọng ôn tồn để không làm tổn thương lòng tự trọng của chồng. Nhưng sự bức xúc ẩn tàng lâu ngày trong tâm can đã đẩy giọng nói của bà mỗi lúc cao thêm, nghe như những lời buộc tội của một vị quan tòa, kết cục đã phá hỏng bữa cà phê sáng của ông, đồng thời ném vào tâm trí ông những nỗi ấm ức mới.

Đang ngồi im như một gốc cây, bất thần ông tổng giám đốc gạt mạnh tay làm ly cà phê bay xuống trúng mõm con Hirosi – một chú chó Nhật lông xù như cục bông lớn – đang nằm cạnh họ như muốn cùng thưởng thức một buổi sáng tươi đẹp. Con chó ắng lên một tiếng đau đớn, sau đó lánh vào một góc khuất, ngúng nguẩy liếm những giọt cà phê đắng chát còn lại của buổi sáng trên bộ lông của nó.

Bà hoảng hốt nhìn khuôn mặt ông chồng đang xiết lại, vênh váo và xám xịt như cái lá mít khô. Có lẽ hơn nửa đời người đánh bạn cùng ông, chưa bao giờ bà khiến ông phẫn nộ đến thế. Bà chỉ là một phụ nữ ngay thẳng, luôn sống theo những khuôn phép luân lý thông thường của một người đàn bà Việt. Mọi cái gì vượt quá lệ thường đều khiến bà cảm thấy tội lỗi. Ngay cả chuyện phòng the cùng chồng, bà cũng ngại ngùng, dín dó như phạm phải điều sai quấy. Chuyện ấy, bà không cho phép ông hành sự vào ban ngày, chỉ được cởi mở vào ban đêm, trong một thứ bóng tối đen đặc, với điều kiện ít nhất bà còn vận một chiếc áo lên mình; như thế bà mới an tâm. Trong cơn đê mê cùng chồng, khi mà cặp đùi bà dướn lên đón nhận trọn vẹn sức vóc, tinh lực của phu quân nhấn xuống – nghĩa là nhấn xuống một đại dương nhục cảm đang sôi lên sùng sục - thì bà vẫn không quên lấy tay tự bóp miệng mình lại, cho khỏi bật ra tiếng rên. Ngoài đời, đã nhiều lần bà chứng kiến chồng mình hạ gục đối thủ (đồng chí của ông) - bằng những đòn bà cho là ti tiện và bẩn thỉu – những khi ấy bà đều cảm thấy kinh hãi và cứ nơm nớp lo sợ một lúc nào đó chồng mình sẽ bị quả báo.

Trong lúc bà vợ đang lòng dạ rối bời thì ông chồng lừ lừ đứng dậy, lảo đảo bước vào nhà, mắt hằn lên những tia máu như muốn tràn ra khỏi giác mạc. Bao năm nay, ông đã quen với những lời mè nheo chì chiết của vợ, nhưng chưa bao giờ vợ ông lại nặng lời dạy bảo ông đến thế. Ông đâu có phải là thằng trẻ ranh. Cuộc đời mà cứ đi theo lý sự của những mụ đàn bà như thế, thì đâu còn là bể khổ trần gian? Những giá trị nhân bản từ bao đời nay được giương lên chỉ làm nơi trú ẩn cho những tội lỗi và là nơi an toàn của mọi thói đạo đức giả!

Ông nhớ láng máng đọc ở đâu đó câu nói của cổ nhân, đại ý rằng:  nếu không có thủ đoạn gian ngoan và lòng dạ nham hiểm, thì làm sao có thể trở thành kẻ đại trượng phu! Ông thấy vợ những quan chức khác thì tay lăm miệng mười, cùng chồng gánh vác sự nghiệp. Thế mới gọi là “kẻ hứng người tung”, ông chồng chỉ là bức tường che chắn cho bà vợ thảo phạt thiên hạ. Dân gian mới bảo “Lệnh ông không bằng cồng bà!”. Những mệnh phụ ấy đang tạo ra một thứ triết lý quyền lực đàn bà để quản lý xã hội. Còn vợ ông thì trái ngược. Nếu ông như một lò lửa vĩ đại, hừng hực mưu mô, quyền biến, thì bà lại giống một tảng băng khổng lồ chứa những điều luân lý gàn dở; bà không hề khích lệ hay đồng lòng với ông, mà luôn tìm cớ ngăn ngừa, cảnh báo ông.

Cơn giận dữ buổi sáng hôm ấy như một liều thuốc độc ngấm tận buồng gan lá lách, khiến mấy ngày tiếp theo, toàn thân tâm ông tổng giám đốc chìm sâu trong một trạng thái trì độn, bải hoải. Ông như một linh hồn bị giam cầm ở ngay trong ngục tối tư tưởng của chính mình. Ở đó, đàn quỷ dữ với những cái lưỡi dài thẽo thợt, nhọn hoắt như lưỡi rắn, đang thò ra từng chùm móng vuốt khoắng lấy những suy nghĩ của ông vừa mới hình thành, hay quặp lấy những nỗi buồn u uẩn của ông đã tắt thở, rồi nhét tất tật vào cái bụng đang rực lửa luyện ngục của chúng.

Vì thế, vào sáng chủ nhật hai tuần kế tiếp, ông tổng giám đốc đã phải tự giải thoát mình khỏi cái ngục tối ấy bằng cách gọi cậu lái xe đưa ông ra ngoại ô câu cá. Họ chuẩn bị xôi nếp, gà quay, pho mai, giò chả, nước uống và ít trái cây cho bữa ăn trưa. Sau một tiếng đồng hồ cà tưng với đất đá lổn nhổn trên con đường đang kỳ tu sửa, đánh đu với đám xe máy ngang ngược, chiếc xe hơi của họ đã thoát ra ngoài thành phố. Cảnh đồng quê bình dị trải rộng trước mặt họ. Trên đầu họ, ánh dương chói lòa đang vô tư ban phát sinh khí cho muôn vật. Những cơn gió thoáng đãng từ ngọn núi mờ xa thổi tới như những đợt triều tươi rói. Đâu đây, mùi bùn nước hoai hoải, nghe như lẫn vị đắng của rễ cỏ thối.

 Sau mấy phút lưỡng lự, vòng qua vòng lại, cuối cùng họ đậu xe dưới một lùm cây trứng cá vừa lớn, chỉ cao hơn đầu người. Cách đấy chừng mươi bước chân là một con kinh khá rộng, mặt nước dập dềnh những khóm cỏ lăn và hoa súng. Mấy con sít lông đen như than, thấy bóng người chợt xoải cánh gấp gáp, chân chúng đạp lõm bõm trên mặt nước rồi cả đàn ào đi mất dạng.

Đến khi mặt trời đứng bóng, ông tổng giám đốc vẫn chưa câu được con cá nào. Có lẽ do ông nôn nóng, thường kéo cần câu trước khi cá cắn, nên không phải tốn đến mồi câu thứ hai. Thực ra ông tới đây không phải vì lý do kiếm cá, mà vì ông muốn bắt chước loài cá sự tĩnh tại. Nhưng tăm cá thỉnh thoảng mới nổi bọt từ đáy sâu, chứ ông thì nổi bọt liên tục trong đầu với những suy nghĩ lông mung về công danh, quyền thế, của cải đời mình. Ông nghĩ nhiều về bà vợ và cô con gái, những người thân thiết nhất giờ đây muốn chống lại ông. Ông nghĩ đến thằng Khu – thằng cháu ngoại nhưng sẽ là người kế tiếp ông thắp nhang và giỗ kỵ tổ tiên nhà ông. Giá mà hạng người như ông được sống mãi, không phải chết già thì hay biết mấy. Bởi ông biết chắc chắn rằng, chừng nào ông chưa chết thì cái trật tự do ông thiết lập sẽ không có gì thay đổi; đơn vị ông không cần phải phát triển hơn lên làm gì, cũng chả cần phải mở rộng làm ăn với ngoại quốc – chỉ thêm nhiều rủi ro, trong khi giữ nguyên hiện trạng bây giờ là sự an toàn và lợi ích to lớn nhất đối với ông…

Sợ mình suy nghĩ mãi thành lẩn thẩn, ông đành gọi lái xe chuẩn bị bữa trưa. Khi đồ ăn được bày ra, bụng ông cảm thấy đói cồn cào nhưng miệng ông lại nhàn nhạt, không muốn nhai mà cũng chả muốn nuốt. Con gà quay, giò chả, phô mai, mọi thứ đều ê chề dưới cái nắng ban trưa ngoài đồng.

Dòng kinh ban trưa loáng ánh mặt trời, đàn vịt nhà ai đang ngủ dật dờ trên mặt nước. Gần đấy, một chiếc lều cỏ xiêu vẹo, trên nóc treo mê nón rách dính đầy vết cứt vịt. Trong lều, một cậu bé chừng mười hai, mười ba tuổi đang nằm khò khoăm trên miếng bao bố, mắt he hé, không rõ thức hay ngủ. Dưới cặp chân đen đủi của cậu là một tô cơm ăn dở đang bị lũ kiến đen thăm viếng. Có lẽ chúng muốn tìm thấy ở đó một mùi thịt, mùi mỡ hay những thứ gì đại loại như vậy, nhưng chỉ bắt gặp mùi bí xanh kho nước tương – một cách ăn chay của những người tu hành.

Ông tổng giám đốc lẩm nhẩm điều gì đó trong họng khi chứng kiến buổi trưa đồng quê hôm ấy, sự đồng điệu lạ lùng của cái lều cỏ xơ xác, đàn vịt ngái ngủ, cậu bé nằm đơn độc với tô cơm bí xanh kho nước tương bị lũ kiến bu đầy. Có vẻ ông không muốn tiếp xúc quá gần cảnh nghèo khổ của dân chúng, vì chuyện họ nghèo chả liên quan gì đến ông! Cảm giác vô tri trước nỗi thống khổ của nòi giống, đã khứa thành nếp trong não bộ ông lâu rồi. Chỉ những ai lâm vào địa vị lộn ngược với ông mới thấy rõ món bí xanh kho nước tương này phơi bầy sự bần hàn tuyệt đối của đứa bé, đối lập với vẻ nên thơ của các món tương cà, rau lang luộc, mắm cáy, đôi khi xuất hiện trong những nhà hàng đặc sản mà những thực khách no đủ cố tình xếp chúng vào hàng “cao lương mỹ vị”.

Ông nhớ đến bà vợ mình vốn không được lanh lợi, giảo hoạt trong chốn quan trường như bao vợ quan chức khác. Các bà chính là những tay tham mưu sừng sỏ, biết hết mọi đường dây mối nhợ đến các ngài trưởng, phó và cao lên nữa để dựng kịch bản thăng quan tiến chức cho chồng. Trường hợp của vợ ông, vì bà không biết làm, một tay ông phải lo hết mọi chuyện.

Nghĩ đến đây, ông tổng giám đốc chợt thở dài, thấm thía với số phận mà ông cho rằng còn rất long đong của mình, trong lúc một con rắn lục bất ngờ xuất hiện từ dạt cỏ khô sau chiếc lều vịt. Nó trườn qua chiếc giầy tây bóng láng của ông, chậm chạp leo lên ống chân ông rồi ngọ nguậy hồi lâu trong đó. Từ hai chiếc nanh độc của nó toát một luồng tử khí khiến hồn vía ông tổng giám đốc như lọt xuống tận âm phủ. Khi con rắn bỏ đi thì ý nghĩ của ông về một ngày câu cá chốn đồng quê êm đềm cũng tắt ngấm. Ông đang nghĩ đến sự chạy trốn. Con rắn chạy trốn ông hay chính ông muốn chạy trốn con rắn. Chưa bao giờ ông cảm thấy cuộc sống của mình chán chường, vô tri giác đến thế. Cánh đồng nước lung linh ánh nắng mặt trời, đàn vịt thả trôi dưới những đám mây, cậu bé bình yên nhắm mắt đều chỉ là những hình ảnh lờ mờ, vô vị mà ông bắt gặp trong một ngày u uẩn, chật ních những ưu tư xám xịt của ông.

 

 

 

VI

Bấy giờ đã là những ngày giáp tết, ngoài đường tấp nập người ngợm chen lẫn xe cộ, ngược xuôi từ Nam ra Bắc. Hàng hóa, hành khách cuồn cuộn tuôn chảy như bị một sức mạnh vô hình dẫn dắt. Vào thời điểm này, hầu như trong đầu người giầu kẻ khó, chí ít cũng có một bài toán liên quan đến tiền bạc. Đây là cơ hội kiếm tiền dễ dàng nhất trong năm. Người nghèo tăng cường lao động, đám lưu manh trộm cắp gây nên những vụ nhập nha; còn người giàu thì tăng cường các mối quan hệ.

Ông tổng giám đốc bận túi bụi vì những cuộc ngã giá làm ăn hay tiếp tân các đối tác. Xét thấy trong năm này, đơn vị ông không khuyếch trương được sản xuất kinh doanh, nhưng cá nhân ông rất thành công trong việc thu gom cổ phần của đám thợ thuyền nghèo kiết xác. Đồng lương còm của họ không đủ trang trải cho những chi tiêu thường ngày, thì làm sao kham nổi những chi tiêu đắt đỏ trong dịp tết. Họ phải bán đi số cổ phần ít ỏi của mình với giá kém hơn thư giá ban đầu những ba mươi phân. Cho nên vào dịp tết này, ông cùng thủ hạ đã sở hữu tới ba phần tư tổng số cổ phần gốc, việc bố trí hội đồng quản trị hay tổng giám đốc bây giờ một tay ông quyết là xong.

Những mâu thuẫn gia đình dai dẳng đã không còn chi phối nổi ông nữa. Tất cả đã trở thành những vết sẹo lòng mờ nhạt trước những lo toan tất bật về thời cuộc mà ông đang sống. Ông lấy lại phong độ bằng cách đi đánh tennit đều đặn hơn với bạn bè, hát karaoke với những cô gái trẻ trong những quán bar sang trọng ở ngay trung tâm thành phố. Mấy đợt khám sức khỏe, bác sĩ đều khuyên ông nên ít uống rượu và tránh ăn các loại thịt có màu đỏ, vì ông có triệu chứng cao huyết áp. Nghe ra, ông thấy phải thay đổi nếp sống của mình. Nhưng chuyện đó chỉ thực hiện được khi ông nhớ; mà những lần ông nhớ lại vô cùng hãn hữu.

Một buổi tối, thành phố đèn đóm muôn màu sáng rực, các nhà hàng đầy chật khách. Tại một cao ốc như một chàng lãng tử khật khưỡng bên bờ sông, trong niềm hân hoan cùng các chiến hữu ăn mừng thắng lợi, ông tổng giám đốc đã quá chén. Họ gọi những chai rượu từng nửa thế kỷ được ủ dưới những căn hầm nào đó ở tận châu Âu; la liệt đồ nhắm gồm sơn hào hải vị, những chùm nho chín mọng từ Mỹ, những múi bưởi cong như một vầng trăng nhỏ thơm nồng từ Trung Đông. Có kẻ rượu vào mặt đỏ quạch, có kẻ mặt tái ngoét, nhưng ai cũng hồ hởi. Giọng người nào cũng oang oang như tiếng kẻng báo động của hợp tác xã nông nghiệp miền Bắc thời chiến tranh chống Mỹ. Mấy cô tiếp viên bu quanh rót rượu cho họ. Cô nào cũng cao ráo thon thả, ngực non mà căng, gương mặt khả ái, váy ngắn làm chiêu quảng cáo cho cặp đùi nõn nà, lớp lông tơ mịn.

Trong cơn hứng khởi có tính bầy đàn, ông tổng giám đốc tớp nguyên ly rượu ngon, lấy một gắp thức ăn nhai nhồm nhoàm.  Ông nhìn thấy món thịt đà điểu Úc nướng mật ong rừng chưa ai đụng đũa. Một cái gì ngứa ngáy cổ họng làm ông muốn nói, nhưng không thể. Thì ra, ông chợt nhớ đến tô cơm chay, kiến đen bu đầy của thằng bé chăn vịt trong buổi trưa câu cá hai năm trước đây. Có lẽ rượu ngon, gái đẹp đã góp phần cất cao cái không gian suy tưởng của ông, làm vọt ra trong đầu ông những hồi ức nguyên thủy. Ông vốn lưu lạc từ miền Bắc, qua miền Trung vào tới đây, tuổi thơ ông cơ cực vì nhà nghèo. Cho đến khi lớn rồi, ông vẫn chỉ mặc quần áo dài khi đi học, còn về nhà là phải vận quần đùi. Những cái quần đùi ấy khâu đi vá lại, chả khác gì những chiếc váy mấy lớp chằng đụp của những người đàn bà quê mùa ở đầu thế kỷ trước. Ông nhớ những ngày giáp hạt, căn nhà tranh của cha mẹ ông trống trơn từ trước ra sau, không còn thứ gì có thể nhai để đánh lừa những cơn đói đang thụi vào từng khớp xương của họ. Ngoài đồng, bấy giờ lúa mới bắt đầu sậm hột. Thế là mỗi buổi sáng bảnh mắt, thằng bé ấy lại tất tả đi nạy những đám rau má còm nhom mọc trên các gò mả làm thức ăn để sống sót cho đến lúc có thưng gạo đầu mùa nấu trong một cái nồi đất.

Ông lại nhớ đến thằng bé chăn vịt hai năm về trước, cánh đồng ngập nước ban trưa, con rắn lục cực độc bò lên gần háng ông, lũ kiến cỏ chui ra chui vào mũi thằng bé như thể cái hang quen thuộc của chúng. Hình như cái hang đó không còn hơi thở, hình như đó chỉ còn là một xác chết? Nếu cậu bé chết, cái linh hồn bé bỏng từ biệt thể xác non nớt là vì nọc độc của con rắn hay là vì sự kiệt sức bởi lam lũ, đói khát và sự vô tình của những người như ông? Lúc ấy ông đã nghĩ đến chuyện báo cảnh sát, nhưng không hiểu sao lại thôi. Ở những xứ sở hay lên gân về đạo đức, thì số phận của mỗi cá nhân thường được phó mặc cho tự nhiên; vả lại ông không thích dây dưa đến cảnh sát.

Liên tưởng đến đây, tự dưng có một luồng chớp sáng chói, tê dại từ đỉnh đầu đến thái dương khiến ông tổng giám đốc cứng hàm lại, gục xuống bàn ăn. Bạn bè cứ tưởng ông giả vờ say xỉn để tránh lượt cụng ly mới. Đến lúc họ la lên thì linh hồn ông đã dứt áo ra đi rồi. Ông ngồi đó, trong tư thế mềm rũ  mà ta thường thấy của một tay bợm nhậu, đầu vẹo sang bên, miệng phồng lên vì miếng thức ăn chưa kịp nuốt, mùi rượu nồng nặc vã ra từ những chân tóc đốm bạc. Trong khi chờ xe cấp cứu tới, họ dùng nĩa gỗ rút những miếng thức ăn từ miệng ông ra như người ta rút rác rưởi từ một lỗ cống.

Cái chết của ông tổng giám đốc trở thành sự kiện tối quan trọng trong cơ quan ông. Các đơn vị theo ngành dọc, ngành ngang cắt cử đại diện, vòng hoa, phong bì phúng viếng. Ban tang lễ được thành lập để soạn điếu văn. Từng dòng người nối tiếp nhau, đi đầu là những vòng hoa gắn dải băng đen vắt chéo. Ai cũng ra vẻ trầm mặc nghĩ đến việc ông tổng giám đốc ra đi như là một mất mát lớn lao thực sự cho cuộc đời này. Ông trưởng ban tang lễ đọc điếu văn nghe rất thống thiết.

Trong cái chết của ông tổng giám đốc, chỉ có Đào là người cảm thấy cất được gánh nặng từ bấy lâu nay, kể từ cái đêm vợ chồng họ cãi nhau tung tóe vì chuyện đổi sang họ ngoại cho thằng Khu – con trai họ. Có lẽ vì tỉnh táo nên anh thấy đám ma ông tổng giám đốc diễn ra như một màn kịch vụng. Đầu tiên, ban tổ chức tang lễ không dám công bố ông chết ngay trên bàn nhậu, mà nói rằng ông từ trần sau một cơn đau tim. Kế đến họ ca ngợi công lao to lớn của ông với cơ quan như ca ngợi những chiến công vị nghĩa của các hiệp sĩ thời trung cổ. Cứ theo suy diễn của họ thì việc ra đi của ông tổng giám đốc có thể làm thiên nhiên, trong những ngày sắp tới phải thay đổi một vài quy luật.

Đào không để ý đến những lời ca tụng có tính khuôn sáo ấy, anh đang rình mò xem có phụ nữ trẻ nào mang con đến xin đội tang không, nếu có sẽ rắc rối cho ý định của anh. Cho nên công việc bận rộn nhất của Đào trong đám tang bố vợ là để mắt theo dõi tất cả các phụ nữ đến phúng viếng mà có thiếu niên đi kèm. Rất may là sau đám tang ông tổng giám đốc, không thấy có bà hai bà ba nào nhận mặt. Anh thở phào một hơi rõ mạnh.

Sau khi ông tổng giám đốc đã mồ yên mả đẹp thì trong gia tộc ông diễn ra một cuộc tranh giành quyền thừa kế tài sản. Số là lúc sinh thời, ông có mượn vài thân quyến trong dòng họ đứng tên sở hữu giùm ông một số nhà cửa, đất đai, rừng cao su, để khỏi bị rầy rà khi tổ chức bắt kê khai tài sản. Khi ông chết rồi, những người bà con ấy chợt nổi lòng tham, lấy luôn số của nả ấy mà không muốn trả lại. Người nào ít tham hơn thì nói rằng họ cũng hùn vốn trong đó, nên đòi chia đôi chia ba. Vì chuyện này mà cả họ nhà ông tổng giám đốc kéo nhau đi kiện tụng nhau. Dòng máu đào của họ từ đó biến thành nước lã chảy trong huyết quản của những người đồng tộc. Sau vụ việc ấy, thân tộc ông nhiều người không còn nhận nhau làm họ hàng nữa; và mẹ con chị Đầm từ đó cũng bị cấm thăm viếng nhà thờ tổ.

Với Đào thì đây là một cơ hội hiếm hoi để anh tách vợ con mình ra khỏi dòng tộc bên ngoại. Bà mẹ vợ cũng vì lòng căm giận lũ con cháu vô ơn bên chồng, mà hùn hạp hết mọi quyền lực, của cải còn lại của người chồng quá cố cho chàng rể. Giờ đây, đến lượt bà thay đổi như chính thời cuộc thay đổi. Bà uy nghi xuất trận như một hổ tướng, tham dự vào bàn cờ thế đang bày sẵn. Hình ảnh người đàn bà vẻ nhu mì, kín đáo, chỉ thích ngồi nhà đếm tiền cùng con gái, lo hão công việc của đức lang quân ngày nào, không còn lặp lại với bà nữa. Bằng những mối quen biết trước đây của chồng, bà hăng hái xông vào cuộc sắp xếp nhân sự mới trong cơ quan ông. Rốt cuộc, anh Đào đã trở thành truyền nhân chính thức, chễm chệ ngồi vào chiếc ghế tổng giám đốc. Không ai ngờ rằng gần chục năm trời bị bố vợ lạnh nhạt, Đào bây giờ lại đoạt được cái ghế quyền lực mà trước đây, khi nghĩ về nó anh luôn toát mô hôi và nhắm mắt lại. Ai cũng bảo Đào có số làm quan.

Những ngày tháng huy hoàng của Đào chợt đến mà không một lời báo trước làm anh lúc nào cũng thấy phấn chấn. Ở vận tốc ánh sáng, thời gian như bị bẻ cong lại để điểm cơ cực và điểm vinh quang của một đời người phả hơi thở vào gáy nhau. Nếu như trước đây khi còn bị thất sủng, trong ngôi nhà gạch tuyềnh toàng của vợ chồng Đào, chẳng ma nào đến viếng; bây giờ lũ lượt từng nhóm thủ hạ tự nguyện đến lo việc gia đình cho vị tổng giám đốc mới. Họ khuyên anh hãy chuyển đến trung tâm đô thị hiện đại, nơi mấy nhà thầu ruột đã dành sẵn cho anh miếng đất đủ xây một biệt thự vườn. Nhưng Đào không nghe. Anh bảo khu phố này tuy hơi xa trung tâm nhưng là đất phát đường quan lộc. Để chứng minh điều này, Đào đã thỉnh một thầy phong thủy nổi tiếng từ Đài Loan sang ngắm đất. Thầy phong thủy bảo mảnh đất nơi Đào đang ở đúng là đắc địa, quan lộc song trùng.  Để tỏ rõ sự chu đáo, nhóm thủ hạ vẫn biện sẵn miếng đất khu trung tâm đô thị kia cho Đào, đồng thời lo tất tật các khoản chi phí để xây dựng tại đây khu biệt thự  nguy nga như một phủ quan lớn thời trung cổ.

Khu biệt thự có phong vị kiến trúc Gotic, nên trông giống một lâu đài, sơn màu huyết dụ với những mái nhọn thanh nhã chấm vào nền trời; hai tháp tròn đứng so le hai bên hông lâu đài, chu vi lớn, tường dầy chắc nịch, mái hình nấm vươn lên cao, tượng trưng cho hai đường quan – lộc của gia chủ.  Mấy cửa sổ nhỏ sát mái, hình tròn, có trang trí những tấm kính màu như thể thu hết mọi nét huy hoàng của ánh dương vào bên trong. Một bể bơi nước xanh như ngọc được bố trí ở cạnh hiên sau, xung quanh là mấy hàng ghế gỗ sơn trắng trông rất xinh, nơi gia chủ có thể nằm khểnh thư giãn sau một hồi vùng vẫy như chú rái cá dưới nước. Đồ mộc trong lâu đài đều được đục đẽo, chế biến từ một thứ gỗ vàng tâm tốt, vốn là gỗ lậu khai thác trong rừng cấm của quốc gia. Để tăng thêm vẻ duyên dáng, lịch lãm của công trình, người ta đổ một đồi đất cao thoai thoải, trước khi đặt toàn bộ cái lâu đài của ông tổng giám đốc mới lên đó.

Phải mất ba năm trời tiếp theo, Đào mới có đủ cơ hội để loại bỏ những người không chung phe cánh với mình. Trong số đó có người thuộc gia quyến bên vợ. Điều này càng khoét sâu nỗi hận thù giữa họ với nhau. Trong con mắt họ hàng, chị Đầm là kẻ nối giáo cho giặc, đích thị là tên phản bội. Còn Đào, dù được sống trong cảnh giầu có, thế lực, nhưng vẫn nơm nớp lo sợ một ngày nào đấy, cánh đằng vợ sẽ phản đòn quật đổ anh xuống. Thói quen thù dai của tổ tiên vẫn được di truyền đầy đủ trong lồng xương ống máu của hạng người lấy việc tranh giành miếng ăn làm lẽ sống ở đời. Đào trở nên cẩn thận với đồng sự khi gặp họ ở bất cứ nơi nào, ngờ vực họ bất cứ chuyện gì. Mọi hành vi xã giao thân thiện của họ anh đều cho rằng họ đang đóng kịch, bởi chính anh cũng đang đóng kịch như họ.

Đôi khi ngồi trầm tư trong căn phòng rộng thênh thang của tổng giám đốc, anh cảm thấy thương mình và thương cho họ, vì anh cũng như họ - đang bị cầm tù bởi quyền lực của chính mình. Càng thoán đoạt quyền lực bao nhiêu, anh càng bị mất tự do bấy nhiêu. Để đối phó với những hành động du côn có thể xảy ra, Đào chọn một cậu lái xe to khỏe, giỏi võ nghệ và rất kín miệng. Anh cũng có cô nhân viên phục vụ tín cẩn trong việc cơm nước tại cơ quan, đề phòng kẻ nào đó đánh bả độc mình.

Giống như rất nhiều kẻ khác đang ở đỉnh cao của danh lợi, Đào luôn tỏ ra cảnh giác với cái chết bất đắc kỳ tử có thể vận vào mình bất cứ lúc nào. Chính tâm trạng luôn đặt mình đối lập với đồng loại như thế, đã chém đi nửa phần cái tự do của anh.

VII

Đã bẩy năm nay chị Đầm chưa một lần về thăm quê, nhất là để ghé thăm ngôi từ đường của dòng họ mà cha chị khi còn sống đã đổ khá nhiều tiền bạc để xây cất. Từ cái đận họ hàng nhà chị kiện tụng nhau sau khi cha chị mất, nỗi oán hận của những người bà con như vẫn còn nguyên vẹn, trong khi xương thịt của ông tổng giám đốc cũ đã tan tành với đất từ lâu rồi.

Thực ra, nỗi ai oán của đám bà con họ hàng, theo thời gian cũng có bớt đôi phần, nhưng sau những hành vi thanh trừng phe cánh bên vợ của chồng chị, nỗi ai oán đó lại bùng lên như đám cháy một kho xăng giữa mùa khô phương Nam, không cách gì dập tắt được. Trong khi Đào hả hê sung sướng vì thực hiện thành công sách lược “tiên phát chế nhân” trước đây của bố vợ, thì Đầm -  vợ anh - lại dằn vặt, đau đớn về danh tiếng đang đi xuống của dòng tộc và ý nguyện không thành của cha chị. Thì ra lúc về già hay lúc có của, là thời điểm con người ta ý thức về cội nguồn, dòng dõi mạnh mẽ nhất. Chị buồn bã vì mình không phải là con trai. Ý nghĩ ấy làm chị day dứt trong nhiều năm trời chung sống với chồng; là lời giải thích sâu xa lý do vì sao chị bị dòng họ xua đuổi, trong khi chị vẫn sống như một kẻ cùng chung cội nguồn với họ. Như thế, đời chị chả khác gì một cái cây, sau khi bị cơn bão cuộc đời đánh bật lên khỏi mặt đất thì đã bị chính mặt đất từ chối.

Nhiều năm bị ám ảnh trong những suy nghĩ đầy phiền muộn như vậy khiến Đầm cảm thấy cuộc sống của chị như một chuỗi những ê chề mệt mỏi. Tuy nhiên, vào một buổi tối nọ, chị đành phải sửa sang lại vẻ mặt hơi u uẩn của mình bằng cách trang điểm khá đậm để đi dự đám cưới con một người bạn học cũ. Trong đám cưới, nhiều người đã không nhận ra chị bởi nhan sắc chị giờ đây thay đổi theo nghĩa dễ coi hơn rất nhiều so với thủa học trò. Trong ánh mắt của họ, chị vẫn còn là một phụ nữ khá trẻ, đẹp và sang trọng. Họ hỏi thăm hết chồng chị rồi đến con cái chị, sau đó tỏ ra kinh ngạc trước những trái hạnh phúc chín thơm cứ tuồn tuột rụng đầy vạt áo cuộc đời chị. Có vẻ họ thèm thuồng số phận của chị như cơn thèm dở hơi của mấy bà cô ốm nghén.

Những lời khen ồn ào của đám bạn lâu ngày gặp lại không làm Đầm vui lên bao nhiêu, mà chỉ gợi trong chị một nỗi cô đơn thấm thía đến từng chân tơ kẽ tóc. Thấy nôn nao trong người, chị đành xin phép ra về sớm. Vừa ra khỏi đám cưới một đoạn đường, chưa kịp vẫy taxi, Đầm đã phải đối diện ngay với một ánh mắt sắc lạnh đột nhiên xuất hiện, sau đó chị cảm thấy bóng tối nóng ran,  kèm cảm giác bỏng rát trên khuôn mặt. Thì ra chị vừa bị một kẻ lạ mặt tấn công bằng axit. Trong lúc mọi người còn đang bàng hoàng, thì hung thủ đã vọt lên một chiếc xe máy tẩu thoát, vứt lại hiện trường chiếc xilanh dùng để tiêm chủng lợn, bên trong còn dư mấy giọt axit chưa phun hết.

Đầm ngã xuống bên vệ đường trong lúc mọi người nhốn nháo gọi xe cấp cứu. Tất nhiên lúc này gọi xe cấp cứu chỉ là phản xạ lịch lãm của đám đông dành cho nạn nhân, chứ kiếm làm sao được loại xe đó trong điều kiện một xã hội mà việc trang bị xe cứu thương có vẻ như được xếp vào hạng xa xỉ; còn bệnh viện thì luôn quá tải bởi quá nhiều con bệnh và vô số các vụ đâm chém hay tai nạn xe cộ. Một lúc sau, ai đó cũng vẫy được chiếc taxi, người ta bế thốc nạn nhân lên, tống vào trong xe.

Kể từ ngày đó, Đầm như rơi xuống một vực thẳm tăm tối, hoảng loạn. Ánh mắt nồng nàn trước đây của chị giờ đã vĩnh viễn khép lại; nó giống như ánh bình minh từng ngời sáng trên gương mặt chị nay đã vĩnh viễn tắt. Chị kinh hãi nghe con gái miêu tả lại gương mặt mình giờ chỉ còn một hốc mũi tẹt treo trên cái môi sứt như hàm ếch của những quái thai sinh non.  Không biết bao nhiêu lần, tâm hồn chị quằn quại trong ngọn lửa oán hận hành động man rợ của kẻ thủ ác. Vì mục đích gì, hay đây chỉ là một sự nhầm lẫn? Mất ngủ nhiều đêm, bỏ bữa nhiều ngày, thân xác Đầm trở nên tong teo. Cuộc sống Đầm trở thành từng quãng trống rỗng, trồi sụt, gỉ sét. Chỉ có niềm suy nghĩ miên man, vơ vẩn là đều đặn đối với chị; tất nhiên, nó không giống nỗi tương tư thời con gái của chị với anh chàng Trực - bộ đội phục viên, có một đời vợ.

Một buổi chiều nọ, Đầm cảm thấy mình khang khác. Những suy nghĩ của chị bỗng trở nên rõ ràng, khúc chiết. Từ những hốc đen thăm thẳm trong tâm hồn chị phảng phất một niềm an lạc khiến thân xác chị nhẹ bẫng như bay lên được. Chị cảm nhận một thứ ánh sáng tinh khiết, lạnh lẽo từ thiên thu tỏa xuống, ngấm đến tận xương tủy, làm thân thể chị phát sáng như có lân tinh. Một sự thanh thản lạ lùng dâng đầy bên trong mà Đầm chưa bao giờ trải nghiệm, ngoài sự trải nghiệm về nỗi thống khổ đã nung nấu chị bao năm nay. Chị mơ hồ rằng cái chết đang lởn vởn đâu đó; hình như nó đang chiêm ngưỡng những vốc hạt xoàn từ thời bố chị, chiêm ngưỡng cái sản nghiệp qua cổ phần hóa của gia đình chị, chiêm ngưỡng niềm quang vinh của đời chị trước khi mang chị đi.

 Bỗng Đầm nghe từ đâu một tiếng thét phẫn nộ như xê dịch cả không gian chị đang tồn tại. Một bầy ma quỷ hiện ra từ các hốc tối, lông lá, móng vuốt, nhe những chiếc răng nanh đầy máu, gào thét. Trong tích tắc, thân xác Đầm như một bó đuốc bùng cháy. Đầm ráng sức bỏ chạy, nhưng hình như đôi cẳng chân chị đã biến thành đất đá nặng trịch, vô tri giác. Thân xác bất động ấy cứ chìm sâu, tan rữa xuống phía dưới - một vực thẳm đang mở ra dần…

 Đồng tử người đàn bà dãn ra. Lúc đó đã tang tảng sáng, lũ chim ăn đêm đã về tổ yên bình và mặt trời - bình minh ráng đỏ cũng dụi mắt thức dậy.

VIII

Sau cái chết của vợ, Đào tạm ngưng một vài hoạt động của công ty để củng cố tổ chức. Hồi chị Đầm còn sống, vài người họ hàng của chị trong công ty được dựa dẫm, cất nhắc, trong khi năng lực họ chẳng có gì. Nay chị Đầm đã trở thành người thiên cổ, những người này tỏ ra lo lắng cho vị trí của họ. Biệt tài của nhóm người này là thạo nghề quà cáp, thăm viếng cấp trên, tổ chức liên hoan, tiệc tùng và nói chuyện tiếu lâm. Nếu bị cắt giảm, ngữ như họ chỉ thất nghiệp. Tình hình bây giờ, nhìn đâu cũng thấy người thất nghiệp dông dài ngoài đường, bộ máy công chức thì cồng kềnh và cũng đang tìm cách tinh giản biên chế.

Tính nhẩm đợt này có thể giảm mươi vị trưởng, phó phòng và nhân viên sai vặt, trong số đó chủ yếu là bà con bên vợ, Đào cho rằng việc cắt giảm này nhất thiết phải diễn ra từ từ trong năm, kẻo gây sốc trong công ty. Anh mường tượng ra vẻ mặt của họ méo xệch, sưng xỉa như những mo cau héo, hậm hực phản đối trong sự bất lực; vì mọi quyền hành bây giờ đã dồn tuốt trong tay anh. Con đường phía trước của anh giờ đây đang ở khúc phong quang nhất. Không còn tiếng ỷ eo của cô vợ khó tính (lại còn là chủ tịch hội đồng quản trị!). Oai linh ông bố vợ thì đã cùng ổng về thế giới bên kia từ tám hoánh rồi. Anh cũng không lo việc thằng Khu, con trai anh sẽ mang họ ngoại.

Nhưng Đào đã nhầm. Trong khi anh chưa ký quyết định tinh giản được nhân sự nào thì đã phải nhận hàng tá đơn thưa kiện về việc thừa kế số cổ phần rất lớn của công ty mà chị Đầm sở hữu, cũng như việc anh lạm dụng quyền hạn của chủ tịch hội đồng quản trị. Số là trước lúc chết đúng một tuần, chị Đầm đã bí mật làm chúc thư chia cổ phần cho các con và họ hàng, không để lại gì cho chồng. Rốt cuộc, người ta dồn hết số cổ phần đó cho một người bà con của Đầm trong lần đại hội cổ đông. Anh này đang làm trưởng phòng mà Đào rất ghét, định cho nghỉ việc. Sự đời quả là “kẻ cắp gặp bà già”! Sau đại hội cổ đông, anh trưởng phòng nhảy phóc lên chức chủ tịch hội đồng quản trị.

Đào nhận ra rằng, sự ra đi của người vợ không phải là sự chấm dứt những mâu thuẫn vợ chồng, mà đẩy anh vào những xung đột mới, dữ dội, nghiệt ngã hơn. Anh không thấy buồn vì cái chết của vợ, mà chỉ thấy uất ức trong tâm can. Một cú đá hậu - Đào nghĩ, “đúng là một cú đá hậu”. Đầu óc anh vẩn vơ như thế trong một thời gian khá dài, chắc phải ba, bốn tháng.

Vào một đêm khó ngủ, Đào trở dậy, vô tình nhìn thấy mặt mình trong tấm kính cửa sổ phòng. Một khuôn mặt đàn ông mệt mỏi, đen đúa, ngơ ngác dưới ánh sáng của ngọn đèn ngủ năm oát. Ngoài kia, đêm tối mênh mang, lồng lộn. Những vì sao cao tít, nhấp nháy như muốn nhờ bóng đêm ban rải những tai vạ và niềm bất định từ vũ trụ xuống trần gian.

Sáng hôm sau anh dậy sớm, đứng trước gương rất lâu để ngắm hình thể mình, xem có đúng như anh cảm nhận trong đêm qua không. Lâu nay Đào ít soi gương, có chăng chỉ soi từng bộ phận trên mặt, như cái trán, gò má, râu cằm bằng một chiếc gương bé xíu giấu trong túi áo ngực. Anh không thích nhìn cùng lúc thấy toàn thể bản mặt mình, nhất là từ khi bên anh có những cô gái trẻ măng, thân hình cao cao, thon mềm, khéo chiều chuộng.  Lần này Đào soi gương là để kiểm tra xem thần sắc của anh có còn “đủ sở hụi”cho cuộc tranh đua sinh tồn sắp tới nữa không. Vừa nghĩ, anh vừa quan sát những vệt rỗ vằn vện đã mọc sừng, những nếp nhăn giật khuỷu trên bộ mặt đen đúa, phờ phạc; song, ánh mắt anh thì vẫn rất lọc lõi. Ánh sáng ban mai xuyên qua căn phòng sang trọng của tòa lâu đài, chiếu thẳng vào đôi đồng tử Đào, khiến cặp mắt anh lóe lên như cặp mắt cáo.

Thằng Khu, con trai anh bước vào căn phòng từ lúc nào không hay. Nó đã trở thành một chàng trai cao lớn, ngang tàng, đầu tóc hớt kiểu chào mào, nhuộm đỏ. Từ lúc thằng bé mới lọt lòng mẹ, Đào đã chu cấp cho con không thiếu thứ gì. Nó được uống sữa Tây, nghịch đồ chơi trẻ Tây, ngủ trong nôi Tây. Sau này, anh còn thuê gia sư về dạy học riêng cho nó; rồi học võ Taewondo, đi du lịch nước ngoài. Thằng Khu được thoải mái ăn ngủ, vui chơi nên nó chóng lớn, phổng phao như một con voi. Chưa bao giờ cu cậu cảm thấy thiếu tiền mà chỉ thấy thiếu thời gian để tiêu tiền. Cậu sớm phát triển cá tính, ý thức về cái tôi cũng sớm hơn nhiều so với những đứa trẻ khác. Bạn bè bảo tính cậu dễ chịu, nhưng bố cậu lại cho rằng cậu là đứa khắc khẩu và khắc tính với ông.

Hai cha con đã nhiều lần cãi nhau về đủ thứ chuyện, từ học hành đến nghề nghiệp, danh lợi, thậm chí cả thời sự quốc tế. Trong những lần cha con tranh luận rất thoải mái, thằng Khu chưa bao giờ chịu rút lui ý kiến của nó. Nó có vẻ là người theo chủ nghĩa hư vô, bất cần và chả tin thứ gì. Đào láng máng nhận ra rằng, đó là thứ ý nghĩ của tuổi trẻ đang bấn loạn trước những thay đổi của thời cuộc, trước những mâu thuẫn nghiệt ngã giữa lý tưởng và hiện thực. Tuổi trẻ đang bơi giữa những quy chiếu đạo đức - từ lâu lắm rồi - đã được trộn lẫn với sự hủ hóa của chính trị. Nhiều bận, hai cha con tranh cãi với nhau xong, thằng Khu bỏ đi biệt tăm hàng tháng trời. Đào phải nhắn tin năn nỉ mãi nó mới quay trở về. Mệt mỏi vì công việc cơ quan, vì nỗi khó khăn trong nuôi dạy thằng bé, nhiều lúc anh muốn buông xuôi tất cả.

Quan hệ cha con của họ cứ thế, nóng lạnh thất thường, lần này thì căng thẳng tột độ. Do không biết tin đồn thổi từ đâu, rằng chị Đào bị chồng thuê du côn sát hại để anh ta được lấy một cô gái trẻ đẹp (vẫn còn mai danh ẩn tích), mà thằng Khu đâm hận bố nó. Một đêm, trong cơn say, nó trở về nhà, lồng lộn như một con mãnh thú, đập phá tất cả đồ đạc. Những bình gốm cầu kỳ mỹ lệ, mai đồi mồi óng vàng, ngà voi, gạc nai và rất nhiều thứ đắt tiền khác bị băm vụn, rơi vãi tung túe như bãi rác. Nhìn thằng con rũ rượi trong cơn say, mệt lả vì sân hận, Đào liên tưởng đến cái đêm vợ chồng anh cãi nhau gần hai mươi năm về trước. Đêm hôm ấy, anh cũng đau khổ tột cùng, cũng muốn phá tan toàn bộ cái thế giới anh đang có. Anh hồi tưởng bóng vợ mình đêm ấy trắng nhờ, ngồi ủ rũ, mớ tóc dài dính vào nước mắt, mặn chát. Vì sao lịch sử lặp lại, anh không biết! Có chăng, chỉ thấy thấm thía những ảo vọng của con người và tiếng hú dài của thứ hạnh phúc mà con người đeo đuổi.

Sau hơn một tháng, hai cha con mới làm lành được với nhau. Đào nghĩ sẽ thu xếp một ngày gần đây cùng con trai lên thăm mộ vợ ở nghĩa trang thành phố. Hôm nay chính là thời điểm thích hợp để anh nói với nó.

  • Tuần tới bố con ta cùng lên thăm mộ mẹ, con thấy thế nào?

Thằng Khu nhăn mặt, sau đó là một thoáng nghi ngờ trong ánh mắt, nó bảo:

  • Bố đã bắt đầu từ dễ hiểu trở thành khó hiểu rồi đấy. Thế bố định chính xác ngày nào?
  • Thứ bảy cuối tuần được không con, lúc đó việc tuần đã vãn rồi!

Im lặng, thằng Khu ngẩn ngơ nhìn khung ảnh mẹ nó chụp thời con gái, sau cái đận phẫu thuật thẩm mỹ ở Hàn Quốc trở về, một khuôn mặt thanh nữ khả ái, ngời sáng.

IX

Những dích dắc trong đời sống gia đình thường khởi nguồn từ người lớn nhưng sẽ chảy thành dòng về phía lũ trẻ. Hoa Tiên - đứa con gái đầu lòng của vợ chồng Đầm giờ đã trở thành một thiếu nữ, tính tình khá nhút nhát, nhạy cảm.  Thỉnh thoảng mỗi buổi đi học về, cô bé lại chứng kiến cảnh cha mẹ mình khắc khẩu nhau như nước với lửa, thường là sau những lời cay độc của cha cô là sự trả miếng gắt gỏng như dấm chua của người mẹ. Những trận cãi vã giữa cha mẹ cô tưởng chừng đã khép vào quá khứ, ngủ yên ở đâu đấy, nhưng thực ra chúng vẫn chất đống nguyên vẹn trong tâm hồn cô, đôi khi cô giật thót mình, tưởng chừng như thấy chúng đang túa ra từ hai lỗ tai hay từ mỗi chân tóc, thậm chí chúng đang giăng đầy trời, ngay trên đầu cô, như những vết mây xám.

Hoa Tiên cũng bắt gặp nhiều lần ông bà ngoại mình nhìn nhau như hai hòn đá câm lặng, đơn độc dưới khe suối cạn; điều đó luôn gợi lên trong cô bé mới lớn nỗi buồn về cái gọi là hạnh phúc của con người. 

Cô bé nhận thấy, hôn nhân của cha mẹ cũng như của ông bà ngoại giống như một hoang mạc, càng đi sâu càng lạnh lùng, nghiệt ngã. Bởi vì trong cái hoang mạc đó, mùa xuân không thấy có hoa nở, mùa thu không có tiếng xào xạc của lá vàng, mùa đông không có tiếng cựa quậy của mầm sống.  Hai kẻ hậm hực sống bên nhau, nhưng không hiểu vì sao họ cưới nhau. Gia đình mới cứ thế mọc lên, bất chấp việc xô xát hay cãi cọ giữa các đôi uyên ương có thể sinh ra ngay từ buổi sáng đầu tiên sau đêm động phòng.

Tình yêu của con người không còn là điều đáng tin đối với Hoa Tiên nữa. Hạnh phúc – như cô nghĩ - chẳng khác nào những tiếng hú vọng lên từ đáy đại dương sâu thẳm tận Bắc cực. Hoa Tiên sống lầm lũi như một con cá lóc, luôn gối đầu ưu tư tại tầng nước sâu nhất. Thỉnh thoảng cô lại thấy tâm hồn mình than khóc như một hài nhi vừa lọt lòng mẹ.

Sau cái đêm bố mẹ cô cãi nhau, để rồi họ phải ra ở riêng, tuổi thơ của Hoa Tiên cũng tắt ngấm từ đấy. Cô bắt đầu có ý thức quan sát những việc làm của người lớn, nhưng im lặng như chú mèo con trong bóng tối quan sát lũ chuột cống. Từ khi cha cô có chức vị quan trọng thì khách khứa đến ngày càng nhiều. Nhưng Hoa Tiên thường lủi đi, không chịu chào hỏi. Cô cũng không cảm thấy ghen tỵ với cậu em trai, khi nó được ông bà ngoại và cha mẹ cô đặt mọi niềm hy vọng. Thằng Khu nghiễm nhiên trở thành nhân vật quan trọng, mỗi khi khách khứa của bố nó đến thăm. Những dịp như thế nó nhận được nhiều phong bao, được đưa đón như một vị thượng khách và được ngợi ca như một vị hoàng tử.

Đào cho rằng tính ẩm ương của con gái bắt nguồn từ nhan sắc thiếu hụt của cô bé. Vì Hoa Tiên hầu như đã lãnh hết những đặc điểm sinh học tệ hại nhất của anh, hơn nữa, còn lũy thừa những đặc điểm tệ hại đó để chưng ra một khuôn mặt thiếu nữ thô kệch và dáng dấp cục mịch. Nhưng về việc này, Đào ứng xử khác bố vợ. Ngay từ đầu anh đã nảy sinh ý định sửa sắc đẹp cho con gái và muốn đợi đến khi con bé mười sáu tuổi. Theo anh, đó là cái tuổi mọi đường cong thiếu nữ đã xổ hết.

Một chiều cuối thu, nhân ngày nghỉ, gia đình họ nằm lốc nhốc trên những chiếc ghế bố bọc nỉ nâu trong vườn, cạnh hồ nước xanh trong khu biệt thự. Họ cứ nằm suông như thế nói chuyện phiếm. Chả ai muốn đọc sách và hình như chưa bao giờ họ đọc trọn một cuốn sách. Trong ngôi biệt thự này có vô số đồ quý, trừ những cuốn sách.

  • Hoa Tiên, bố cho con đến thẩm mỹ viện nhé, cái thẩm mỹ viện to nhất thành phố ấy. Con sẽ dễ thương hơn đấy! Đào nói.

            Buổi chiều thật thanh bình, bụi tường vi vẫn lác đác nở những bông hoa phớt đỏ, mấy gốc mộc lan cao gầy như những thiếu nữ đang nhón gót làm dáng. Đào hơi mỉm cười với con gái, rồi nhìn về hướng vợ, dò xét. Anh không hiểu tại sao hai người có phản ứng hoàn toàn khác nhau: gương mặt con gái anh chợt đỏ lựng còn gương mặt Đầm - vợ anh thì tái xanh, hình như cô ấy đang run rẩy điều gì bên trong.

  • Con không thích, con không muốn mang khuôn mặt không phải là của mình. Đôi mắt Hoa Tiên đột ngột chuyển màu đỏ ngộn, long lanh nước.

Nói xong, cô bé ôm mặt chạy về phòng riêng, bỏ lại phía sau những tiếng khóc tấm tức bị ẩn chìm bao lâu nay. Sự việc có vẻ hơi bất ngờ với Đào. Anh cứ nghĩ con bé sẽ vui sướng, nào ngờ sự thể như vậy.

Phút chốc, Đào trở nên thẫn thờ, còn vợ anh quay mặt đi, cố che dòng lệ đang trào mạnh xuống gò má.Trong phòng riêng, Hoa Tiên bắt đầu vả đôm đốp vào khuôn mặt mình như  vả vào mặt của một kẻ lạ lẫm nào đó. Có lẽ cô bé hành động một cách vô thức. Khi mẹ cô mở được cửa phòng thì mặt cô bé đã sưng vù như bị ai thổi bong bóng. Hai mẹ con cứ thế ôm nhau khóc rỉ rả suốt đêm. Với số phận của họ, hình như có điều gì vừa thống nhất, vừa đối lập, vừa giống nhau, lại vừa khác nhau.

Sau khi chị Đầm qua đời, chỗ dựa tinh thần của Hoa Tiên cũng biến mất. Cô càng tỏ ra xa lạ với cha mình. Thằng Khu thì lang thang, chơi bời với bạn bè, chẳng ngó ngàng gì đến cô chị mà nó xem là dở hơi. Đôi khi Hoa Tiên bỏ nhà đi du lịch, xem bói, cúng vái, việc học hành của cô bê trễ. Bố cô cũng đi công tác suốt. Khu biệt thự đóng cổng im ỉm, có khi hằng ba bốn tuần không thấy mở.

Rồi một hôm, có mấy toán nhân viên công lực đến khám xét khu biệt thự. Người ta phải dùng kìm cộng lực để mở mấy ổ khóa to tướng ở cánh cổng. bấy giờ mọi người mới ngã ngửa ra: bố con thằng Khu bị bắt vì phạm pháp. Theo thông tin từ cơ quan chức năng, thằng Khu và bố nó phạm tội mua bán và vận chuyển trái phép chất ma túy.

Về sau Hoa Tiên được nghe kể rằng, hôm đi nghĩa trang viếng mộ mẹ, thằng Khu đã lén dấu một bọc lớn ma túy đá vào xe hơi. Trên đường đi, thay vì đến nghĩa trang thành phố, thằng Khu bảo bố nó vòng xe ra hướng xa lộ để gặp bạn. Thế là hai bố con cãi nhau. Thằng Khu rút dao, từ phía ghế sau chẹt yết hầu ông bố, buộc Đào phải làm theo ý nó.

Đào thấy đây là lần đầu tiên trong đời anh mất cảnh giác trầm trọng. Giá anh kêu cậu lái xe chở hai bố con đi thì đâu đến nỗi! Anh cũng không ngờ thằng con trai mình đã biến thành quỷ từ lúc nào.

Từ xa lộ, chiếc xe hơi rẽ vào con đường nhỏ trải toàn gạch vụn và xỉ than, uốn theo bờ một con sông. Ven đường, thỉnh thoảng bắt gặp những bụi cây dại phủ đầy bụi, mấy chú bò uể oải gặm cỏ. Dòng nước đục mờ loáng thoáng trôi dưới nắng chiều. Một đàn chim trời lẽo đẽo bay dọc sông, lạ lùng nhìn chiếc xe đang kéo theo đám bụi vằn vện. Sát mé sông, sau những khu vườn tươi tốt, thấp thoáng những ngôi biệt thự xinh xắn; chắc chúng thuộc quyền sở hữu của những tay nhà giàu, hoặc của những tay chuyên làm nghề săn đất bán lấy lời.

Xe của họ dừng trước cái cổng lớn nhưng kín đáo của một biệt thự, tường cao, dầy, có hàng kẽm gai như bốt lính; bên trong biệt thự trồng đầy cây xanh, khung cảnh lạ lẫm.

Phút chốc, không rõ từ đâu xuất hiện ba thanh niên đi tới, dáng vẻ rất đáng nghi. Thằng Khu rút con dao ra khỏi cổ bố nó và xọc tay vào cốp xe cầm một bọc lớn chờ sẵn.

Thình lình xuất hiện bốn năm thanh niên mặc thường phục, tay lăm lăm súng ngắn, nhanh chóng tiếp cận chiếc xe. Đào thấy cổ mình vừa thoát khỏi lưỡi dao của thằng con thì cái đầu anh lại bị đe dọa bởi những họng súng của lực lượng cảnh sát chống tội phạm.

Sau khi bố và em trai đi tù, Hoa Tiên đón bà ngoại đến ở cho đỡ hiu quạnh. Bà ngoại cô đã tám mươi, da đồi mồi, lốm đốm như hạt đỗ. Gương mặt phốp pháp ngày xưa của bà cụ, giờ đã héo quắt; lơ phơ mấy cọng tóc bạc còn dán vào hộp sọ. Do bệnh nhức mình nhức mẩy thường xuyên hành hạ, nên bà cụ hay than phiền về tình trạng sức khỏe của bản thân. Đôi khi Hoa Tiên thấy bà ngoại thút thít khóc một cách vô cớ, rất khó hiểu. Sau những biến cố ba đời của gia tộc, nhà cô giờ đây chỉ còn bốn người: hai người đang ngồi tù, hai người còn lại không ngồi tù nhưng cô chắc chắn rằng, chả sướng hơn hai người kia!

Thoạt đầu, Hoa Tiên tưởng rằng trong hoàn cảnh của cô bấy giờ, được sống với bà ngoại sẽ đỡ cô độc hơn; nhưng sự thể gần như ngược lại. Hai người không chia sẻ được điều gì với nhau cho ra hồn. Trong khi bà cụ luôn hồi tưởng về quá khứ vinh quang từ thủa ông ngoại cô còn sống, thì cô lại cố né tránh cái quá khứ đó. Hoa Tiên như thấy mình bị lạc loài vào thế giới của gia đình cô, một thế giới không bình thường nhưng rõ ràng là bình thường ở xứ sở này. Cô thực sự thấy khổ tâm khi mỗi ngày phải tiếp xúc với bà ngoại mình. Dần dần, họ trở thành hai cái bóng, vừa quen thuộc, vừa xa lạ nhau.

Cảnh nhà vắng vẻ, hai bà cháu chỉ sinh hoạt ở lầu dưới. Những lầu trên của ngôi biệt thự trống trải, bụi bặm, không lấy đâu ra hơi người, lâu ngày, chim chóc rủ nhau đến làm tổ.

Niềm vui duy nhất của Hoa Tiên (đúng hơn là lòng cô nhẹ nhõm đi) khi nghe lũ chim ríu rít với nhau mỗi buổi sớm và chí chúe với nhau lúc hoàng hôn nhập nhoạng. Trong số đó, Hoa Tiên chú ý một bầy én, một thứ én nâu, khỏe mạnh, mộc mạc. Có lẽ chúng bay đến từ biển. Sải cánh chúng dài hơn sải cánh những con én khác, cặp mắt linh lợi, tiếng kêu rất trong, rõ ràng là những vị khách vui tính. Chúng kéo nhau đến sống ở căn biệt thự, đông dần, làm những cái tổ to tướng dưới các đòn kèo và những thanh xà ẩn dưới mái ngói.

Bà ngoại Hoa Tiên như cũng khỏe lên kể từ khi nhận ra đàn én. Có những chiều tà, dù mắt đã kém, bà cụ vẫn cố hiếng lên khoảng trời hơi sáng chếch mái hiên, nơi những chấm đen đang hiện rõ dần, thẳng hướng về cái lâu đài màu huyết dụ. Không rõ là bà cụ vui vì tiếng kêu ríu rít của bầy én, hay vì được thưởng thức những tổ én quý báu, to như những tai thỏ mà bà thường bảo là “lộc trời”! Bao nhiêu năm rồi bà xơi “lộc thiên hạ”, nay xơi tiếp “lộc trời”. Hai thứ lộc ấy giống nhau ở chỗ, chúng làm cho người hưởng lộc rất hả hê. Có lẽ, đó là niềm an ủi đã thành nếp của bà cụ. Rõ ràng lũ én đã làm cho hai bà cháu gắn bó với nhau hơn.

Rồi mùa mưa lại đến. Trong mấy tuần đầu, bầu trời vẫn tấm tức chưa muốn mưa. Vài hạt mưa đầu mùa chỉ làm bốc lên mùi nắng oi nồng của mùa khô trước, khiến cho cơn khát của cây cối và chim chóc càng vật vã. Nhưng một buổi chiều nọ, mưa bất ngờ ào đến, xối xả, mãnh liệt. Những tia chớp vụt ngang ngôi biệt thự, tỏa ra mùi khét lẹt cùng những tiếng nổ lớn. Hoa Tiên lo sợ cho bầy én đi kiếm ăn ngang đường chưa kịp về. Cô vội lao lên lầu.

Qua bóng tối nhập nhoạng, cô nhìn thấy lũ chim gì đang chen nhau, lúc nhúc dưới mái ngói, trông giống như lũ dơi. Nhìn kỹ lại thì đúng là én. Hoa Tiên nhận ra lũ én vì những cái mỏ nhỏ xíu và sải cánh nhọn của chúng. Nhưng điều làm cô kinh ngạc là nhiều con én bị rụng hết lông đuôi, đít chúng lòi ra chiếc phao câu nhỏ như hạt đậu. Thì ra bàn chân cô đang giẫm lên mảng lông đuôi của chúng. Mỗi lần lũ én ngọ nguậy, từng túm lông đuôi lại rơi lả tả. Những ngày sau, nhiều con kiệt sức, rớt xuống, xác héo quắt.

Kể từ ngày đó, bầy én không sao kéo được tổ nữa, ngoài những tổ còn sót lại từ những tháng trước. Thương lũ chim, mỗi ngày Hoa Tiên lại leo lên lầu thăm chúng. Lần này cô thấy nhiều con đầu trọc lốc, mắt phủ lớp mộng trắng, cử động chậm chạp; không còn nhìn ra hình hài của loài én. 

 Ngoài kia, trời vẫn trong xanh, cao vợi, gió vẫn mênh mang rộng rãi. Thế là những con én ấy chẳng bao giờ còn cơ hội lao vào bầu trời tự do.

Không biết những gì đã xảy ra trong thâm tâm Hoa Tiên, khi cô thấy lũ én cụt mất đuôi sau một thời gian sống trong lâu đài nhà mình.

Bẵng đi mấy năm, hàng xóm không còn nhìn thấy Hoa Tiên đâu. Chẳng ai biết vì sao cô bỏ đi. Nghe nói rằng cô đi tu, cũng có người nói cô ra biển tìm những con én lành lặn.

Trong tòa lâu đài màu huyết dụ to tướng ấy chỉ còn một bà cụ già cùng người giúp việc. Những con én cuối cùng cũng đã bỏ đi mất. Thế là bà cụ không còn được ăn “lộc trời”, nhưng vẫn sống phong lưu như xưa; và nghe đâu – mặc dù không thiết sống với một thân thể già nua, quắt quéo như thế, nhưng bà cụ sống rất thọ.

Tháng 2/2016

(Nguồn: Tạp chí NV&TP)

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *