Chân dung văn

1/6
8:42 AM 2018

TIỂU THUYẾT VỀ ĐỀ TÀI NÔNG DÂN ĐOẠT GIẢI NOBEL VĂN HỌC

NGUYỄN CHÍ HOAN Tiểu thuyết Nông dân của nhà văn Ba Lan Wladyslaw Reymont (hoàn thành năm 1908) mang lại cho tác giả giải Nobel văn chương năm 1924 là tác phẩm hết sức đặc sắc, được viết bằng thứ ngôn ngữ thuần Ba Lan và tạo lập một bức tranh sử thi toàn diện về đời sống nước này cuối thế kỉ XIX.

 Tiểu thuyết này được dịch giả Nguyễn Văn Thái dịch sang tiếng Việt, xuất bản cuối năm 2012 và giành được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2013.

Wadysaw Stanisaw Reymont sinh năm 1867 tại thị trấn Kobiele Wielke gần thành phố Lodz miền nam Ba Lan - một khu vực ngày đó còn bị Sa hoàng Nga cai trị. Reymont trải qua thời thơ ấu nơi làng quê, không gian sau này được ông tái hiện một cách chân thật và đặc sắc nhất trong các tác phẩm của mình. Cha của Raymont là nhạc công organ và muốn con mình theo nghề ấy. Ông được rèn tập piano từ nhỏ nhưng lại tỏ ra mê đọc sách hơn đàn. Ông đọc nghiến ngấu các tác phẩm văn học bất cứ lúc nào có thể.

Học hết lớp ba trường làng, Raymont trượt kì thi vào trường cấp hai ở Lodz - loại trường học mà vào thời đó đang bị buộc phải Nga hóa, không cho phép học sinh nói tiếng Ba Lan trong trường. Raymont rời quê lên thủ đô Warsaszwa và được phường hội thợ may nhận vào làm thợ. Thời kì này ông thích thú quan tâm đến sân khấu và nuôi dưỡng đến tận cuối đời tình yêu với kịch nghệ. Ông không yên ổn được với đời thợ. Do bị nghi ngờ là tham gia vào vụ bãi công ở Lodz nên ông bị phường hội trục xuất. Vậy là vừa mười bảy tuổi Raymont bắt đầu cuộc sống phiêu bạt. Ông thử tham gia gánh kịch rong nhưng sớm nhận ra mình không có tài diễn viên. Ông gia nhập một tu viện nhưng cũng không vượt qua được vai trò một lễ sinh. Sau ông vào làm công nhân đường sắt, ở một xưởng máy. Lương công nhân rất thấp nên Raymont sống cảnh đói rét kinh niên. Tuy nhiên công việc này lại để cho ông có thời gian viết lách. Ông viết liên miên như nhập đồng các thể loại từ truyện ngắn, thơ, kịch bản sân khấu, rồi tiểu thuyết. Nhưng ông cũng rất khắt khe với sáng tác của chính mình. Viết xong, khi đọc lại nếu thấy không ưng ý ông lập tức bỏ… vào lò sưởi, bắt tay viết lại từ đầu. Sau này nhiều người nhận định ông giống như Maxim Gorky, chỉ dựa vào thiên tài bẩm sinh và những trải nghiệm đường đời, dùng những chuyến phiêu lưu của mình làm chất liệu ban đầu cho hư cấu. Trong những năm từ 1884 đến 1894, việc ghi nhật kí đều đặn đã giúp ông tự đào luyện kĩ thuật và phong cách viết.

Sau đó, ông bị tai nạn lao động và nhận được một khoản đền bù đủ giúp mình tạm khỏi lo chuyện cơm áo, nhưng phải nghỉ việc ở đường sắt. Năm 1893 ông trở lại Warsaszwa, thất nghiệp, nhưng gặp con đường lớn trong văn chương. Ông thấy có một đoàn hành hương đi Jasna Gora và xin đi lấy chất liệu viết Cuộc hành hương về Núi sự sống. Tác phẩm này được xuất bản năm 1894 lập tức thu hút sự chú ý của giới tinh hoa trí thức và văn học ở thủ đô bởi nghệ thuật khắc họa, miêu tả tâm lí con người trong xã hội hiện tại hết sức điêu luyện. Tiểu thuyết thứ nhất của ông được xuất bản năm 1896 viết về đời sống sân khấu có tên Nữ diễn viên hài. Sau đó ông xuất bản tiếp tiểu thuyết thứ hai Xáo động kể về một người đàn bà trẻ nổi loạn và hiểu ra rằng việc chống lại luật lệ của xã hội sẽ chỉ đi đến thất bại.
 

Năm 1899 ông cho xuất bản tiểu thuyết Đất hứa, miêu tả cuộc công nghiệp hóa cuồng khấu ở thành phố Lodz và những hệ lụy quả tàn nhẫn của nó. Tiểu thuyết có kết cấu đặc biệt, các nhân vật, các dân tộc, không gian, thời đại… đều được soi chiếu qua một cái nhìn như kính vạn hoa. Qua tác phẩm này, Raymont bày tỏ quan điểm của mình rằng công nghiệp hóa như một con quái vật ăn thịt người, ông đồng thời cũng sớm nhìn ra cuộc tranh luận về môi sinh đã sớm khởi nguồn từ đó.

Năm 1902, Raymont cưới Aurelia Szablowska - nữ y tá mà ông gặp gỡ từ ngày đang hồi phục sau tai nạn lao động ở công xưởng đường sắt. Họ cùng nhau sang Paris. Và ở đó Raymont khởi sự viết tác phẩm lớn nhất của ông mà sau này được coi là sánh ngang những kiệt tác của Thomas Hardy và Émile Zola: tiểu thuyết sử thi trường thiên Nông dân. Châm ngôn chất chứa tinh thần của câu chuyện về những người nông dân làng Lipce trong cuốn tiểu thuyết đồ sộ này là: “Tất cả mọi việc của chúng ta ngày lại ngày vẫn thế … một câu hát dân gian mà sốt ruột quá bà già bỗng cất lên tiếng hát nho nhỏ và run rẩy … Bọn con trai cùng Jagna cũng khe khẽ hát theo và cứ như thế âm thanh xuyên qua mọi chỗ” (tr.154) và tinh thần ấy cũng biểu hiện hiển nhiên trên cấu trúc bốn phần của tác phẩm gồm bốn quyển: Thu - Đông - Xuân -Hạ. Toàn thiên tiểu thuyết không ghi dấu ngày tháng cụ thể nào, chỉ chia thời gian câu chuyện theo nhịp điệu ngày và đêm, mô tả mọi việc trong nhà ngoài ruộng, việc cưới việc tang... Hòa cùng nhịp điệu lớn của bốn mùa thiên nhiên ấy là nhịp điệu của “thánh thần” trong những kì lễ trọng của nhà thờ - có vai trò gạch nối giữa con người với vũ trụ - khiến câu chuyện trở thành một phúng dụ về thế giới của con người trong tính tự nhiên bản chất hàng đầu của nó. Sự dở dang như là đặc tính nền tảng của đời người hàm ngụ trong sự khởi đầu chuyện kể này từ mùa Thu và khép lại ở mùa Hạ. Không có gì trọn vẹn và hoàn tất trong suốt cả câu chuyện lớn lao, ngoài gieo và gặt, sinh ra và chết đi. Quan điểm tự nhiên triệt để này mang một xúc cảm lớn xuyên suốt hơn một nghìn trang sách, không hề suy giảm ở bất kì chương đoạn nào, ở bất cứ nhân vật nào trong số cả trăm nhân vật được kể đến, từ đứa bé ẵm ngửa tới những ông bà gần đất xa trời, từ những vai phụ không tên tuổi, hay thấp thoáng đi qua, đến những vai chính nổi bật. Sức mạnh khổng lồ đó của cảm xúc biểu hiện một cách giản dị, ngọn ngành, chặt chẽ, thông tuệ và đầy bất ngờ.

Cốt truyện của cuốn tiểu thuyết lớn này có kết cấu đơn giản mang bóng dáng sử thi: hai người đàn ông hùng mạnh nhất làng tranh đấu với nhau về quyền sở hữu ruộng đất, sở hữu một cô gái đẹp nhất làng. Một câu chuyện trong nhà của gia tộc Boryna, điền chủ lớn nhất làng Lipce, giữa ông bố Maceji Boryna với con trai trưởng Antek Boryna khi người con trai dai dẳng đòi chia ruộng đất thừa kế mà ông bố thì kiên quyết chỉ chia khi nào mình nhắm mắt xuôi tay. Mâu thuẫn đó lên đến đỉnh điểm khi người cha Boryna tục huyền chọn lấy cô Jagna đẹp nhất làng, trưởng nữ của gia tộc Paczes giàu thứ nhì trong làng. Trớ true Jagna lại là người mà Antek trẻ trung đẹp trai, giỏi giang và khỏe nhất làng yêu mê mệt và cũng được đáp tình, mặc dù anh đã có vợ có con. Người cha gia trưởng Boryna đã chiến thắng đứa con đẻ của mình và đuổi con trai khỏi nhà. Hành động này phản ánh một sự tái lập thường xuyên của trật tự đạo lí cổ truyền, cái đạo lí đã thành tạo qua đấu tranh sinh tồn tự nhiên ban sơ, ủng hộ sức mạnh của thể chất và sở hữu, những thứ sinh ra và dung dưỡng uy thế tinh thần của con thú đầu đàn. Và cũng qua những chuỗi sự kiện như thế, bộc lộ cái quyền lực u ám của bản năng, của luật bầy đàn.

Nhưng tấn kịch của con người cũng được tái lập. Boryna dẫn đầu nông dân làng Lipce trong cuộc chiến đấu chống những người làm thuê của dinh đại điền chủ chặt phá cánh rừng thuộc sở hữu của dân Lipce. Cuộc chiến tàn khốc và Boryna can trường bị trúng đòn chí mạng, đúng thời khắc đó, Antek đột ngột cảm thấy mối hận thù dai dẳng tưởng không thể vượt qua với cha vụt biến mất, máu gia tộc chảy trong tim mình, và nhảy vào cứu cha, giành được ưu thế và chiến thắng chung cuộc cho dân Lipce. Sau rồi vì cuộc chiến đó Antek phải đi tù, lại trở thành người anh hùng chính đáng của dân Lipce.

Wladyslaw Raymont để cho tất cả đều có tiếng nói trong câu chuyện này. Các sự kiện trong đời sống của làng Lipce luôn được ông kể qua miệng của đám đông, lần lượt đàn ông, đàn bà, lớn và bé, già cũng như trẻ, giàu và nghèo. Những chuyện nhiều lúc nghe như vặt vãnh ngồi lê, nhiều lúc u tối trì độn hay ác độc, cũng thường lóe sáng trí tuệ dân dã qua phương ngôn thành ngữ hay dân ca, đầy một lòng thương xót, đùm bọc yêu thương trong tính cộng đồng và hết sức sinh động, tỉ mẩn, luôn bám chặt theo nhịp điệu công việc thời vụ, mùa lễ tôn giáo, sinh hoạt của các gia đình... Tất cả những tình tiết lớn nhỏ bề bộn một cách tự nhiên đó lại được sắp xếp tinh tế, rất chặt chẽ, trong một trật tự thầm lặng và dứt khoát, cứ dần dà bộc lộ qua từng lớp cái bản chất sâu xa của ý niệm mà ta gọi là “nông dân”.  Tính chất sử thi của truyện kể này tạo nên trên nền tảng của một tư tưởng nguyên tuyền và máu thịt của những người ta gọi là “nông dân”, về ruộng đất, mà tính thiêng liêng dựa trên niềm tin Chúa ban và niềm tin vào quyền sở hữu đất đai của người nông dân như là một quyền tự nhiên nền tảng.

Ngoài một vài dấu vết mờ tỏ như đồng rúp cùng lưu hành với đồng zloty, như một hai chỗ nhắc đến Sa hoàng và quan công sứ - những danh vọng quyền lực xa vời dường như chỉ vươn bóng đến làng Lipce qua một lần xuất hiện duy nhất của ngài huyện trưởng, qua thấp thoáng dinh đại điền chủ ở bên kia cánh rừng - có thể nói chất “Ba Lan” đậm đặc trong Nông dân, đưa tác phẩm này trở thành biểu tượng về nguồn cội của xứ sở này.

Tiểu thuyết Nông dân đưa Raymont đến giải Nobel văn chương năm 1924,  một năm sau ông qua đời. Dường như ông đã tiên liệu điều này. Trong diễn từ với Viện Hàn lâm Thụy Điển, ông đã giãi bày: “Tôi vẫn còn nhiều điều muốn nói và khao khát mãnh liệt xuất bản những chuyện ấy, nhưng biết là cái chết có để cho tôi làm không?” 
 

Nguồn: Văn nghệ Quân đôị

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *