Tham luận của Trang Hạ
Xin chào quý vị.
Một người viết trẻ tại Việt Nam thông thường được gọi là nhà văn trẻ, nhà thơ trẻ khi thực tế anh ta không còn trẻ nữa, ba lăm hoặc bốn mươi, bỏ túi vài giải thưởng văn chương bé nhỏ. Đó là lý do vì sao tôi đang đứng ở đây, mỉm cười hài hước về danh nghĩa của mình là nhà văn trẻ Việt Nam. Nhưng điều đó không ngăn được sự tự tin của tôi, khi nói về nghề viết và vị trí của người viết trẻ tại Việt Nam, một cách nghiêm túc với quý vị.
Hành trình sáng tác và quá trình trưởng thành bút lực của tôi giống hầu hết những người đam mê viết văn làm thơ trên toàn Việt Nam: Chúng tôi bắt đầu tìm kiếm con đường sáng tạo và hoàn chỉnh các tác phẩm của bản thân khi mười lăm tuổi, thành danh khi hai mươi, và mất khoảng mươi, mười lăm năm chinh phục tất cả các tờ báo văn nghệ, các chuyên mục văn chương, các nhà xuất bản cho tới khi được Hội Nhà văn Việt Nam để mắt tới. Nói đúng hơn là chúng tôi để mắt tới Hội Nhà văn Việt Nam.
Bởi vào độ tuổi này, người đã sống chững chạc, bút đã có nội lực, chúng tôi nhận ra trách nhiệm của chúng tôi với độc giả và tác phẩm, một sự nhận biết trách nhiệm khác hẳn so với khi mới đôi mươi. Đó là trách nhiệm xã hội và công dân. Một nhà văn không thể tách rời đời sống và tác phẩm không thể tách rời nhân sinh. Và theo cách đó, dù muốn hay không, tác phẩm cùng nhà văn cũng đã trở thành một phần của văn chương Việt Nam.
Vào năm tôi tròn hai mươi tuổi, tôi đoạt giải thưởng Văn Học Tuổi Hai Mươi của báo Tuổi Trẻ và Nhà xuất bản Trẻ, sau đó là cuốn sách đầu tay được xuất bản với số lượng bán gấp đôi, gấp ba những nhà văn gấp đôi, gấp ba tuổi tôi khi đó. Và tôi nghĩ bạn đọc phải tìm đến sách của tôi. Bởi một nhà văn lăn xả vào bạn đọc sẽ hài hước y như một vở kịch đả kích thói háo danh và thiếu kiềm chế. Nhà văn chỉ nên xuất hiện khi tác phẩm đã ra mắt, được vỗ tay hoan hô, và nhà văn bước ra khiêm tốn nghiêng mình cảm tạ thịnh tình của các bạn đọc hâm mộ.
Nhưng vào thời điểm mười năm sau đó, khi khoa học kỹ thuật đã phát triển, mạng Internet phổ biến khắp nơi, bạn đọc trên mạng của Việt Nam lên tới con số gần hai mươi hai triệu người, thì tình thế đã thay đổi. Một cuốn sách văn học hay bán trên toàn Việt Nam chỉ được hai nghìn cuốn, không thể so sánh với một tác phẩm được hàng triệu bạn đọc trên mạng. Vào thời điểm đó, tôi và rất nhiều người viết trẻ tuổi tại Việt Nam nhận ra, mạng Internet là cơ hội mới của người viết.
Nhưng quan trọng hơn là nhận ra vị trí của người viết văn đã thay đổi triệt để, so với mười năm trước. Nhà văn không biết cách tiếp thị văn chương tới công chúng là một nhà văn yếm thế và bảo thủ. Chủ động đến với độc giả là một sự lựa chọn thông thái của nhà văn, nếu không muốn văn chương chết yểu, hoặc công chúng quay lưng lại với văn chương, không phải vì thù ghét văn chương, mà là bởi bị những niềm đam mê khác trên mạng hấp dẫn, như viết blog, chơi games, tương tác qua các mạng xã hội, xây dựng và sử dụng các tiện ích mạng. Nhà văn nếu không lên mạng và lăn xả vào bạn đọc, nhà văn ấy sẽ chậm chân, thậm chí lãnh cảm với bạn đọc.
Một cơ hội khác nữa là mạng Internet xóa nhòa ranh giới địa lý của người đọc. Người đọc chỉ còn bị phân hoá bởi ngôn ngữ mà thôi. Không còn độc giả Hoa Kỳ, độc giả Nhật Bản, độc giả Trung Quốc, độc giả Việt Nam v.v… mà giờ đây thế giới ảo chỉ tồn tại độc giả tiếng Việt, độc giả tiếng Hoa, độc giả tiếng Anh… Vì thế, nhà văn ngồi tại Hà Nội hoàn toàn có thể chinh phục độc giả dùng cùng một ngôn ngữ trên thế giới. Khi thế giới ngày càng chú trọng tới những giá trị văn hóa mang tính chất “địa phương hóa”, thì nhà văn lại đối mặt với những thách thức mang tính toàn cầu như: Đề tài của anh có làm bạn đọc thế giới quan tâm không? Người đọc cần gì khi tìm kiếm văn chương của anh? Họ thấy diện mạo văn chương Việt thế nào thông qua anh?
Tôi cho rằng, việc quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài thực chất là một cuộc hoán đổi vị trí cấp thiết của nhà văn Việt Nam: Nhà văn đừng ngồi chờ công chúng tới tìm mình; Nhà văn đừng ngồi chờ nhà xuất bản nước ngoài tìm tới, cho anh một cơ hội vượt biên giới; Nhà văn càng không được phép ngồi chờ một dự án nào đó của Hội Nhà văn Việt Nam giúp anh đôi cánh tới công chúng nước ngoài. Nhà văn buộc phải chủ động gánh lấy trọng trách lớn lao ấy: Anh phải tìm cách tự tiếp thị bản thân và văn chương của anh. Phải tự chinh phục bạn đọc nước ngoài. Nếu anh thực sự cho rằng, anh là người viết, và sứ mạng của người viết không chỉ là sáng tạo không ngừng những chất liệu đọc, còn có trách nhiệm đưa những thông điệp đó tới bạn đọc một cách trọn vẹn.
Có người cho rằng, quảng bá một thứ văn học ra độc giả nước ngoài chỉ cần dịch giả là đủ. Tôi cho rằng không đúng, khi nhà văn không lựa chọn vị trí đầu tiên trên trận tuyến văn chương, vị trí thách thức cực điểm là Sáng tạo và Chinh phục, không ý thức được việc mình phải đối diện cả thế giới, thì không một dịch giả, một nhà xuất bản hoặc hiệp hội nào chinh phục bạn đọc nước ngoài giúp anh được.
Vào năm mười tám tuổi, tôi sáng lập và điều hành một nhóm các cây viết cùng lứa tuổi tại cả miền Bắc và miền Nam, mang tên Hương Đầu Mùa, dưới sự bảo trợ của tuần san Hoa Học Trò. Chúng tôi viết văn, sáng tác thơ, đoạt các giải thưởng văn học dành cho thanh niên, bồi dưỡng và giúp đỡ những người viết trẻ gia nhập đội ngũ sáng tác. Hơn bốn mươi cây viết ngày ấy giờ đây đều trở thành người viết văn, viết báo được ưa chuộng tại Việt Nam. Vào năm 2009, tôi tiếp tục sáng lập website văn học mạng đầu tiên tại Việt Nam http://vanhocmang.net, tập hợp gần hai mươi nhà văn mạng để bắt đầu kỷ nguyên mới của văn chương trẻ, nhà văn tìm cách tới với người đọc một cách tích cực và lôi cuốn nhất. Thế nhưng đó mới chỉ là những nỗ lực bề ngoài, một cách tiếp thị văn chương cố gắng chạy theo cho kịp với nhu cầu đọc và hình thức đọc của bạn đọc.
Còn về nội dung, tôi cho rằng, đội ngũ viết trẻ của Việt Nam có lợi thế về quan điểm sống, giá trị quan hiện đại, những đề tài tới từ đời sống giới trẻ hiện đại và sự quan tâm của người hiện đại với các giá trị nhân văn. Nhưng quan trọng nhất là người viết trẻ hầu hết đều giỏi ngoại ngữ, có thể giao tiếp tốt với nhà văn nước ngoài và độc giả nước ngoài, thậm chí sáng tác bằng ngoại ngữ, viết những phiên bản tiếng nước ngoài cho những tác phẩm của mình.
Năm 2008, tác giả Hà Kin với tác phẩm văn học mạng “Chuyện tình New York” đã được đông đảo bạn đọc Việt Nam hoan nghênh, với những thử nghiệm về văn học mạng, văn học nữ giới. Sau một thời gian, tác giả Hà Kin hoàn thành “Chuyện tình New York” bằng tiếng Anh “New York love stories” kèm audibook. Độc giả tiếng Anh đón nhận “New York love stories” bởi là một câu chuyện tình lãng mạn, dễ đồng cảm chứ không phải những tuyên ngôn đao to búa lớn, đôi khi bị vướng mắc bởi các khác biệt văn hoá. Hình ảnh một nhà văn Việt Nam quan tâm tới độc giả tiếng Anh, viết sách cho họ, tôi chưa nói đến việc sách hay sách dở, thì đã là một nỗ lực cá nhân rất tích cực để khơi lên sự quan tâm của công chúng nước ngoài, cũng như kéo gần khoảng cách giữa người viết Việt - bạn đọc ngoại quốc.
Năm 2009, cuốn tiểu thuyết “Chuyện kể dưới ngọn đèn đường” của tôi đã được Nhà xuất bản Phụ Nữ và Công ty sách Đinh Tị xuất bản, đồng thời tôi bắt tay vào viết cuốn sách bằng tiếng Hoa. Dự kiến vào giữa năm 2010, “Chuyện kể dưới ngọn đèn đường” bằng tiếng Hoa được xuất bản tại Đài Loan và cho đến nay, đã có hãng truyền hình Đài Loan đề nghị chuyển thể thành phim truyền hình dài tập của Đài Loan. Tiểu thuyết của tôi không xuất sắc như các tác phẩm đoạt giải thưởng văn học trong nước và trên thế giới, nhưng nó chinh phục được bạn đọc bởi đề tài cô dâu Việt Nam lấy chồng Đài Loan, các vướng mắc về khác biệt văn hoá, khác biệt giá trị quan, xung đột gia đình đang là tâm điểm nóng bỏng của xã hội Đài Loan và Việt Nam. Và nhờ thế, văn chương dễ dàng tiếp cận được xã hội, và phiên bản tiếng Hoa do chính tôi viết là một trong những tác phẩm văn học Việt Nam đương đại được tiếp thị tới cộng đồng Hoa ngữ. Rõ ràng, cơ hội của tôi đã rộng mở gấp đôi với phiên bản tiếng Hoa do chính tác giả viết.
Việc chủ động trả tiền cho mạng xã hội facebook để mua quảng cáo cho các cuốn sách của tôi cũng là một ví dụ. Hiện nay, facebook đang quảng cáo cuốn sách “Lỡ tay chạm ngực con gái” cho các người dùng tiếng Việt, và facebook tại Đài Loan đang quảng cáo “Chuyện kể dưới ngọn đèn đường” tiếng Hoa tới người dùng có IP tại Đài Loan hoặc lên mạng bằng máy tính cài đặt tiếng Hoa. Vào thời điểm cách đây mười năm, tôi cho rằng việc nhà văn chạy theo bạn đọc, lăn xả vào bạn đọc và tiếp thị văn chương ra nước ngoài bằng Internet, bằng ngoại ngữ thật điên rồ, nó là biểu trưng của thói háo danh.
Còn giờ đây, tôi hiểu rằng, một nhà văn được quyền nhốt mình trong tháp ngà văn chương, quay lưng với những nhu cầu của xã hội.
Bản thân việc nhà văn đặt mình ở thế chủ động, mới là mấu chốt và xuất phát điểm của công cuộc giới thiệu văn chương ra nước ngoài.
Xin chúc các quý vị những ngày gặp gỡ thú vị trước mắt, tôi rất hãnh diện được kết nối với quý vị sau Hội thảo này.
Xin hãy email cho tôi trangha75@yahoo.com
|