VanVN.Net - Theo Iu. Lotman, vấn đề nội dung, ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật, thực chất “bao giờ cũng là vấn đề chuyển mã”[*]. Bởi, một trong những mục đích khiến con người tìm đến với tác phẩm nghệ thuật là nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức hầu như vô hạn của chính mình…
Trong khi, theo ông thì “bất cứ sự nhận thức nào cũng có thể được hình dung như là việc giải mã một thông báo nào đó” [tr.113]. Mà R. Jacobson (1896 -1982) cùng nhiều nhà ngôn ngữ học danh tiếng khác chủ trương: “Trong quá trình truyền thông tin, trên thực tế không phải một, mà hai bộ mã đã được sử dụng: một bộ là để mã hóa (dành cho nhà sáng tạo) và bộ kia - để giải mã thông báo (dành cho người tiếp nhận). Trong ý nghĩa ấy mà người ta nói đến những quy tắc dành cho người nói và những quy tắc dành cho người nghe” [tr.34,35]. Từ quan điểm này, quá trình nhận thức thông thường được phân chia thành các công đoạn sau: nhận thông báo, chọn (hoặc soạn bộ mã), và sau cùng là “phối lập văn bản và bộ mã” nhằm giải mã, nghĩa là tìm ra ý nghĩa của đối tượng nhận thức. Trong những kiến giải thực tế và sâu sắc của mình, Iu Lotman đã chỉ ra “một đặc trưng” dễ nhận thấy của văn bản nghệ thuật là “nó đưa lại cho những người đọc khác nhau thông tin khác nhau” [tr.53]. Ông quả quyết: “Sự khác biệt trong sự bình giải các tác phẩm nghệ thuật - đó là một hiện tượng thường nhật và… gắn bó hữu cơ với bản thân nghệ thuật” [tr.54,55]. Điều này một phần- có thể xem là phần quan trọng- tùy thuộc vào “mức độ hiểu biết” của người tiếp nhận [tr.53]. Vậy, sẽ là không tránh khỏi nếu nảy sinh ra trong thực tế trạng thái “hiểu” và “không hiểu” cùng một văn bản nghệ thuật. Thậm chí, theo ông, giữa hai trạng thái đối lập nhau này còn hiện diện một dải trung gian“rộng rãi” khó lường. Hơn thế, ông còn khẳng định: “Văn bản nghệ thuật có thể xem như là văn bản được giải mã nhiều lần” [tr.116]. Nó được thực hiện bởi mỗi cá nhân, mỗi tầng lớp. Và còn bởi các thế hệ nối tiếp nhau. Mỗi lần giải mã có thể dẫn tới những độ chênh nhất định.
Tại sao lại tồn tại hiện tượng hầu như trở thành phổ biến này trong thưởng ngoạn và bình giá nghệ thuật? Trong lập luận của mình, Iu. Lotman có nhắc tới luận điểm nổi tiếng của nhà thi pháp học R. Jacobson “về sự phân bổ các quy tắc của ngữ pháp tổng hợp (ngữ pháp người nói) và của ngữ pháp phân tích (ngữ pháp người nghe)” [tr.55]. Từ đó, “tính giá trị thông tin của ngôn ngữ và thông báo, được đưa ra trong cùng một và chính văn bản ấy, đã đổi thay tùy theo cấu trúc của mã đọc, tùy theo những nhu cầu và sự chờ đợi của bạn đọc”- PQT nhấn mạnh [tr.46]. Tính phức tạp, đôi khi đến mức khó hình dung nổi, trong bình phẩm văn bản nghệ thuật, nảy sinh từ đấy. Thế rồi, ông đi xa hơn trong sự biện giải giàu sức thuyết phục của mình, khi cho rằng: “Để việc thu nhận (người nhận) thấu tới những thông báo của nơi (người) gửi, tất yếu phải hiện diện một khâu trung gian- ngôn ngữ… Ngôn ngữ xuất hiện với tư cách là một bộ mã nào đó mà với sự trợ giúp của nó người tiếp nhận giải mã ý nghĩa thông báo khiến anh ta quan tâm” [tr.34]. Mà nói tới ngôn ngữ, nhất là trong văn chương, tức là nói tới một trong những yếu tố then chốt bậc nhất trong sáng tạo cũng như cảm thụ. Bởi một lẽ giản dị: “Để tiếp nhận bằng các phương tiện nghệ thuật thông tin được truyền đạt, cần phải thông thạo ngôn ngữ của nó” [tr.35].
Vậy ngôn ngữ nghệ thuật có đặc điểm như thế nào? Iu. Lotman tập trung diễn giải luận điểm cốt lõi này bằng hàng loạt những phân tích được rút ra từ kinh nghiệm thực hành văn chương của chính mình và của người khác. Ông nhấn đi nhấn lại sự khác biệt giữa ngôn ngữ nghệ thuật và các loại ngôn ngữ khác, nhất là ngôn ngữ tự nhiên: “Cần dừng lại trên một sự khác biệt có tính nguyên tắc giữa các ngôn ngữ tự nhiên với các hệ thống mô hình hóa thứ sinh - PQT nhấn mạnh - kiểu nghệ thuật” [tr.55]. Nếu đã là “hệ thống mô hình hóa” thì mọi chi tiết trong một công trình nghệ thuật đích thực chỉ được mang nghĩa trong một cấu trúc độc nhất vô nhị của riêng nó. Việc tách rời mô hình nghệ thuật cụ thể để giải thích ý nghĩa của từng yếu tố hoặc tư tưởng bao quát của một công trình nghệ thuật vốn sinh động và sống động như một thực thể hữu cơ là không thể chấp nhận được về mặt nguyên tắc. Đó là lối tiếp cận máy móc, rơi vào xu hướng giản đơn hóa thế giới nghệ thuật linh diệu của con người và xã hội như chính Iu. Lotman viết: “Nghệ thuật là một cỗ máy phát được tổ chức tuyệt vời của các ngôn ngữ dạng đặc biệt, tối cần thiết cho loài người, làm thành một trong những bình diện phức tạp bậc nhất mà cũng còn xa mới là rõ ràng nhất, bởi cơ chế tự thân của tri thức nhân loại [tr.19].
Đi vào văn chương - loại hình nghệ thuật ngôn từ, ông đưa ra sự biện giải còn đích đáng và phù hợp hơn nhiều. Iu. Lotman cho rằng: “Nếu sử dụng khái niệm ‘ngôn ngữ nghệ thuật’ trong ý nghĩa mà chúng ta đã quy ước cho nó ở trên, thì rõ ràng là văn học mang tính chất nghệ thuật… cần phải sở đắc ngôn ngữ của mình”. “Sở đắc ngôn ngữ của mình” là thế nào? Ông bảo: “Điều đó có nghĩa là có một sự lựa chọn mang tính khép kín xác định đối với các đơn vị và các quy tắc kết hợp chúng, những điều cho phép truyền đạt những thông báo nào đó” [tr.47]. Như cảm thấy biện giải thế vẫn là chưa đủ, ông viết thêm: “Văn học có tính nghệ thuật nói bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ này được xây trồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên với tư cách là hệ thống thứ hai…”. Nói nói một cách khác, “văn học có một hệ thống, chỉ đặc trưng riêng cho nó, của các ký hiệu và các quy tắc kết hợp chúng, những ký hiệu và quy tắc dùng cho việc truyền đạt những thông báo đặc biệt mà bằng những phương tiện khác thì chúng ta không thể truyền đạt được – PQT lưu ý” [tr.49].
Như Iu. Lotman đã chỉ rõ: “Tiếc rằng câu trả lời thuần cảm tính, được đưa ra trên cơ sở tình yêu với nghệ thuật, dựa vào thói quen hướng tới những ấn tượng thẩm mỹ hằng ngày, lại không thể nào hoàn toàn đáng tin cậy” [tr.17]. Không “đáng tin cậy” nhưng lại luôn tồn tại như là bản tính tự nhiên của con người. Chẳng hạn, từng xuất hiện, có khi còn ở vị thế ưu thắng, lối tiếp cận máy móc theo kiểu: “Hình thức + nội dung = cốc + rượi vang”. Sự xác định “hình thức phù hợp với nội dung” ở đây có thể là đúng đắn theo nghĩa triết học, nhưng dẫu sao vẫn là chưa thể đủ để phản ánh mối liên hệ tinh tế giữa cấu trúc và tư tưởng trong công trình nghệ thuật. Trước sau ông luôn xác định: “Tư tưởng không được chứa đựng trong bất kỳ những sự trích đoạn cho dẫu gọn ghẽ nào, mà được diễn đạt trong toàn bộ cấu trúc nghệ thuật – PQT lưu ý” [tr.32]. Từ đó, ông đưa ra một định nghĩa nổi tiếng: “Nội dung tư tưởng của tác phẩm – đó là cấu trúc” [tr.32]. Có nghĩa, tư tưởng trong nghệ thuật luôn thể hiện trong mô hình, bởi nó tái tạo hình ảnh của đời sống. Nên, thật rõ ràng là “nằm ngoài cấu trúc thì tư tưởng nghệ thuật không được nghĩ ra”. Có thể nhận ra Iu. Lotman đã thay thế một cách khoa học “tính nhị nguyên của hình thức và nội dung” bằng quan niệm hiện đại “về cái tư tưởng hiện thực hóa bản thân mình trong một cấu trúc thích hợp và không tồn tại bên ngoài cấu trúc này” [tr.32]. Kết luận được ông rút ra sau đây hầu như là không thể khác: “Ngôn ngữ của văn bản nghệ thuật trong toàn bộ bản chất của nó là một mô hình nghệ thuật xác định về thế giới và trong ý nghĩa đó cũng là cái cấu trúc toàn bộ của nó thuộc về “nội dung” – mang thông tin [tr.42]. Cố nhiên, ở đây, cần hiểu đúng quan niệm về thứ “văn bản tự khép kín trên chính mình” [tr.45] mà Iu. Lotman chủ trương. Điều này tuyệt nhiên không giống như ai đó từng giải thích rằng: “theo đó thì sự phân tích cấu trúc đòi hỏi sao lãng sự chú ý đến nội dung của nghệ thuật,… để dành cho những sự suy ngẫm thuần túy hình thức, cho sự “thống kê” các thủ pháp và những gì tương tự…”. Nói khác đi, như ông thường xuyên nhấn mạnh: “Bản thân khái niệm kí hiệu và hệ thống ký hiệu liên hệ không tách rời với vấn đề nghĩa”. Bởi một lẽ dễ hiểu: “Vị tất có ai đó giờ đây lại còn tranh cãi với điều rằng đời sống xã hội xác định diện mạo nghệ thuật” [tr.69]. Vâng, đó thật sự là một chân lý khách quan, không cần phải bàn cãi.
Đã rõ là cần thường xuyên nhấn mạnh tới “ngôn ngữ đặc thù của nghệ thuật”, tức “tính không thể chia cắt được của ý tưởng thơ ca khỏi cấu trúc đặc thù tương ứng với nó của văn bản” [tr.28]. Trong công trình của mình, Iu. Lotman nhắc tới thật đúng chỗ ghi chép của thi hào Nga A. Bloc vào tháng 7 năm 1917: “Lầm, khi cho rằng các tư tưởng là được lặp lại. Mỗi tư tưởng đều mới, bởi vì cái mới vây bọc và tạo thành nó” [tr.28]. Rồi sau đó, ông còn nhắc lại câu nói ẩn chứa chân lý của một nghệ sỹ lớn khác là văn hào Nga Đôtxtôievxki: “Thậm chí tôi tin rằng, đối với những hình thức khác nhau của nghệ thuật tồn tại cả hàng dãy những tư tưởng thi ca phù hợp với chúng, bởi thế một tư tưởng không bao giờ lại có thể được thể hiện ra trong một hình thức khác nào đó không phù hợp với nó” [tr.44]. Như vậy: “Tư tưởng của nhà văn được hiện thực hóa trong một cấu trúc nghệ thuật xác định và không thể được tách ra khỏi nó [tr.30].
Trong công trình của Iu. Lotman, có nhắc tới thành tựu của trường phái A. N. Kolmogorov. Theo Iu. Lotman thì “những thành tựu của ông trong việc xây dựng ngành thi pháp học hiện đại nhìn chung là hết sức to lớn”. Đặc biệt giá trị là những nghiên cứu về “dữ liệu đủ cho sự xuất hiện thông tin” mà nhà bác học này định danh là “độ entropie” của ngôn ngữ thơ. Viện sỹ A. N. Kolmogorov đã đi tới kết luận quan trọng rằng entropie của ngôn ngữ (H) được cấu thành từ hai đại lượng: dung lượng mang ý nghĩa xác định (h1), tức “khả năng của ngôn ngữ trong văn bản có độ dài xác định truyền đạt một thông tin có ý nghĩa nào đó”, và sự mềm dẻo của ngôn ngữ (h2), tức “khả năng truyền đạt một và chính cái nội dung ấy bằng những cách thức có giá trị tương đương nào đó”. ở đây, theo ông, chỉ h2 mới được coi là nguốn gốc của thông tin thơ [tr.60]. Phân tích sâu hơn, A. N. Kolmogorov còn quan niệm “có ba cấu tử cơ bản làm nên độ entropie của văn bản nghệ thuật ngôn từ”. Một là, “sự đa dạng của nội dung có thể trong các giới hạn độ dài đã cho của văn bản thể hiện” (nó tạo nên thông tin thuộc ngôn ngữ phổ thông); hai là, “sự đa dạng của cách thể hiện khác nhau đối với một và đích thị là nội dung ấy” (nó tạo nên thông tin nghệ thuật đặc trưng); và ba là, “những hạn chế về mặt hình thức được đặt vào trong tính mềm dẻo của ngôn ngữ”. Nhưng hệ luận sau mới thật sự có giá trị: “có ý nghĩa cơ bản nhất” là “cấu tử” thứ ba, tức “tính mềm dẻo của ngôn ngữ” văn chương [tr.61]. Từ đó có thể suy ra nguyên tắc bất di bất dịch sau: “Anh ta tiếp thụ văn bản thơ không như một trong những văn bản có thể, mà như là văn bản duy nhất và không lặp lại được” [tr.62]. Đã thế thì mọi trích dẫn cắt xén, tách rời khỏi văn bản sẽ dẫn tới nguy cơ xuyên tạc hoàn toàn ý nghĩa của văn bản nghệ thuật một cách vô tình hay cố ý. Bởi, như Iu. Lotman dẫn giải tiếp theo: “Sự thay thế từ này từ nọ trong văn bản đối với anh ta sẽ đưa lại không phải sự biến thể của nội dung, mà là một nội dung mới - PQT nhấn mạnh”.
Iu. Lotman viết: “Tính phức tạp của cấu trúc nằm trong sự phụ thuộc tỉ lệ thuận với tính phức tạp của thông tin được truyền đạt… ở tình huống như vậy, trong hệ thống ký hiệu học được kiến tạo đúng (có nghĩa là đạt tới các mục tiêu mà nhờ nó hệ thống ấy được tạo tác) không thể nào lại là sự phức tạp vô cớ, thừa thãi - PQT nhấn mạnh…” [tr.29] . Nghệ thuật ngôn từ dù phải dựa vào ngôn ngữ tự nhiên, nhưng lại chỉ với điều kiện là để cải biến nó thành ngôn ngữ của mình - ngôn ngữ thứ sinh, ngôn ngữ của nghệ thuật. Và bản thân “ngôn ngữ của nghệ thuật này” là sự phân tầng phức tạp của các ngôn ngữ, tương xâm lẫn nhau nhưng không đồng nhất với nhau [tr.53]. Cụ thể hơn, “khi sử dụng một ngôn ngữ tự nhiên này hay khác, ngôn ngữ của nghệ thuật làm cho những bình diện hình thức của nó thành ra có tính nội dung” [tr.45]. Và do vậy, phương pháp xem xét tách rời “nội dung tư tưởng” một nơi, “đặc trưng nghệ thuật” một nẻo, “từng bắt rễ sâu biết bao trong thực tiễn”, theo Iu. Lotman, là “dựa trên sự thiếu hiểu biết những cơ sở của nghệ thuật và thật tai hại, bởi vì nó tập hư cho độc giả bình thường quen với một cách hình dung sai lạc về văn học – PQT nhấn mạnh, như là về một cách trình bày dông dài và hoa mỹ những tư tưởng mà lẽ ra có thể nói một cách giản đơn và ngắn gọn” [tr.29,30]. ở đây, cần ghi nhớ thêm điều quan trọng sau: “Cái đơn nhất, cái cụ thể trong đời sống và cái đơn nhất, cái cụ thể mô hình hóa trong nghệ thuật có bản chất khác nhau” [tr.117].
Nhiều kiến giải sắc sảo, sáng tỏ, phù hợp, tập trung và hệ thống của nhà lý luận văn chương lừng danh Iu. Lotman xung quanh đặc trưng của văn bản nghệ thuật quy định đặc thù của cách tiếp cận văn bản nghệ thuật - vấn đề hiện vẫn còn rất có ý nghĩa đối với chúng ta.
_____
(*) Iu. Lotman - Cấu trúc văn bản nghệ thuật - Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr.74. Tất cả các dẫn chứng trong bài viết đều rút ra từ cuốn sách này.
(Nguồn Văn nghệ)
VanVN.Net - Theo Iu. Lotman, vấn đề nội dung, ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật, thực chất “bao giờ cũng là vấn đề chuyển mã”[*]. Bởi, một trong những mục đích khiến con người tìm đến với tác phẩm nghệ thuật là nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức hầu như vô hạn của chính mình…
Trong khi, theo ông thì “bất cứ sự nhận thức nào cũng có thể được hình dung như là việc giải mã một thông báo nào đó” [tr.113]. Mà R. Jacobson (1896 -1982) cùng nhiều nhà ngôn ngữ học danh tiếng khác chủ trương: “Trong quá trình truyền thông tin, trên thực tế không phải một, mà hai bộ mã đã được sử dụng: một bộ là để mã hóa (dành cho nhà sáng tạo) và bộ kia - để giải mã thông báo (dành cho người tiếp nhận). Trong ý nghĩa ấy mà người ta nói đến những quy tắc dành cho người nói và những quy tắc dành cho người nghe” [tr.34,35]. Từ quan điểm này, quá trình nhận thức thông thường được phân chia thành các công đoạn sau: nhận thông báo, chọn (hoặc soạn bộ mã), và sau cùng là “phối lập văn bản và bộ mã” nhằm giải mã, nghĩa là tìm ra ý nghĩa của đối tượng nhận thức. Trong những kiến giải thực tế và sâu sắc của mình, Iu Lotman đã chỉ ra “một đặc trưng” dễ nhận thấy của văn bản nghệ thuật là “nó đưa lại cho những người đọc khác nhau thông tin khác nhau” [tr.53]. Ông quả quyết: “Sự khác biệt trong sự bình giải các tác phẩm nghệ thuật - đó là một hiện tượng thường nhật và… gắn bó hữu cơ với bản thân nghệ thuật” [tr.54,55]. Điều này một phần- có thể xem là phần quan trọng- tùy thuộc vào “mức độ hiểu biết” của người tiếp nhận [tr.53]. Vậy, sẽ là không tránh khỏi nếu nảy sinh ra trong thực tế trạng thái “hiểu” và “không hiểu” cùng một văn bản nghệ thuật. Thậm chí, theo ông, giữa hai trạng thái đối lập nhau này còn hiện diện một dải trung gian“rộng rãi” khó lường. Hơn thế, ông còn khẳng định: “Văn bản nghệ thuật có thể xem như là văn bản được giải mã nhiều lần” [tr.116]. Nó được thực hiện bởi mỗi cá nhân, mỗi tầng lớp. Và còn bởi các thế hệ nối tiếp nhau. Mỗi lần giải mã có thể dẫn tới những độ chênh nhất định.
Tại sao lại tồn tại hiện tượng hầu như trở thành phổ biến này trong thưởng ngoạn và bình giá nghệ thuật? Trong lập luận của mình, Iu. Lotman có nhắc tới luận điểm nổi tiếng của nhà thi pháp học R. Jacobson “về sự phân bổ các quy tắc của ngữ pháp tổng hợp (ngữ pháp người nói) và của ngữ pháp phân tích (ngữ pháp người nghe)” [tr.55]. Từ đó, “tính giá trị thông tin của ngôn ngữ và thông báo, được đưa ra trong cùng một và chính văn bản ấy, đã đổi thay tùy theo cấu trúc của mã đọc, tùy theo những nhu cầu và sự chờ đợi của bạn đọc”- PQT nhấn mạnh [tr.46]. Tính phức tạp, đôi khi đến mức khó hình dung nổi, trong bình phẩm văn bản nghệ thuật, nảy sinh từ đấy. Thế rồi, ông đi xa hơn trong sự biện giải giàu sức thuyết phục của mình, khi cho rằng: “Để việc thu nhận (người nhận) thấu tới những thông báo của nơi (người) gửi, tất yếu phải hiện diện một khâu trung gian- ngôn ngữ… Ngôn ngữ xuất hiện với tư cách là một bộ mã nào đó mà với sự trợ giúp của nó người tiếp nhận giải mã ý nghĩa thông báo khiến anh ta quan tâm” [tr.34]. Mà nói tới ngôn ngữ, nhất là trong văn chương, tức là nói tới một trong những yếu tố then chốt bậc nhất trong sáng tạo cũng như cảm thụ. Bởi một lẽ giản dị: “Để tiếp nhận bằng các phương tiện nghệ thuật thông tin được truyền đạt, cần phải thông thạo ngôn ngữ của nó” [tr.35].
Vậy ngôn ngữ nghệ thuật có đặc điểm như thế nào? Iu. Lotman tập trung diễn giải luận điểm cốt lõi này bằng hàng loạt những phân tích được rút ra từ kinh nghiệm thực hành văn chương của chính mình và của người khác. Ông nhấn đi nhấn lại sự khác biệt giữa ngôn ngữ nghệ thuật và các loại ngôn ngữ khác, nhất là ngôn ngữ tự nhiên: “Cần dừng lại trên một sự khác biệt có tính nguyên tắc giữa các ngôn ngữ tự nhiên với các hệ thống mô hình hóa thứ sinh - PQT nhấn mạnh - kiểu nghệ thuật” [tr.55]. Nếu đã là “hệ thống mô hình hóa” thì mọi chi tiết trong một công trình nghệ thuật đích thực chỉ được mang nghĩa trong một cấu trúc độc nhất vô nhị của riêng nó. Việc tách rời mô hình nghệ thuật cụ thể để giải thích ý nghĩa của từng yếu tố hoặc tư tưởng bao quát của một công trình nghệ thuật vốn sinh động và sống động như một thực thể hữu cơ là không thể chấp nhận được về mặt nguyên tắc. Đó là lối tiếp cận máy móc, rơi vào xu hướng giản đơn hóa thế giới nghệ thuật linh diệu của con người và xã hội như chính Iu. Lotman viết: “Nghệ thuật là một cỗ máy phát được tổ chức tuyệt vời của các ngôn ngữ dạng đặc biệt, tối cần thiết cho loài người, làm thành một trong những bình diện phức tạp bậc nhất mà cũng còn xa mới là rõ ràng nhất, bởi cơ chế tự thân của tri thức nhân loại [tr.19].
Đi vào văn chương - loại hình nghệ thuật ngôn từ, ông đưa ra sự biện giải còn đích đáng và phù hợp hơn nhiều. Iu. Lotman cho rằng: “Nếu sử dụng khái niệm ‘ngôn ngữ nghệ thuật’ trong ý nghĩa mà chúng ta đã quy ước cho nó ở trên, thì rõ ràng là văn học mang tính chất nghệ thuật… cần phải sở đắc ngôn ngữ của mình”. “Sở đắc ngôn ngữ của mình” là thế nào? Ông bảo: “Điều đó có nghĩa là có một sự lựa chọn mang tính khép kín xác định đối với các đơn vị và các quy tắc kết hợp chúng, những điều cho phép truyền đạt những thông báo nào đó” [tr.47]. Như cảm thấy biện giải thế vẫn là chưa đủ, ông viết thêm: “Văn học có tính nghệ thuật nói bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt, thứ ngôn ngữ này được xây trồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên với tư cách là hệ thống thứ hai…”. Nói nói một cách khác, “văn học có một hệ thống, chỉ đặc trưng riêng cho nó, của các ký hiệu và các quy tắc kết hợp chúng, những ký hiệu và quy tắc dùng cho việc truyền đạt những thông báo đặc biệt mà bằng những phương tiện khác thì chúng ta không thể truyền đạt được – PQT lưu ý” [tr.49].
Như Iu. Lotman đã chỉ rõ: “Tiếc rằng câu trả lời thuần cảm tính, được đưa ra trên cơ sở tình yêu với nghệ thuật, dựa vào thói quen hướng tới những ấn tượng thẩm mỹ hằng ngày, lại không thể nào hoàn toàn đáng tin cậy” [tr.17]. Không “đáng tin cậy” nhưng lại luôn tồn tại như là bản tính tự nhiên của con người. Chẳng hạn, từng xuất hiện, có khi còn ở vị thế ưu thắng, lối tiếp cận máy móc theo kiểu: “Hình thức + nội dung = cốc + rượi vang”. Sự xác định “hình thức phù hợp với nội dung” ở đây có thể là đúng đắn theo nghĩa triết học, nhưng dẫu sao vẫn là chưa thể đủ để phản ánh mối liên hệ tinh tế giữa cấu trúc và tư tưởng trong công trình nghệ thuật. Trước sau ông luôn xác định: “Tư tưởng không được chứa đựng trong bất kỳ những sự trích đoạn cho dẫu gọn ghẽ nào, mà được diễn đạt trong toàn bộ cấu trúc nghệ thuật – PQT lưu ý” [tr.32]. Từ đó, ông đưa ra một định nghĩa nổi tiếng: “Nội dung tư tưởng của tác phẩm – đó là cấu trúc” [tr.32]. Có nghĩa, tư tưởng trong nghệ thuật luôn thể hiện trong mô hình, bởi nó tái tạo hình ảnh của đời sống. Nên, thật rõ ràng là “nằm ngoài cấu trúc thì tư tưởng nghệ thuật không được nghĩ ra”. Có thể nhận ra Iu. Lotman đã thay thế một cách khoa học “tính nhị nguyên của hình thức và nội dung” bằng quan niệm hiện đại “về cái tư tưởng hiện thực hóa bản thân mình trong một cấu trúc thích hợp và không tồn tại bên ngoài cấu trúc này” [tr.32]. Kết luận được ông rút ra sau đây hầu như là không thể khác: “Ngôn ngữ của văn bản nghệ thuật trong toàn bộ bản chất của nó là một mô hình nghệ thuật xác định về thế giới và trong ý nghĩa đó cũng là cái cấu trúc toàn bộ của nó thuộc về “nội dung” – mang thông tin [tr.42]. Cố nhiên, ở đây, cần hiểu đúng quan niệm về thứ “văn bản tự khép kín trên chính mình” [tr.45] mà Iu. Lotman chủ trương. Điều này tuyệt nhiên không giống như ai đó từng giải thích rằng: “theo đó thì sự phân tích cấu trúc đòi hỏi sao lãng sự chú ý đến nội dung của nghệ thuật,… để dành cho những sự suy ngẫm thuần túy hình thức, cho sự “thống kê” các thủ pháp và những gì tương tự…”. Nói khác đi, như ông thường xuyên nhấn mạnh: “Bản thân khái niệm kí hiệu và hệ thống ký hiệu liên hệ không tách rời với vấn đề nghĩa”. Bởi một lẽ dễ hiểu: “Vị tất có ai đó giờ đây lại còn tranh cãi với điều rằng đời sống xã hội xác định diện mạo nghệ thuật” [tr.69]. Vâng, đó thật sự là một chân lý khách quan, không cần phải bàn cãi.
Đã rõ là cần thường xuyên nhấn mạnh tới “ngôn ngữ đặc thù của nghệ thuật”, tức “tính không thể chia cắt được của ý tưởng thơ ca khỏi cấu trúc đặc thù tương ứng với nó của văn bản” [tr.28]. Trong công trình của mình, Iu. Lotman nhắc tới thật đúng chỗ ghi chép của thi hào Nga A. Bloc vào tháng 7 năm 1917: “Lầm, khi cho rằng các tư tưởng là được lặp lại. Mỗi tư tưởng đều mới, bởi vì cái mới vây bọc và tạo thành nó” [tr.28]. Rồi sau đó, ông còn nhắc lại câu nói ẩn chứa chân lý của một nghệ sỹ lớn khác là văn hào Nga Đôtxtôievxki: “Thậm chí tôi tin rằng, đối với những hình thức khác nhau của nghệ thuật tồn tại cả hàng dãy những tư tưởng thi ca phù hợp với chúng, bởi thế một tư tưởng không bao giờ lại có thể được thể hiện ra trong một hình thức khác nào đó không phù hợp với nó” [tr.44]. Như vậy: “Tư tưởng của nhà văn được hiện thực hóa trong một cấu trúc nghệ thuật xác định và không thể được tách ra khỏi nó [tr.30].
Trong công trình của Iu. Lotman, có nhắc tới thành tựu của trường phái A. N. Kolmogorov. Theo Iu. Lotman thì “những thành tựu của ông trong việc xây dựng ngành thi pháp học hiện đại nhìn chung là hết sức to lớn”. Đặc biệt giá trị là những nghiên cứu về “dữ liệu đủ cho sự xuất hiện thông tin” mà nhà bác học này định danh là “độ entropie” của ngôn ngữ thơ. Viện sỹ A. N. Kolmogorov đã đi tới kết luận quan trọng rằng entropie của ngôn ngữ (H) được cấu thành từ hai đại lượng: dung lượng mang ý nghĩa xác định (h1), tức “khả năng của ngôn ngữ trong văn bản có độ dài xác định truyền đạt một thông tin có ý nghĩa nào đó”, và sự mềm dẻo của ngôn ngữ (h2), tức “khả năng truyền đạt một và chính cái nội dung ấy bằng những cách thức có giá trị tương đương nào đó”. ở đây, theo ông, chỉ h2 mới được coi là nguốn gốc của thông tin thơ [tr.60]. Phân tích sâu hơn, A. N. Kolmogorov còn quan niệm “có ba cấu tử cơ bản làm nên độ entropie của văn bản nghệ thuật ngôn từ”. Một là, “sự đa dạng của nội dung có thể trong các giới hạn độ dài đã cho của văn bản thể hiện” (nó tạo nên thông tin thuộc ngôn ngữ phổ thông); hai là, “sự đa dạng của cách thể hiện khác nhau đối với một và đích thị là nội dung ấy” (nó tạo nên thông tin nghệ thuật đặc trưng); và ba là, “những hạn chế về mặt hình thức được đặt vào trong tính mềm dẻo của ngôn ngữ”. Nhưng hệ luận sau mới thật sự có giá trị: “có ý nghĩa cơ bản nhất” là “cấu tử” thứ ba, tức “tính mềm dẻo của ngôn ngữ” văn chương [tr.61]. Từ đó có thể suy ra nguyên tắc bất di bất dịch sau: “Anh ta tiếp thụ văn bản thơ không như một trong những văn bản có thể, mà như là văn bản duy nhất và không lặp lại được” [tr.62]. Đã thế thì mọi trích dẫn cắt xén, tách rời khỏi văn bản sẽ dẫn tới nguy cơ xuyên tạc hoàn toàn ý nghĩa của văn bản nghệ thuật một cách vô tình hay cố ý. Bởi, như Iu. Lotman dẫn giải tiếp theo: “Sự thay thế từ này từ nọ trong văn bản đối với anh ta sẽ đưa lại không phải sự biến thể của nội dung, mà là một nội dung mới - PQT nhấn mạnh”.
Iu. Lotman viết: “Tính phức tạp của cấu trúc nằm trong sự phụ thuộc tỉ lệ thuận với tính phức tạp của thông tin được truyền đạt… ở tình huống như vậy, trong hệ thống ký hiệu học được kiến tạo đúng (có nghĩa là đạt tới các mục tiêu mà nhờ nó hệ thống ấy được tạo tác) không thể nào lại là sự phức tạp vô cớ, thừa thãi - PQT nhấn mạnh…” [tr.29] . Nghệ thuật ngôn từ dù phải dựa vào ngôn ngữ tự nhiên, nhưng lại chỉ với điều kiện là để cải biến nó thành ngôn ngữ của mình - ngôn ngữ thứ sinh, ngôn ngữ của nghệ thuật. Và bản thân “ngôn ngữ của nghệ thuật này” là sự phân tầng phức tạp của các ngôn ngữ, tương xâm lẫn nhau nhưng không đồng nhất với nhau [tr.53]. Cụ thể hơn, “khi sử dụng một ngôn ngữ tự nhiên này hay khác, ngôn ngữ của nghệ thuật làm cho những bình diện hình thức của nó thành ra có tính nội dung” [tr.45]. Và do vậy, phương pháp xem xét tách rời “nội dung tư tưởng” một nơi, “đặc trưng nghệ thuật” một nẻo, “từng bắt rễ sâu biết bao trong thực tiễn”, theo Iu. Lotman, là “dựa trên sự thiếu hiểu biết những cơ sở của nghệ thuật và thật tai hại, bởi vì nó tập hư cho độc giả bình thường quen với một cách hình dung sai lạc về văn học – PQT nhấn mạnh, như là về một cách trình bày dông dài và hoa mỹ những tư tưởng mà lẽ ra có thể nói một cách giản đơn và ngắn gọn” [tr.29,30]. ở đây, cần ghi nhớ thêm điều quan trọng sau: “Cái đơn nhất, cái cụ thể trong đời sống và cái đơn nhất, cái cụ thể mô hình hóa trong nghệ thuật có bản chất khác nhau” [tr.117].
Nhiều kiến giải sắc sảo, sáng tỏ, phù hợp, tập trung và hệ thống của nhà lý luận văn chương lừng danh Iu. Lotman xung quanh đặc trưng của văn bản nghệ thuật quy định đặc thù của cách tiếp cận văn bản nghệ thuật - vấn đề hiện vẫn còn rất có ý nghĩa đối với chúng ta.
_____
(*) Iu. Lotman - Cấu trúc văn bản nghệ thuật - Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr.74. Tất cả các dẫn chứng trong bài viết đều rút ra từ cuốn sách này.
(Nguồn Văn nghệ)
VanVN.Net - Sáng nay, 10/8/2011 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thảm họa da cam gieo rắc trên đất nước ta. Đúng ...
VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...
VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...
VanVN.Net - NXB Dân Trí vừa cho ra mắt tập truyện ngắn Hoa mẫu đơn của tác giả Lê Toán. Đây là tập truyện giả tưởng - cũng là món quà thứ tư, tác giả dành tặng cho thiếu nhi, sau ...
Tiếp tục chương trình hoạt động của kỳ họp thứ 4 (Khóa VIII), hôm nay, ngày 7/8/2011, BCH Hội Nhà văn VN đã có chuyến đi thực tế tại trại sản xuất giống tu hài của công ty TNHH Đỗ Tờ ...
VanVN.Net - Nửa đầu thế kỷ XIX là sự bắt đầu vương triều Nguyễn với cuộc lên ngôi của Gia Long vào 1802. Tôi muốn gọi đó là một thời “khó sống” khi viết về Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn