Chương 1-3
Chương bốn
Ở cái tuổi mười sáu người ta làm cái gì cũng nhanh từ việc nghĩ đến việc đi. Công chúa Bana thoạt đầu rời khỏi bệ khán đài thì chạy, nhưng xiêm áo lòe xòe vướng víu cản bước, nàng bèn dừng lại vứt bớt những chiếc dây kim tuyến, xà tích ngoằn ngoèo. Sau đó nàng vận cạp váy lên, nàng xoải chân định chạy nhanh chợt phát hiện ra đôi hài vướng víu dưới chân, công chúa cúi xuống lột hài vứt sang một bên, rồi lao đi.
Ở cái tuổi sáu mươi người ta làm cái gì cũng chậm, từ suy nghĩ đến bước đi, lễ nghi đại thần Quang Nhật lạch bạch đi theo công chúa. Ngài giận công chúa lắm, nếu như là con gái ngài thì ít ra cũng được nếm sáu cái roi dâu vào mông đít, đằng này nó lại là công chúa, công chúa là con vua, mà con vua gì cái thứ nó, vừa mới thấy giai là xoắn ngay lại, y như mèo hoang ngửi ra mùi cá nướng. Ừ, cho nó chạy xuống, ngài phải đi theo là đúng rồi, nhưng là công chúa như nó, là đại thần như ngài, phải điềm đạm, phải trịnh trọng, trang nghiêm để dân đen, con đỏ nhìn thấy mà sợ. Đằng này, trong đám con dân kia, không phải ít những kẻ trước kia chơi bời quen thuộc với ngài từ nhỏ, đàm đạo với ngài từ thuở ngài chưa được gọi vào triều chăm sóc dạy bảo công chúa. Thì nay có dịp để họ trông thấy ngài. Thế mà, con ranh con, cũng tại mình đây, mình không đe nẹt nó cẩn thận. “Ôëi” nó vứt cái gì đấy. Lễ nghi đại thần tiến lại, ngài cúi mình xuống. Trong lúc ngài nhận ra chiếc mũi hài có dính ba viên ngọc trai thì ngài cũng nhận thấy lưng mình độ này đau tợn, cái cúi này bất ngờ quá “khục”, “ừ khục lưng đây mà. Đại thần Quang Nhật cầm chiếc hài lên giữa tiếng cười ran ở bốn phía. Ngài đứng thẳng lên trừng mắt nhìn mọi người làm hai ba người định đến nhặt hộ ngài dừng lại, đứng chôn chân tại chỗ. Sao lũ dân đen ngu độn và liều lĩnh thế nhỉ. Chúng mày có biết, chỉ một viên ngọc trên chiếc hài công chúa Bana đã bằng gia tài cả nhà chúng mày, bằng sinh mạng của cả chúng mày, thì đây viên ngọc to nhất đây này, phải người thứ ba mới nhặt lên được, hai người thì đã…”. Ngài không muốn nghĩ tiếp, “giống cá mập ghê thật, chỉ một tợp y như người ta uống một hớp rượu, mà đã mất bay đi nửa người. Máu đỏ sầm loang trên mặt nước xanh…”.
- Này, công chúa đứng lại chờ lão với!
- Kệ ngài, kệ ngài.
Công chúa Bana ngoảnh lại, giọng lảnh lót vui vẻ, rồi chạy ào đi. “Con giời đánh” - Lễ nghi đại thần rủa thầm, cố nhấc chân mình theo gót công chúa. “Con bé nhanh quá, nó lao vào đám đông, mọi người chưa kịp tránh ra nhường đường cho nó, đã mất hút trong đó”. “Tránh ra, tránh ra” ngài đại thần la bai bải khiến lũ con dân hốt hoảng đang lộn xộn tự động rẽ dần thành một khe nhỏ. Đại thần Quang Nhật loáng thoáng nhận ra những khuôn mặt quen thuộc. Ngài cảm thấy kiêu hãnh đến tột độ: “oai chưa, kinh khiếp ta chưa?” Trong khi ngài đang ngạo nghễ đi qua đám đông thì tai ngài nghe rõ tiếng “thầy đồ Cắm”, ngài dừng ngay lại đưa mắt nhìn mọi người để tìm ra kẻ nào vừa nói một cách hỗn xược, nhưng khuôn mặt các con dân đã lỳ ra trơ lạnh “hừ, láo thật”. Ngài quát to lên.
- Ta là lễ nghi đại thần Quang Nhật.
Quát xong, ngài muốn chứng kiến sắc mặt tái xanh, co rúm của bọn dân đen, thì bất ngờ có tiếng ai đó réo lên:
- Công chúa ôm… kìa.
Ngài đại thần giật mình quay lại, và hốt hoảng nhận ra, công chúa Bana đang ôm chằm chặp cánh tay khỏe mạnh của gã vệ sĩ. Dù được gọi vào triều đã lâu nhưng Quang Nhật đại thần như chúng ta đã biết, ngài chưa quên mặt gã vệ sĩ này, nó không phải xa lạ mà đích thị là thằng Ly Tri con nhà lão Mít đan lưới. Nó chóng lớn thật, và giống bố nó quá, cao lớn, khỏe mạnh, đỏ hồng rắn rỏi, cánh tay nó, ngài đưa mắt nhìn toàn bộ thân thể Ly Tri, ngài chợt nhìn thấy bàn tay khô héo nhăn nheo của mình, ngài bất ngờ cáu:
- Thằng kia, không được phạm thượng.
Vệ sĩ Ly Tri nghe tiếng đại thần, chuyển giáo sang tay khác ngẩng đầu lên, chiếc mũ trụ quẹt một luồng ánh sáng chói rực.
- Bẩm ngài, không phải do kẻ hèn mọn này…
- Do em đấy, em thích anh ấy.
Công chúa nói vừa dứt, có tiếng cười khích khích đứt quãng. Lễ nghi đại thần lại một lần nữa trừng mắt để tìm ra kẻ cười, hình như ở đâu thấp lắm. Ngài tiến lại, quát to:
- Bỏ ra, nam nữ thụ thụ bất thân, công chúa đã học.
- Ố, thế sao hôm qua em gặp ngài đang ôm con hầu Hồng
Tước của em, trông hay lắm, ngài lại bắt nó cởi…
- Thôi, chuyện nhơ nhuốc. Công chúa là ngọc cành vàng thì phải biết làm mình cao giá.
- Em là đứa con gái, em cũng là người cơ mà. Công chúa nói xong quay trở lại kiễng người nhìn vào khuôn mặt gã vệ sĩ.
- Đực với cái là phải loằng ngoằng… khích… khích.
Bây giờ thì ngài nhận ra tiếng cười ấy rồi, tiếng cười hỗn xược châm chọc, và khinh nhờn ấy dám nhằm vào công chúa, vào ngài. Thằng điên, thằng khùng có khác. Nó đang nằm lăn trên mặt cỏ nhàu nát bởi chân hàng vạn người. Chiếc bình đất của nó đặt bên cạnh. Đại thần định xô lại, nhưng ngài lại sợ cái bình, ngài lấy giọng oai vệ hét to:
- Cút đi, cút ngay đi.
- Kìa đại quan - vệ sĩ nói.
- Không, ta bảo thằng điên kia. Bước ngay.
- Bảo tôi đi à, ừ, thế thì được.
Thằng Da lồm cồm ôm bình đứng dậy, nó vừa đi được mấy bước thì đã có vài người ăn mày đi theo. Thằng Da xốc đám lá trên người tiến về phía công chúa, lúc này nàng đang nắm tay gã vệ sĩ lắc liên hồi. Lợi dụng lúc đại thần mải nhìn thằng điên, công
chúa Bana nhướn người lên, kề sát miệng vào tai Lý Tri, nói khẽ: 1
- Giờ Tý, nhớ đấy. Vào vườn thượng uyển em chờ. “Giờ Tý, giờ Tý” thằng điên lẩm bẩm rồi gật gù bỏ đi, đám ăn mày rồng rắn đi theo nó. Chính đám rồng rắn xơ xác đó đã làm u ám bức tranh đẹp đẽ của ngày lễ khải hoàn, và làm vua Biđa nổi giận như ta đã biết. Còn Ly Tri, mặt đờ đẫn khi hiểu rõ câu hẹn hò của công chúa, chàng ngạc nhiên nhìn nàng, không ngờ giọng nàng lại vút lên.
- Chàng ăn cá phải không? Đến với em là phải rửa sạch đấy nhé.
- Sao? - Lễ nghi đại thần cũng kinh ngạc không kém. Ngài lúng túng không biết xử trí ra sao, ngài buột mồm hỏi: - Bố mày vẫn nấu rượu chứ?
- Dạ, vẫn thế bác đồ ạ.
- Tao là đại thần.
- Vâng, thưa ngài đại thần, tôi trót nhỡ mồm.
- Hôm nào bảo bố mày gửi cho tao một vài hũ, loại nấu bằng nếp cái, nhớ chưa?
Nói xong, ngài hít một hơi dài để lấy lại uy lực, ngài túm tay công chúa Bana lôi đi. Nàng không muốn cưỡng lại lão đại thần. Nàng nháy mắt nói to giữa tiếng lao xao của trăm họ.
- Nhớ đấy, không đến là chém đầu, hiểu chưa, giờ Tý.
Chương năm
Quan ngự thiện hầu cơm vua Biđa thường phàn nàn với ngự thiện phu nhân: “Bệ hạ vất vả ngay cả lúc ăn, không phải ngài không thích thú với cái món sơn hào hải vị, rượu quý, quả lạ, mà vì có lẽ mất nửa đời chinh chiến ngài quen những bữa ăn vội vã rồi, mới lại có thể (ngự thiện hạ giọng) ngày trước ngài là con nhà thuyền chài, đục đá nên…”. Quan ngự thiện đúng là hiểu vua lắm, vua Biđa chưa bao giờ cảm thấy thú vị trong khi ăn, mặc dù ngài vẫn thấy ngon. Ngài ăn vội vàng (ngay cả những món đòi hỏi phải ăn chậm để hưởng hết cái thú của mùi vị) bởi cái nếp ăn trên thuyền chòng chành, và những bữa ăn cấp tập giữa ba quân đã ngấm vào ngài rồi. Bình thường đã vậy, tối nay, thiên tử ăn càng nhanh hơn, ngài bực đến độ không thấy thích thú cả món mắm kem đặc biệt mà tổng Bình Dương quê ngài làm từ cá cơm con mang vào tiến, ngài bực đến độ vừa đặt chiếc bát rồng xuống, ngài đã xốc long bào lao đi, đến nỗi quan ngự thiện phải vội vã vác bụng kéo đai lao theo tâu vội:
- Tâu bệ hạ, trên cằm bệ hạ, còn một hạt minh châu.
- Ngọc à, ngọc gì mà dính được vào cằm ta? - Vua Biđa vung cánh tay lên, một hạt cơm rơi xuống, ngài vừa bước đi, vừa quát:
- Bận sau, cơm thì bảo là cơm, không tâu kiểu hòe sói ấy ta không hiểu.
Ngài bước thẳng vào tòa đại cảnh, ở đó hai hàng văn võ tề tựu đủ. Vừa ném mình một cách giận dữ vào ngai vàng, ngài vừa gầm lên:
- Quân đâu?
Tiếng “dạ” vang lừng.
- Cho đốt thêm đình liệu, phải thật sáng, thật sáng.
Sau lời phán truyền của vua, hai hàng lính hầu tiến vào, những cây đình liệu sáng rực như một đám cháy làm các đại thần phải nhíu mắt vì quá sáng. Vua đưa mắt nhìn suốt lượt khuôn mặt các quan, tất cả lỳ ra, khó hiểu. Ước gì (vua tự nhủ) ta có phép thần nào hiểu biết mọi suy nghĩ đang diễn ra trong đầu các quan, hoặc ta có cách nào bắt họ nói hết những điều họ giấu kín sau những vầng trán đội đủ thứ mũ mão kia. Ta biết không phải vị quan nào cũng răm rắp tuân lệnh ta, nguyện suốt đời sống chết vì ta và ngay cả cuộc lâm triều, bất chợt tối nay, không ít các quan bất đồng. Còn ta, ta hiểu hết quyền lực trong các cuộc họp triều đình, xứ sở này ra sao nếu không có họp, có hội, có nghị sự triều chính, không có những tờ khải, tờ chiếu. Hừ, được rồi, ta sẽ trị hết kẻ nào chống lại ý tưởng của ta - kiến quốc, thanh bình, nhưng phải tạo dựng ra bằng mệnh lệnh như trong binh đao, khói lửa. Vua vung chiếc hốt ngọc lên, giọng ngài rít lại:
- Ta lâm triều bất ngờ - (vua ngúc ngắc đầu, cái mũ rồng hôm nay nặng quá, giá bỏ đi được thì nhẹ nhàng, thoải mái, nhưng bỏ ra thì quyền lực oai vệ còn đầu, phải quen thôi, như quen một lời ăn tiếng nói: “Lâm triều”. Đáng ra là họp bàn chứ gì (vua lại đập hốt ngọc vào không gian lần nữa) - quạt mạnh cho ta một tí - đôi mắt hổ của vua trừng trừng, tuy nhìn vào các quan, lấy uy, mà hai thị nữ lại rúm người lại đưa nhanh hai chiếc quạt phượng.
- Ta lâm triều bất ngờ để cùng các khanh nghị sự một điều. Các khanh biết đấy, xứ sở Ti Thu của ta là vô địch, các nước láng giềng thì bạt vía, các nước xa xôi thì sợ oai thần. Ta lên ngôi nhờ vào tay kiếm của chính ta, vì thế trước đây, Ti Thu này có là cái gì, ngoài biên thùy năm dặm đã chẳng ai còn biết Ti Thu, mà nay nghe đến ta, tất cả đều bạt vía nép một bề. Vương triều của dòng họ Biđa sáng láng, hiển hách chiến công, xứ sở Ti Thu mưa nắng thuận hòa, rừng thì như vàng ròng vì sản vật, cây cối, chim muông của kho thiên tải, biển thì như bạc nén vì hải sản muôn loài, cá chim nghìn vật, còn dân đen, con đỏ của ta cần cù thông minh giảo hoạt, đất đai vườn tược trại ấp của ta thì tốt tươi, mưa nắng thuận hòa, cắm cán dao xuống còn nẩy lộc, chim đánh rơi cái rơm còn nảy mạ, còn triều chính của ta, chính sự sáng láng kỷ cương nghiêm túc, nghi trượng hào phóng. Vậy có gì xứ sở này lại có người đói, mặc rách, lũ ăn mày hôm nay lại cố tình ra giữa thanh thiên trong ngày hội khải hoàn của ta, hà cớ?
Vua đảo mắt hùm nhìn khắp quần thần, tất cả im lặng như những pho tượng, chỉ có tiếng ngọn lửa đình liệu phần phật réo. Giọng vua lại dội lên:
- Hay trong các khanh có kẻ rắp tâm phản ta, định bôi nhọ ta, làm mọi người khinh bỉ ta, coi là là kẻ lừa gạt, coi nghi trượng của ta là tối đen, pháp lực của ta là nông nổi, sai lạc, các khanh nói đi, có phải đó là một sự bày đặt không? Các khanh quên ta cho các khanh ăn, dẫn các khanh qua bao hiểm nguy, các khanh đã cùng ta nằm gai nếm mật, ta có quản gì? Nào sao các khanh im lặng thế. Nói đi, nói hết đi. Ta - một ông vua, một tên lính già, ta sẵn sàng trao lại ngai vàng này cho người nào làm cho xứ sở này thịnh vượng. Nào!
Vua gầm gào một hồi rồi vua mệt, ngài ngả người vào thành ngai vàng, mắt ngài nhắm lại, đôi môi ụ lên lập bập.
- Nói đi, ta cho quyền các khanh nói, để trả lời ta, rằng ta làm thế là đúng hay sai?
Trán ngài cau lại, vua thấy mình như đang trên lưng ngựa, ngựa của vua dập dờn lướt qua thung lũng lổn nhổn đá, bỗng ngài choàng dậy, đúng, có tiếng nói, kẻ nào mà liều lĩnh thế nhỉ. À, đại tướng Vu Gia - bạn từ thuở thiếu thời của vua, một tay kiếm tài giỏi, đánh đông dẹp bắc, ừ, nhưng bây giờ là triều đình, thì Vu Gia đại tướng là bầy tôi, cứ nghe đã, nghe đã. Vua Biđa hài lòng khi thấy người bạn thuở xưa ấy bước ra, xốc lại triều phục, cúi xuống lạy vua, rồi thong thả nói:
- Tâu hoàng thượng, nghi trượng của hoàng thượng như vừng dương trên cao xanh, pháp lực của thiên tử cần cho thiên hạ như cơm ăn nước uống. Nhưng lũ ăn mày kia cũng rất thực, dù cho lũ chúng như cái nốt ghẻ trên da dẻ chúng thần, như mảnh vá trên áo gấm.
- Vì sao, vì sao lại như vậy?
- Tâu hoàng thượng, mong hoàng thượng lượng thứ cho ngu thần đây, khi ngu thần được phép vua ban thưởng về cố hương vài ngày thì trước mắt ngu thần, cỏ cây, nhà cửa giặc phá, giặc đốt, đàn ông trai tráng ra trận, đàn bà, trẻ con sức lực đâu đủ để làm lụng, nên bới cỏ nhặt đất mà sống, nhưng ai cũng trợn mắt, nghiến răng căm quân giặc, ai cũng muốn chồng con xứng với tổ tiên, với hoàng thượng. Nhờ phúc lộc tổ tiên, chúng ta đã chiến thắng, nhưng dân đã mệt lắm rồi, phải khoan sức dân đã. Cha thấy con mệt phải khoan công hoãn việc, tướng biết lính mỏi phải liệu cách bãi binh, còn bây giờ, ngu tướng thấy nơi nơi quan nhũng, lính nhiễu, hà lạm súc vật của dân quá nhiều.
- Thế như nước Đại Thượng láng giềng to lớn của ta cũng làm như ta?
- Tâu hoàng thượng. Trăng còn khi tròn khi khuyết, đất còn dâu bể hợp tan, hơn nữa ngu tướng thiển nghĩ, người muôn đấng, vật muôn loài chẳng có ai giống ai cả, phải tự sức mình mà gánh, bắt chước người thì…
- Láo, ta mà bắt chước ư, đừng nệ công lao của khanh? Cậy…
- Tâu bệ hạ, thần đây chỉ vì ơn trạch của bệ hạ ban cho mà dám mạo muội.
- Ta nể khanh đấy… Trời, thế ra kẻ ăn mày là có thật sao?
- Tâu bệ hạ, đại tướng Vu Gia đã tâu trình, hạ thần đây xin hiến một kế an dân.
Vua vươn cổ ra nhìn lão thần Than Nga da mặt nhăn nheo, tay dài quá gối đang chắp trước bụng, chiếc lưng còng như sụm xuống.
- Tâu hoàng thượng, thời nào, dòng họ nào triều chính nào muốn được dài lâu, muốn để lại dấu son hồng trong trời đất thì hãy cúi xuống nhìn vào bát cơm của dân trông vào nhà cửa dân ở mà lo liệu.
- Sao, khanh nói sao, thế nghĩa là khanh bảo ta tàn nhẫn với con dân sao? Ta không yêu thương trăm họ sao?
- Ơn mưa móc, tâu hoàng thượng, nói ra thì dễ, nhưng làm mới cực khó. Vì vua nào cũng vậy, khi cần sức dân để bảo vệ mình ai cũng đội dân lên đầu, khi có quyền hành rồi thì xếp dân dưới kiệu mình, giành giật từ tay dân tất cả cái gì mình thiếu, nạo vét của dân tất cả gì mình cần. Ngay cả nạn đao binh kia, dân cả gầm trời này chả ai muốn họ bị hút vào bởi các triều chính mà thôi, vì thế khúc khải hoàn chỉ là khải hoàn cho chúng ta, còn cái nghèo khổ, đau thương mất mát, con mất bố, vợ mất chồng thì dành hết cho dân.
- Thế nghĩa là công sức của ta, sự nghiệp của ta không xứng đáng?
- Tâu bệ hạ, chúng thần lúc nào cũng vì ân sủng của hoàng thượng, còn hoàng thượng cũng nên vì trăm họ. Nước vừa tan giặc giã binh đao mong thiên tử lấy cái đói cái no của dân làm chuẩn mực cho mọi hành vi, sắc chỉ của mình.
- Ha, ha, ha được rồi, ta sẽ nghe các khanh.
Tiếng cười của vua rộ lên trong cung điện, làm những ngọn lửa ngả nghiêng, và các chúng thần sởn gai ốc. Đầu họ cứ gục xuống để thu mình nhỏ hơn, họ như lũ chim sẻ chợt nhận ra vuốt mèo đang chụp xuống. Ôi vua lại cười rồi, tiếng cười mới âm u, oan nghiệt làm sao. Ở với vua đã lâu, sao hai lão thần lại liều lĩnh, xem thường thế. Tiếng cười của vua vừa dứt, thì từ hàng ghế bên tả, một vị quan bé nhỏ, cong queo trong bộ triều phục màu lam bước ra, chúng thần nghe tiếng hài khẽ ngước mắt lên và nhận ra La Tra - gã lái trâu đã có công cung cấp thịt cho vua trong những ngày chinh chiến, vì công lao đó, La Tra được phong tới chức Cấp nhục viện sĩ có quyền tham dự mọi cuộc họp cơ mật, và nhất là các cuộc nghị sự định bữa ăn cho vua. Cấp - nhục - viện - sĩ cúi mình ba lần hắng giọng hai lần tâu:
- Ngu thần trộm nghĩ, nếu bệ hạ cứ theo lời nhị vi lão thần thì còn gì là oai rồng của thiên tử nữa. Trăm họ chẳng qua chỉ là bó đũa trong tay thiên tử; là đũa thì phải ở trong tay người cầm, có gắp được đồ ăn cũng chỉ để đưa vào mồm người ăn chứ…
- Thôi. Đôi mày rậm của vua nhíu lại khi ngài thoáng thấy cơ mặt của Vu Gia đại tướng động đậy. Vừa lúc đó, một vệ sĩ tên là Quýt bước vào, rập đầu tâu:
- Tâu hoàng thượng, trong vườn thượng uyển, chúng thần bắt được công chúa và Ly Tri vệ sĩ.
- Sao, chúng nó làm sao?
Vua xốc đai ngọc xồng xộc bước tới, ngài tóm lấy cổ áo tên Quýt nhấc lên. Tên này kinh hãi cố tránh luồng nhỡn lực của vua. Tay vua lắc lắc liên hồi, miệng tên Quýt lắp bắp đứt đoạn, vua buông tên Quýt ra, ngài bỗng thở dài nói to.
- Điệu chúng vào đây, rồi cho các quan bãi triều. Tính sau, tính sau hết!
Nguyễn Hiếu