Giáng sinh
Đà Lạt về đêm. Những con đường đen sẫm miên man trên triền dốc, đồi thông. Phố vắng, đèn đường lọc qua hơi sương mơ hồ như trong mộng. Chiếc taxi chở độc một hành khách thong thả chạy về phía ngoại vi thành phố. Đến chân một đồi thông thoai thoải xe dừng lại. Người khách độc hành bước xuống, chống ba toong chầm chậm lên đồi. Xung quanh vắng lặng, không có cửa hàng cửa hiệu, tiếng ồn ào xe cộ, chỉ có rừng thông và sương đêm. Trên gốc thông già treo một biển hiệu nhỏ có hàng chữ nét mảnh sáng mờ: Cung tơ chiều. Đó là tên quán bar quen thuộc tối tối người kháng thường lui tới. Lối vào quán rải sỏi, có những dây đèn mắc trên cành thông mờ ảo. Không khí se lạnh và thanh khiết. Người khách dừng lại hít một hơi dài, trầm ngâm như lắng nghe hơi thở của rừng thông. Đoạn, ông chống ba toong đi vào ngôi nhà gỗ nho nhỏ yên tĩnh mờ ảo ánh đèn. Người khách mở cửa, đứng định thần một lát và bước về phía chiếc bàn quen thuộc gần cửa sổ. Trong quán có khoảng hơn hai chục khách ngồi thành từng nhóm, đang rì rầm trò chuyện. ở đây không có rượu mạnh và đồ nhậu, không có tiếng nhạc xập xình, không ai nói cao giọng. Căn nhà nhỏ ốp gỗ sẫm màu không thắp điện, chỉ có ánh nến lung linh. Trên tường treo những cây đàn ghi- ta đã lên nước đen bóng. ở thành phố du lịch phồn hoa có hàng trăm nhà hàng, khách sạn, quán bar náo nhiệt, tráng lệ với những tiếp viên xinh đẹp, biển quảng cáo điện tử rực rỡ, thì quán bar này như một cõi riêng của những người khách quen chọn lọc, những người muốn sống với thế giới tâm linh của riêng mình. Khách là những trí thức, văn nghệ sĩ và những doanh nhân, những Việt Kiều. ở đây không có gì để phân biệt sang hèn, giàu nghèo. Dưới ánh nến, người ta uống cafe, rượu vang và nghe nhạc Trịnh Công Sơn. Nhạc Trịnh không phát băng, đĩa và loa thùng, không có kỹ nữ hát show, mà do chính nữ chủ quán hát tặng khách. Không phải khi nào cũng hát và ai cũng được tặng. Chính vì vậy, quán Cung tơ chiều mang phong vị đặc biệt của văn hoá Đà Lạt. Chỉ những ai am hiểu Đà Lạt mới biết tìm đến đây.
Người khách đi taxi đến là một hoạ sĩ già nổi tiếng từ nửa thế kỷ trước. Cuộc đời và sự nghiệp của ông được giới văn nghệ sĩ xem như một huyền thoại. Ông ngồi lặng lẽ nhìn qua cửa kính mờ sương, chậm rãi châm thuốc hút. Lát sau, một cô gái trẻ ăn mặc giản dị nhẹ nhàng đặt trên bàn nhỏ trước mặt hoạ sĩ một chai vang Đà Lạt ướp lạnh đã mở nút, một chiếc ly và một đĩa quả ô mai. Cô gái khẽ cúi chào và lui vào phòng trong. Hoạ sĩ bỏ mấy quả ô mai ướp muối vào ly, rót vang, rồi trang trọng cầm ly lắc khẽ và thong thả nhâm nhi. Khách ngồi ở các bàn khác rì rầm nói chuyện, vài người quay nhìn hoạ sĩ. Ông là vị khác đặc biệt, hầu như ở đây mọi người đều biết. Không khí vấn tĩnh lặng, nghe rõ tiếng nổ lách tác từ các ngọn nến màu hồng đang cháy sáng lung linh. Từ nhà trong, một thiếu phụ dáng đoan trang mặc bộ đồ màu sẫm cắt may tinh tế, tóc đen buông xoã ngang vai bước ra. Cô khẽ cúi chào khách ngồi quang mấy chiếc bàn, đoạn cầm một cây ghi ta đang treo trên vách gỗ, nhẹ ngành đi về phái hoạ sĩ già.
- Kính chào hoạ sĩ, thiếu phụ nói.
Hoạ sĩ nâng ly rượu vang làm động tác chào lại, rồi khẽ ra hiệu mới thiếu phụ ngồi. Ông ôn tồn:
- Chào chủ quán. Có thể mời cô một ly không?
Thiếu phụ nghiêng đầu từ chối, tay búng trên dây đàn, một hợp thứ êm đềm âm vang khắp phòng. Khách từ các bàn khác ngừng nói chuyện, hướng về phía hoạ sĩ và nữ chủ nhân. Thiếu phụ ngồi lặng phắc, rồi bất ngờ múa trên cần đàn, một dòng suối nhạc tuôn trào như nước chảy, mưa rơi. Cô cất giọng đầy truyền cảm:
ngoài hiên vắng giọt thầm cuối đông
trời chợt nắng vườn đầy lá non
người lên tiếng hỏi người có không
người đi vắng về nơi bế bồng...
Nhạc Trịnh đã được biểu diễn nhiều năm trên nhiều sàn diễn trong nước và quốc tế, nhưng chưa ở đâu có không khí u hoài sâu lắng lạ lùng như ở đây. Chỉ có một cây ghi-ta gỗ với một hồn nhạc ngẫu hứng của người thiếu phụ hát giọng trầm khàn mà khiến cả căn phòng thành cõi nhớ. Người hoạ sĩ già ngội lặng như đá, ly rượu nâng ngang mày. Tuổi thọ và sự nổi tiếng khiến ông cô đơn. Ông đang sống những ngày tháng phiêu diêu giữa cõi thực và cõi mơ, vô thức và ý thức nhập nhoà biến ảo. Tối tối ông lui tới tửu quán này, để được sống với chính mình cùng lúc nhiều năm tháng tràn về như cơn lũ mùa xuân. Khi người thiếu phụ gẩy đàn và hát, ông thường nhìn thấy thời trai trẻ đầy khát khao sáng tạo và tình yêu. Ông không nghe từng nét nhạc, từng ca từ, mà thấy những tia nắng trong vườn xuân, những gương mặt, giọng nói tiếng cười và những nẻo đường thiên lý ông từng qua. Ông nhắm mắt như thiếp ngủ và thì thầm như nói với chính mình:
- Ta đã thấy, xin cảm ơn.
Thiếu phụ gẩy đàn không hiểu những gì đang diễn ra trong thế giới nội tâm của hoạ sĩ, nhưng cô đã quen với cách ứng xử của ông. Vì vậy, dù rất khó tính, ít khi hát tặng khách, nhưng mỗi lần hoạ sĩ đến, cô đều hát cho ông nghe. Cô cảm thấy sau khi nhâm nhi mấy cốc vang và nghe cô hát, ông trở nên sảng khoái, hạnh phúc hơn. Khi hoạ sĩ lặng im chìm sâu vào tâm linh như thiền định, người thiếu phụ nhẹ nhàng đứng dậy đi sang chào khách quen ở những bàn khác. Họ đề nghị cô hát, nhưng thiếu phụ khẽ mỉm cười lắc đầu. Nhiều người đến đây để được nghe cô hát nhạc Trịnh Công Sơn, nhưng họ hiểu cô chỉ hát khi có cảm hứng nên không dám nài. Mỗi lần thiếu phụ nâng đàn lên hát, như là một nghi lễ. Chính vì vậy, du khách đến đây có một trường tâm lý riêng, những người khoe giàu sang, quen dùng tiền mua vui không thể đến đây lần thứ hai. Khách hôm nay có mấy người trẻ tuổi mới đến lần đầu. Họ đều có vẻ thanh lịch, sang trọng và trí thức. Trong số đó có một thiếu nữ tóc dài chải lật như cách trang điểm của các tiểu thư thành thị thời đầu thế kỷ trước. Từ lúc hoạ sĩ bước vào, cô đặc biệt chí ý đến ông. Cô chuyển ghế ngồi quay về phía ông và không rời mắt khỏi ông. Khi thiếu phụ gẩy đàn đến ngồi cùng bàn, cô khẽ hỏi:
- Thưa chị, em muốn đến chào hoạ sĩ Hoàng có được không?
- Được, thiếu phụ nói. Nhưng em phải biết, hoạ sĩ khó tính và hay mếch lòng lắm đó.
Cô gái nói:
- Vâng, em biết. Em xin phép mọi người.
Cô gái đi về phía bàn hoạ sĩ. Ông đang lim dim đôi mắt, không để ý đến xung quanh. Cô gái ngồi xuống ghế, chờ đợi. Hoạ sĩ chợt mở bừng mắt ngạc nhiên. Ông cảm thấy mùi hương toả ra từ cô gái, không hẳn mùi nước hoa hay mùi da mùi tóc. Có lẽ là mùi hương của thổi trẻ, mà sao quen thuộc lạ lùng. Ông chưa kịp hỏi, cô gái đã lên tiếng:
- Con chào hoạ sĩ. Con xin phép ngồi cùng người một lát được không ạ.
Hoạ sĩ chăm chú nhìn cô gái. Đôi mắt già nua của ông lúc ngày đầy vẻ tinh anh, tâm trí ông chợt bừng sáng. Hoạ sĩ mỉm cười làm động tác hài lòng và hỏi:
- Cô biết ta ư?
Cô giái khẽ cúi đầu, nói nhẹ:
- Thưa vâng, con biết tên tuổi Người từ lâu.
Đối với hoạ sĩ điều đó không lạ. Nhưng ông cảm thấy cô gái này có gì đó khác thường. Gương mặt, thần thái cô ta có gì quen quen. Ông thấy bứt rứt và xao động khi nhìn cô và nghe cô nói. Trí óc ông trở lên linh hoạt, ông lại là ông, lịch lãm và phong lưu trước người đẹp như thuở nào. Ông nói thân mật:
- Cảm ơn. Cô biết ta như thế nào?
- Dạ thưa, biết Người qua người thân. Con đến chào Người và muốn xin Người một điều.
Hoạ sĩ nói:
- Ta chỉ còn tuổi già, có gì để cho ai nữa đâu.
Cô gái mỉm cười nhìn ông thân thiết:
- Dạ còn và còn rất lớn. Con muốn được đến thăm Người.
Hoạ sĩ ngạc nhiên nhìn cô giái. Ông nói:
- Thăm ta ư? Ta rất vui vì có người trẻ tuổi đến thăm. Chỗ ta đang ở cách đây hơi xa.
- Dạ con biết rồi. Nếu Người cho phép, sáng mai con xin đến thăm.
Hoạ sĩ khẽ gật đầu trầm ngâm. Cô gái nói: "Con cảm ơn. Bây giờ con xin phép". Cô gái chào hoạ sĩ và trở lại bàn cùng với các bạn. Lúc này thiếu phụ chủ quán đang múa ngón tay trên cần đàn và cất tiếng hát:
Người ngồi xuống xin mưa đầy
trên hai tay cơn đau dài
người nằm xuống nghe tiếng ru
cuộc đời đó có bao nhiêu mà hững hờ...
Cuộc viếng thăm vẻ bí hiểm của cô gái và tiếng hát trầm buồn của thiếu phụ khiến hoạ sĩ nôn nao như say. Ông đứng dậy, chống ba toong chầm chậm đi ra không chào từ bịêt như mọi lần. Cả một trời sương và rừng thông Đà Lạt vây quanh ông.
***
Hoạ sĩ Hoàng Bửu ở trong ngôi biệt thự nhỏ giữa rừng thông. Đây là nhà sáng tác của một người bạn, thường được người Đà Lạt gọi là Vườn Tượng. Bạn ông là một nhà điều khắc nổi tiếng, thời gian này đang về Sài Gòn. Xung quanh ngôi biệt thự, những cụm tượng đặt rải rác thấp thoáng sau các gốc thông, các khóm hoa. Buổi sáng, hoạ sĩ dậy sớm đi bộ trên đồi thông, trở về tập khí công khoảng nửa giờ rồi tắm nước nóng. Ông mặc quần áo chỉnh tề rồi leo con dốc nhỏ lên nhà sáng tác gọi một ly cà phê sữa, ăn một lát bánh mỳ. Lúc ông trở về đã thấy thiếu nữ tóc dài tối qua ngồi chờ trên ghế đá cạnh nhóm tượng đang thi công. Thiếu nữ đứng dậy đón hoạ sĩ bên chân dốc. ánh nắng nhẹ của buổi sáng Đà Lạt lọt qua vòm lá thông nhỏ giọt trên tóc, trên bộ váy áo màu sáng của cô. Trông cô thật thanh tân, rực rỡ. Hoạ sĩ hơi giật mình vì dưới ánh sáng ban ngày, trông cô gái càng quen thộc. Cô gái nhún mình chào hoạ sĩ và nhẹ nhàng theo ông vào nhà. Hoạ sĩ chậm rãi pha trà trong bộ ấm đất nung đã lên nước đen bóng ông luôn mang theo bên mình nhiều năm nay. ở đây người ta ít uống trà Bắc, nhưng hoạ sĩ không thể thiếu. Khi hoạ sĩ pha trà, cô giái quan sát căn phòng bề bộn những khung tranh, mẫu vẽ, giấy, bút, sách vở. Trên bàn viết và trên giá sách có mấy khung ảnh và tượng chân dung. Cô gái đứng bật dậy bước nhanh đến chỗ một kệ gỗ đặt ở đầu chiếc giường nhỏ. Trên kệ là tượng chân dung một thiếu nữ đúc đồng tỷ lệ bằng người thật. Cô ngồi xuống bên giường ghé nhìn bức tượng, vẻ xúc động sâu sắc. Một lát, cô gái ngửng đầu lên nhìn hoạ sĩ, hai mắt đẫm lệ.
- Thưa Người, đây là mẹ con phải không?
Hoạ sĩ bàng hoàng nhìn cô gái. Cô đến bên bàn mở túi xách, đưa cho hoạ sĩ một tấm ảnh đen trắng ố màu thời gian. Hoạ sĩ già lập cập đeo cặp kính, run run cầm tấm ảnh. Ông thốt lên:
- Đây là Hường. Ta với nàng đã chụp bên thác Camly ngày ấy. Vậy cô là...
- Con là Lan Hương, con của mẹ Hường.
Hoạ sĩ sững sờ không thốt lên lời. Hồi lâu ông mới nói:
- Hơn hai mươi nhăm năm rồi. Bây giờ mẹ con ở đâu?
- Mẹ con sống ở tận trời Tây. Con từ Ca-ly mới về.
Ngày ấy Hừơng đi hoạ sĩ có biết, nhưng không được gặp nhau để từ biệt. Hơn nữa những người thân cả hai gia đình phong toả tin tức suốt bao năm nên ông không biết gì hơn. Bây giờ ông mới nhận ra nét quen thuộc của cô gái chính là hình bóng của Hường. Ông hỏi:
- Mẹ con có được hạnh phúc không?
Cô gái ngẫm nghĩ hồi lâu rồi trả lời rành rọt:
- Nếu cho rằng được lựa chọn đường đời theo ý mình và đi được tới cùng là hạnh phúc, thì có, Người ạ.
- Nghĩa là sao?
Cô gái nhìn hoạ sĩ không rời. Cô đáp trầm ngâm:
- Mẹ con và mấy cô bác người Việt ở Ca-ly quyên góp xây một ngôi chùa. Hàng ngày bà tụng kinh niệm Phật và ăn chay trường. Bà vẫn còn đẹp lắm...
Trời ơi, hoạ sĩ đâu có ngờ người con gái đã yêu ông bất chấp tuổi tác, bất chấp mọi cấm đoán của gia đình, xã hội, cháy rực như ngọn lửa muốn thiêu đốt cả ông và nàng, giờ đây đang ở cõi từ bi. Nàng là một trong những nữ sinh bạn của cháu gái ông, kém ông hơn bốn mươi tuổi. Cũng như nhiều người trẻ tuổi khác, nàng yêu nghệ thuật và xem ông như thần tượng. Điều đó đối với ông là chuyện thường tình, vì ông đã quen với sự hâm mộ của những người xung quanh đến mức không để ý chuyện đó nữa. Ngày ấy, cũng trên mảnh đất ngàn thông, ngàn hoa này, nàng theo ông đi sáng tác như tình ông cháu. Không hiểu do phong thuỷ Đà Lạt hay trời xui đất khiến, nàng đã yêu và thổ lộ tình yêu với ông. Ông, một người trai Hà Nội con nhà danh giá, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương, đã cưới vợ và đưa vợ con lên chiếc xe thổ mộ rong ruổi bao nhiêu năm trường, sinh tử với nghệ thuật. Cuộc đời lãng du đã đưa ông đến nhiều mối tình sóng gió, nhưng không cõi mơ nào làm ông quên đường về với bến bờ thực là người vợ tao khang và những người con của ông. Ông đã gặp những giai nhân tuyệt sắc, những hồng nhan tri kỷ hâm mộ tài năng và khí chất của ông. Nhưng trước tình cảm bột phát mãnh liệt của Hường, một cô nữ sinh áo trắng, ông đã hoảng sợ. Ông bỏ dở chuyến đi sáng tác và đưa nàng trở lại Sài Gòn. Ông trở về Hà Nội, nhận được rất nhiều thư của nàng. Trong thư, nàng gọi ông là ông và xưng em, thổ lộ sự nhớ nhung mãnh liệt và nỗi buồn khổ của nàng. Ông nghĩ rằng qua thời gian, rồi tình cảm bồng bột tuổi trẻ sẽ qua thôi. Cuối năm ấy ông vào Sài Gòn, nàng biết và tìm đến thăm ông. Nàng đòi ông đưa lên Đà Lạt dịp lễ Giáng sinh, chỉ một lần ấy nữa thôi. Đà Lạt giáng sinh năm ấy, hoa phượng tím nở đầy trời. Phượng tím chỉ nở ở Đà Lạt, nó là đặc trưng ở thành phố ngàn hoa này. Chuyến đi ấy đã trở thành định mệnh. Ông không thể cưỡng lại tình cảm nồng cháy của thổi trẻ và nàng đã trao gửi tất cả cho ông. Đêm ấy, nằm trong vòng tay ông, nàng nói rằng nàng vô cùng hạnh phúc. Gần sáng, nghĩ rằng nàng đang ngủ ngon, ông trở dậy hút thuốc. Bất ngờ nàng chui ra khỏi chăn, nói giọng tỉnh táo:
- Ông ơi, chúng mình cùng chết nhé. Em muốn được chết với ông.
Tưởng nàng nói trêu, ông mỉm cười ôm vai nàng. Nhưng khi thấy nàng mở túi xách bỏ ra một lọ thuốc, ông hiểu là nàng nói thật. Suốt đêm hôm ấy và buổi sáng hôm sau ông an ủi, thuyết phục nàng. Nàng mới mười tám tuổi, còn ông gấp ba tuổi nàng. Ông thấy mình thật là tội lỗi. ông không có quyền yêu nàng, đây là tình yêu điên rồ nhất trong đời ông. Ông đã thuyết phục được nàng và đưa nàng trở lại Sài Gòn. Một linh cảm xấu khiến lòng ông nặng trĩu. Không biết rồi diều gì sẽ xẩy ra, nhưng chắc chắn là rất nghiêm trọng. Ông biết đây là lần gặp nhau cuối cùng của hai người, vì ông không thể cho phép mình gặp lại nàng nữa. Như một kẻ tội đồ chạy trốn, sáng hôm sau ông lặng lẽ ra ga về Hà Nội. Nàng hiện ra trước mặt đúng lúc ông sắp đặt chân lên bậc toa tàu. Ông sững sờ vì quá bất ngờ, vì không hiểu sao nàng biết ông ra đi. Nàng không hề rơi nước mắt bình tĩnh nói với ông:
- Em bị nhốt trong phòng, phải trèo cửa sổ trốn ra đây.Em biết ông sẽ làm như thế, vì ông là ông. Được sống cùng ông đêm giáng sinh là đời em mãn nguyện rồi. Mong ông hãy bảo trọng. Vĩnh biệt ông.
Nàng lên xích lô không hề quay đầu lại. Sau đấy là sự phản ứng dữ dội của gia đình nàng. Ông đã mất đi những người bạn, trong đó có cha nàng. Qua bạn bè, ông được biết gia đình đã đưa nàng sáng Mỹ du học.
Đầu những năm tám mươi của thế kỷ trước đất nước sau chiến tranh còn rất nghèo, việc xuất ngoại rất khó khăn. Nhưng gia đình nàng thuộc loại gia thế, lại có bà con thế lực bên đó bảo lãnh. Ông đắp tượng nàng theo trí nhớ và thuê thợ đúc đồng. Bây giờ người vợ tao khang đã mất, các con ông đều trưởng thành, có người cũng nổi tiếng trong giới của ông. Những lá thư và bức tượng của nàng luôn đi theo ông mỗi lần chuyển dịch chỗ ở. Nàng chỉ còn sống trong cõi nhớ của ông. Đúng lúc ông không ngờ nhất, thì tin nàng đến, mà người đưa tin lại là con gái nàng.
Cô gái trìu mến nhìn người hoạ sĩ già đang lặng đi vì xúc động. Cô hiểu ông đang nhớ về mẹ cô.
- Con về lần này du lịch hay thăm gia đình?
- Hai ngoại con đã mất, cô gái nói. Con tìm tài liệu làm luận văn doctor về văn hoá Việt. Con đã tìm ông ở Hà Nội, Sài Gòn. Người ta nói rằng ông đang ở Đà Lạt, con liền lên đây.
Hoạ sĩ ngượng ngùng hỏi:
- Mẹ có bao giờ nhắc đến ta không?
- Mẹ vẫn dõi theo ông. Những bài báo đăng về triển lãm tranh của ông ở trong nước, nước ngoài mẹ đều cắt và cất giữ cẩn thận. Mẹ đã dạy con tiếng Việt và biết yêu văn hoá Việt.
Tưởng chỉ là tình cảm bồng bột tuổi trẻ, nào ngờ Hường đã yêu ông sâu nặng đến thế. Lưỡng lự hồi lâu, ông hỏi:
- Sang Mỹ, mẹ con đã kết hôn với bố con phải không?
Cô gái ngạc nhiên và trách móc nhìn ông:
- Không, mẹ không còn người nào cả. Con được hoài thai trong một đêm giáng sinh ở thành phố Đà Lạt này đó.
Hoạ sĩ già chết lặng, khuôn mặt nhăn nheo và đôi môi run run. Ông khuỵu xuống, ngồi bệt trên sàn, hai tay huơ lên trời và thốt lên:
- Trời, vậy con là con ta đấy ư?
Cô gái cúi đầu không đáp. Đôi má trắng trẻo của cô ướt đẫm hai hàng lệ. Cô nói âm thầm:
- Mẹ bảo nếu Người còn sống, mời Người sang Ca-ly để mẹ được gặp lại một lần nữa.
Hoạ sĩ Hoàng Bửu khó nhọc đứng dậy, đặt tay lên đầu cô gái đang khóc lặng lẽ.
- Ta già rồi, đã chín mươi tuổi rồi, con gái ạ. Bạn bè cùng lứa chỉ còn một người. Còn ngày nào ở đất nước, con hãy đến ở cùng ta được không?
Cô gái đứng dậy, cầm bàn tay nhăn nheo của họ sĩ, ngước đôi mắt ướt nhìn ông:
- Con còn một số việc phải làm, cũng đang ở với mấy người bạn. Nhưng con sẽ quay lại.
Cô gái muốn gọi ông là cha nhưng không thốt lên được. Ông vịn vai cô đưa cô qua khu vườn tượng xuống chân dốc Yên Thế. Ông dừng lại, đặt tay lên mái tóc xanh như mây của con gái, từ đôi mắt già nua, hai giọt lệ lăn trên khuôn mặt nhăn nheo. Ông nói:
- Ta có tội với mẹ con con. Mong hai người hãy tha thứ cho ta.
Cô gái hỏi:
- Để mẹ con có một tình yêu đủ sống một đời, để con được sinh ra làm người là có tội ư?
Hoạ sĩ sững sờ nhìn cô gái. Hạnh phúc và bất hạnh, tình yêu và tội lỗi phải chăng là lẽ riêng của mỗi số phận con người. Được sinh ra làm người quả là một hạnh phúc lớn lao, nhưng sống cho nên người còn khó khăn và lớn lao hơn. Hường thật kiên cường. Nàng một mình đi qua bao nhiêu gian truân với tình yêu như ngọn lửa dấu kín, một mình nuôi dạy con gái thành tiến sĩ. Lòng ông trào dâng một niềm hạnh phúc xót xa. Trí não già nua của ông ngân lên những âm thanh kỳ lạ, hay tiếng chuông nhà thờ xen lẫn tiếng chuông chùa Đà Lạt đáng dóng dả báo ngày giáng sinh đã đến?
Cô gái chầm chậm đi xuống dốc. Xung quanh cô rừng thông và cỏ hoa thơm ngát, trên đầu cô những cây phượng Đà Lạt nở hoa rực rỡ như những áng mây tím bồng bềnh. Trong hồn cô vang lên câu hát của Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ nhiều duyên nợ với cao nguyên này:
tạ ơn hoa sáng thơm cho mẹ
tạ ơn chim chiều hát cho cha
trời đất kia có hay ta về
một phố hồng một phố hư không...
Cô dừng lại nhìn lên dốc. Hoạ sĩ già, cha cô vẫn đứng nhìn theo.
Đà Lạt - Thái Bình, Giáng sinh 2005
Giọt đắng
Cô gái úp mặt lên bộ ngực trần của người đàn ông đứng tuổi. Mái tóc xoã trùm kín nửa gương mặt cô chảy mơn man trên da thịt người đàn ông đang nằm nghiêng tựa đầu trên thành giường hút thuốc, biếng nhác vẩy tàn thuốc xuống tấm thảm quý trải sàn. Cô gái khẽ kéo tấm chăn lông che kín nửa người, tiếp tục vùi đầu vào bộ ngực người đàn ông, phát ra tiếng thở khoan khoái thoả mãn như tiếng mèo gù. Căn phòng yên tĩnh, chỉ nghe tiếng gió mơ hồ của máy điều hoà nhiệt độ.
- Đợt này anh ở lại đây bao lâu? Cô gái hỏi.
- Đủ để vui với em.
Giọng cô gái nũng nịu:
- Anh chỉ xạo. Lần trước cũng nói thế hôm sau đã biến. Tất cả đàn ông đều giống nhau.
- Thôi nào, cô bé, anh còn công việc. Anh bao em thế còn ít sao? Bây giờ anh phải đi đây.
Cô gái vươn vai uể oải ngồi dậy, lườm người đàn ông:
- Ký hợp đồng à? Em sẽ đợi anh ở đây được không? Em ngủ bù.
Người đàn ông im lặng vẻ phân vân. Cô gái tung chăn bước xuống sàn. Cô khoan thai đi lại trong phòng, trên người không một mảnh vải, cố ý khoe cái thân thể trẻ trung đầy nhục cảm. Bỗng cô giật mình kêu lên:
- Thôi chết, tàn thuốc của anh làm cháy thảm rồi, làm bỏng chân đây này.
Cô xăng xái lấy nước ở bình tưới vào nơi tấm thảm len đang bốc khói. Người đàn ông ngồi dậy bình tĩnh bảo cô gái:
- Thôi được rồi. Anh sẽ bồi thường để họ mua tấm khác.
Cô gái trân trân nhìn người đàn ông, rồi đột ngột lao tới ghì đầu người đàn ông vào ngực, âu yếm bảo:
- Anh giàu nhỉ.
Cô nhún nhẩy bước ra cửa sổ, kéo tấm rèm nhung màu huyết dụ. Bên ngoài, trời nắng sáng. Một góc bờ biển và một góc thành phố hiện ra sau cửa kính. Cô đứng nhìn xuống đường phố một lúc lâu vẻ chăm chú. Bỗng cô quay lại mặt tái nhợt, vơ vội quần áo khoác lên người. Người đàn ông vẫn ngồi quan sát cô, đoán hỏi:
- Em làm sao vậy? Đi à?
- Em phải đi đây. Cô gái trả lời và tiếp tục thu xếp hành lý.
Người đàn ông khẽ kéo cô lại gần:
- Có chuyện gì thế? Em vừa nói sẽ ở lại cơ mà!
Cô gái nhìn người đàn ông bằng đôi mắt hốt hoảng:
- Em phải đi, phải đi. Anh đừng hỏi nữa.
Người đàn ông mở cặp, lấy một xấp tiền nhét vào túi cô gái. Ông ta hôn cô và nói:
- Thôi được. Khi nào em quay lại?
- Em không biết. Giọng cô gái luống cuống, chẳng từ biệt, cô mở cửa lao ra cầu thang.
Người đàn ông trầm ngâm châm thuốc hút. Chuyện vừa rồi chẳng làm ông chú ý mấy. Thiếu gì trò đóng kịch của các cô kiểu này. Ông vào phòng tắm xả nước ào ào để lấy lại sự tỉnh táo sau một cuộc chơi đến cạn kiệt sinh lực. Chuyện cô gái trong chốc lát đã không còn làm ông bận tâm. Ông đang bước vào một cuộc đấu trí lớn trong thương trường mà phần thắng sẽ là một khoản lợi nhuận kếch xù. Ông đứng trước gương chải đầu và ngắm mình. Một khuôn mặt đàn ông khả ái đang nhìn ông. Đã nhiều năm nay ông chỉ nhìn thấy độc một gương mặt ấy và không tin ai ngoài nó. Đó là gương mặt ông yêu, ông tin duy nhất. Ông nghiệm ra rằng trong cuộc đời đầy cạm bẫy, đó là cách tốt nhất để sống sót và thành công.
Có tiếng gõ cửa. Tiếng gõ cửa lặp lại, nhẹ nhàng và dứt khoát. Ông mở cửa. Một người phụ nữ ăn mặc giản dị không đợi ông mời, bước vào phòng cất tiếng chào:
- Chào anh Trần Khoát.
Thay cho cảm giác tức giận là sự ngạc nhiên và hơi chợn. Trần Khoát hỏi:
- Chị là ai? Sao biết tôi?
- Tôi biết anh là một ông chủ lớn, thường đến thành phố này ký những hợp đồng lớn.
- Thế thì sao? Điều đó mấy ai chẳng biết?
Người phụ nữ cười nhạt, không đợi mời, tự nhiên ngồi xuống ghế phô-tơi với dáng điệu vô cùng mệt mỏi. Đó là một người đàn bà trạc trên bốn mươi tuổi, sự vất vả thể chất và đau khổ về tinh thần hiện rõ trên gương mặt có lẽ đã một thời xuân sắc. Đôi mắt đẹp và buồn với những vết chân chim ở đuôi mắt nhìn chủ căn phòng một cách lạnh lùng, xa cách và đầy hiểu biết.
- Tôi từ xa đến đây không phải để làm quen với anh, vì chúng ta quen nhau đã từ lâu. Nếu không có lý do, chắc tôi đã chẳng gặp lại anh trong tình cảnh này, anh Khoát ạ.
- Gặp lại? Chị nói là chúng ta đã gặp nhau?
- Phải, đã gặp nhau. Khi đó anh là anh chàng sinh viên thực tập nghèo túng. Sáng sáng đến xí nghiệp, có một cô công nhân thường tạt vào khu tập thể, đặt ở đầu giường chàng sinh viên một gói xôi nóng.
Trần Khoát lặng người, trân trân nhìn người đàn bà.
- Trời, Ngân! Lẽ nào lại là em?
Ông ta lao đến ôm lấy đôi vai gầy của người đàn bà tên là Ngân. Trần Khoát không ngờ ông lại xúc động đến như vậy khi nhận ra đôi mắt đẹp của người con gái đã cưu mang ông khi xưa. Ngân nhẹ nhàng gỡ tay Khoát, đẩy ông ngồi xuống ghế bên cạnh. Hai người lặng nhìn nhau hồi lâu, cố chế ngự nỗi xúc động của hồi ức.
- Ngân, thế bây giờ em sống ra sao?
- Cũng như mọi người thôi. Tôi đã về quê từ ngày ấy và nuôi bố mẹ già. Nhưng thôi, tôi đến đây đâu phải để tâm sự. Còn anh cũng chẳng cần nói, tôi đã biết quá nhiều về anh.
- Ngân có khó khăn gì không? Có được hạnh phúc không?
- Tôi đang bất hạnh.
Ngân nhìn Trần Khoát đăm đăm, đôi mắt ánh lên nỗi cay đắng và đau khổ khôn cùng. Khoát chợt hiểu là Ngân cần giúp đỡ, vội mở cặp lấy ra một bọc tiền lớn và nói:
- Bây giờ Ngân cầm tạm, rồi ở đây chờ tôi đi giải quyết công việc. Buổi trưa ta sẽ bàn kỹ vấn đề của Ngân sau.
Người đàn bà nhìn gói tiền, hỏi:
- Anh nhiều tiền lắm, phải không? Có nó, anh đã có tất cả, phải không?
Khoát cười ngượng:
- Thôi nào, tôi đủ để lo cho em no ấm, đừng trách tôi nữa. Tôi cũng rất cô đơn, Ngân ạ. Thật may quá, hôm nay em đến tìm tôi.
Người đàn bà bỗng vùng đứng dậy, cầm gói tiền ném mạnh vào mặt Trần Khoát và gào lên:
- Đồ khốn nạn, tôi đến đây không phải để xin tiền anh, để ngủ với anh. Tôi yêu cầu anh phải buông tha con gái tôi ra, cái con ngủ với anh đêm qua ấy, cái con vừa bỏ chạy khỏi đây ấy. Nó là con gái tôi, anh hiểu chưa?
Ngân lồng lộn chạy xung quanh phòng, vừa gào vừa khóc, vừa nguyền rủa. Trần Khoát sững sờ:
- Trời! Sao cô ấy bảo người thành phố này.
- Phải, nó bảo thế, vì nó nói dối tôi ra đây buôn hàng Trung Quốc. Anh đã biến nó thành con đĩ, trời ơi là trời. Tiền của anh đấy, những đồng tiền bẩn thỉu của anh! Con ơi là con, con không có bố, mình mẹ làm lụng nuôi con mà không dạy được con thành người.
Người đàn bà gào khóc vật vã như người mất trí, quăng ném tất cả thứ gì trong tầm tay. Trần Khoát sợ hãi vội ôm lấy chị dìu lại ghế:
- Thôi, tôi xin Ngân. Chuyện đã lỡ rồi, để tôi thu xếp lo cho hai mẹ con. Hôm qua cô ấy nói bố là liệt sĩ, tôi nào biết gì hơn.
Người đàn bà đổ sụp xuống ghế sau một cơn cuồng phát. Chị khóc lặng lẽ, đau đớn tột cùng. Chị nói trong nước mắt:
- Ngày xưa anh là sinh viên nghèo, tôi thương yêu anh, tôi đã ngủ với anh. Giờ anh là ông chủ giàu sang, anh dùng tiền để ngủ với con gái tôi. Trời ơi là trời. Nó nói bố là liệt sĩ vì tôi đã nói dối nó. Ngày ấy anh vào chiến trường rồi biệt tin, tôi đã sinh ra nó mà bị buộc thôi việc. Khi nghe tin anh chuyển ngành ở Sài Gòn, làm to và lấy vợ giàu, tôi biết càng phải giữ kín chuyện riêng chỉ mình biết. Ai ngờ trời trừng phạt tôi đến nông nỗi này.
- Sao, Ngân nói thế nghĩa là thế nào?
Ngân nhìn Trần Khoát qua nước mắt:
- Nghĩa là nó là con gái anh. Con gái tôi là con của anh sinh viên nghèo ngày xưa đấy.
Mặt Trần Khoát xám lại như chàm đổ. Ông ta từ từ đứng dậy, bước mấy bước lảo đảo và đổ vật xuống giường.
Người đàn bà lau nước mắt đứng dậy, nói rành rọt:
- Nếu tôi có điều gì cầu xin anh, thì chỉ xin anh đừng bao giờ gặp lại con gái tôi, tuyệt đối không cho nó biết những gì tôi đã nói với anh hôm nay. Để tôi dìu nó trở lại cuộc sống của một con người.
Chị thong thả đi ra, khép cửa lại. Người đàn bà phải tựa vào cầu thang hồi lâu mới có thể đi tiếp.
Trong căn phòng sang trọng, Trần Khoát nằm úp mặt trên tấm đệm thơm phức, xung quanh ông những đồng tiền có giá trị lớn còn mới tinh vứt tung toé. Căn phòng yên tĩnh giờ đây đầy sấm sét và bão tố, cơn bão tố mà những đồng tiền đang tung bay như rác rưởi và Trần Khoát không có nơi nào ẩn nấp. Ông đã uống cạn chén rượu nồng say của cuộc đời, giờ đây còn lại giọt đắng cay trên đáy cốc dành trọn phần ông.
*
* *
Tờ báo hàng ngày của địa phương đăng tin buổi chiều:
" Giám đốc Trần Khoát của EXPORT IMPORT CORPORATIONS mất đột ngột tại Queen Hotel do ngộ độc rượu. Nguyên nhân cái chết chưa được làm rõ thêm."
Một cuộc đời, hay một quy luật của đời người đã khép lại sau dòng tin ngắn ngủi chỉ có thế.
Khúc giã biệt
Đại tá quân y Vũ Quân đang đánh cờ với tướng Lê Vũ. Đây là thú vui, là cách chuyện trò của hai ông từ ngày về nghỉ hưu cùng thành phố. Ván cờ vào thế trung cục giằng co thì bác sĩ Thản bước vào, khẽ khàng đứng sau lưng đại tá. Vũ Quân ngửng nhìn con trai có ý hỏi. Thản khẽ chào trung tướng và nói từ tốn:
- Con có chuyện muốn thưa với cha.
Ông Lê Vũ gật đầu có ý tạm dừng cuộc chơi. Thản nói: "Xin phép bác". Hai cha con ra ngồi dưới gốc cây ngọc lan trong khuôn viên nhà trung tướng. "ở dưới quê cho người lên tìm cha, Thản nói. Bác Chức muốn gặp cha". Đại tá nhìn con trai, trầm ngâm: "Lạ nhỉ, sau bao nhiêu năm. Cả một đời người!". Thản nói: "Vâng, con nghĩ chắc có chuyện. ý cha thế nào ạ?". Đại tá suy nghĩ một lát rồi nói: "Có lẽ cha nên về". Thản đứng dậy: "Vậy để con về thu xếp".
Vũ Quân lại vào chơi tiếp ván cờ. Chỉ sau bảy nước đi, đại tá bị tướng Lê Vũ chiếu bí, hết cờ. Ông buông quân cờ nhìn trung tướng, cười buồn. Lê Vũ hỏi:
- Có chuyện à?
- Vâng. Ông anh vợ muốn gặp.
Tướng Lê Vũ làm động tác ngạc nhiên và nói:
- Thế thì có chuyện thật rồi. Tôi vẫn còn nhớ cái công văn ông ta đe doạ anh và cả tôi khi tôi còn làm tư lệnh quân khu. Về chuyện anh xin ly hôn bà Mờ em ông ta, và về bác sĩ Phương Lan. Từ đấy hai người có gặp riêng lần nào không?
- Không hề. Khi tôi đi chiến trường thì ông ấy lên chủ tịch tỉnh. Khi tôi về đây, ông ấy đã nghỉ hưu. Cùng thành phố nhưng dường như không quen biết nhau.
- Hình như ông ta dọn về ở Làng Giành đã mấy năm rồi?
- Vâng.
-Anh gặp chứ?
- Theo anh?
- Tôi biết anh đã quyết định, nhưng tôi vẫn nói: nên gặp. Có lẽ đây là câu chuyện một đời người.
Hai ông bắt tay và ôm vai nhau.
Khi quyết định về an hưởng tuổi già ở quê, ông Chức đã tính toán và chuẩn bị thật kỹ lưỡng. Ông nhờ người mối lái, giao chính quyền địa phương dàn xếp mua bằng được khu đất gần đình làng Giành ngày xưa. Đây trước là công điền, một khu vườn ổi hoang có căn nhà nhỏ cho mõ làng ở để làm tạp dịch và trông coi quét dọn đình. Những người già trong làng bảo nhau rằng ông Chức không tiếc tiền mua thổ đất ấy vì nó là đất phát tích của tổ phụ ông, tức chú Mới vốn làm mõ làng. Không biết vì sao người làng Giành từ trẻ đến già đều gọi ông mõ là chú Mới. Khi Vũ Quân còn là cậu bé học trò thì chú Mới đã già, nhưng danh xưng ông không hề thay đổi. Gia đình chú Mới sống tách biệt với người làng. Chú Mới không được ngồi cùng mâm với mọi người khi có việc làng. Các con chú thường phụ giúp chú việc tạp dịch, bọn trẻ con ít khi chơi với chúng. Lúc thời thế thay đổi, con trai chú là Chức, con gái là cô Mờ trở thành những người quyền thế thì chú Mới đã chết. Rồi khi tập thể hoá, đình làng bị phá, khu đất mõ được chia cho hai hộ nông dân làm nhà ở. Ông Chức đã trả giá gấp ba mua toàn bộ tài sản và đất đai của cả hai hộ. Người làng Giành vốn nể sợ ông từ trước, giờ lại một lần nữa e ngại sự giàu có và quyền biến của ông. Ngoài ý nghĩa lịch sử, thổ đất tám sào rấtđẹp, lưng tựa luỹ tre làng, cửa nhìn ra sông, bên kia sông là cánh đồng lộng gió.
Làm xong thủ tục chuyển nhượng, ông Chức thuê kiến trúc sư trên tỉnh về quy hoạch, xây tường bao kín, chặt hết cây cối, phá dỡ hết nhà cửa cũ. Ông cho xây một căn nhà hai tầng đầy đủ tiện nghi. Đường vào rải nhựa, có cổng lớn, sân rộng đỗ được hàng chục ô tô. Ông cho mua cây cảnh từ các làng vườn nổi tiếng về trồng theo quy hoạch. Cái ao rộng trước nhà được nạo vét, xây vỉa, có nhà thuỷ đình để câu cá và hóng mát. Ông lại thuê thiết kế xây sinh phần cho mình trong khu vườn rợp bóng cây. Sinh phần dáng cổ kính, uy nghi, ốp đá đen, xung quanh trồng bồ đề và tùng. Bên cạnh sinh phần là mộ chí của ông bà Mới được chuyển từ nghĩa địa làng về. Khi tất cả đã hoàn thành sau hơn một năm xây dựng, ông Chức mới cùng bà vợ và người giúp việc chuyển từ thành phố về. Ông không tổ chức liên hoan khánh thành, cũng chẳng thăm hỏi, chào mời ai. Sau khi ổn định chuyện ăn ở, ông mời mấy cán bộ làng, xã đến chơi uống nước, trò chuyện, bảo rằng ông quyết định về nghỉ hưu ở làng, đề nghị các đồng chí giúp đỡ về an ninh trật tự. Với một người có bề dầy cống hiến và quyền cao chức trọng như ông, yêu cầu đó được các cán bộ dịa phương nhất nhất vâng lời. Từ hôm ấy, nhà ông luôn kín cổng cao tường. Người giúp việc cùng ở với vợ chồng ông Chức là ông Hệ không vợ không con, vốn người làng Giành mồ côi từ nhỏ, được ông Chức đưa đi làm cần vụ cho ông đã mấy chục năm. Ông Hệ ít nói, hết mực trung thành và gắn bó với ông chức như hình với bóng. Giới quan chức hàng tỉnh từng dị nghị về mối quan hệ chủ, tớ này, nhưng không ai khiến ông Hệ hé răng một lời. Bây giờ, họ cùng già nua, trở về làng cũ, sống nốt quãng đời còn lại trong cái thế giới riêng của họ.
Hồi ông chức mới về, thỉnh thoảng có một hai chiếc xe con từ tỉnh về thăm vào dịp cuối tuần. Sự thăm viếng ấy thưa dần rồi vắng hẳn. Bây giờ, cứ một hai tháng bà Thanh, tức bà Mờ em gái ông và mấy đứa con ông chia phiên nhau về thăm một lần. Ông có ba con, hai trai một gái, từng nổi tiếng ăn chơi tàn bạo. Chán nhất là chúng học hành lởm khởm quá. Với cương vị của mình, ông có thể làm được mọi điều cho con cái, nhưng để chúng đỗ đại học thì ông chịu. Đành cho đi học bổ túc, rồi gia công kiếm mảnh bằng tại chức cho có danh, còn con người chúng thì không thay đổi được. Nhưng chúng biết dựa thế bố làm mánh mung chỉ trỏ kiếm tiền như rác. Từ khi ông nghỉ, các con ông cũng dần sa sút, một đứa dây vào nghiện hút. Chúng bắt đầu tranh giành tài sản, cãi cọ, kiện cáo nhau. Ông bỏ thành phố về quê cũng vì thế. Tất nhiên còn bao chuyện thị phi khác nữâ. Về quê, ông bỏ hẳn các hội nghị của tỉnh, những lễ kỷ niệm truyền thống của ngành nọ ngành kia mà ông luôn được mời ghế danh dự với tư cách nguyên là lãnh đạo tỉnh. Người quen thì nhiều, nhưng bạn bè chẳng có ai, nên ông xa dần với các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, giới quan chức các cấp không thể quên ông, vì thỉnh thoảng lại nhận được những thư góp ý, kiến nghị của ông về công tác nhân sự, tổ chức, những quyết sách kinh tế xã hội. Người đại diện cho ông là bà Mờ em gái ông, từng lãnh đạo một đoàn thể của tỉnh, nổi tiếng là khắc kỷ và không nhượng bộ bất kỳ ai. Bà sẵn sàng đến gặp các cấp lãnh đạo để chất vấn, kiến nghị. Vì vậy, tuy không ra khỏi nhà nhưng ông dường như vẫn có mặt ở khắp nơi. Rời chính trường rồi mà ảnh hưởng của ông còn rất lớn, không ít người e ngại anh em ông. Cho nên, việc bác sĩ Vũ Quân tiếp tục đâm đơn xin ly hôn bà Mờ khi cả hai đã nghỉ hưu được xem như trò khiêu khích, xúc phạm thanh danh gia đình ông Chức. Ai cũng biết bác sĩ Vũ Quân con ông Đồ làng Giành vốn dòng dõi khoa bảng, đã kết hôn với cô Mờ khi cùng hoạt động đoàn thể hồi cách mạng tháng tám. Đến cải cách ruộng đất, cô Mờ bỗng trở thành rễ chuỗi, đứng lên đấu tố bố mẹ chồng bị quy địa chủ, ly khai với nhà chồng và đứa con trai ba tuổi. Khi đoàn sửa sai về làng, danh dự gia đình ông Đồ mới được khôi phục. Làng xóm lúc đó sôi sục vì hận thù, oan trái. Sợ bị trả thù, cô Mờ đã bỏ làng trốn đi. Được ông anh thu xếp, cô trở thành nữ đồng chí Thanh cán bộ phụ nữ huyện. Vũ Quân đã xin ly hôn, nhưng không những không được mà còn bị anh em ông Chức trừng phạt nặng nề. Các cụ xưa nói: "Hôn nhân điền thổ vạn cố chi thù" quả không sai. Giữa Vũ Quân và anh em bà Mờ là một mối hận sâu sắc. Ông nói rằng xin ly hôn lần này chỉ để được chết cho thanh thản. Đương nhiên, chuyện đó không bao giờ được giải quyết, và anh em ông Chức không bao giờ tha thứ cho Vũ Quân. Thế mà nay ông lại hẹn gặp ông em rể hờ sau bao nhiêu năm không nhìn mặt nhau. Nếu anh em ông Chức là những người danh tiếng trong giới quan chức hàng tỉnh, thì đại tá Vũ Quân là một bác sĩ ngoại khoa nổi tiếng toàn quốc, với nhiều công trình nghiên cứu và thực nghiệm có giá trị khoa học của ngành y cả trong chiến tranh và hoà bình. Vì vậy, mối quan hệ của họ từ lâu đã được cả tỉnh quan tâm, phải hứng chịu búa rìu dư luận nhiều năm nay.
Vũ Quân về tới làng lúc chiều muộn. Chẳng cần hỏi thăm, ông cũng nhận ra đường đến thẳng nhà ông Chức. Cánh cổng lớn hé mở, trong sân có mấy người ra vào lặng lẽ, dáng vẻ vội vã và lo lắng. Bà vợ ông Chức tóc bạc phơ từ hiên nhà cao vòi vọi bước xuống sân đón Vũ Quân. Là người đàn bà quê mùa chất phác, sau bao nhiêu năm sống trong giàu sang quyền thế, vẫn giữ được vẻ chân chất tử tế. Vũ Quân biết nhiều năm nay bà ăn chay niệm phật, sống cô đơn trong chính gia đình mình. Tự nhiên ông thấy lòng dịu lại. Người đàn bà mắt rớm lệ, cầm tay Vũ Quân, giọng rầu rầu:
- Chú đã về. Thật tốt quá.
- Có chuyện gì thế chị?
- Anh ấy mệt lắm rồi. Muốn gặp chú.
Vũ Quân đã hiểu ra. Ông hỏi giọng quan tâm:
- Anh ấy đâu?
- ở ngoài nhà vó chú ạ.
- Sao lại ngoài nhà vó?
Bà vợ kể lể:
- Lâu nay ông ấy thuê làm lều, sắm vó bè ở bờ sông. Hàng ngày thường cùng ông Hệ ra sông cất vó, có khi ăn ngủ cả ở ngoài ấy.
Vũ Quân cười nhạt:
- Lạ nhỉ. Một người thích sống tiện nghi, quen đuợc phục dịch, giờ lại ở lều vó bờ sông.
Bà vợ thở dài:
- Mấy tuần nay bệnh nặng vẫn nằm ở nhà. Hai hôm nay tự nhiên gở thế nào ấy, đòi ra nằm lều vó, không cho ai thăm nom, không cho bác sĩ truyền thuốc nữa chú ạ. Mong gặp chú mấy hôm rồi. Đi, tôi đưa chú ra.
Vũ Quân theo bà vợ đi dọc con đường nhỏ um tùm cây đài bi, vàng rực rỡ tơ hồng. Đến lều vó bờ sông, bà bảo: "chú vào đi". Bà đứng một lúc rồi lặng lẽ quay về. Một chiếc lều khá đẹp, có chiếc vó bè đã kéo lên khỏi mặt nước. Dưới sông, một chiếc thuyền nhỏ buộc vào cọc lều. Trong lều réo rắt tiếng đàn nhị và tiếng hát khàn khàn của người già. Vũ Quân đứng hồi lâu nghe. Tiếng hát chèo buồn bã, rời rạc của ông Hệ, người cần vụ bao năm của ông Chức. Ông không thể ngờ đoạn cuối cuộc đời của một người như ông Chức lại diễn ra lạ lùng nhường này. Ông khe khẽ bước vào lều. Ông Chức đang nằm, đầu tựa vào đống chăn gối nhàu nát kê cao. Ông Hệ ngồi bên vừa kéo nhị vừa hát. Một ngọn đèn ắc-quy sáng xanh, lờ mờ soi không hết căn lều. Vũ Quân từ từ ngồi xuống. ông Hệ vẫn kéo nhị hát như không có chuyện gì. Mắt ông Chức lấp lánh dưới ánh đèn, trừng trừng nhìn Vũ Quân. Vốn người nhỏ thó không râu không lông mày, khuôn mặt ông Chức tròn và trắng bóng, đôi mắt hơi lồi từng là nỗi e sợ của biết bao người. Giờ khuôn mặt ấy quắt lại, xanh xao. Nghĩ là ông Chức đã hôn mê không nhận ra mình, Vũ Quân ngồi xích lại, đặt tay lên trán ông ta. Tự nhiên bàn tay gầy quắt của ông Chức giơ lên làm động tác ngăn lại, và giọng nói lanh lảnh quen thuộc của ông cất lên rành rọt:
- Tôi biết là chú sẽ về. Đáng mặt nam nhi lắm.
Đoạn ông ra hiệu cho ông Hệ ngừng kéo nhị. Vũ Quân khẽ hỏi:
- Anh đau làm sao?
Ông Chức nói trong hơi thở:
- Sắp xong rồi. Sắp tắt rồi. Tôi đang đi.
Vũ Quân chân tình:
- Để tôi đưa anh đi viện.
Ông Chức nhìn Vũ quân hồi lâu, rồi lại nói hổn hển:
- Tôi cho tìm chú về không phải vì chuyện ấy. Không làm được gì đâu. Này chú!...
Ngừng một lát, ông lại nói:
- Mấy hôm nay tôi hay gặp cô Phương Lan lắm. Cô ấy cứ đứng đầu giường nhìn tôi chẳng nói gì. Nên tôi cho tìm chú về.
Vũ Quân thấy người ớn lạnh, một luồng khí rần rật chạy khắp cơ thể xuyên lên óc đau buốt. Ôi Phương Lan, người đã yêu ông và phải trả giá cả cuộc đời. Anh em ông Chức đầy quyền thế đã tước đoạt tự do của ông, dù ông và bà Mờ không còn là vợ chồng đã bao nhiêu năm. Họ cần danh nghĩa và cả danh tiếng của ông để tiến thân. Họ đã gây sức ép vối quân khu và quân y viện, để Phương Lan phải xa ông. Nàng ra đi trong chuyến tàu đêm thời chiến tranh ác liệt. Trạm quân y tiền phương của nàng bị trúng bom khi nàng đang đứng trong hầm phòng không mổ vết thương cho bộ đội. Sau chiến tranh, Vũ Quân theo sơ đồ vượt Trường Sơn tìm đến một nấm đất bên bờ suối cạn. Bằng tay và cành cây, ông đào bới, đếm từng mảnh xương của người yêu, mang xuống suối rửa sạch rồi bọc gói lại. Ông đeo trên ba lô nắm xương người yêu dấu mới hai mươi nhăm tuổi về quê nàng. Ông đã cùng gia đình làm lễ an táng, lễ truy điệu như một người chồng chôn cất vợ, rồi ông xin nghỉ hưu về sống với con trai là bác sĩ Thản, đứa con duy nhất trong cuộc hôn nhân bất hạnh với bà Mờ. Họ sống cùng thành phố nhưng như hai thế giới khác, hai kiếp khác. Với Vũ Quân, oán hận nguôi ngoai dần, thay vào đó là sự khinh bỉ và bất cần. Ông không bao giờ nghĩ rằng lại có cuộc gặp hôm nay. Con người nhỏ thó vang bóng một thời, giờ như ngọn lửa sắp tắt muốn trăng trối gì đây. Ông im lặng chờ đợi, lòng ngổn ngang bao cảm xúc rối bời. Ông Chức thở nặng nhọc, mắt nhìn đăm đăm Vũ Quân. Ông cố tập trung ơsc lực nói rành rọt với Vũ Quân:
- Tôi biết chú hận tôi với cái Mờ lắm, phải không? Lẽ ra chú phải bỏ qua cho nó. Việc nó đấu tố ông bà Đồ hồi cải cách là lỡ lầm do thời thế. Người ta bảo bọn trí thức thù giai cũng phải.
Vũ Quân khẽ khàng:
- Lẽ ra chúng ta phải nói chuyện này sớm hơn, anh Chức ạ. Tôi phân biệt rõ giữa lỡ lầm và độc ác chứ. Tôi nghĩ mãi bao nhiêu năm vẫn không hiểu vì sao anh với bà Mờ lại đối với tôi như vậy. Nhưng mà thôi, nói lại mà làm gì.
Ông Chức dường như khoẻ ra, trả lời bằng giọng đầy quyền thế:
- Chú biết chú có tội gì không? Tội chú nặng lắm. Đó là chú khinh chúng tôi. Chú cậy có học, xuất thân khoa bảng chú khinh anh em tôi. Nhưng chúng tôi lại có quyền hành. Thế là chú ngu rồi. Tai vạ của chú cũng là từ dấy.
Vũ Quân giật mình. Điều ông lờ mờ cảm thấy hoá ra lại là thật. Nhưng ông đâu có cố ý. Ông nói:
- Một người đàn bà gây tội lỗi với bố mẹ chồng, rồi lại bỏ chồng bỏ con, thay tên đổi họ để tiến thân. Thành đạt kiểu đó không khinh sao được?
Ông Chức bỗng cất tiếng cười khành khạch nghe lạnh gáy. Ông cười trong tiếng thở khò khè, cái bụng gầy tóp phập phồng trong chăn. Rồi ông nói thều thào:
- Đấy lại là cái ngu của chú. Lẽ ra chú được lợi ở chỗ ấy, chú lại đối đầu với chúng tôi. Cho chú chết!...
Ông Chức dừng lại thở dốc, Vũ Quân bàng hoàng như tỉnh mộng. Vậy ra bao nhiêu năm qua anh em ông Chức đã khinh lại ông, coi ông là loại kẻ sĩ ngu ngốc. Họ chẳng ân hận, cũng chẳng bận tâm về ông..
- Mấy hôm nay cô Phương Lan thường về gặp tôi, ông Chức thều thào.
Vũ Quân vội hỏi:
- Khoan đã, sao anh biết Phương Lan?
- Ngày ấy, sau khi tôi gửi công văn ra quân khu, cô âý đã về gặp tôi. Cô âý nói cô chú yêu nhau, xin tôi giúp đỡ. Tôi đã đuổi cô ấy đi.
Tội nghiệp Phương Lan. Nàng đã vì Vũ Quân mà phải hạ mình. Vậy mà Phương Lan không hề cho ông biết, nàng đã mang bí mật đó vào chiến trường rồi ra đi mãi mãi.
Ông Chức lại thều thào:
- Vì gặp lại bác sĩ Phương Lan, tôi nghĩ lại thấy cũng có lỗi với hai người. Tôi biết chú với cái Mờ không thể sống với nhau được nữa. Nhưng cho chú ly hôn hoá ra triệt đường tiến bộ của nó à? Còn tôi nữa chứ. Tôi biết chú một mình nuôi cháuThản khổ lắm, giá có cô Lan thì...
Ông không nói được nữa, nhắm mắt thở dốc. Hồi lâu ông mở mắt ra lặng nhìn Vũ Quân. Đôi môi mỏng trên khuôn mặt gầy tóp không râu không lông mày của ông thoáng một nét cười bí hiểm. Giọng ông xa xăm:
- Thế là tôi với chú đã khinh nhau cả một đời. Giờ cuộc chơi sắp tàn rồi...
Vũ Quân ghé sát ông nói nhỏ:
- Để tôi đưa anh về nhà. Mọi người đến thăm đang chờ anh.
Bàn tay gầy của ông Chức lại huơ lên phản đối. Ông làm động tác ra hiệu với ông Hệ đang ngồi lặng im như pho tượng suốt cuộc nói chuyện vừa rồi. Ông Hệ hiểu ý, nói với Vũ Quân: "Đại tá, ông ấy muốn xuống thuyền". Đoạn ông Hệ luồn tay bế ông Chức như bế đứa trẻ, vừa lom khom ra khỏi lều vừa nói với Vũ Quân: "Ông mang hộ tôi các thứ xuống thuyền, cả cây nhị nữa". Hai người đặt ông Chức nửa nằm nửa ngồi trên sạp thuyền, ông Hệ từ từ chèo ra giữa sông. Trăng sáng vằng vặc trên mặt sông và cánh đồng xung quanh. Ông Hệ thả cho thuyền trôi, cầm lấy cây nhị và cất tiếng hát khàn khàn. Ông Chức nằm thiêm thiếp, mi mắt khẽ chớp. Trước cảnh sông nước đêm trăng, một con người đang hấp hối, Vũ Quân thấy xúc động tận đáy lòng. Hận thù, yêu ghét, thị phi chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Ông giằng lấy cây nhị trong tay ông Hệ, vuốt một tiếng nhạc dài run run và ngửa mặt cất tiếng hát:
Gánh nợ nhân gian vòng đời quay
bánh xe luân hồi không chừa ai...
Giọng hát trầm trầm của Vũ Quân với nét nhạc kỳ lạ phảng phất âm điệu ca trù khiến ông Chức mở mắt lắng nghe. Ông nói: "Ôi hay quá. Chú viết cho tôi đấy à? tôi biết chú vẫn chơi đàn ghi ta mà". Vũ Quân đáp : "Bài này của nhạc sĩ Phó Đức Phương đấy". Ông Chức có vẻ quan tâm: "Phương nào? có phải cái cậu mới về phòng văn hoá huyện khồng?" Vũ Quân không trả lời, ôm chặt cây nhị và tiếp tục hát. Tiếng hát và tiếng đàn nhị âm vang trong đêm vắng. Trên bờ sông, người đứng nhìn mỗi lúc một đông. Bỗng ông Chức nhổm hẳn người lên, tay chới với gọi to: "Chú Quân, chú Quân! cô Phương Lan về này. Cô Lan, giờ tôi để hai người gặp nhau..." Ông Hệ vội đỡ lấy ông Chức đặt xuống gối. Vũ Quân hát:
Một ngày, một tháng, một năm
Một đời hòn đất sủi tăm mặt hồ
nắng soi cái tổ tò vò
Dọc ngang cũng một con đò ấy thôi...
Ông Chức nằm im, hai mắt bất động nhìn lên vầng trăng sáng vằng vặc. Ông Hệ lặng lẽ đặt bàn tay lên mặt ông Chức vuốt nhẹ. Đôi mắt ông Chức nhắm lại. Ông Hệ từ từ chèo đò vào bờ, nơi nguời làng đang đứng chờ đông nghịt. Vũ Quân như say như mê, xiết mạnh cây vĩ vào dây nhị thành tiếng nhạc như gào thét, nức nở. Ghì chặt cây nhị vào lòng, Vũ Quân xoã tóc nhắm mắt hát:
Nắng hạ mưa đông vòng đời quay
bánh xe luân hồi con tạo xoay...
Đà Lạt, 9h45' ngày 18-9-2004
Một cõi đi về
Ở phố huyện biển lâu nay xuất hiện một người đàn ông đứng tuổi tóc muối tiêu, gương mặt đầy đặn hồng hào luôn có vẻ gượng gạo, thường tránh giao tiếp với dân hàng phố. Thoáng trông cũng biết người này thuộc loại quyền chức và giàu có, vì lý do gì đó thất thế, nhưng vẫn chưa quen được với cuộc sống đời thường. Ông ta mua lại căn nhà mặt phố khá đẹp, lúc đầu thỉnh thoảng qua lại, mấy tháng nay về ở hẳn đây. Chủ chính thức của căn nhà là cô Mộng Huyền ngoài hai mươi tuổi, có đứa con khoảng hơn một tuổi. Nói là chủ chính thức vì theo Mộng huyền thì ngôi nhà do người đàn ông mua tặng cô. Từ ngày người đàn ông về đây, thằng bé được giao hẳn cho ông ta bế ẵm. Nhìn người đàn ông đường bệ cỡ tuổi ông, hàng ngày bế đứa con bé tí đi ra di vào gây cho dân phố sự tò mò bàn tán. Mộng Huyền trương biển gội đầu và mát sa mặt nhưng chẳng mấy khi ở nhà, thường mặc váy hoa, tô son phấn, lượn phố trên chiếc xe máy đời mới bóng lộn. Cô nói với dân phố huyện rằng cô trúng quả buôn hàng Trung Quốc nên không bận tâm về chuyện tiền bạc. Còn người đàn ông, vốn là giám đốc một doanh nghiệp nhà nước khá to, vì mê cô mà bỏ cả sự nghiệp, gia đình để theo cô. Hai người có mối tình đẹp như mộng và đứa con là kết quả của tình yêu ấy. Mộng Huyền thường la cà trong các nhà hàng ăn uống, hát hò, đàn đúm với đám thanh niên phố huyện, rồi vung tiền chiêu đãi cả bọn. Chẳng bao lâu, đám thanh niên phố huyện vây quanh cô, phát điên lên vì kiểu nói ỡm ờ, cử chỉ khêu gợi và cách ăn mặc hở hang của cô. Cô bảo chúng phải biết sống hết mình, phải biết chơi tẹt ga. Cô có tài khêu gợi, khiến gã trai nào cũng tưởng cô có cảm tình riêng với mình. Chúng hỏi sao cô trẻ đẹp, giàu có lại phí đời với một lão già thất thế? Cô thở dài: hồng nhan bạc phận, cái số em khổ, biết ai thương mình mà thương! Cô đã từng là sinh viên đại học, vì nhà nghèo phải bỏ học dấn thân vào thương trường, đành để sau này học tiếp vậy. Các gã trai phố huyện đau khổ vì cô. Đã có mấy cuộc xô xát ầm ĩ. õng ẹo, đong đưa và ranh mãnh, Mộng Huyền vờn cho các tay chơi phố huyện điên đảo. Đám con gái thợ may, cắt tóc gội đầu phố huyện căm ghét Mộng Huyền ra mặt. Họ liên kết với nhau bàn cách dậy cho con đĩ lẳng lơ ấy một bài học. Không biết hữu ý hay vô tình, mà đang lúc căng thẳng thì có một thanh niên cao to, cằm bạnh, mặc áo Natô, đi giày khủng bố xuất hiện. Gã trai được Mộng Huyền dẫn về nhà giới thiệu với người đàn ông rằng đó là anh nuôi, là đại ca đã từng cưu mang che chở cho cô lúc hàn vi.
- Trước khi được gặp anh, không có đại ca Quách đây che chở thì em chẳng sống được đến bây gờ để yêu anh. Mộng Huyền nũng nịu giải thích với người đàn ông đang bế đứa trẻ như vậy.
Người đàn ông chỉ còn biết ậm ừ cho qua chuyện. Đại ca Quách sấn đến bế đứa trẻ trên tay người đàn ông, nâng bổng lên: " Cho chú chú thơm thằng cháu nào!". Hắn hôn chùn chụt làm thằn bé khóc thét. Từ hôm ấy, gã thanh niên tên là Quách ở hẳn nhà Mộng Huyền. Hàng ngày, hắn đèo xe máy đưa cô đi đâu không biết, nói là đi tìm mối làm ăn. Có khi hai người đi suốt mấy ngày không về, để mặc ông cựu giám đốc với thằng bé mới cai sữa ở nhà. Cánh thanh niên phố huyện chưng hửng, tức điên lên, nhưng không anh nào dám gây chuyện với Quách. Mộng Huyền giới thiệu với họ rằng ông anh nuôi mình là chủ mấy đường dây buôn hàng xuyên Việt từ Lạng Sơn, rất giàu có và quen biết rộng. Vẻ giang hồ ngang tàng và dữ dằn của Quách có sức thuyết phục khá mạnh. Chỉ vài tuần sau, hắn trở thành đại ca của đám tay chơi phố huyện đã bị khuất phục hoàn toàn.
Một buổi trưa, có chiếc xe công nông đỗ xịch trước cửa căn nhà. Ông cựu giám đốc đang ngỡ ngàng, thì Mộng Huyền và Quách đã xăng xái chạy ra khuân vác đồ trên xe vào nhà. Đi theo xe là vợ chồng ông chủ hàng thịt chó ở chợ Giành, bố mẹ của Mộng Huyền. Hai người thản nhiên vui vẻ vào nhà. Bà mẹ đỡ thằng bé trên tay ông cựu giám đốc và nói tỉnh queo:
- Các em nó bận làm ăn, nhà cửa để rỗi, chúng tôi dọn xuống đây làm hàng, tiện thể trông nom cháu cho anh chị.
Nồi xoong, bếp lò, dao thớt nhanh chóng được sắp đặt vào vị trí đâu ra đấy như có kế hoạch từ trước. Tấm biển hiệu cắt tóc gội đầu của Mộng Huyền được hạ xuống, thay bằng biển hiệu đây rồi cầy tơ to đùng còn tươi màu sơn mới. Bà vợ ông thịt chó giải thích với ông cựu giám đốc:
- Con Hến, à quên, con Huyền nó đoảng lắm. Từ nay để tôi quản lý nhà cửa cho.
Từ hôm ấy, căn nhà trở nên náo nhiệt với đủ các loại khách ăn uống ra vào, với lửa khói mù mịt, mùi thịt chó gây khét, tiếng chó bị chọc tiết tru một cách thảm thiết, tiếng gào thét của những gã say rượu. Khách ăn tràn cả lên gác, tràn cả vào phòng riêng của ông cựu giám đốc và thằng bé con. Mộng Huyền và Quách ngày nào cũng đi làm ăn, khi về chui vào phòng riêng bật máy lên hát với nhau. Cuộc sống đã trở nên không chịu nổi với ông cựu giám đốc. Vốn quen với cuộc sống cao sang thanh lịch, có quyền hành, nơi đây đã trở thành địa ngục đối với ông. Dù đã thất thế cùng đường, dù đã buông xuôi tất cả, nhưng ông cũng nhận ra rằng mình đang bị xem thường, bị làm nhục bởi những kẻ thuộc đẳng cấp quá xa lạ đối với ông. Ông quyết định rằng mình cần phải làm một điều gì đó. Điều ông làm, theo cách của ông, là gặp chính quyền địa phương đề nghị giúp đỡ, giải toả ngôi nhà cho ông được sống yên ổn. Ông tổ trưởng dân phố trả lời rằng khong giúp gì ông được, vì căn nhà đã mang tên cô Mộng Huyền thì là tài sản của cô ấy, bố mẹ cô ấy đã chuyển hộ khẩu về đây từ trước, và có đăng kký kinh doanh đàng hoàng. Hoá ra họ đã làm tất cả mà ông không hề hay biết. Căn nhà ông bỏ tiền mua đã không còn là của ông nữa. Ông ngồi chết lặng hồi lâu rồi thất thểu ra về. Ông cựu giám đốc chưa kịp phản ứng gì, chưa biết phải làm làm thế nào, thì bữa trưa hôm ấy, Mộng Huyền sẵng giọng hỏi ông:
- Anh đến chính quyền đòi nhà, định đuổi chúng tôi ra đường à?
Ông cựu giám đốc giải thích rằng vì yêu Huyền ông đã hi sinh tất cả, giờ ông cần được yên tĩnh an hưởng tuổi già với vợ và nuôi dậy thằng bé. Ông không thể chịu được cảnh hàng quán xô bồ bẩn thỉu này. Ông chủ hàng thịt chó, tức là bố vợ ông cựu giám đốc cả cười:
- Vậy chứ anh nghĩ anh là ai ở đây? Con gái tôi đã phí cả tuổi xuân vì anh, giờ không biết an phận lại còn rắc rối. Hôm nay tôi nói thật nhá: ở đây chẳng có gì là của anh đâu. Nhà cửa, con cái, chẳng cái gì là của anh cả, anh giám đốc ạ.
Quách đón thằng bé trên tay bà vợ ông thịt chó, âu yếm bảo: " Ra đây với bố nào! ". Ông cựu giám đốc như bị điện giật, bật khỏi ghế đến nắm lấy vai Mộng Huyền:
- Huyền, cô nói xem, thế này là thế nào?
Mộng Huyền cúi xuống, hai tay bưng mặt, vai rung lên và giọng nức nở:
- Anh biết cả rồi, còn hỏi làm gì cho đau lòng! Em xin anh...
Người đàn ông lặng lẽ đi lên gác. Khoảng mười phút sau, ông xách va li xuống, đứng trước mặt mọi người chậm rãi nói:
- Các người là một lũ hạ lưu bỉ ổi. Rồi ta sẽ nói chuyện với các người bằng pháp luật.
Lão chủ hàng thịt chó cười to:
- Anh thua rồi anh giám đốc ạ.
Mộng Huyền vẫn ngồi ôm mặt. Quách đứng lên giọng ồm ồm:
- Ông anh cuốn gói là sáng suốt. Để thằng em đèo ông anh ra bến xe.
- Đồ lưu manh, đồ cặn bã. Người đàn ông nói nhỏ nhẹ.
- Sao ông anh nóng thế? Vậy ông anh biến cho khoẻ nhé.
Người đàn ông loạng choạng xách va li ra phố huyện. Rất nhiều ánh mắt hai bên đường nhìn theo ông. Một anh xe ôm táp đến bên cạnh: " Mời xếp lên xe. Sếp đi đâu em phục vụ?". Chiếc xe rồ máy phóng về hướng bến xe phố huyện.
* *
*
Không phải bây giờ, khi đứng trước bến xe phố huyện nhếch nhác, không biết đi đâu về đâu, ông cựu giám đốc mới thấm thía sự được mất của đời ông. Nhưng chuyện vừa xẩy ra là ngoài sức tưởng tượng, như sét đánh, tạo một cú sốc kinh hoàng khiến ông hoàn toàn mất phương hướng. Trong giới trí thức và quan chức, ông là người đầy quyền biến, không khuất phục trước bất cứ khó khăn, thách thức nào. Vậy mà ông trở thành cừu non, bất lực và thảm hại trước một bọn giang hồ, đàng điếm. Ông không có thứ vũ khí để đối phó với họ. Ông đã mất tất cả.
Về phố huyện này là ông làm cuộc chạy trốn, muốn giấu mình để tìm sự bình yên. Nhưng tên tuổi ông quá nhiều người biết, nên cuối cùng cũng chẳng giấu được ai. Mới cách đây không lâu, trong giới quan chức hàng tỉnh, ông được xem là ngôi sao đang lên. Vốn xuất thân là người lính chiến thắng trở về, được vào trường đại học tốt nhất, sau đó lại qua trường quản lý, ông có tất cả điều kiện cần và đủ để trở thành một cán bộ lãnh đạo ưu tú. Con đường công danh của ông mở ra thênh thang. Hơn chục năm sau khi ra trường, ông được bổ nhiệm giám đốc một doanh nghiệp lớn của nhà nước. Một giám đốc thành đạt, giàu có, nhiều bạn bè quyền thế và nhiều người nể trọng.
Vợ ông, người bạn gái cùng học phổ thông đã yêu ông và chờ đợi ông suốt một cuộc chiến tranh. Là kỹ sư giỏi, lại có chút nhan sắc, nên việc chờ đợi một người lính đối với chị không phải là chuyện dễ dàng. Chị đã chờ được, rồi lại một mình nuôi con, nuôi chồng ăn học. Ông đã sống những năm tháng tràn đầy hạnh phúc bên người vợ hiền và hai đứa con ngoan, và sống vui vẻ giưa những người bạn thành đạt như ông. Những người bạn lính cứ xa dần. Những chuyến đưa vợ con về thăm quê cũng thưa dần. Ông quay cuồng trong các mối quan hệ làm ăn, những buổi tiệc tùng ở các nhà hàng, khách sạn sang trọng. Một hôm đi dự tiệc về, trong tâm trạng hứng khởi bồng bềnh hơi men, ông nói với vợ: " Anh vừa chiêu đãi đối tác chai rượu giá bằng hai tấn thóc. Mấy cha giám đốc ấy toàn dân chơi cũng phải bái mìng là sư phụ!". Chị hỏi khẽ: " Tiền đâu mà anh chơi sang thế?". Ông cười: " Tiền nhà nước chứ tiền đâu? Chơi sang đâu có dễ. Chơi sao cho tiền đẻ ra tiền mới khó". Chị lặng lẽ nhìn ông không nói gì thêm. Đêm ấy, qua một giấc ngủ dài sau cơn say, ông tỉnh dậy thấy chị đang ngồi cạnh giường nhìn ông. Ông chột dạ nhỏm dậy: " Kìa, mình chưa ngủ à?". Chị bình tĩnh nói: " Em cần nói chuyện với anh". Chị nói khẽ khàng, giọng buồn bã, những điều bao lâu nay chị nén chịu một mình. Chị xin ông hãy xem lại mình, hãy nhớ lại thời hàn vi tươi đẹp. Hãy nhứ lại thời ăn cháo ăn khoai, mặc quần áo vá đi học. Hãy nhớ lại người làng mình quý hạt cơm như hạt ngọc, làm ra hạt thóc phải mấy tháng trời một nắng hai sương. Đừng để đồng tiền làm mất lương tri, nhạt tình nghĩa. Ông thanh minh, giải thích, rồi nổi nóng. Rằng địa vị ông, môi trường của ông cần phải thế. Chị lặng lẽ nghe ông nói, chăm chú nhìn ông. Sau đó chị nói: " Em chỉ xin anh lần này nữa thôi. Em đã buộc phải nghe rất nhiều điều không muốn nghe. Hãy cho mẹ con em được ngẩng cao đầu trước mọi người vì anh!". Ông điên tiết quát lên với chị rằng cả gia đình, cả dòng họ sống nhờ vào ông. Chị cười nhạt, nói chị khinh bỉ những đồng tiền của ông. Từ hôm ấy, như có một vết nứt vô hình, một luồng gió lạnh thổi vào quan hệ vợ chồng của họ. Chị sống càng lặng lẽ, còn ông càng ít về nhà hơn.
Ông gặp Mộng Huyền trong một nhà hàng. Cô bón thức ăn cho ông, rồi chọn bài cho ông hát. Đêm ấy nằm trong vòng tay ông, cô thút thít kể rằng cô vốn là sinh viên, nhưng nhà nghèo, mẹ ốm nặng nên phải bỏ học lưu lạc đến chốn này. Ông là người đàn ông duy nhất khiến cô run rẩy từ cái nhìn đầu tiên. Ông là người hùng, là thần tượng của cô. Gặp ông, cô mới biết thế nào là yêu, thế nào là sống, thế nào là người đàn ông chân chính. Ông tuyên bố sẽ chu cấp để cô học hết đại học, rồi sẽ lo xin việc cho cô. Cô thỏ thẻ:
- Em không dám đòi anh nhiều đến thế. Chỉ xin anh cho em mở một hiệu may nhỏ, để làm nơi sinh sống và đợi chờ anh. Cuộc đời em coi như của anh từ đây...
Là giám đốc đầy kinh nghiệm làm ăn, nhưng vốn xuất thân từ người nông dân mặc áo lính, ông không thể đủ lọc lõi trong chốn giang hồ. Ông không biết rằng những lời thỏ thẻ của Mộng Huyền là kịch bản khá quen thuộc của các cô gái nhà hàng, và có lẽ cô cũng đã nói với những người khác trước ông như vậy. Ông có đủ quyền lực, tiền bạc, ông thấy cần phải ra tay cứu vớt một con người bé bỏng và ngây thơ hết lòng yêu ông. Ông thuê một căn hộ xinh xắn nơi kín đáo cho cô ở, cũng là chốn đi về khi ông cần thư giãn. Ông mua máy khâu, thuê cửa hiệu, mua điện thoại di động cho cô. Mỗi lần gặp nhau, Mộng Huyền âu yếm, vuốt ve và đam mê khiến ông điên đảo. Những lúc trấn tĩnh, ông lờ mờ cảm thấy mình đang trượt dốc, nhưng cảm giác đó không thắng nổi cám dỗ và dục vọng. Ông nghĩ thời trai trẻ mình đã vì chiến tranh, học hành phải nằm gai nếm mật, thiệt thòi và hi sinh đã nhiều. Đây phải chăng là món quà số phận đền bù mà một người có địa vị như ông có quyền được hưởng? Đối với người vợ tao khang ông xa lánh dần. Mỗi lần vợ chồng gặp nhau, ông luôn cảm thấy bứt rứt khó chịu vì cái vẻ lặng lẽ nghiêm nghị của chị. Để cho lòng thanh thản, ông dành cho vợ con cuộc sống vật chất thật giàu có xa hoa. Rất nhiều đồ vật đắt tiền ông mua về, vợ ông không hề động tới. Chị thu dọn một phòng trên gác, lập bàn thờ, hàng ngày tụng Kinh niệm Phật sớm tối. Có lần ông lấy giọng đùa cợt chế diễu chị là kỹ sư mà cũng mê tín dị đoan, chị nghiêm nghị nói: "Tôi cầu phúc cho các con tôi, để chúng nó không phải gánh tội lỗi của anh". Ông điếng người, đóng sầm cánh cửa, xách cặp bỏ đi. Chị im lặng nhìn theo, cười buồn.
Mộng Huyền, nỗi đam mê điên cuồng của ông, dần dần trở thành nỗi lo và gánh nặng. Cô ít khi mở cửa hiệu may, vì thật ra cô đâu có biết nghề may. Cô rong chơi, trưng diện và tiêu tiền của ông. Trong giới cave các nhà hàng cả thành phố, Mộng Huyền được tiếng là thành đạt nhất, vì được làm gái bao của một giám đốc giàu có. Mộng Huyền không những không giấu giếm, mà còn công khai khoe là người tình của ông. Cô gọi điện thoại cho ông bất cứ lúc nào cô thích. Cô hát cho ông nghe trên điện thoại. Một đêm ông đã tắt đèn đi ngủ, bỗng chuông điện thoại đầu giường réo vang. Vợ ông nghe máy, rồi im lặng đưa cho ông. ở đầu dây, tiếng Mộng Huyền õng ẹo: " Anh ơi, em nhớ anh, em không ngủ được...". Ông cúp máy, mình đầm đìa mồ hôi lạnh. Vợ ông làm như không có chuyện gì xẩy ra, bật đèn nằm đọc sách. Ông nghĩ chị đã biết tất cả và chị khinh bỉ ông như một tên vô lại. Chắc hẳn Mộng Huyền đã cố tình cho vợ ông biết, hơn nữa lại với thái độ khiêu khích. Lần đầu tiên ông thấy sợ hãi và bàng hoàng. Có lẽ ông đang để mất tất cả.
Ông bắt đầu tìm cách tách khỏi Mộng Huyền. Không nghe điện thoại, không trả lời tin nhắn, không cho gặp. Sau một tuần ông cố tình im lặng, Mộng Huyền bắt đầu hành động. Hôm nào cũng vậy, đầu giờ buổi sáng có một chú bé đánh giầy được thuê mang một bông hoa hồng gói thật đẹp gửi cho ông đặt ở phòng văn thư. Trong gói hoa có tấm thiếp của Mộng Huyền và mấy chữ ghi phía sau: " Em nhớ anh", hoặc " Yêu anh, chúc anh một ngày vui". Đã trở thành chuyện bê bối, gây xôn xao dư luận trong và ngoài công ty. Một số người bạn trong giới quan chức gọi điện vì lo lắng cho ông, một số khác tìm cách tránh mặt ông. Ông thấy cần phải tìm Mộng Huyền giải quyết dứt điểm bằng cách cho cô ta một ít tiền và đưa cô ta đi khỏi thành phố. Nhưng khi vừa gặp, cô đã lao vào ông khóc nức nở, vật vã. Ông miễn cưỡng vỗ về an ủi để cô trấn tĩnh lại. Một lát, cô vừa lau nước mắt vừa hôn ông và hỏi bằng giọng tình tứ: " Anh có biết vì sao em gửi hoa tặng anh không?". Ông lạnh nhạt: " Vì em nhớ anh phải không?". Cô ngúng nguẩy:" ứ phải, chỉ đúng một nửa thôi. Em có một tin cực vui cơ!". Ông nhìn cô chờ đợi. Cô ôm cổ ông và khoe: " Anh ơi, chúng mình sắp có em bé rồi!". Ông sững sờ: " Sao lại có thể thế được?". Cô lại thút thít: " Anh có biết bao nhiêu đêm rồi không? Nếu anh nỡ bỏ rơi mẹ con em, em sẽ chết công khai trước bàn dân thiên hạ để tỏ rõ lòng em với anh".
Sau cuộc gặp Mộng Huyền, ông lấy cớ đi công tác một thời gian để suy nghĩ và tìm cách tháo gỡ. Mấy đêm không ngủ, suy nghĩ lao lung, ông nhận thức rõ tính nghiêm trọng của sự việc. Ông quyết định bằng mọi cách phải tìm cách thoát khỏi tình trạng tồi tệ này. Nhưng ông vừa về hôm trước thì hôm sau có hai vợ chồng nhà nọ, trông vẻ bậm trợn dữ dằn đến công ty không qua phòng bảo vệ, xộc thẳng vào phòng giám đốc. Đó là vợ chồng lão bán thịt chó ở chợ Giành. Vừa nhìn thấy họ, ông đã đoán ta sự tình. Bà vợ vào chuyện luôn:
- Thưa ông giám đốc, con gái chúng tôi là cái Hến, à quên, cái Huyền, tuy chưa học hết cấp hai nhưng là đứa nết na lễ nghĩa, lại trẻ đẹp. Giờ nó ễnh bụng ra rồi, ông tính sao đây? Chúng tôi đã đến nhà, không gặp được ông, chúng tôi nói thật với bà ấy rồi. Các người có chức có quyền, có tiền, đã làm hỏng đời con gái chúng tôi. Chúng tôi giao nó cho ông đấy, tuỳ ông khu xử thế nào là ở ông. Ông mà bội bạc là dồn nó vào chỗ chết đấy.
Ông giám đốc biết mình đã cùng đường. Ông nhẫn nhục nghe họ nói, hứa sẽ thu xếp mọi việc, đưa một ít tiền để họ ra về. Đêm hôm ấy, ông đã nói với vợ quá trình trượt dốc của mình. Ông xin chị tha thứ và xin chị nói giúp với các con. Lần đầu tiên ông khóc. Vợ ông im lặng rất lâu rồi nói giọng cay đắng:
- Các cụ xưa nói: Cầm vàng mà lội qua sông, vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng. Thật đúng với tôi quá. Tôi rất đau, nhưng đã xác định trước nên không bị bất ngờ. Ngay bây giờ, hoặc chậm nhất là sáng mai, annh hãy dọn đi khỏi đây. Anh thiếu gì tiền, anh đi đâu, làm gì chẳng được, hơn nữa, việc đó chắc chắn đã nằm trong kế hoạch của anh. Về các con, anh không phải bận tâm, chúng nó được giáo dục cẩn thận mà!
Nói xong, chị sang phòng bên tắp hương niệm Phật.ăSáng hôm sau, ông đi khỏi gia đình.
Một tuần sau, người bạn đồng đội cũ của ông, giờ làm trưởng ban tổ chức tỉnh uỷ gọi điện mời ông đến gặp. Người ấy nói:
- Bọn mình rất tiếc và đau vì cậu. Đã ba lần mình gặp cậu, với tư cách bạn bè khuyên nhủ câu, với tư cách thay mặt tổ chức nhắc nhở cậu, nhưng cậu cố ý không thay đổi. Cậu đã chọn lấy hồi kết cho bản thân như vậy thì cũng đành chịu thôi. Chúng ta đều chẳng còn trẻ trung gì, chỉ còn hơn năm công tác nữa thôi, buồn thật. Mong cậu giữ gìn sức khoẻ. Cần gì cứ gọi cho mình nhé.
Người bạn đưa cho ông thông báo nghỉ công tác và ngồi lặng buồn nhìn ông chậm chạp ra khỏi phòng. Từ ngày về phố huyện, ông cố tách mình khỏi các mối quan hệ xã hội, không mắc điện thoại, không mua ti-vi. Lúc đầu, một số bạn bè thường về thăm ông vào ngày nghỉ, phần nhiều họ đỗ xe ở ngã tư phố huyện rồi di bộ vào. Lâu lâu rồi sự thăm hỏi thưa dần. Từ hôm vợ chồng nhà thịt chó chợ Giành dọn đến mở hàng thì không ai đến nữa. Ông đã mất cả bạn bè.
Giờ đây, xuống bến xe khách thành phố ông không biết đi về đâu. Đôi chân vô định thế nào lại đưa ông đến ngôi nhà xưa, nơi vợ con ông đang sống. Ông đứng chần chừ hồi lâu, bất giác đưa tay gõ cửa. Không ai ra mở. Ông khẽ đẩy, cửa không khoá. Phòng khách vắng ngắt. Ông khẽ khàng lên cầu thang. Có tiếng mõ dìu dặt và tiếng tụng Kinh của vợ ông. Chị vẫn khe khẽ tụng Kinh khi ông bước vào phòng. Dứt bài Kinh, chị quay nhìn ông vẻ xa lạ, rồi lại cúi xuống mở cuốn Kinh đọc tiếp, tiếng mõ và tiếng tụng Kinh nhanh hơn và to hơn. Ông xuống cầu thang, ra ngoài, khép cửa lại. Ông thấy đói và mệt rã rời, đầu óc trống rỗng.
Ông đến quán café quen thuộc, nơi ông từng hát thâu đêm với Mộng Huyền. Sau giờ trưa quán vắng khách. Mấy cô gái mắt xanh mỏ đỏ đang đánh bài ở góc phòng, thấy ông vào liền nháy mắt cho nhau, xì xào bàn tán. Ông biết đó là các bạn của Mộng Huyền, họ đang thì thầm về ông. Mấy người đàn ông ngồi bàn bên cũng quay nhìn ông và im lặng đưa mắt cho nhau. Ông thấy mình không nơi ẩn nấp trước những ánh mắt và những tiếng xì xào ấy. Cô chủ quán bưng cho ông một ly café thơm phức và một đĩa bánh. Cô quay lại quầy mở nhạc Trịnh Công Sơn.
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quoanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vừng Nhật Nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về...
Giọng Khánh Ly âm vang, sâu lắng mà chua sót. Phải, đó là " Một cõi đi về" ông vốn yêu thích. Giờ đây, tưởng như bài hát đó viết sẵn cho ông. Mấy cô gái chưa nge xong khúc nhạc đã ồn ào đứng dậy. Khi đi qua chỗ ông ngồi, một cô có tình cọ mông vào ông và ghé tai nói cho tất cả cùng nghe:" Anh giám đốc, đi hát với chúng em không?". Các cô cười ré lên và kéo nhau chạy
ào đi. Một cô nói to: " Anh giám đốc quá đát rồi". Mấy người đàn ông bàn bên nhìn nhau cười nhạt. Ông hiểu, bây giờ đến các cô cave cũng không cần ông nữa. Chẳng ai cần đến ông, và ông cũng không biết nơi đâu là cõi đi về.
4-2003
Khách quê
Buổi trưa, tôi vừa dắt xe đạp về đến cổng, thấy trong nhà có tiếng nói to: "Ta bằng vai với ông nội cháu. Thế bố cháu chưa kể chuyện ta cho cháu nghe à?". Tiết tấu và âm điệu giọng nói đích thị là của người già mắc chứng nặng tai. Con gái tôi lí nhí câu gì đó. Tiếng người khách trách móc: "Hỏng, bố con nhà này hỏng". Tôi đẩy cửa bước vào nhà, hơi ngỡ ngàng. Một ông già gầy gò, mặt phù da bủng, quần áo nhầu nát đang ngồi ở phòng khách. Con gái tôi chạy lại níu vạt áo tôi vẻ sợ sệt. Tôi lễ phép chào ông và hỏi:
- Thưa cụ, có việc gì...
Ông lão nghiêm nét mặt khiến vẻ tiều tuỵ hiện lên rõ mồn một. Bỗng ông cười lớn:
- Anh không nhận ra ta à? Bác anh đây. Lão Đại làng Giành đây!
Tôi thấy nhồn nhột trong lòng. Chết thật, sao bác tôi lại ra nông nỗi này. Bác tôi bảo:
- Tôi bận lắm, nhưng kỳ này phải lên anh. Tôi ốm. Thuốc trạm xá mãi không khỏi. Anh nhiều bạn bè, anh nhờ chiếu điện cho bác cái xem sao. Khéo mà kềnh thì gay to.
Tôi pha nước mời bác, hỏi han bệnh tình. Bác bưng chén trà nóng và nói:
- Hà, trí thức các anh khôn thật, thửa chè ngon, ngồi quạt điện, làm gì chả mất quan điểm lao động. Định kỳ này lên cũng phải chấn chính cho anh một thể đây.
Tôi hỏi:
- Bệnh bác thế nào ạ?
Bác phàn nàn:
- Đang bận trăm công nghìn việc lại đổ bệnh mới chết chứ! Chân tay run lắm, đi không vững. Lúc đầu bác tưởng béo lên, hoá ra, đây anh xem.
Bác vén quần để lộ cẳng chân sưng đãn màu sáp, ấn ngón tay vào, để lại một lõm sâu mãi không đầy lên được. Tôi nhìn bác ái ngại, định hỏi thêm về bệnh tình của bác và chuyện dưới quê, thì bác lại chuyển sang bàn về tình hình quốc tế, tình hình chính trị trong nước, về công tác tổ chức của tỉnh, của huyện. ở quê, bác chỉ có cái đài bán dẫn một băng, không có sách báo gì nên càng nói càng thấy bác thiếu thông tin kinh khủng. Tôi không dám tranh cãi, sợ nói trái ý bác giận. Vả lại, có nói bác cũng chẳng nghe rõ hoặc chẳng muốn nghe. Biết tính bác, tôi cứ vui vẻ để bác mắng mỏ, hoặc nói về thời cuộc, về việc huyện việc xã.
Bữa trưa hôm ấy, vợ tôi đãi bố con tôi tươi hơn mọi ngày vì có bác lên. Món ăn có rau muống luộc, thị kho đậu phụ và thêm đĩa lòng lợn để tôi và bác nhâm nhi. Ăn được vài lưng cơm, mồ hôi bác vã ra, đôi mắt ươn ướt, tôi mới biết lúc trứơc bác đói. Tuy nhiên, chăng chắc bụng rồi trông bác tươi hẳn lên, nói cười oang oang và chuyện càng rôm rả. Bác bảo vợ tôi:
- Này cháu, ăn như ăn tết thế này, lương hai vợ chồng trí thức sao đủ? Hay ngoài lương còn lậu nữa hở?
Vợ tôi ngẩn người, đỏ mặt không biết nói gì. Sợ vợ tôi giận, tôi vội đỡ lời:
- Mấy khi bác lên chơi, vợ cháu chiêu đãi bác đấy.
Bác tôi nghiêm nghị bảo:
- Tiện thể bác cũng nhắc anh chị thế. Thời buổi bây giờ dễ làm người ta phai màu lắm. Đấy như mấy thằng ở xã, do tôi đào tạo nên mà bây giờ đang hỏng.
Bác lại trở về với đề tài quen thuộc của mình. Tôi đưa mắt ra hiệu cho vợ tôi, ý là tính bác thế. Nhưng vợ tôi lặng lẽ bê mâm bát xuống bếp vẻ không vui.
Hôm sau tôi xin phép cơ quan nghỉ nửa ngày đưa bác đi khám bệnh. Cũng may tôi có mấy thằng bạn thân là bác sĩ, nên mọi chuyện được giải quyết chóng vánh. Gần trưa, bác sĩ Hà cầm tờ kết quả xét nghiệm, gọi riêng tôi vào phòng hỏi độp:
- Này, lão ấy là thế nào với ông hở?
- Bác ruột tớ đấy.
- Lão xuất thân thế nào?
- Bác là cán bộ xã về hưu. Có sao không?
- Sao cái con khỉ. Tưởng vương tướng gì, mở mồm ra là kêu bận, toàn chuyện gái goá lo việc triều đình. Lại còn chấn chình người ta về quan điểm này nọ nữa chứ. Tai thì điếc lòi ra có nghe được gì đâu!
- Ông thông cảm, tính bác tôi thế. Bệnh tình ông cụ thế nào?
- Bệnh tật chó gì. Lão suy dinh dưỡng đấy. Về cho ăn khá khá mươi ngày là khoẻ như vâm.
- Ông cho thêm ít thuốc.
- Không phải thuốc thang gì đâu. Về đong thêm mấy yến gạo. Lão ăn khoẻ phải biết đấy.
Tôi nài:
- Ông cứ cho cái đơn thuốc bổ. Công tác tâm lý ấy mà.
Hà cười hóm hỉnh. Hắn ngồi bàn lấy bút ngoái thật nhanh cho tôi cái đơn toàn vitamin và nước cất. Bác tôi đứng đợi ở cửa, vẻ hồi hộp hỏi: "Có phải nhập viện không anh?". Tôi dắt tay bác ra cổng viện, vừa đi vừa giải thích.
- Bệnh bác không nghiêm trọng lắm, nhưng phải điều trị cẩn thận mới dứt được. Cháu xin cho bác ngoại trú ở nhà cháu. Hàng ngày uống thuốc đều đặn, nghỉ ngơi khoảng nửa tháng là khỏi.
Bác tôi vẻ nghĩ ngợi:
- Thế thì gay nhỉ. Còn bao nhiêu việc ở nhà.
Tôi hỏi:
- Nhà bác gưỉ bà Xoan rồi, còn việc gì?
Bác tôi trừng mắt:
- Anh không biết à? Sắp đại hội Đảng bộ, tôi mà vắng là chúng nó phá tổ chức, anh hiểu không?
Tôi động viên:
- Bác lo lắng cũng phải, nhưng cũng cần chữa bệnh đã chứ. Về nhà bác đổ bệnh nằm đấy thì làm được gì.
Bác bảo:
- Thôi được, tôi nghe anh.
Tôi đưa bác về nhà rồi vào cơ quan xin ứng trước mấy tháng lương. Tôi đến cơ quan vợ đưa tiền cho cô ấy và bàn chương trình phục hồi sức khoẻ cho bác. Vợ tôi nhìn tôi ái ngại. Tôi hiểu vợ tôi vốn người hiền thục nhưng rất dị ứng với bác tôi.Vì yêu tôi, cuối cùng vợ tôi vui vẻ đồng ý phác đồ điều trị cho bác do tôi đề xuất.
Từ hôm ấy, bữa cơm nào nhà tôi cũng có thịt, cá. Mặc dù đời sống cán bộ lúc đó còn rất nghèo, mới qua thời tem phiếu chưa lâu, nhưng chúng tôi cố không để bác thấy mình thiếu thốn. Hàng ngày, ngoài uống thuốc viên, tôi còn tiêm cho bác đều đặn. Cũng chỉ là vitamin với nước cất, nhưng phải có uống có tiêm để bác thấy được điều trị thật sự. Tay bác sĩ Hà thánh thật, đúng là bác tôi ăn rất khoẻ, mỗi bữa ba bốn bát cơm. Có chén rượu trắng bác ăn càng ngon miệng. Khoảng một tuần sau bác đã hết sưng phù, người chắc lại, da trở nên đỏ đắn. Qua câu chuyện hàng ngày, tôi biết ở nhà bác ăn uống kham khổ quá. Mùa nào bác cũng thiếu ăn hai ba tháng. Một suất lương hưu còm của cán bộ xã chỉ đủ đong thóc phân phối của hợp tác xã, mà tiêu chuẩn phân phối mười lăm cân thóc một tháng thì sao đủ ăn. Bác lại chẳng làm gì, vườn bỏ hoang, đất phần trăm không chăm bón cỏ tốt hơn lúa. Những gia đinh nhiều lao động làm quần quật quanh năm còn đói. Đồng bỏ hoang mà dân đói vì cảnh hợp tác lắm sãi không ai đóng cửa chùa. Bác tôi từng làm chủ nhiệm hợp tác xã, rồi lên chủ tịch xã. Ông là tác giả tập thể hoá của xã tôi. Cán bộ xã như bác thực chất là ông nông dân suốt ngày đeo túi dết đi họp, dần dà quên hết chuyện đồng áng, quên cả mình là nông dân. Bác luôn tự hào mình là người quan trọng, đã đào tạo mấy lớp cán bộ , kết nạp Đảng cho bao nhiêu người. Vì vậy, nói trái ý bác là đổ đình đổ chùa ngay. Tuy vậy, ở nhà tôi ít ngày, bác dần quý vợ chồng tôi, khen vợ tôi dịu dàng tần tảo như bác gái thuở sinh thời. Bác không lên lớp, chấn chỉnh vợ chồng tôi như những ngày đầu nữa. Một hôm bác bảo:
- Đúng là thuốc bệnh viện tỉnh giỏi thật. Bác khỏi rồi. Anh xem cho bác về thôi. Sốt ruột lắm.
Tôi doạ bác không điều trị thêm, bệnh tái phát thì nguy. Bác đành ở lại thêm một tuần nữa. Sau nửa tháng, bác tôi hoàn toàn khoẻ mạnh, tai cũng đỡ điếc hơn. Vợ tôi mua cho bác cái quần ca ky và cái áo sơ- mi màu cỏ úa. Mặc vào, trông bác rạng rỡ hẳn. Bác cười oang oang, ngắm mình trước gương rồi nói:
- Anh chị thật vẽ chuyện, đúng là trí thức tiểu tư sản. Mặc đẹp thế này, về xã họ bảo tôi hoá người thành thị rồi thì ăn nói làm sao?
Bác định gấp lại cất đi để tết mặc, tôi ép bác phải mặc quần áo mới tôi mới đưa về quê. Quê không xa lắm, nên hai bác cháu đèo nhau bằng xe đạp chỉ mất hai giờ. Dọc đường bác luôn mồm hối thúc tôi đi nhanh về bác còn nhiều việc lắm. Lâu lâu tôi chưa về quê, nên không khỏi ngán ngẩm khi nhìn cảnh nhà hoang tàn của bác. Bác lụi cụi tháo sợi dây buộc hai cánh cổng tre, một cánh rơi khỏi trụ đập vào chân, bác nhăn nhó lẩm bẩm chửi một mình. Mảnh sân gạch cũ đầy rêu xanh. Khu vườn rộng quan nhà um tùm cây dại. Tôi đứng giữa sân nhìn ba gian nhà ngói cũ, cảnh sân vườn tiêu điều mà tiếc sót. Ngày bác gái còn sống, khu vuờn hai sào này mùa nào cũng tốt tơi rau quả. Bác gái trồng rau nuôi gà, chạy chợ, đủ để hai bác sống và nuôi con ăn học. Bác mất, giàn trầu mà bác yêu quý cũng tàn lụi, cây chay bác trồng để ăn trầu vỏ, để lấy quả kho cá cũng bị người làng đẽo hết vỏ, chế khô. Bác tôi có hai con một trai một gái. Anh cả công tác tận trong Nam, mấy lần về mời bác đi để phụng dưỡng nhưng bác không nghe. Chị Ngà tôi là giáo viên, yêu anh Quý người cùng làng. Khi hai người xin phép lấy nhau, bác tôi dứt khoát từ chối. Ngày ấy, vì cùng trang lứa nên tôi mấy lần nói dùm cho họ. Bác tôi bảo:
- Mày ăn phải bả gì mà nói hộ chúng nó. Tao là cách mạng, không thông gia với địa chủ.
Tôi nói:
- Địa chủ từ lâu rồi, giờ ai còn thành kiến nữa bác? Hơn nữa anh ấy là tiến sĩ, một nhà khoa học có tiếng tăm.
Bác tôi quát:
- Tao đếch cần cái tiếng tăm ấy. Đói cho sạch, rách cho thơm. Quan điểm dứt khoát.
Hai người yêu nhau quyết lấy được nhau. Thế là bác tôi tuyên bố từ con gái. Bác gái tôi van xin, khóc hết nớc mắt cung không lay chuyển được bác trai. Giờ hai người ở Hà Nội, mấy lần đưa con về thăm bị bác tôi đuổi khỏi nhà. Gửi quà, gửi tiền biếu bác, bác gửi trả lại. Cuộc sống cô đơn này là do chính bác lựa chọn, và dường như bác rất hài lòng với hoàn cảnh. Bác luôn nói rằng bác không cần tiền bạc, chỉ cần sống trong sạch, sống để đấu tranh. Mà bác đã sống như thế thật. Căn nhà ba gian lợp ngói mũi cũ kỹ đã lâu không quét vôi, vữa tróc ra hàng mảng. Hai gian ngoài kê hai cái giường cũ, giữa nhà có cái bàn gỗ mộc, một cái ấm tích và mấy cái chén cáu bẩn. Gian buồng trong không có cửa, một cái chum đựng thóc, một sợi dây thừng căng ngang để văt quần áo và vài thứ đồ lặt vặt, thúng mủng của bác gái tôi để lại. Nhà ẩm thấp, lại vắng chủ lâu ngày hôi không chịu đợc. Tôi dọn dẹp nhà cho bác một lúc rồi xin phép đi. Bác vội nói:
- ở lại ăn cơm chiều hẵng đi.
Tôi dắt xe đạp đến giữa sân, bác chạy ra giữ lại. Tôi nói chỉ xin phép cơ quan được nửa ngày không thể ở lại. Bác bảo "Anh mà đi là nhỡ việc của bác. Chiều anh phải ở nhà cho bác mượn cái xe, bác xuống huyện có việc khẩn".
Tôi nói bác mới về, nghỉ ngơi đã. Bác trừng mắt nói:
- Tôi phải đi ngay. Anh không ở lại, tôi đi bộ cũng được. Tôi phải gặp cái tay Hiền làm cho ra nhẽ. Chính tay ấy chủ trương chia ruộng hợp tác cho dân, giờ mấy thằng xã này đang hùa theo. Chúng nó làm thế là phá chủ nghĩa xã hội còn gì?
Tôi hỏi:
- Hiền nào bác?
- Cái tay chủ tịch huyện ấy. Tôi nhìn người có sai đâu. Ngày trước hắn về thực tập ở đây, đã bộc lộ rõ tư cách đạo đức kém. Thế mà không biết nó chạy chọt thế nào, giờ về làm chủ tịch huyện mới loạn.
Nghe bác nói, tôi chợt nhớ ra anh Hiền. Ngày ấy anh là kỹ sư nông nghiệp mới ra trường, được cử về tăng cường cho cơ sở xã tôi. Anh và chị Duyên bí thư xã đoàn yêu nhau, không ngờ lại thành chuyện ầm ĩ. Bác tôi đưa chị Duyên ra đảng uỷ kiểm điểm, rồi đánh công văn trả anh Hiền về ty nông nghiệp. Bác tuyên bố: "Đồng chí Duyên đường đường là một đảng uỷ viên lại đi quan hệ luyến ái với quần chúng. Trí thức về cơ sở đáng lẽ phải phấn đấu, lại chỉ biết tán gái, làm ảnh hưởng đến thành tích của địa phương". Anh Hiền bị trục xuất ba tháng thì chị Duyên xin đi học, rồi hai người cưới nhau ở trên tỉnh. Không ngờ chuyện ấy làm bác tôi còn hận đến bây giờ. Tôi sợ bác lên huyện gây chuyện không hay, cố khuyên nhủ nhưng bác không nghe. Bác bảo người cộng sản phải đấu tranh đến cùng với những quan điểm sai trái. Tôi đành phải ở lại để bác mượn xe đạp.
Chiều hôm ấy, tôi sửa lại cho bác cái cổng tre, quét bụi và màng nhện trong nhà, phát cỏ lối đi ra cầu ao. Tôi chỉ tiếc vườn ao này giá bác nuôi gà lợn, thả cá, trồng cây thì đẹp biết bao. Hình như bác quen với tác phong cán bộ bao nhiêu năm, thích chạy quanh làng xã, thích họp hành, nói chuyện quốc gia đại sự, chẳng để mắt đến nhà cửa vườn tược. Tôi đi quanh nhà quanh vườn càng nhớ bác gái. Bác cả đời tảo nuôi chồng nuôi con, rất yêu đất đai mùa màng. Tôi đến bên bàn thờ thắp cho bác nén hương, đặt dưới ảnh bác mấy bông hoa dại hái ở vườn nhà. Gần tối, tôi ra chỗ tát ao mua mớ cá, sang nhà bà Xoan vay bơ gạo về nấu cơm. Căn bếp lụp xụp tường đất mái rạ tro than lạnh lẽo. Lâu lắm rồi tôi mới ngồi thổi cơm bếp rạ bắc trên ba ông đầu rau nặn bằng đất. Bao nhiêu thế hệ người Việt với những anh hùng hào kiệt, sĩ phu, bác học đã lớn lên từ những căn bếp này. Cũng có bao nhiêu người sống, tranh đấu, ghi dấu ấn buồn vui vào việc làng xã như bác tôi. Bác luôn kêu bận mải là sự thật. Bác sống không yên và làm bao nhiêu người khác không được yên.
Tối lên đèn bác tôi mới dắt xe đạp vào cổng. Tôi thắp đèn sắp cơm, kiếm mảnh chiếu cũ trải ra nền nhà mời bác ăn cơm. Bác có vẻ cảm động, nhưng cố dấu. Bác nhìn mâm cơm bảo: "ờ , anh vẫn còn giữ được cái nết con nhà lao động đấy nhỉ". Tôi xới cơm cho bác, không hỏi bác lên huyện thế nào, sợ mất vui. Bác có vẻ đăm chiêu bực bội nhưng vẫn kìm nén, điều này hơi trái ngược với tính bác. Ăn cơm xong, bác mới chậm rãi bảo:
- Hỏng hết anh ạ. Chúng nó sắp phá chủ nghĩa xã hội rồi.
Bác kể rằng đã gặp tay Hiền chủ tịch huyện. Hắn nói việc chia ruộng cho dân là đúng. Hắn còn dạy khôn bác rằng đồng để hoang mà dân đói là có tội. Hình như hắn có ý nói bóng gió gì bác. Bác cả một đời đánh đổ địa chủ, giành lại ruộng đất cho dân, rồi xây dựng hợp tác xã tạo ra bộ mặt chủ nghĩa xã hội ở nông thôn. Vậy mà những người do bác và các đồng chí của bác đào tạo đang giũ rồi tung ra rồi. Bác bảo tôi soi đèn, bác bê cái hòm gỗ nhỏ gác trên kèo nhà xuống. Bác thận trọng đặt hòm xuống giường, tìm chìa khoá trên bàn thờ mở hòm. Bác bảo: "Để bác cho anh xem cái quý nhất của đời bác". 'Bác lật mấy bộ quần áo cũ, lôi ra một gói nhỏ bọc trong mảnh giẻ cất tận đáy hòm. Tôi soi đèn, bác từ từ mở từng lớp vải cũ. Mắt bác sáng lên:
- Anh xem đi. Đây là huân chương chống Pháp, đây là huân chương chống Mỹ, đây là các huy hiệu bác được thưởng.
Bác đặt tất cả lên mặt chiếu, vẻ mặt bác trang trọng, rạng rỡ chưa từng thấy. Hồi lâu, bác cẩn trọng cầm mảnh giẻ gói các thứ lại, cất xuống đáy hòm, khoá cẩn thận và cất hòm về chỗ cũ. Hai bác cháu lặng ngồi dưới ánh đèn hồi lâu. Giọng bác sâu lắng:
- Anh ạ, đời bác chỉ cần thế là chết cũng sướng rồi. Bây giờ anh hiểu vì sao bác tranh đấu đến cùng rồi chứ?
Tôi nói với bác mỗi thời mỗi khác, những người làm việc hôm nay có vấn đề của hôm nay. Bác cũng không nên can thiệp nhiều, vả lại người có quan điểm như bác chắc không nhiều. Bác quắc mắt:
- Anh nghĩ thế à? Này, chúng tôi còn đông lắm, chưa chết hết được đâu. Chúng tôi không để yên đâu, rồi anh xem.
Tôi sợ bác giận không dám nói gì thêm nữa.
Đêm ấy, tôi nằm nghe tiếng mọt cót ket trên kèo nhà, thở hít mùi ẩm mốc trong căn nhà của bác mà không sao ngủ được. Tôi khẽ khàng ra sân ngồi hút thuốc. Trời đầy sao. Không trung đầy ắp tiếng sáo diều. Tôi xa quê đã mấy chục năm, từ ngày cha mẹ mất chưa ngủ lại quê đêm nào. Đêm nay tôi được sống lại những ngày thơ bé, được gặp hồn quê trong tiếng sáo diều mênh mang như tiếng cồng tiếng chiêng từ trên trời vọng xuống. Tôi chợt giật vì tiếng bác nói to: "Nhớ thành phố không ngủ được à?". Vậy là bác vẫn chưa ngủ. Ngại nói chuyện to ảnh hởng đến hàng xóm, tôi vào giờng nằm. Bác vặn to ngọn đèn, lấy quyển sổ bác vẫn giấu dưới gối ngồi ghi chép điều gì đó. Hồi lâu, bác chậm rãi đứng dậy, cầm đèn đến bên bàn thờ. Bác thắp một nén hương và rì rầm nói: "Bà ơi, thế là bà đi đã hơn năm năm rôi. Lắm lúc nghĩ lại, tôi đã làm khổ bà quá. Hay là tôi đã sai hở bà? Nhưng nhìn thấy sai trái chẳng lẽ làm ngơ. Tôi già rồi, mệt rồi bà ạ. Tôi nghỉ ngơi thôi, mặc kệ sự đời thôi. Có nhẽ thằng cháu nói phải, không nên can thiệp vào việc của người khác. Họ làm sai, họ chịu...". Tôi mừng thầm vì bác đã nghĩ lại. Nếu được như vậy, hôm nào chủ nhật tôi rủ vợ tôi về sửa sang lại nhà cửa, cuốc vườn, trồng cây với bác. Tôi vờ ngủ. Bác trở lại bàn vừa ghi chép vừa nói một mình đến gà gáy mới lên giường nằm..
Sáng dậy, trước khi dắt xe ra cửa tôi đưa bác số tiền còn lại trong túi: "Bác cầm tạm để đong gạo và mua thức ăn. Chủ nhật sau vợ chồng cháu về". Bác cười gượng, cầm tiền và bảo:
- ừ, bác xin. Chốc nữa phải đi mua ngay đôi pin nghe đài với tem thư. Kỳ này bác phải kiện lên tận trung ương. Giờ bac lên xã đây.
Tôi nhìn bác sững sờ. Vậy ra những điều bác nói với bác gái đêm qua chỉ là một phút mềm lòng. Không tiễn tôi ra đến cổng, bác vội quay vào nhà để chuẩn bị lên xã.
1990 - 2004
Người đàn bà ám ảnh
Đại tá quân y Vũ Quân biết mình không sống được bao lâu nữa. Bệnh nan y thường giết các bác sĩ nhanh hơn những người khác. Buổi chiều sau giờ làm việc, bác sĩ Thản lặng lẽ ngồi bên giường cha như thường lệ. Hai cha con vẫn im lặng bên nhau như vậy hàng giờ, nhiều giờ. Bác sĩ Thản đã đề nghị mổ cho cha, nhưng đại tá bảo:" Vô ích ". Anh cũng biết là vô ích nên không nói gì với cha nữa. Sau ba tháng, bệnh ung thư hầu như đã vắt kiệt sức của cha anh. Suốt một đời bác sĩ ngoại khoa nổi tiếng, đại tá đã giải thoát biết bao người khỏi bàn tay của tử thần, mà giờ đây ông đang bất lực trước cái chết không tránh khỏi. Khuôn mặt phương phi hồng hào với nhiều nếp nhăn to giàu trí tuệ của ông khô quắt, sạm lại như cháy thành than. Bác sĩ Thản biết cha anh vô cùng đau đớn cả thể xác và tinh thần. Lòng anh quặn đau mà chỉ biết im lặng nhìn cha.
- Con hãy thu xếp cho cha một việc, đại tá nói nhỏ với con trai.
Thản nghiêng xuống bên cha, nhìn và chờ đợi.
- Đề nghị toà án cho cha được ly dị mẹ con trước khi chết, đại tá bình tĩnh nói.
Thản kinh hoàng nhìn cha, tưởng như ông đã hôn mê. Đại tá đăm đăm nhìn con trai. ánh hoàng hôn đỏ như máu lọt qua rèm cửa sổ cháy lên trong mắt ông.
- Đi đi con, đại tá nói rành rọt. Không cần mang theo gì cả. Đơn của cha có hàng tập ở trên ấy rồi.
Thản sang phòng bên giục hai con ra ngoài chơi và lặng ngồi bên vợ. Vợ Thản là phóng viên, rất kính trọng bố chồng, coi ông là thần tượng. Thản ngượng ngùng nói với vợ về ý nguyện của cha, thầm đoán chị sẽ phản đối quyết liệt. Không ngờ vợ anh nghe xong rất xúc động. Chị vừa khóc vừa là vội bộ quần áo cho anh. Khi anh thay quần áo, chị dắt xe đạp ra sân đứng chờ. " Anh đi đi, đi đi". Chị nói trong nức nở và ôm mặt chạy vội vào nhà.
*
* *
Bà Thanh, tên cũ là cô Mờ làng Giành, mẹ đẻ của bác sĩ Thản, từ nhiều năm nay sống với người anh của bà. Ngôi nhà của anh em bà vào loại cao sang nhất tỉnh, cách đây chưa lâu là chốn lui tới cầu cạnh của nhiều loại người. Ông anh bà là chủ tịch tỉnh. Bà là lãnh đạo hội phụ nữ tỉnh, nổi tiếng về thái độ không khoan nhượng khi cần tranh đấu với bất kỳ ai. Bao nhiêu năm ròng, giọng sang sảng của bà cất lên ở mọi hội nghị, và hầu như hội nghị nào bà cũng là đại biểu. Bây giờ người anh đã chết, bà Thanh cũng đã về hưu, ngôi nhà trở nên quá rộng vì vắng khách. Bà cao lớn, sắt đá, giọng nói đanh thép rít qua kẽ răng, lối sống khắc kỷ, các cháu sợ bà hơn sợ bố mẹ đẻ. Buổi tối hôm đại tá Vũ Quân đau đớn cùng cực, vật lộn với thần chết, bà đang ngồi xem vô tuyến với mấy đứa cháu nổi tiếng ăn chơi, trong ngôi nhà rộng như một bảo tàng đã đóng cửa. Khi bác sĩ Thản và người thẩm phán đến gõ cửa, bà Thanh dẫn họ vào phòng khách sang trọng, đưa mắt nhìn con trai nhanh như chớp, bắt tay người thẩm phán và ra hiệu mời ngồi. Bà thấy cuộc viếng thăm bất ngờ này ẩn chứa điều gì không bình thường nên cố tình không nói trước. Chủ khách, mẹ con nhìn nhau ngượng ngùng, căng thẳng. Cuối cùng, người thẩm phán phải vào chuyện:
- Thưa nữ đồng chí Thanh, tôi đến gặp đồng chí vì ý nguyện của một người đang trong phút lâm chung...
Khi người cán bộ toà án trình bày, bà Thanh ngồi thẳng, cất cao đầu, đôi mắt long lên giận dữ và quyết liệt, bộ ngực và đôi vai gầy khô rung lên từng đợt. Im lặng kéo dài. Hồi lâu, bà Thanh đưa mắt nặng nề nhìn con trai, không thèm nhìn người cán bộ toà án, lạnh lùng nói qua kẽ răng:
- Được. Bây giờ thì tôi chấp nhận.
Bà cầm tờ giấy, ký một chữ to vụng về rồi để cả giấy bút lên bàn. Bà ngả người ra lưng ghế, mặt gầy tái nhợt, đôi môi mỏng nhợt nhạt mím chặt. Khi Thản và người cán bộ toà án chào ra về, đôi môi ấy cũng không hề mấp máy. Ai biết bà đang nghĩ gì? Đã kết thúc cuộc đời người đàn ông ưu tú mà bà luôn căm hận hay luôn yêu thương? Bà đã chiến thắng hay chiến bại? Hay bà thất vọng vì cuộc đời danh giá của bà lại vướng mắc với những kẻ vô đạo đức, vô chính trị, vô nguyên tắc là người chồng hờ và đứa con trí thức của bà? Bọn họ có biết rằng dù đã về hưu, nhưng nhiều kẻ đương chức đương quyền còn khốn đốn vì những đơn thư tố cáo quyết liệt của bà?
Ai biết được điều gì đang chờ mình ở phía trước? Ai biết được cô Mờ làng Giành lại trở thành nữ đồng chí Thanh hôm nay? Ngày ấy, những ngày sau cách mạng, người trai vệ quốc con nhà dòng dõi khoa bảng đã kết thân với cô du kích cùng làng. Anh trai cô là một trong số người đưa nông dân đi cướp huyện rồi lên lãnh đạo uỷ ban kháng chiến. Cô xấu và thô, lại không có học, nhưng bù vào đó là đức tính hăng hái hoạt động đoàn thể, dũng cảm và quyết liệt. Lúc bấy giờ, đức tính ấy được coi là chuẩn mực cao hơn cả cái đẹp. Trước ngày toàn quốc kháng chiến họ cưới nhau. Song thân của người trai là ông bà Đồ dù không muốn cũng không dám phản đối. Vì xã hội đã đổi thay, đã cách mạng. Quà tặng đám cưới là những trái lựu đạn, những thanh mã tấu và rất nhiều khẩu hiệu. Rồi anh theo bộ đội đi kháng chiến. Với trình độ tú tài toàn phần, anh được theo học lớp quân y, rồi làm việc ở bệnh viện chiến khu. Ngày hoà bình trở về, anh mới biết mình đã có con trai. Rồi anh lại đi học tiếp để phục vụ lâu dài trong quân đội.
Ngay sau ngày anh ra đi, một biến cố dữ dội chẳng lành ập đến với dân làng và gia đình anh. Có hai cán bộ cải cách ruộng đất về làng. Bằng một chương trình đã định trước, họ phát động nông dân đứng lên đáng đổ giai cấp địa chủ cường hào bóc lột. Bỗng chốc cô Mờ trở thành rễ chuỗi, chỗ dựa tin cẩn nhất của đội. Té ra cô là người quan trọng đến nỗi cán bộ cải cách phải e ngại. Người anh cô lúc đó đã trở thành bí thư đoàn uỷ cải cách, quyền sinh quyền sát trong tay. Dân làng sợ cô Mờ hơn cả sợ đội. Họ thì thầm với nhau rằng chính anh cô đã ký án tử hình chánh Cựu và ông bí thư đảng uỷ xã bị quy là quốc dân đảng. Nghe đâu ông ta vừa đánh tổ tôm vừa ký án tử hình. Đúng sai thế nào chả biết, nhưng tin đồn khủng khiếp ấy đã lan truyền khắp vùng. Còn uy thế của cô Mờ thì ai cũng thấy. Cô thật sự trở thành nỗi kinh hoàng của làng Giành khi gia đình ông Đồ bị quy địa chủ bóc lột, đích thân cô đứng ra phát động đấu tố bố mẹ chồng. Ông thân sinh và ông nội ông Đồ đều là cử nhân nho học. Bản thân ông cũng theo đường khoa cử, nhưng đến thời ông thì nho suy, không còn khoa thi, ông Đồ bất đắc chí ở làng dạy học, làm thuốc và sống cảnh thanh bần, giữ gìn tiết tháo. Hơn mẫu ruộng thừa tự đủ để ông thành địa chủ bóc lột. Nghề dạy chữ Thánh hiền biến ông thành kẻ ngồi mát ăn bát vàng. Lối sống thanh bạch, ít giao du biến ông thành kẻ ăn trên ngồi trốc, xa rời quần chúng. Bản luận tội đó được phát ra từ miệng người con dâu vững lập trường gai cấp, đang có quyền kéo rào ngược, buộc dân làng Giành phải hô đả đảo ông. Ai không đả đảo? Vì lý do gì? Ta hay địch? Có người chỉ lỡ mồm nói bênh ông Đồ một câu lập tức bị du kích bắt trói giật cánh khuỷu đưa đi. Cô Mờ phải giúp đội tìm cho đủ số địa chủ đã quy định cho làng Giành. Để tỏ rõ lập trường giai cấp của mình, cô tuyên bố ly khai gia đình nhà chồng, kể cả đứa con mang dòng máu địa chủ. Anh em cô có điểm mạnh tuyệt đối là thành phần xuất thân vô cùng trong sạch. Ông thân sinh cô là ông mõ Mới, đã ba đời làm mõ ở làng giành. Điều này dân làng Giành từ cụ già đến con trẻ, ai cũng biết.
Mùa đông năm ấy, không khí lo âu căng thẳng bao trùm cả làng Giành. Những cuộc ôn nghèo kể khổ, đấu tố địa chủ diễn ra liên miên từ sáng sớm tới đêm khuya. Mạ già, đồng chưa đổ ải cũng mặc, tất cả phải tập trung cho mục tiêu đấu tranh giai cấp đã. Cô Mờ gầy rạc đi, hai gò má dô cao, đôi mắt rực lửa. Cô có mặt trong tất cả các cuộc đấu tố, là người làm mẫu cho giai cấp nông dân bị bóc lột đấu tố theo. Cô đứng trong bóng râm của mái hiên cao vòi vọi, chỉ tay vào mặt tên địa chủ đứng dưới sân đình, rành rẽ kể từng tội ác của hắn như thể chính cô đã chứng kiến, khiến tên địa chủ bàng hoàng không hiểu chuyện cô nói xẩy ra từ bao giờ. Ông Đồ bố chồng cô chỉ chịu được ba ngày đấu tố như vậy. Người ta thay phiên nhau đấu tố ông. Mỗi lần cu Thản cháu nội mang cơm cho ông, người ta bắt nó ăn trước, đề phòng âm mưu bỏ thuốc độc để tên địa chủ trốn tội ác. Mái tóc hoa râm của ông bạc trắng trước mắt mọi người như có phép màu. Phải đứng chịu đấu tố ngày này qua ngày khác, đôi chân ông xuống máu dẫm lên như chân voi. Chiều ngày thứ tư ông từ từ gục xuống rồi không đứng lên được nữa. Bao nhiêu tội bà Mờ và ông bà nông dân tố ông nhận hết, nhưng hỏi của cải bóc lột của nông dân dấu ở đâu thì ông không nói được. Ông gục, bà Đồ phải chịu đấu tố thay chồng. Bà cũng ngoan cố như ông về chuyện của cải.
Một buổi sáng mùa đông, người ta bắt những tên địa chủ ngoan cố chịu hình phạt. Chúng được dẫn ra cửa làng. Các ông bà bần cố nông đang tập trung ở đấy. Người ta bắt từng tên địa chủ phải chạy chân không trên ruộng ải nỏ trắng. Những bàn chân trần sưng húp tím tái vì lạnh, bước lên đất ải khác nào dẫm lên đống mảnh chai. Không tên địa chủ nào chạy hết được một luống cày. Chúng đều ngã gục giữa chừng. Đến lượt bà Đồ thì xẩy ra một việc. Bà vừabị đẩy xuống ruộng, một thằng bé khoảng tám chín tuổi bèn nhảy xuống nắm lấy tay bà :" Bà ơi, để con chịu thay cho bà!". Mọi người sững sờ nhìn thằng bé phong phanh tà áo nâu vá. Cô Mờ quát:" Thằng Thản, mày cút ngay! Mày muốn bao che cho địa chủ phải không?". Hai du kích túm lấy thằng bé lôi lên đường. Nó luồn ra được, nhanh nhẹn cởi áo, xé toạc làm đôi, lao xuống ruộng quấn hai mảnh giẻ vào đôi bàn chân gầy như chân chim của bà nó. Nhìn thằng bé tím ngắt gầy trơ xương sườn, nhiều người vội quay đi. Bà Đồ nước mắt lã chã run run lần qua từng vẫng cày trước hàng trăm con mắt im lặng, trong gió bấc buốt thấu xương rít từng cơn. Bà là tên địa chủ duy nhất đi hết đường cày rồi quay trở lại chỗ cũ với hai bàn chân quấn giẻ đẫm máu. Bà lảo đảo bước lên đường, nghẹn ngào nói:
- Thưa bà Mờ, thưa đội, thưa ông bà nông dân. Tôi chỉ có của cải quý nhất là đứa cháu nội này đây. Đội với ông bà nông dân có tử hình vợ chồng tôi cũng không còn gì để cung khai nữa...
Anh đội trưởng cải cách thấy những ánh mắt nặng như chì của đám đông nông dân nhìn mình, bèn ra lệnh cho du kích: " Giải về!".
Ngày dân làng đến tịch thu tài sản nhà ông Đồ, cô Mờ không có mặt. Cô nói rằng không muốn bước chân vào nhà ấy nữa. Nhưng cô đã chỉ dẫn anh đội cải cách chỗ để đồ ăn thức đựng trong nhà, dưới bếp và dặn dò cặn kẽ. Đoàn người có trẻ con gõ trống cà rùng đẫn đầu, vừa đi vừa hô khẩu hiệu đả đảo địa chủ. Họ kéo vào chật sân nhà ông Đồ. Chỉ trong chốc lát, ngôi nhà ngói năm gian trống toang hoác, mọi thứ bị lục tanh bành, tháo gỡ, đập phá tan hoang, vườn hoa cây cảnh bị xéo nát. Người ta khiêng đi giường tủ, bàn ghế, cánh cửa, quần áo, chum vại, cối đá. Quần áo rách, giấy má vứt khắp nơi. Khi đã lấy hết những gì có thể ăn, có thể mặc, có thể dùng, người ta đứng vây quanh đống sách chữ nho to như đống rạ ở giữa sân, chờ khuân ra cho bằng hết. Đó là vốn liếng hai đời cử nhân nhà ông Đồ. Ông như điên dại, thất thểu chạy quanh sân, lạy van hết người này người khác. Biết không sao được, ông chỉ xin đội cải cách cho lại mấy cuốn sách thuốc và cuốn gia phả. Anh đội cải cách quát: " Không được ngoan cố. Phải đốt sạch cái di sản phong kiến phản động này. Đây là lệnh trên. Phải trừ tiệt nọc!". Anh ta ra lệnh châm lửa đốt sách. Trời hanh gió to, ngọn lửa bốc lên ngùn ngụt. Ông Đồ gào khóc, nhảy vào đống lửa, bị hai du kích xóc nách lôi ra giữ chặt. Mặt ông đầy nước mắt, mồ hôi và tro than. Bọn trẻ con thấy lửa bốc cao thích chí vứt trống nhảy lao xao xung quanh. Thằng cu Thản đứng khóc bên ông nó. Nó khóc sụt sùi, chẳng ai để ý đến nó. Bà Đồ chết ngất . Người ta đặt bà lên tấm phản cũ trong ngôi nhà từ nay không còn là nhà bà nữa. Đốt sách xong, anh đội cải cách đọc bản tuyên bố tịch thu toàn bộ tài sản nhà ông Đồ, kèm theo một danh sách dài tên những nông dân được chia tài sản và những thứ dược chia do anh ta và cô Mờ làm từ trước. Ngôi nhà và mảnh vườn chia cho ba ông bà bần cố nông. Trống cà rùng lại nổi lên. Đoàn người tiếp tục đến nhà địa chủ khác. Trong cảnh tan hoang như động đất, trên cái sân gạch đầy rác rưởi, giẻ rách và tro than chỉ còn ông Đồ và cu Thản ngồi khóc bên đống tro sách lù lù như một nấm mồ đen thui.
Ông Đồ chỉ sống lâu hơn những cuốn sách của cha ông được ba ngày. Phải chứng kiến cảnh cướp nhà đốt sách là đòn quá sức chịu đựng của ông. Ông chết lặng lẽ trong túp lều ở góc vườn, không kịp thấy đội sửa sai về làng, nhà ông được trả lại, danh dự gia đình được khôi phục. Bấy giờ làng xóm lại sôi lên vì uất ức, hận thù. Những gia đình bị oan, nhữnh người bị vu cáo đi lùng cô Mờ để rạch mồm, moi gan. Nhưng cô đã biến mất không còn bóng chim tăm cá. Khi bác sĩ Vũ Quân về làng thì cơn sóng gió đã đi qua, nhưng xóm làng còn xao xác xót xa. Nhìn cảnh vườn hoang nhà trống, anh hiểu ngay sự tình. Mẹ anh và làng xóm đã kể cho anh nghe về người vợ của anh. Vậy là cùng lúc anh mất cha và mất vợ. Tất nhiên không phải vợ anh chết. Anh biết rõ hơn dân làng rằng hiện cô ta đang trốn ở chỗ người anh bí thư đoàn uỷ cải cách mới được lên làm chủ tịch huyện. Cô ta đã chấm dứt cuộc đời cô Mờ làng Giành, bắt đầu cuộc đời của nữ đồng chí Thanh cán bộ phụ nữ huyện. Quân lặng lẽ dành cả kỳ phép sửa lại nhà cửa, trồng cây, rào vườn cho mẹ. Hết kỳ nghỉ, anh xin phép mẹ dắt đứa con trai ra đi. Hai bố con ở căn phòng tập thể của quân y viện, nơi Quân làm bác sĩ trưởng khoa ngoại. Vì chuyện ở quê như thế, đứa con đi học muộn so với tuổi, nên anh dành các buổi tối ngồi bên đèn kèm cho nó học. Phải chịu những cú sốc tinh thần khốc liệt, nên cu Thản gày gò và buồn lặng lẽ như người già. Đặc biệt, thằng bé không bao giờ nhắc đến mẹ. Trong cảnh gà trống nuôi con, Quân dồn hết sinh lực cho nghiên cứu khoa học và quyết chí nuôi dậy con nên người. Anh lập kế hoạch chữa lành chấn thương tinh thần và lấy lại sự tự tin cho con bằng tình thương yêu của người cha, dậy con đọc sách và đưa con đi chơi vào những ngày nghỉ. Anh biết con anh đang ở độ tuổi hình thành nhân cách nên anh dành tất cả tình cảm và trí tuệ dẫn dắt thằng bé. Nhưng dường như số phận không muốn an bài theo ý con người. Nó luôn tạo ra những biến cố phá vỡ dòng trôi bình thường của những cuộc đời vốn đã nhiều cay đắng. Chẳng biết do nhân cách của bác sĩ Vũ Quân hay hoàn cảnh bi kịch đầy chất tiểu thuyết của anh, mà bác sĩ Phương Lan đem lòng yêu anh. Cô yêu kín đáo, dằn vật, đau khổ, nhưng rồi cũng không dấu được lòng. ở tuổi ba mươi lăm, đã trải qua một cuộc chiến tranh, với đời tư tan nát, Quân đủ từng trải để hiểu rằng tình yêu ấy chỉ mang lại bất hạnh cho anh và Phương Lan. Nhưng sự khôn ngoan, từng trải thì giúp gì được cho tình yêu? Sự hoà hợp về tâm hồn, trí tuệ , vẻ đẹp và sự cảm thông cứ xích dần họ lại bên nhau. Mối tình muộn mằn cay đắng, ở giưã là đứa con và bóng đen hắc ám của một người đàn bà. Bà ta không hề thăm hỏi, thư từ, nhưng dường như luôn luôn có mặt ở mọi nơi họ gặp nhau. Rồi bà ta có mặt thật. Một ngày kia, có chiếc xe con đỗ trước cổng quân y viện. Một người đàn bà dáng cao gầy khô khan xăm xăm bước vào phòng thường trực. Bác sĩ Quân đang đọc sách trong phòng riêng, cô thường trực dẫn khách vào rồi vội vã cáo lui. Quân hơi sững người trước sự xuất hiện của chị ta. " Chào anh", chị ta nói và bước vào nhà, theo thói quen vô tình làm động tác như định bắt tay. Chị ta nhìn căn phòng, xoi mói từ chiếc gối, cái khăn mặt đến những bộ quần áo treo trên mắc, vắt trên dây. Giọng bình tĩnh, chị hỏi: " Con đâu anh?". Quân đáp nhỏ: " Nó đi học". Sự chủ động đến trắng trợn của người đàn bà khiến Quân thấy căng thẳng , bứt rứt không chịu nổi. " Cô ta làm như vẫn sống ở đây và vừa ra phố về", Quân nghĩ và lấy giọng lịch sự hỏi:
- Xin lỗi, chị đến thăm bố con tôi hay có việc gì? Tôi hơi bận.
- Tôi đến thăm, cũng có chuyện muốn bàn với anh. Anh Quân ạ, chúng ta đều là Đảng viên, có danh giá trong xã hội. Ta nên thu xếp gia đình để thiên hạ nhìn vào cho đẹp mặt cả hai. Tôi có thiếu sót gì anh nên bỏ qua, vì những việc tôi làm đều là trách nhiệm trước Đảng. Phần tôi, cũng bỏ qua những khuyết điểm của anh...
- ý chị muốn thu xếp gia đình thế nào, tôi chưa hiểu?
- Nếu anh đề nghị thì tôi sẽ chuyển công tác về thành phố này ở với con và anh. Việc đó tôi làm không khó gì, vẫn giữ nguyên chức vụ, thậm chí còn lên cao hơn. Tôi sẽ mua nhà nữa.
Một cơn rùng mình chạy rần rật khắp cơ thể bác sĩ Quân. Anh cảm thấy ngột ngạt vì giọng điệu của người đàn bà. Bao căm hận cố nén bấy lâu nay đang dâng lên khiến anh hoa mắt. Anh nén giọng hỏi:
- Ngoài khuyết điểm đã cưới chị, tôi còn khuyết điểm gì nữa vậy?
Mắt người đàn bà long sòng sọc, giọng đanh sắc rít lên:
- Anh biết rõ hơn tôi chứ! Thế con đĩ nào vẫn đến đây ngủ với anh, rồi nấu nướng, giặt giũ cho bố con anh?
Quân đứng dậy:
- Nếu chị định nói chuyện nghiêm túc thì hãy cư xử cho có văn hoá. Xung quanh đây đều những người trí thức, không có loại cán bộ lăng xăng vô học đâu. Giữa chúng ta còn gì là vợ chồng? Vì thế, tôi nghĩ nên ly dị chị ạ. Tôi sẽ làm đơn và chịu trách nhiệm.
Người đàn bà chồm lên:
- A, anh muốn thế hả? Không bao giờ nhá! Thật là vô chính trị, vô đạo đức. Được, rồi các người sẽ biết.
Người vợ ấy hầm hầm nhìn Quân rồi xồng xộc bước ra.
Một tuần sau, lãnh đạo quân y viện nhận được công văn của tỉnh hội phụ nữ kiện bác sĩ Phương Lan phá hoại hạnh phúc gia đình của nữ đồng chí Thanh, lãnh đạo chủ chốt của hội. Chủ nhật tuần ấy, Quân nhận được điện thoại của đồng chí tư lệnh quân khu mởi sang chơi. Đối với Quân, đồng chí ấy thân thiết như người anh, đã dìu dắt Quân từ ngày đầu theo cách mạng. Những lúc rảnh rỗi, ông thường qua chỗ Quân chơi, hoặc mời anh sang chỗ ông. Hai anh em đàm đạo về cuốn sách mới đọc, về bài báo khoa học của Quân mới in, hoặc chỉ cùng nhau nhấm nháp chén trà thơm. Lần này ông có vẻ trầm ngâm, xa cách. Vừa chào hỏi xong, ông hỏi ngay:
- Cậu định ly dị à?
Quân đáp khẽ:
- Vâng.
- Không ổn đâu, ông nói.
Tư lệnh thong thả mở cặp, lấy một tờ giấy đánh máy đưa cho Quân:
- Của ông chủ tịch tỉnh, anh vợ cậu đấy.
Đó là một thứ nửa thư, nửa công văn, lời lẽ lấp lửng vừa như thân tình vừa như đe doạ về chuyện bác sĩ Quân định ly dị vợ. Còn có thể hiểu ngầm rằng việc đó là không được phép, có muốn cũng vô ích. Đúng là giọng của người có quyền sinh quyền sát. Chủ nhân bức thư nhờ người nhận răn đe, khuyên bảo bác sĩ Quân đừng làm điều dại dột. Quân mệt mỏi dưa trả tờ giấy cho tư lệnh:
- Hoàn cảnh tôi anh biết cả. Anh khuyên tôi làm gì bây giờ?
Tư lệnh nắm tay Quân, thủ thỉ:
- Mình cảm thông với cậu. Nhưng tình thế này không làm gì được đâu. Cậu là đảng viên, phải hi sinh thôi. Điều mình có thể khuyên cậu là hãy xa Phương Lan, đỡ khổ cho cả cậu và cô ấy. Cô ấy là một bác sĩ xuát sắc mới ra trường, còn trẻ lắm.
Quân ra về, đi bộ lang thang trên phố vắng. Trời đất bao la, đời rộng mở đã bị mạng lưới vô hình của anh em cô Mờ giăng kín. Anh không còn hi vọng tìm được tự do và hạnh phúc. Bao nhiêu ngày đêm dằn vật đau khổ, anh không biết nói cách nào với Phương Lan. Vì yêu anh, Phương Lan đã hiểu tất cả và biết phải làm gì. Cô ra đi trong chuyến tàu đêm cùng với đoàn quân bổ xung cho chiến trường chống Mĩ đang trong giai đoạn ác liệt nhất. Sân ga thời chiến tối và lạnh, hai bố con bác sĩ Quân đi tiễn Phương Lan. Họ đứng bên nhau, hiểu rằng không lời nào nói được lòng họ và hoàn cảnh họ lúc này. Khi tiếng còi tàu rúc lên giục giã, Phương Lan ôm chặt cu Thản, hôn tới tấp lên tóc, lên mặt thằng bé, rồi chạy vụt lên tàu. Từ trong cửa sổ toa tàu tối sẫm, cô nhoài ra đăm đăm nhìn hai bố con. Quân chạy đến nắm lấy bàn tay cô ấp lên mặt mình. Bàn tay bé nhỏ này lẽ ra có thể nâng đỡ cả cuộc đời cay đắng và nhọc nhằn của anh. Con tàu rùng mình. Phương Lan nói trong nức nở:
- Suốt đời em luôn hướng về anh. Vĩnh biệt anh.
Một ánh đèn pin loé lên, Quân thấy đôi má Phương Lan đầm đìa nước mắt. Tàu chạy xa dần vào bóng tối. Quân ôm con đứng chết lặng trên sân ga tối đen vắng ngắt. Anh vừa vĩnh viễn chia tay với tình yêu và hạnh phúc của đời mình.
Bà Đồ mất, rồi Thản vào đại học. Quân xin vào chiến trường phụ trách một trạm quân y tiền phương. ở đó, ông được biết Phương Lan đã hi sinh trong một trận máy bay B52 của giặc ném bom trúng trạm quân y của chị. Thế là hết, ông không còn gì để mất nữa. Ông dồn hết sinh lực cho công việc, không thương xót bản thân mình. Ông dành sự sống của ông cho đồng đội. Trong khi Vũ Quân đứng dưới hầm phòng không mổ và khâu vết thương cho bộ đội mỗi ngày mười lăm đến mười tám giờ, thì ở hậu phương, bà Thanh đi phát biểu ở các hội nghị về tính trung thực, lòng thuỷ chung, đức hi sinh và tình yêu cao cả của người phụ nữ. Bà luôn mang trong cặp những tờ báo và tạp chí đăng ảnh và những công trình khoa học của bác sĩ Vũ Quân. Giữa giờ giải lao các hội nghị, bà đưa báo giới thiệu người chồng đại tá mà bà vô cùng thương yêu, chính bà đã mò cua bắt ốc nuôi ông ăn học từ thuở hàn vi, rồi sau này luôn động viên, tạo điều kiện cho ông phấn đấu trở thành người nổi tiếng. Đường hoạn lộ của bà mở ra thênh thang. Tất nhiên không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái, nhưng bà thừa bản lĩnh và quyền lực xử lý trong mọi tình huống. Để giữ gìn uy tín cho lãnh đạo, bà đã hai lần phải dùng biện pháp cứng rắn về tổ chức đuổi việc và chuyển việc mấy người xì xào rằng bà mấy lần bí mật đi Hà Nội nạo thai. Có thế lực người anh, bà trở thành người có quyền lực, giàu sang và được nhiều người bợ đỡ, nể sợ.
Hết chiến tranh, đại tá Vũ Quân lần theo tấm sơ đồ, vượt rừng Trường Sơn tìm đến một nấm đất cạnh con suối cạn. Phương Lan nằm đây, mãi mãi ở tuổi hăm nhăm. Ông thắp một bó hương cắm trên nấm đất, nằm gối đầu lên đó nhìn mặt trời chói lọi trên cao. Phương Lan ơi, cuộc đời thật ngắn ngủi và mong manh, anh đâu ngờ chuyến tầu đêm ấy đã đưa em đi mãi mãi. Chính vì thế những ngày tháng hạnh phúc ta mang lại cho nhau thật to lớn, hiếm hoi. Vẫn biết con người không có cơ hội sống lần thứ hai, vậy mà cả trong chiến tranh và hoà bình, có những kẻ dễ dàng chà đạp lên nhân phẩm, cướp đoạt hạnh phúc của người khác một cách tàn khốc, chẳng để làm gì, cho ai. Ông đào hài cốt người yêu, mang xuống suối rửa sạch sẽ, gói cẩn thận trong tấm áo quân phục của mình . Ông đeo nắm xương người yêu trên vai, vượt Trường Sơn trở về tận quê nàng. Ông cùng gia đình và làng xóm làm lễ truy điệu và an táng cho Phương Lan. Đứng trước nấm đất trên cánh đồng lộng gió, ông thì thầm nói lời chia tay người yêu, chia tay với hai cuộc chiến tranh. Trở về, tóc ông đã bạc trắng. Ông xin nghỉ hưu về với con trai, cũng để giúp anh đi tiếp con đường khoa học của ông. ổn định xong cuộc sống nghỉ ngơi tuổi già, ông làm đơn xin ly hôn. Thật là một sự bùng nổ kinh khủng của dư luận. Phía nhà bà Thanh coi đây là hành đông khiêu khích chính trị nhằm xúc phạm đến thanh danh cao sang của họ. Hàng đoàn cán bộ các cấp hội phụ nữ kéo đến toà án để phản đối. Thư tay từ các cấp lãnh đạo tới tấp bay đến bàn chánh án. Việc ly hôn lập tức bị bác bỏ và lên án. Người ta nói rằng ông già muốn chơi trống bỏi, vì cái danh đại tá bác sĩ nổi tiếng, dù về hưu cũng còn nhiều gái trẻ theo. Ông chẳng thanh minh, giải thích. Với ông, tất cả chẳng còn ý nghĩa gì, khi Phương Lan đã thành người thiên cổ. Ông chỉ muốn rũ bỏ một sự ám ảnh ma quái luôn bám theo cuộc đời ông. Ông muốn mình chỉ là mình.
Bây giờ, ông đã toại nguyện. Ông vừa nghe xong bản quyết định ly hôn. " Cảm ơn", ông nói nhỏ và bàn tay khô gầy bần thần tìm tay người cán bộ toà án trên tấm chăn. Khi người khách đi ra, ông nói với bác sĩ Thản:
- Vĩnh biệt con. Năng cho các cháu về thăm mộ ông bà ở dưới quê. Những nấm đất im lặng ấy nhắc nhở các con nhiều điều. Cha mừng là con đã theo nghề cha, nghề có ích và lương thiện. Đừng buồn, giờ cha đi thanh thản...
Ông ngừng lời, căn phòng rơi vào tĩnh lặng hư ảo. Thấy môi ông mấp máy, bác sĩ Thản vội ghé tai nghe. Nhưng đại tá đã im lặng. Hai mắt ông nhắm lại, vĩnh viễn.
Đám tang của đại tá Vũ Quân rất trọng thể, nhưng vắng mặt người đàn bà định mệnh đã ám ảnh suốt cuộc đời ông.
Tháng 6- 1989
Người tình phố huyện
Buổi sáng, Hùng cai đánh xe đến quán café Morning gọi một ly đen nóng thật đặc. Nhìn vẻ ngoài nhàn tản và thư thái, ai biết trong lòng Hùng đang sôi lên vì uất ức. Đêm qua, sau một giấc ngủ dã rượu, Hùng thức dậy không chợp mắt được nữa. Cái tay Thuyên chủ tịch huyện định cướp không đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình đã ức, nhưng cảm giác bị lão dùng chức quyền hà hiếp, chèn ép còn ức hơn. Chiều qua chủ nhật, Hùng đánh xe xuống phố huyện, đỗ ngoài đường rồi xách túi quà vào nhà lão. Bà vợ ra mở cổng, đon đả nói: “ Mời chú vào chơi. Chú ở đâu nhỉ?”. Hùng cười thầm cái trò vờ vịt của bà vợ quan này. Đã hàng chục lần Hùng mang quà cáp, phong bì đến nhà, lúc giỗ tết, khi hiếu hỉ, có lần ông anh bà chị còn mời cơm tại nhà. ấy là đợt Hùng trúng thầu cái trụ sở uỷ ban. Tất nhiên đến nhà là mang tính thủ tục xã giao, còn công việc thì phải gặp riêng ông anh ở trụ sở. Nơi làm việc của ông anh là một thế giới riêng đủ tiện nghi, có phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng tắm, có két sắt bảo mật. Hùng đã quen với cách sống của các quan tỉnh, quan huyện thời nay. Phòng làm việc ở cơ quan của họ như tư dinh, thậm chí còn quan trọng hơn nhà riêng. Ngoài thời gian họp hành, tiếp khách, tiệc tùng, đi tham quan du lịch, họ thường ở cơ quan nhiều hơn ở nhà. Tìm họ cứ đến nơi ấy. Vậy mà mấy tuần nay Hùng không sao gặp được ông Thuyên. Gọi điện thì bảo anh đang họp, anh đang đi công tác, hoặc máy bận. Bây giờ Hùng đang bưng chén nước nguội tanh ngồi đối diện với bà vợ trong ngôi biệt thự vắng hoe. Bà vợ mặt bự son phấn, tươi cười bảo: “ Không biết anh đi đâu từ trưa ấy. Chắc là đi ô tô, vì xe máy còn nhà. Mà anh chú cũng quên đi xe máy từ lâu rồi. Hay ở cơ quan nhỉ?”. Hùng nói đã vào cơ quan nhưng không thấy. Bà vợ phàn nàn: “ Anh chú cứ như người ở trọ ấy chú ạ. Đi là đi, về lúc nào thì về, tôi như con ở trông nhà cho ông ấy,bực lắm. Thôi chú cứ về, có việc gì dặn lại chị sẽ nói với anh, rồi điện cho chú nhé!”. Hùng ra đường lúc trời đang mưa nặng hạt. Anh đánh xe gửi một nhà hàng rồi đi bộ đến quán nước trước cửa nhà ông Thuyên ngồi chờ. Hút hết ba điếu thuốc thì thấy cổng sắt mở, ông Thuyên che ô lững thững từ nhà đi ra. Hùng mua cái áo mưa trùm kín đầu đi theo. Đến trụ sở uỷ ban, đợi ông Thuyên lên gác mở cửa xong Hùng mới lên .Ông Thuyên cố dấu vẻ ngạc nhiên, tươi cười bảo:
- Ô Hùng đấy à? vào đây, vào đây. Ngồi đi, anh pha nước.
- Em vừa vào nhà anh, Hùng nói và nhìn ông Thuyên không chớp.
- Thế à? Anh cũng vừa đi về. Chị em có nói chuyện gì không?
- Có lẽ chị ấy không biết em tìm anh có việc gì chăng?
Ông Thuyên nhìn Hùng cười xoa dịu, thấy hơi chờn chợn vì thái độ của Hùng.Thằng em này đã lộ vẻ đầu gấu rồi đây. Ông nhẹ nhàng nói:
- Chú thông cảm, cái công trình ấy anh định dành phần chú, nhưng tập thể lại quyết cho công ty Sao Hôm mất rồi. Nó có thư tay trên tỉnh giới thiệu. Để anh bố trí cho chú chỗ khác sau vậy nhé. Anh em mình làm với nhau còn dài, chú cứ bình tĩnh.
Hùng thấy nóng mắt, muốn độp vào mặt ông ta, nhưng đủ khôn ngoan kìm lại.Tập thể với thư tay cái mẹ gì. Thằng Tạo đen biết mình lót tay cho lão một trăm triệu, liền dí trăm rưỡi, lão liền hất mình ra. Chuyện làm ăn thế là mình thua. Cũng là chuyện thường, vì mình từng thắng những thằng khác kiểu ấy, thậm chí thắng đậm hơn. Nhưng định dây dưa xơi không của mình chỗ ấy là không xong. Hùng nói nhẹ nhàng nhưng dứt khoát:
- Viêc không thành coi như em mất công đi lại, săng xe, cũng đành chịu. Nhưng em xin lại anh khoản dẫn việc đã gửi anh. Luật làm ăn anh hiểu hơn em, đừng để em đi lại nhiều nữa. Mà gặp anh bây giờ khó lăm. Sao anh lại tránh mặt em?
Ông Thuyên lấy giọng quyền thế:
- Thế chú không định làm cho huyện anh nữa à?
- Em là dân làm ăn, đâu có việc thì làm. Anh biết rồi đấy, làm xây dựng cơ bản thời buổi này, thằng làm ăn ít hơn thằng chơi mà vẫn phải vui vẻ. Vì thế phải sòng phẳng anh ạ.
Ông Thuyên hạ giọng:
- Chú nói thế mất tình nghĩa anh em. Tôi đâu có nói không trả lại chú, nhưng đợt này tôi hơi kẹt, để tôi thu xếp rồi gửi chú sau nhé.
- Anh thì thiếu gì tiền, Hùng nói. Có điều là anh muốn trả không thôi. Anh có nhớ vì việc này em đã phải gặp anh mấy lần rồi không?
Ông Thuyên ngồi im, vẻ mặt đanh lại. Hồi lâu ông nói giọng lạnh nhạt:
- Thôi được, chú cứ về, tôi thu xếp xong sẽ điện cho chú. Nhớ là anh em mình còn làm với nhau đấy.
Ông đứng dậy chìa tay cho Hùng.
Trên đường về, Hùng tạt vào một nhà hàng, điện cho mấy thằng bạn đến uống rượu giải sầu. Hùng biết, với ông Thuyên, mình rơi vào thế thả lợn đi đuổi rồi. Qua tìm hiểu Hùng biết mấy thằng đã bị mất với ông ta kiểu này, nhưng không mất nhiều bằng mình. Dù ít hay nhiều, chúng nó chịu chứ mình không nuốt trôi được cái hận này. Phải có cách mổ mèo lấy cá như các cụ dậy mới được. Thế là sáng nay Hùng đánh xe đi rửa sạch bóng, rồi về quán café này ngồi đợi.
Đúng như Hùng dự tính, hút tàn điếu thuốc đã thấy một phụ nữ khá xinh đẹp yểu điệu bước vào quán. Thiếu phụ chừng ba nhăm tuổi mặc bộ váy hoa màu tím, mái tóc dầy buông ngang vai, trang điểm hơi gắt. Hùng đã cố ý chọn chỗ ngồi, nên vừa vào quán thiếu phụ đã nhận ra anh ngay. Hùng khẽ cười vẫy tay chào. Thiếu phụ reo lên vui vẻ:
- Ôi anh Cai! Nay gặp may rồi. Anh bao bọn em nhé!
- OK, vô tư đi. Em dùng gì?
Thiếu phụ ngồi sát cạnh Hùng, sực nức mùi nước hoa nội địa, giọng nũng nịu:
- Em đợi đủ bọn em đã.
- Bọn em là những ai?
- Anh không biết thật à? Đội em có bốn đứa, sáng nào chả ngồi đây. Chúng nó sắp đến ngay bây giờ, em vừa điện rồi.
Hùng hỏi chơi thế, chứ anh còn lạ gì nhóm gái nạ dòng có tiếng này. Họ là những phụ nữ có nhan sắc, sống tự do, được mệnh danh là đội săn bắt sếp. Chiều chiều họ mặc quần sóoc trắng, áo phông chẽn, đeo vợt cầu lông đến những sân cầu VIP giao lưu với các sếp, sau đó là bia bọt, hát caraoké. Không biết họ làm gì mà người nào cũng đi xe máy tay ga đắt tiền, ăn mặc sang trọng, nói toàn giọng trên tiền. Điều ai cũng biết là họ quen biết rất rộng, cửa nào họ cũng vào được. Nhiều người trong đám công chức còn nhờ vả họ những chuyện kín đáo chỉ có họ với Trời biết. Người phụ nữ đang ngồi cạnh Hùng đây tên cha sinh mẹ đẻ đặt là Cốm, giờ trong danh thiếp là Lệ Diễm, cử nhân quản trị kinh doanh. Hùng biết thế vì họ vốn cùng quê. Cốm học hết cấp hai rồi bỏ học lấy chồng, chồng xin cho làm tạp vụ ở cơ quan. Hùng đi làm ăn mươi năm về gặp lại thì Cốm đã bỏ chồng và trở thành Lệ Diễm. Diễm cũng không lạ gì Hùng. Học hành phọt phẹt, theo một cai xây dựng lên Lào Cai làm đường, đánh quả chạy mánh được món kha khá, tính bài ăn non, lặn một hơi mất tăm. Về quê nằm im nửa năm, rồi lên thành phố mua nhà, mở công ty, mấy năm nay phất lên trông thấy. Hồi Hùng mới về đã có chuyện tình tang giữa hai người, nhưng cũng nhanh chóng giải tán ai đi đường nấy. Vì vậy đêm qua Hùng đã nhớ đến Diễm và sáng nay ngồi chờ nàng ở đây. Hùng nắm bàn tay Diễm đang đặt trên bàn, ghé sát mặt nàng nói nhỏ: “ Dạo này em còn đẹp hơn hồi con gái”. Diễm hất tay Hùng ngấm nguẩy: “ thôi thôi, đừng ca cải lương nữa. lắm tiền, có xe, anh thiếu gì gái tơ mà còn giở giọng ấy với nhau”. Hùng đang định nói thì ba cô bạn Diễm xuất hiện trước cửa. Họ vui vẻ ào vào, nói cười ríu rít, làm vẻ trẻ trung như các nữ sinh. Họ trạc tuổi Diễm, cũng xinh đẹp và dạn dĩ, cũng ăn diện và son phấn loè loẹt. Diễm giới thiệu mọi người. Một cô nói: “ Khỏi, ai chả biết anh cai Hùng”. Một cô chỉ cái ô tô ngoài cửa hỏi: “ Anh Hùng mới lấy con này đấy à? Mấy chục nghìn hở anh?”. Hùng trả lời cho qua chuyện. Thế là các cô nhao nhao bàn về chuyện đắt, rẻ của chiếc xe. Hùng không ngờ các cô lại rành về ô tô đến thế. Các cô nói vanh vách về từng loại xe cao cấp, loại nào mới ra, giá mấy chục nghìn đô, ở thành phố này ai mới mua xe, ai có xe xịn nhất. Hùng cũng biết các cô đang rủ nhau đi học lái xe và có người hứa tài trợ kinh phí cho việc ấy. Rồi chuyện các tua du lịch trong nước, ngoài nước. Các cô rành rẽ như chính mình đã tham gia những chuyến đi thú vị ấy. Chẳng lẽ hàng ngày ngồi dông dài với nhau các cô toàn nói chuyện thế này sao? Hùng liếc đồng hồ , đã hơn chín giờ sáng. Sốt ruột quá. Hùng mở máy di động nhắn vào máy của Diễm: đi chơi với anh nhé! Một lát, Diễm kín đáo mở điện thoại và nhắn lại: Đi đâu? Hùng: Đi như hồi trước ấy. Diễm dấu điện thoại dưới gầm bàn, đọc xong khẽ lắc đầu, nhắn lại: Em thèm vào.Anh là đồ cứt sắt. Một cô hỏi Diễm: “ Bồ gọi à?”. Diễm cười: “ Không, có tí việc ấy mà”. Các cô nháy nhau vẻ không tin. Một cô reo lên: “ hay là hai người đang nhắn cho nhau ? Này, ăn mảnh là không xong với bọn này đâu nhé”. Hùng từ tốn: “xin lỗi các em, anh có đối tác đợi”. Hùng lại nhắn cho Diễm: Anh muốn bàn một việc làm ăn quan trọng. Diễm đọc tin xong không nói gì. Hùng gọi thanh toán rồi bắt tay các cô và nói: “ Anh xin lỗi vì có việc. Hôm nào anh đền cả nhóm một chuyến đi chơi miễn phí nhé”. Nét mặt các cô đều tươi hẳn. Một cô nói: “ Chấp nhận lời xin lỗi. Nhớ lời hứa nhé, anh cai”. Diễm nói với các bạn: “ các ấy đi nhé, đây phải đi có việc, chiều về báo cáo kết quả”. Cả bọn ồn ào đi ra. Diễm lấy gương ra soi, nấn ná ngồi lại. Hùng nói khẽ với Diễm: “ Em gửi xe máy ở nhà hàng. Anh đợi ngoài xe nhé”.
Hùng đánh xe đưa Diễm qua khu đô thị sầm uất ra phía ngoại ô, qua một khu đô thị mới, rẽ vào risort Biển Vàng mới khai trương. Nhân viên phục vụ đưa hai người lên lầu của một trong những biệt thự xinh đẹp, mở cửa phòng rồi cúi chào lui ra. Từ lúc lên xe, Diễm không nói không hỏi gì, để mặc Hùng dẫn dắt. Đợi Hùng khoá cửa phòng xong, Diễm áp sát người, nhìn vào mắt Hùng hỏi:
- Có việc thật hay anh chỉ muốn ngủ với em thôi?
Hùng ôm Diễm, hôn môi cô thật dài. Hùng cảm thấy cơ thể Diễm khẽ rung động. Chả lẽ một người dạn dĩ với đàn ông như Diễm vẫn còn rung động được sao? Hay cô vẫn còn tình cảm với mình? Hùng bế bổng Diễm lên, nói khẽ vào tai cô:
- Cả hai, em ạ.
Diễm nhắm mắt, mặc cho Hùng bế lên giường, cuồng nhiệt hôn khắp người cô. Đang lúc Hùng cao hứng thì Diễm như bừng tỉnh. Cô mở choàng mắt, đẩy Hùng ra và nói ráo hoảnh:
-Khoan đã, có việc gì anh nói đi đã.
Hùng cụt hứng, nhìn Diễm ngỡ ngàng, nằm lăn ra giường. Hai người im lặng nằm cạnh nhau hồi lâu. Diễm quay lại ôm Hùng thì thào: “ Em làm anh giận phải không”. Hùng nhỏm dậy, cúi nhìn Diễm đang nằm ngửa, váy áo mở tung. Một lát, Hùng nói lạnh lung: “ Thôi, ta về đi”. Hùng toan bước xuống giường. Diễm choàng dậy ôm cổ Hùng níu lại: “ Anh đừng đi. Tha lỗi cho em. Em sẽ không hỏi gì nữa...”. Mặt Hùng dịu bớt vẻ bực bội, anh nói tỉnh khô:
-Thôi được, anh nói luôn. Anh muốn nhờ em đi với anh mấy tiếng đồng hồ, xong việc em sẽ có mười triệu, trả ngay.
Diễm ôm cổ Hùng kéo xuống giường, thì thầm: “ Để nói sau, anh!”. Cô hôn Hùng, áp chặt thân thể nóng hổi vào người anh. Hùng bị cụt hứng vẫn chưa hết tức giận, nằm trơ như đá. Diễm từ từ cởi quần áo Hùng, rồi tự cởi váy áo ném xuống sàn. Bàn tay và đôi môi Diễm mơn man khắp thân thể Hùng. Hơi thở của Diễm mỗi lúc thêm gấp gáp, điên dại phả lên người Hùng. Một lúc sau, bị kích thích mãnh liệt không chịu nổi, Hùng bật dậy, ôm chặt Diễm đè xuống đệm. Hùng làm tình như điên như say trong tiếng kêu hoan lạc của Diễm. Rồi họ nằm bên nhau thở hổn hển, lịm đi vì mệt hay vì thoả mãn. Lúc lâu sau, Diễm nhỏm dậy ra bàn rót một cốc nước mang cho Hùng. Họ trần truồng ôm nhau ngồi trên giường. Diễm thủ thỉ: “ Anh làm em thấy hạnh phúc lắm, thật đấy”. Hùng cười: “ Thôi mà! Anh không tin đâu. Em đã đi với bao nhiêu sếp rôi?”. Diễm nói:
- Đi thì nhiều, vì việc phải thế, nhưng sờ được vào em không dễ đâu. Anh là tình cũ của em, nó khác.
- Em ngủ với lão Thuyên chủ tịch huyện rồi phải không? Hùng hỏi.
- Anh quan tâm đến chuyện ấy làm gi? Anh ghen à?
- Phải, anh ghen, nhưng không quan trọng bằng việc anh sắp bàn với em.Anh muốn biết hai người sâu sắc đến đâu.
Diễm suy nghĩ một lát rồi thành thật:
- Đúng là em có ngủ với ông ta bốn năm lần gì đó. Hồi ấy em làm cò chạy biên chế cho mấy trường hợp, cũng kiếm dược vài chục triệu. Nhưng lâu nay không gặp lại.
- Tốt, Hùng nói. Việc chắc chăn thành công rồi.
- Nghĩa là sao?
Hùng giải thích:
- Em sẽ là vợ anh, cùng anh đi đòi tiền lão ấy. Phần em mười phần trăm, mười triệu đấy.
Diễm đắn đo:
- Không được. Lão biết em đã bỏ chồng lâu rồi.
- Thì em với anh mới lấy nhau chứ sao, Hùng nói. Thời nay lấy nhau, bỏ nhau xoành xoạch, có gì lạ?
Diễm cười khanh khách:
- Có lý! Nhưng xong vụ này em hết đường làm ăn với lão. Anh phải đền bù em, tăng cho em hai mươi phần trăm.
Hùng gườm mắt nhìn Diễm:
- Em tham lắm. Thôi được, lọt sàng xuống nia, còn hơn để lão ăn không. Bây giờ em gọi cho lão hen gặp đi. Anh gọi lão không nghe đâu.
Diễm mở điện thoại gọi: “ A lố, anh à! Em đây. Anh vẫn phong độ chứ? Em buồn lắm, em muốn gặp anh được không ạ? Dạ, em nhớ rồi ạ. Vâng cuối giờ chiều anh nhé. bai anh”. Diễm hôn chút vào điện thoại và vui vẻ nói:
- Xong. Nhưng chừng ấy tiền sợ lão không có sẵn.
- Cuối năm lão thiếu gì, Hùng nói. Đang mùa thu hoạch của các quan mà.
Hùng bế bổng Diễm đặt xuống đệm, nằm đè lên: “ Liên hoan trước nào”. Họ lại làm tình thật lâu. Lúc cài khoá váy cho Diễm, Hùng hỏi:
- Em học bao giờ mà đã là cử nhân quản trị kinh doanh rồi?
Diễm cười khúc khích:
- Em mới tốt nghiệp. Anh cũng học đi, em giúp. Làm giám đốc như anh có cái bằng đại học đi giao dịch có thế hơn nhiều.
- Anh bận làm ăn, thời gian đâu mà học. Với lại anh chưa có bằng phổ thông.
- Chuyện nhỏ như con thỏ, Diễm nói. Em lo cho. Kể cả đại học, đầu vào đầu ra em lo được hết. Anh không đến lớp được thì nhờ ai đến điểm danh hộ. Thầy giáo đều ở các nơi về dậy thuê, cầm tiền đút túi rồi phắn, có biết ai vào ai đâu.
- Em cũng học thế à?
- Vâng. Mấy đứa bạn em cũng thế. Chúng nó cũng xong cả rồi. Bài tốt nghiệp chi năm triệu, bài kiểm tra một triệu, nhàn lắm. Cái Lý bạn em anh gặp lúc sáng ấy, cũng học như em, rồi được một sếp giám đốc sở bao cho làm thạc sĩ hệ đào tạo từ xa của Sinh, sắp đi lĩnh bằng rồi đấy.
- Hay nhỉ. Thế không biết tiếng Anh thì học làm sao?
- Cần gì phải biết. Bài vở thuê hết ấy mà.
- Có bằng cấp thế sao bọn em không xin vào cơ quan làm cán bộ?
Diễm cười to:
- Có mà làm ma! Biết gì mà làm? Có cái bằng, lấy cái danh để đi với các sếp cho nó sang ấy mà. Các sếp lại thích thế cơ.
Hùng bảo:
- Anh chỉ cần cái bằng lòng là đủ. Em không biết, chứ kiếm được đồng tiền nhục hơn con chó mà vẫn phải cắn răng tươi cười, đãi đoạ thằng này thằng nọ. Sếp đã ăn phần trăm rồi vẫn để cửa cho quân gia hành mình. Phong bì rải từ trên xuống dưới, hết lần này lần khác mới xong. Lại còn bị ăn chặn nữa chứ. Chỉ bọn em là sướng, dùng cái vốn tự có tay không bắt giặc, lại được ăn được chơi.
- Tưởng mỡ đấy mà húp, Diễm nói. Nhờ vả người ta được một tí nhục lắm anh ơi. Bọn dê già cáo lắm, chẳng cho không ai cái gì đâu. Anh trông mấy đứa bạn em hào nhoáng thế, chứ chỉ có cái mẽ thôi, toàn một lũ kiết, chồng con thì dang dở. Thế mà ngồi đâu cũng nói chuyện xe hơi nhà lầu mới khổ.
- Sao em lại nói hết với anh, không sợ lộ bài à?
- Như em thì có gì mất mà phải sợ.Nhưng thôi, kệ đời. Em đói rồi, mình đi ăn chứ?
- Để anh gọi đồ ăn lên đây, ăn rồi nghỉ luôn đến chiều nhé.
Diễm lườm Hùng: “ Anh tham thế? OK”.
Sau những cuộc làm tình và một giấc ngủ no mắt, chiều hôm đó Hùng lái xe đưa Diễm xuống phố huyện. Đã hết giờ làm việc, trụ sở uỷ ban huyện vắng ngắt. Có tiếng reo hò ở sân cầu lông phía sau. Hùng để xe vào một góc kín đáo rồi dắt tay Diễm lên cầu thang, tiến thẳng đến khu phòng đầu hồi. Diễm cào cào vào cửa, lấy giọng nũng nịu gọi: “ Anh ơi!”. Cánh cửa lập tức mở hé, ông Thuyên tươi cười: “ Vào đi em”. Chợt thấy Hùng đứng sau, ông nghiêm giọng: “ Anh đã bảo chú đợi tuần sau kia mà. Anh dang có khách”. Diễm bước vào mở rộng cửa và nói:
-Anh, đây là nhà em. Chúng em xuống thăm anh...
Ông Thuyên như chết đứng, không cất được lời. Một lát, ông trấn tĩnh hỏi bâng quơ:
- Thế ra hai người là...Lâu chưa?
- Thế anh không biết chúng em lấy nhau à, Diễm cười. Vậy anh có tiếp bọn em không?
- Ây chết, mời các em vào, ông Thuyên vội nói.
Ba người ngồi sa lông phòng khách nhìn nhau. Diễm xăng xái pha trà, Hùng im lặng mặt lạnh tanh, ông Thuyên cố giữ vẻ quyền uy nhưng không dấu được nét bẽ bàng. Diễm vào chuyện:
- Anh ạ, hôm nay vợ chồng em xuống là muốn xin lại anh chỗ kinh phí chạy việc mà nhà em đã thưa chuyện với anh . Với anh thì chẳng là gì nhưng với chúng em nó là mồ hôi nước mắt, là to lắm. Mong anh vì tình mghĩa sâu nặng...Là em nói giữa anh với nhà em, anh giúp chúng em...
Diễm làm vẻ lỡ lời, đầu cúi gằm, hai tay vặn vẹo. Hùng vằn mắt hầm hầm nhìn Diễm, rồi nhìn nhanh ông Thuyên. Ông Thuyên nói nhỏ:
- Thế mà các em không nói từ sáng để anh chuẩn bị.
Diễm nhẹ nhàng:
- Nếu anh chưa có sẵn thì tối nay chúng em ngủ lại chờ đến mai vậy.
Hùng hầm hừ:
- Mong anh hiểu cho, em là dân giang hồ, không thể chịu được hai thứ lừa. Một là lừa tình, hai là lừa tiền.
Hùng nói rồi lại vằn mắt nhìn Diễm đầy ngụ ý. Ông Thuyên cười nhat:
- Chú nặng lời quá. Anh đã bảo chuyện đâu có đó, làm gì đến nỗi cạn tàu ráo máng với nhau. Bây giờ thế này nhé, để anh gọi văn phòng đặt nhà hàng, anh chiêu đãi cô chú tối nay.
- Thôi xin phép anh, chúng em về còn có chuyện, Hùng nói.
Diễm ngẩng nhìn Hùng vẻ sợ hãi. Hùng châm thuốc hút, lạnh lùng đứng dậy đi đi lại lại. Ông Thuyên nghĩ thầm: “ Sao thằng này hôm nay trở mặt dữ dằn thế nhỉ? Hay con kia nói gì với nó rồi? Không khéo cái xẩy nẩy cái ung thì rắc rối to...”. Lòng như lửa đốt, ông bật đèn đi vào nhà trong. Có tiếng lục đục. Lúc sau ông mang ra một gói giấy báo đặt lên bàn, nói:
- Đây, anh vay tạm tiền của huyện cho đủ. Cô chú cầm đi.
Diễm cầm gói tiền bỏ vào túi xách: “ Cảm ơn anh nhiều”. Ông Thuyên nói vớt:
- Ăn tối rồi hãy về.
Hùng nắm cánh tay Diễm kéo mạnh:
- Thôi, cảm ơn anh. Ta về nào.
Hùng lôi Diễm ra hành lang, bước nhanh xuống cầu thang. Xe chạy khỏi cổng uỷ ban, Hùng phá lên cười:
- Em làm người vợ tội lỗi giỏi thật.
Hai người cười ngả nghiêng, Diễm ghé môi hôn Hùng: “ Anh cũng quá hay”. Chợt Diễm kêu: “ Dừng, anh đậu xe vào gốc cây chờ em một lúc, em gặp lại ông Thuyên tí đã”. Hùng hỏi: “ Còn chuyện gì? Vào không sợ lão đè ra à?”. Diễm vênh váo: “ Có các vàng!”. Diễm nhảy xuống xe, chạy nhanh lên phòng ông Thuyên, đập cửa rầm rầm. Ông Thuyên vừa mở cửa, Diễm lao vào ôm chầm lấy ông, nức nở. Ông Thuyên dìu Diễm ngồi xuống ghế, lo lắng hỏi: “ Có chuyện gì thế, sao chưa về?”. Diễm thút thít:
- Anh ấy đuổi em xuống xe. Anh ấy bảo tôi nhìn thấy hết rồi, cô ngủ với lão ấy nhiều lần rồi phải không?
- Thế em nói sao? Ông Thuyên khẽ hỏi.
- Thì em còn biết nói sao bây giờ. Anh ấy nói sẽ giết em...
Diễm bưng mặt khóc thành tiếng. Ông Thuyên hỏi: “ Thế em nhận à?”. Diễm vừa khóc vừa gật gật. Ông Thuyên khẽ kêu: “ Chết tôi rồi”. Mồ hôi ướt đầm mặt và tóc ông chủ tịch huyện. Ông hoảng sợ thật sự. Chuyện này mà vỡ lở thì... Ông không dám nghĩ tiếp nữa. Diễm nghẹn ngào:
- Bây giờ anh gọi lái xe đưa em về, hay cho em ngủ lại đây tuỳ anh.
Ông Thuyên hé cửa nhìn ra. Trời đã nhá nhem, hành lang dài hun hút. Điều đáng sợ nhất lúc này là có ai đến xin ý kiến về việc gì đó. Chỉ còn một nước nữa thôi. Ông mở két sắt, lấy một cục tiền không đếm, gói giấy báo cẩn thận mang ra đưa cho Diễm và dỗ dành:
- Em cầm ít tiền để mua sắm, đi chơi đâu thời gian. Cố dàn hoà cho mọi chuyện nguôi ngoai đi. Nói là chuyện cũ lâu rồi. Để tới đây anh bố trí cho chú ấy thi công một công trình kha khá . Ngoan nào. Gọi xe tắc- xi về cẩn thận nhé.
Diễm vừa ra khỏi, ông vội đóng chặt cửa. Diễm nhẩy lên xe mắt còn đỏ hoe. Hùng hỏi: “ Khóc à?”. Diễm cười khanh khách giơ gói tiền ra khoe. Vừa kể lại chuyện, Diễm vừa đếm tiền và reo lên:
- Hai chục có dư, hơn cả của anh! Hôm nay làm vợ anh thắng đậm rồi. Hay chúng mình lấy nhau thật đi anh!
- Em điên à? Hùng vừa cho xe chạy vừa nói.
Diễm cười toe toét:
-Em không đòi anh bỏ vợ đâu. Chỉ cần như hôm nay thôi.
Hùng ngẫm nghĩ và bình luận:
- Hôm nay anh mới biết tài của em, thật là xuất sắc. Ông chủ tịch thua rồi.
Diễm nhận xét:
- Ông ấy chỉ giỏi mưu mô ở chốn quan trường thôi. Vớ phải trò giang hồ của chúng mình, ông ấy thua là cái chắc. Em đùa đấy, em thèm vào lấy anh. Em với anh lấy nhau có mà tan nát.
Hùng lên giọng anh chị:
- Đúng đấy, làm người tình thì được. Hôm nay em đã làm người tình phố huyện tuyệt vời của anh. Vì ông ấy buộc chúng ta phải làm thế, chứ anh cũng chẳng muốn thế. Thôi, không nói chuyện ấy nữa.Bây giờ anh đưa em về hay đến chỗ sáng nay nào?
Diễm đáp gọn:
- Tuỳ anh.
4-2009
Tổ chim
Tôi được một nghệ sĩ nhiếp ảnh tặng cây thiết thanh lan trồng trong chậu sứ to loại quý. Cây có tán lá xanh mướt, dáng đẹp, là công lao chăm sóc, xén tỉa hàng chục năm của nghệ sĩ. Hôm tôi chuyển cơ quan đến trụ sở mới, ông thuê xe chở đến đặt cạnh cửa sổ phòng làm việc của tôi, bảo thiết thanh lan không thuộc nhóm cây quý, nhưng nó có sức sống mãnh liệt, xanh tốt quanh năm, mà rất kén môi trường. Nơi nào phong thuỷ không tốt, cây sẽ cằn cỗi, thậm chí khô héo dần. Có lẽ ông tặng tôi chậu cây mà ông quý cũng để xem môi trường làm việc mới của tôi có tốt không. Ngay mùa đông năm ấy, cây đã trổ liền năm bông hoa, mỗi bông dài khoảng ba mươi phân, từ chiều tối hoa toả hương thơm ngát đến sáng hôm sau. Mùi hoa man mác giống mùi Dạ lan hương, hoa Quỳnh, nhưng nồng nàn hơn, có men say như mùi hoa sữa tẩm sươngThu. Có chút gì chung giữa các loài hoa toả hương về ban đêm ấy. Loại hoa này có sức bền hiếm thấy. Gần nửa mùa Đông phòng tôi luôn ngan ngát hương hoa.
Mùa hè, một đôi chim khuyên bay về dập dờn lượn ngoài cửa sổ. Thấy tôi ngồi làm việc bình thường, đôi chim xà vào đậu trên cây thiết thanh lan, vừa kêu ríu rít vừa luồn lách trong vòm lá. Mấy ngày sau chúng cứ bay ra bay vào vẻ rất bận mải. Chúng đang tha rác làm tổ. Tôi thật sự ngạc nhiên và hồi hộp vì điều bất ngờ đó. Tôi chờ đợi từng ngày kết quả làm việc của đôi chim. Khi có khách, chúng tôi nói chuyện nho nhỏ, đi lại rón rén. Tôi dặn chị công vụ dọn phòng và tưới cây lúc tôi đi vắng phải thận trọng, đừng làm kinh động để chim sợ. Những ngày ấy, điều tôi lo nhất là đôi chim bỏ đi mất. Tôi kín đáo theo dõi việc xây tổ của chúng. Chúng kỳ công lựa chọn những gân lá, những cộng rơm mảnh như tơ như chỉ và khéo léo đan thành cái tổ màu vàng nho nhỏ. Không biết bao nhiêu chuyến đi về, bao nhiêu công sức đan kết của đôi chim, rồi cái tổ xinh xắn cũng hoàn thành. Chúng nhẩy nhót và hót ríu ran trên cây vẻ vui lắm. Tôi nhìn cái tổ chim óng mượt như cái kén lớn thấp thoáng trong vòm lá, lòng dạt dào một niềm vui mới lạ. Tuổi thơ, tôi đã trèo bắt tổ chim trên mái đình, trên cây đa, cây muỗm của làng, đã suốt ngày phơi nắng ngoài đồng bắt cào cào, châu chấu nuôi chim non, biết thói quen, tính nết của khá nhiều loại chim, nhưng chưa bao giờ thấy chim làm tổ trên cây cảnh trong nhà. Mà lại là chim vành khuyên, làm tổ trong phòng làm việc của chính mình. Rồi một buổi sáng ngồi uống café trong phòng làm việc, nhân lúc đôi chim bay ra ngoài, tôi vạch lá nhìn vào tổ chim, thấy một quả trứng nhỏ trắng ngà. Tôi rất muốn cầm lên xem, nhưng biết rằng nếu chạm tay vào, có hơi lạ chim có thể bỏ đi mất. Mấy hôm sau chim mái đẻ thêm một trứng nữa và bắt đầu ấp trứng. Thời kỳ này chỉ một mình chim trống bay đi bay về. Không biết con chim mái ăn uống vào lúc nào, mà suốt ngày nó nằm trong tổ. Mùa hè năm ấy nóng kinh khủng, nhưng tôi không thể bật máy điều hoà không khí, vì phải mở cửa sổ cho chim ra vào. Cuộc ấp trứng gian khổ của chim mái rồi cũng viên mãn. Một buổi sáng tôi thấy chim mái bay ra khỏi tổ, cất tiếng ríu rít cùng chim trống. Khi chim bố mẹ bay đi, tôi nhìn vào tổ thấy đôi chim non nhỏ bé chưa mở mắt nằm rúc vào nhau. Từ hôm ấy bắt đầu thời kỳ nuôi con của đôi chim. Chúng đi về như mắc cửi tha mồi cho con. Hai con chim con lớn rất nhanh, ăn rất nhiều. Mỗi lần chim bố hoặc chim mẹ tha mồi về, chúng kêu rối rít và tranh nhau vươn cổ, há miệng chờ được mớm. Đôi chim bố mẹ hầu như không nghỉ, liên tục đi kiếm mồi cho con từ sáng sớm đến tối mịt. Hai con chim con lớn một chút đã chật tổ, không còn chỗ cho chim bố mẹ nữa. Tôi không biết chim bố mẹ nghỉ ngơi vào lúc nào và ban đêm chúng ngủ ở đâu, vì ban ngày tôi làm việc trong phòng chỉ thấy chúng bay đi bay về, còn ban đêm tôi về nhà. Có lẽ chúng nằm trong tán lá. Người ta thường nghĩ loài chim là sướng nhất, được tự do bay lượn, ca hát giữa trời xanh và hoa lá, nhưng ít ai quan tâm hoặc chứng kiến tận mắt chim ấp trứng và nuôi con gian khổ thế nào. Tôi may mắn được thấy cảnh đó và nhìn đôi chim nhỏ lớn lên từng ngày. Rồi một ngày đầu thu, tôi đang ngồi làm việc chợt nghe tiếng chim ríu rít đầy hân hoan trong phòng khách. Tôi bước ra, thấy đôi chim nhỏ đã rời khỏi tổ, vừa kêu ríu ran vừa nhẩy nhót trên cây thiết thanh lan. Chim bố mẹ vừa hót vừa bay quanh chim con. Như một nghi lễ mừng chim con đã trưởng thành. Rồi chim bố mẹ dẫn hai con ra vườn sau. Qua cửa sổ, tôi thấy đôi chim non bay chuyền từ cây này sang cây khác. Những đường bay tập đầu đời để đưa chim về với trời xanh mây trắng. Chim bố mẹ bay lượn cùng chim non, vừa như dẫn dụ, vừa như khích lệ và chờ đợi. Trời nhá nhem tối, chim bố mẹ mới dẫn con về tổ. Theo cách nói dân gian, đó là thời kỳ chim ra ràng. Sau khoảng một tuần bay tập, đôi chim non đã trở nên thành thục, chúng bắt đầu bay theo bố mẹ đi kiếm mồi. Một buổi sáng chúng cùng nhau bay đi, tôi chờ đến tối mới khoá cửa về nhà, cửa sổ vẫn để mở cho chim nhưng không thấy chúng trở về. Những ngày sau tôi tiếp tục chờ đợi, nhưng không thấy chim về nữa. Thì ra mùa hè chim cần nơi an toàn để ấp trứng sinh con và nuôi con, rồi chúng cùng nhau về với trời cao rừng thẳm. Lúc chúng đi, gió heo may man mác thổi qua cửa sổ. Mùa thu đã về.
Mùa hè năm sau, tôi vẫn để mở cửa sổ có ý mong chờ. Quả nhiên không phụ lòng tôi, đôi chim trống mái đã trở về. Nhưng chúng không ở tổ cũ như tôi tưởng, mà tha rác làm tổ mới, mặc dù tổ cũ của chúng tôi vẫn giữ gìn không xây xước gì. Lần này chúng không bay lượn thăm dò như năm trước, mà chúng bắt đầu làm tổ từ hôm đầu tiên, ra vào tự nhiên như về nhà của mình. Mọi việc vẫn diễn ra theo quy trình năm ngoái. Phòng khách của tôi vẫn không bật điều hoà không khí, cửa sổ vẫn mở suốt ngày đêm. Khi tổ mới xây xong, chim mái bắt đầu đẻ và ấp trứng. Nhiều người biết chuyện chim làm tổ ở phòng tôi từ năm ngoái đến năm nay lấy làm lạ và rất tò mò thích thú. Họ đến chơi, muốn xem tận mắt việc chim ấp trứng, nuôi con, nhưng tôi từ chối và cấm ngặt không cho ai đến gần cây thiết thanh lan. Tôi còn dặn chị công vụ khi tôi đi vắng không được cho ai vào phòng, kể cả người cơ quan. Tôi phải canh giữ cho đôi chim để chúng được bình an sinh con đẻ cái. Thời gian chim mái ấp trứng, tôi ít tiếp khách ở phòng ngoài. Tôi dặn chị công vụ vài ngày tưới cây một lần, mà tưới vào buổi tối, thật nhẹ nhàng không làm chim hoảng sợ. Việc chuẩn bị cho một lứa chim mới ra đời của tôi là rất cẩn trọng, không một sai sót gì.
Rồi cuộc ấp trứng nhọc nhằn của chim mái cũng kết thúc. Một hôm nó rời tổ bay ra cửa sổ, đứng đập cánh hót một hồi dài. Lại bắt đầu việc kiếm mồi nuôi con của đôi chim. Vì đã quen cảnh đó từ năm ngoái nên tôi không chú ý nhiều đến chúng. Chúng vẫn đi về như con thoi mà dường như chưa thoả mãn đàn chim con háu ăn. Tiếng kêu đòi mồi của chim con mỗi khi chim bố mẹ bay về có vẻ gấp gáp và đói khát lắm. Một hôm tôi bỗng chú ý tiếng kêu của chim con trong tổ. Đó là thứ âm thanh trầm trầm đùng đục chứ không mảnh mai trong vắt như tiếng chim non. Đợi chim bố mẹ bay đi, tôi quyết định vạch lá nhìn vào tổ xem sao. Cảnh tượng trong cái tổ chim nho nhỏ làm tôi giật mình . Không phải đôi chim non nhỏ xinh như năm ngoái, mà trong tổ chỉ có độc một con, tuy còn non nhưng đã nằm chật tổ. Thấy động, chú chim vươn cái cổ dài, há cái miệng to tướng ra, cất tiếng kêu khàn khàn rất lạ. Lông chú chim màu hung chứ không xanh nhạt như chim bố mẹ, đôi mắt nhìn từ trong bóng tối vòm lá đỏ như lửa. Tôi thật sự kinh ngạc không hiểu điều gì đã xảy ra. Chim bố mẹ vẫn hối hả đi về tha mồi cho chim con. Nhưng con chim to gần gấp đôi bố mẹ như vậy thì sức đâu kiếm đủ mồi cho nó? Mà sao hai quả trứng lại chỉ có một con chim to như vậy? Tôi điện cho nhà nhiếp ảnh đã tặng tôi cây thiết thanh lan, kể cho ông nghe về chuyện tổ chim. Ông bảo tôi đừng làm kinh động, đợi ông tới cùng xem. Vào đến cửa, ông bắt tay tôi tươi cười bảo:
- Tôi nghĩ anh đang được chứng kiến chuyện hiếm có trên đời đấy.
Ông mở túi lấy máy ảnh, chuẩn bị đèn cẩn thận rồi cùng tôi đến bên chậu cây xem tổ chim. Ông nhờ tôi vạch lá, ông giương máy ảnh lên chụp chú chim non. Nhưng đúng lúc ấy, trong vòm lá nghe tiếng " xoạch", con chim non bay vọt ra, đậu trên thành cửa sổ một lát, rồi đáp xuống vườn cây, cất tiếng kêu khàn trầm. Con chim có lông mầu hung lửa, đầu to, chân to, dáng rất khoẻ. Tôi nhìn cái tổ chim rách làm đôi do sức mạnh thoát ra của con chim, ngán ngẩm hỏi nghệ sĩ nhiếp ảnh:
- Thế này là sao?
Ông chĩa máy ra vườn, chụp được một kiểu con chim đang đậu. Ông thong thả quay lại, ngồi xuống ghế và nói:
- Một chú tu hú non. Chắc anh đã nghe câu Tu hú đẻ nhờ rồi phải không? Thật thú vị là nó lại đẻ nhờ ở chính phòng anh.
- Nhưng tôi ở đây suốt ngày, có thấy tu hú bao giờ đâu. Mà sao hai con chim bố mẹ lại không nhận ra, ấp rồi lại nuôi con cho kẻ khác?
- Thế mới là tu hú chứ. Nó đã rình trước rồi. Đợi cho chim mái đẻ xong, chuẩn bị ấp nó mới ăn cắp trứng và đẻ trứng của nó vào. Đến đôi chim khuyên còn không biết, còn bị lừa nữa là anh. Cửa sổ anh mở suốt ngày đêm, thiếu gì lúc nó lẻn vào mà không bị phát hiện. Chỉ tội cho đôi chim khuyên theo bản năng nuôi con cho kẻ khác mà không biết.
Thế ra chuyện tu hú đẻ nhờ là có thật. Trước kia tôi nghĩ đó chỉ là câu ngạn ngữ răn đời.Nghệ sĩ nhiếp ảnh trầm ngâm nói:
- Chuyện thật mà nếu không chứng kiến cũng khó tin. Hoá ra thế giới loài chim cũng có những chuyện giống thế giới loài người.
Chiều hôm ấy, đôi chim khuyên trở về lượn quanh cái tổ bị rách một lát rồi lặng lẽ bay đi. Đã mấy mùa hè qua tôi chờ đợi, nhưng không thấy đôi chim khuyên trở về.
1-2010
Tít và mít
Con gái tôi sửa nhà, gửi tôi nuôi hai chú chó phốc nhỏ xíu, trắng bông, đầu thon chân nhỏ cổ cao như thiên nga. Vợ chồng con gái tôi đều là master học ở Bắc Âu về, trong sinh hoạt và lối sống thường pha chút văn hoá Tây phương. Thế mà không hiểu sao hai chú phốc quý chúng lại đặt tên đầy chất dân gian: Tít và Mít. Chúng gọi vui là nàng Tít và chàng Mít. Hai chú phốc rất hiếu động và dễ thương, đặc biệt chúng yêu người và thích dược gần người. Bất kể quen lạ, với ai chúng cũng mừng quấn quýt và mong được Bế ẵm, vuốt ve . Chúng ăn sạch, ở sạch hơn cả loài mèo. Con rể tôi đặt làm một cái lồng bằng i- nốc thật đẹp và rộng rãi, trải chăn bông hoa cho chúng nằm. Cứ độ một tuần vợ tôi lại nấu nước bồ kết và lá mùi tắm cho chúng một lần, nên chúng luôn thơm tho sạch sẽ. Chúng như những đứa trẻ trong nhà, tạo nên không khí vui vẻ đầy tình thương yêu.
Chuyện bất hạnh xẩy ra vào một buổi tối. Lúc đó đèn đường đã bật sáng, tôi cùng hai chú phốc đứng chơi trên vỉa hè trước cửa nhà nhìn dòng người xe qua lại tấp nập. Bất chợt vợ tôi từ trong nhà ra, băng qua đường để đổ rác. Con Mít chạy vụt theo nhanh như một tia chớp trắng.Tôi giật mình nghe tiếng phanh xe rít lên chói tai. Một ô tô và mấy chiếc xe máy dừng gấp lại, nhưng một thanh niên cao to trên chiếc xe máy phân khối lớn vẫn điềm nhiên phóng qua đè ngang thân con phốc trắng rồi rồ ga đi tiếp, bất chấp tiếng hô hoán của những người chứng kiến. Sự việc xẩy ra trong chớp mắt khiến tôi bàng hoàng không kịp phản ứng. Tôi lao ra ôm lấy con chó nhỏ đang vừa giẫy giụa vừa cất tiếng kêu đau đớn, tắc nghẹn. Mọi người đổ xô lại nhìn con vật xinh đẹp đang thoi thóp trên tay tôi. Con Tít run rẩy cuống cuồng và cất tiếng kêu thảm thiết. Vợ tôi trào nước mắt ôm vội con Tít lên trên gác để nó không phải nhìn thấy giây phút cuối cùng của con Mít. Tôi bế con Mít vào phòng khách. Nằm trên tay tôi, nó không kêu được thành tiếng, chỉ khẽ khào khào, cố ngóc đầu nhìn tôi, đôi mắt to đen ướt đẫm như muốn nói điều gì. Nó ngáp khan như ngạt thở, đôi chân trước bé nhỏ chới với như muốn níu lấy tôi. Mấy phút sau, đôi mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi dại đi và mờ tối. Tôi bất lực nhìn con vật chết trên tay mình. Nó quá bé nhỏ so với sức nặng tàn bạo của chiếc xe máy và một con người to lớn. Từ trên gác, vợ tôi vừa khóc vừa dỗ dành con Tít đang kêu rít lên từng hồi. Con Mít lạnh dần trên tay tôi.Tôi nhấc máy gọi báo tin cho cậu em. Em tôi đến, bế con vật nhỏ bé trên tay hồi lâu rồi nói: " Phải thuỷ táng cho nó anh ạ. Với chó, người ta không chôn mà thuỷ táng để siêu thoát cho nó". Chúng tôi lấy một tấm chăn len mầu đỏ quấn cho con Mít thận cẩn thận. Hai anh em ôm con Mít ra bờ sông Trà chảy qua thành phố. Mặt sông bao la lấp lánh ánh điện và ánh sao. Cậu em tôi nói: " Mít về với Thuỷ thần rồi sớm đầu thai kiếp khác nhé". Chúng tôi thả con Mít xuống dòng nước đang chầm chậm trôi về biển.
Đêm hôm ấy con Tít không ngủ. Nó cứ chay như con thoi từ tầng trệt lên tầng ba, rồi lại chạy xuống, không ngớt cất tiếng kêu khe khẽ não lòng. Lúc tôi đưa con Mít ra sông nó không biết, nhưng nó đã tận mắt nhìn thấy tai nạn thảm khốc của Mít. Không hiểu trong bản năng của loài vật tinh khôn và giầu tình cảm, nó cảm nhận được những gì, nhưng nó đang đi tìm con Mít một cách tuyệt vọng. Tôi tắt đèn đi nằm, nhưng không sao ngủ được vì nỗi ám ảnh trước sự tàn bạo của người thanh niên đi xe máy và cái chết thảm thương của con Mít, vì tiếng chân chạy cầu thang và tiếng kêu của con Tít. Vợ tôi cũng trăn trở sụt sùi không ngủ.Khoảng hai giờ sáng, tôi ra cầu thang ôm con Tít vào phòng, ủ nó trong chăn và vuốt ve an ủi nó. Thân hình bé nhỏ mảnh mai của nó run bần bật. Nó nằm yên được một lúc rồi vùng khỏi chăn chạy ra cầu thang. Nếu như mọi ngày, được nằm trong chăn với người là niềm hạnh phúc tột độ của nó, nó sẽ vui sướng liếm tai, liếm mặt chủ rồi ngủ im như đứa trẻ. Bây giờ nó lại đang tiếp tục cuộc hành trình khắp các tầng lầu tìm con Tít. Tôi bế nó lên tầng ba, nơi có căn phòng nhỏ đặt cái chuồng xinh xắn trải chăn hoa của nó và con Mít. Tôi vuốt ve dỗ dành: " Tội nghiệp Tít bé nhỏ. Ngủ đi nhé, ta cũng thương Mít lắm, nhưng Mít không còn, đừng đi tìm Mít nữa". Dưới ánh đèn, đôi mắt to đen của nó nhìn tôi đầy buồn bã và hoảng hốt. Nó đã nghe tôi, không chạy cầu thang nữa. Khoảng hai giờ sáng, đang chợp chờn nửa thức nửa ngủ,, tôi bỗng có tiếng kêu rất lạ từ trên tầng. Tôi giật mình ớn lạnh sống lưng vì nghe như có ai đang hờ khóc trong đêm. Tôi chạy lên tầng, thấy con Tít đang ngửa cổ lên tru lên từng hồi dài. Không hiểu sao mà từ cái cổ mảnh mai của nó lại phát ra được thứ âm thanh trầm buồn âm vang và não nề đến thế. Tôi ôm nó vào lòng ngồi lặng lẽ trên bậc cầu thang, không biết làm cách nào để an ủi con chó nhỏ tội nghiệp. Khoảng nửa tiếng sau, tôi đặt nó vào chuồng rồi xuống phòng. Nhưng tôi vừa đi khỏi, con Tít lại tru lên từng hồi. Vợ tôi nói nhỏ:" Không ngủ được đâu, thương nó quá". Rồi vợ tôi lên gác với con Tít. Tôi mở sách ra đọc, nhưng không định thần được. Bỗng chuông điện thoai réo vang làm tôi choáng váng. Những hồi chuông điện thoại vào lúc bốn giờ sáng thường chỉ báo điều chẳng lành. Đầu dây đằng kia vang lên một giọng lo lắng: " Tôi Minh đây! Nhà có chuyện gì không anh?". Đó là anh bạn bác sĩ bên hàng xóm. Tôi trả lời anh là không có gì. Anh lại nói: " Tôi nghe như có tiếng ai khóc. Thật là mọi chuyện ổn cả chứ anh?". Tôi cảm ơn, và nói với anh là con phốc nó bị ốm. Anh dặn: " nếu có chuyện gì anh cứ gọi nhé".
Ngày hôm sau con Tít bỏ ăn, mặc dù vợ tôi đã mua cho nó những món ăn mà nó thích nhất. Nó mệt quá, nằm trong chuồng vừa ngủ vừa rên khe khẽ, thỉnh thoảng lại chồm dậy chạy ra sân thượng tru lên từng hồi. Hôm sau nữa nó đã ăn trở lại, nhưng đêm vẫn chạy cầu thang, chốc chốc lại tru lên. Vì thế mà chuyện con Mít nhà tôi chết cả khu phố biết. Ba hôm sau, có một người khách lạ đến thăm tôi. Ông tự giới thiệu là giáo viên nghỉ hưu, cùng ở thành phố này. Tôi không ngạc nhiên, vì đã từng tiếp một số khách như thế, họ đến làm quen nói chuyện văn chương hoặc muốn chơi cờ với tôi. Nhưng ông khách này thì khác. Không đợi tôi hỏi, ông vào chuyện ngay:
- Tối khuya hôm qua tôi đã đứng trước cửa nhà anh nghe tiếng con chó phốc nhà anh nó tru. Nghe thảm quá.
Tôi trả lời cho qua chuyện:
- Vâng, cảm ơn bác quan tâm, chuyện loài vật ấy mà.
- Tôi biết nó kêu như thế vì con bạn nó bị chết, ông khách lại nói.
- Chuyện nhỏ thế mà bác cũng biết ư?
Ông khách nghiêm nghị:
- Sao lại là chuyện nhỏ được. Dù là loài vật, nó cũng là một sinh linh. Chả thế mà mấy đêm nay con phốc nó cứ kêu ai oán mãi.
Không hiểu ông khách này muốn đưa câu chuyên đến đâu, tôi từ tốn nói:
- Cảm ơn bác.
- Thế anh có biết ai đã cán chết con phốc trắng nhà anh không? Ông giáo lại hỏi.
Tôi lắc đầu buồn bã.Ông giáo nói dứt khoát:
- Chính là thằng con tôi đấy!
Đến đây thì tôi thật sự bất ngờ về câu chuyện của ông giáo. Hiểu cái nhìn của tôi, ông kể:
- Tối hôm ấy về nó đi ngủ ngay, nhưng nửa đêm nó gọi tôi dậy. Nó kể lại sự việc. Rồi bảo nó nằm mơ thấy con chó nhỏ có bộ lông trắng nhuộm đầy máu me đang giẫy dưới bánh xe của nó, cái xe thì cứ rồ ga mà không chạy được. Nó sợ quá toát mồ hôi giật mình tỉnh dậy.
Tôi nói:
- Trong thực tế thì cậu ta đã bỏ chạy.
Ông giáo nói:
- Hôm nay tôi đến trước hết là xin lỗi anh chị vì điều ác con tôi đã gây ra. Sau là xin nhận đền bù thiệt hại cho anh chị. Tôi biết chó phốc rất đắt, xin anh cho tôi được đền bù, bao nhiêu cũng được.
Tôi bình tĩnh trả lời ông giáo:
- Không đền bù được đâu bác ạ. Làm sao cho con Mít sống lại được để đêm đêm con Tít không phải chạy khắp nơi tìm nó, rồi tru lên như than như khóc. Nhưng bác đã đến đây với ý tốt, tôi cũng thấy ấm lòng. Lẽ ra người phải nói những điều này là con bác chứ không phải bác.
Ông giáo buồn bã nói:
- Nó không thể đến được, mà chắc cũng không bao giờ đến được nữa, anh ạ. Hôm qua nó đã gây tai nạn xe máy, làm người ta bị thương nặng, còn nó thì bị chấn thương sọ não rồi.
Tôi nhìn theo cái bóng già nua buồn bã của ông giáo đạp xe xa dần, lòng tự hỏi: " Không hiểu ông đến mình là do sự hối tiếc vì những gì con ông gây ra cho con Mít, hay những gì nó đã gây ra cho chính nó? ".
Rồi con Tít cũng nguôi ngoai dần. Nhưng nó đã thay đổi hẳn. Nó bơ vơ, ngơ ngác, và không còn vẻ hân hoan nhẩy nhót như trước nữa.
2- 2010
Việt kiều về làng
Có tin một Việt kiều xin đầu tư vào cánh bãi làng Giành. Ông Mai-cơn Tôn nào đó. Nhiều người xì xào: tay này có gan cóc tía, hoặc mỳ tịt chẳng biết mô tê gì mới liều đến vậy. Nguyên cánh bãi hoang này, cách đây dăm bảy năm đã có ông Chang người Đài Loan nhẩy vào đầu tư. Ông ta bỏ tiền đắp đê khoanh vùng, chia đầm thành từng ô, mua tôm giống về nuôi, mua máy sục nước, thuê người bảo vệ. Cơ ngơi hoàn thành khá quy mô hoành tráng. Dân làng Giành xưa nay quen ăn sẵn của Trời cho ven biển cứ đánh bắt tự nhiên được con nào xào con ấy, thấy cách làm của ông Chang thì lấy làm lạ. Họ đứng trên đê nhìn cái máy sục khí tung bọt nước trắng xoá, người thì khen, kẻ lại chê là vẽ vời. Từ thời cụ kỵ đến giờ vùng biển này có máy móc gì đâu mà tôm cua vẫn sinh sôi bắt mãi không hết? Những người làng được ông Chang thuê chăm sóc tôm và bảo vệ đầm được trả lương khá cao thì phục ông ta sát đất. Họ bảo nuôi con tôm kỳ công như vậy là để nó nuôi lại mình. Nhưng dân làng nhiều người chửi họ là làm thuê cho tư bản vì hám lợi, là không biết nhục. Tuy vậy, dự án của ông Chang vẫn tiến triển đúng kế hoạch. Khi việc nuôi thả hoàn tất, Chang cho đặt máy phát điện, giăng đèn sáng rực cả vùng bãi hoang. Chang còn nuôi một đàn chó nòi đêm đêm tuần tiễu trông coi khu đầm. Hàng ngày, Chang cùng mấy cán bộ kỹ thuật và người phiên dịch làm việc trong khu nhà xinh xắn mới xây vem biển. Bộ máy giúp việc của Chang gọn nhẹ nhưng toàn những chuyên gia giỏi việc, cả người Việt và người nước ngoài do Chang tuyển lựa đưa từ nơi khác về. Việc làm ăn của Chang xem ra có cơ thắng đậm. Tôm ở các đầm lớn nhanh, không có dịch bệnh. Lúc con tôm bằng đầu đũa thì dân làng Giành mới hiểu sự thần kỳ của kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản. Hàng ngày người ta rủ nhau ra xem khu đầm tôm đặc như trong chậu, thật là thích mắt. Các bảo vệ không cho ra vào tự do khu sản xuất thì người ta chửi họ, chửi cả bọn cán bộ xã bán đất cho tư bản. Những người khác lại bảo những người chửi là ghen ăn, thấy người ta làm ra của thì tối mắt vào. Chuyện bắt đầu rối tinh lên. Nghe đâu có đơn thư gửi lên các cấp có thẩm quyền phản đối việc cho thuê đầm. Những người làm đơn do ông Huấn, cán bộ về hưu đứng đầu. Họ lý luận rằng cánh bãi là của chung, để dân làng đánh bắt chứ không cho tư bản thuê làm giầu. Chả lẽ dân làng Giành có truyền thống cách mạng lại đi làm thuê cho tư bản. Đói cho sạch, rách cho thơm chứ!
Khi con tôm bằng bằng ngón tay thì bắt đầu có một số cán bộ các ngành chức năng về viếng thăm chủ đầm. Có đoàn một người, có đoàn vài người, thậm chí có đoàn hơn chục người. Ông chủ Chang tuy trẻ tuổi nhưng rất đàng hoàng, tự tin. Ông tiếp các đoàn lịch sự, xuất trình đầy đủ giấy phép kinh doanh, hợp đồng thuê đất và các giấy tờ khác theo yêu cầu của đoàn kiểm tra. Ông cũng biết câu nhập gia tuỳ tục nên luôn chuyển bị những chiếc phong bì giấy thơm tiễn khách. Nhưng khi khách thăm lên đến hàng chục lần một ngày, gồm cả các cán bộ đoàn thể từ huyện lên tỉnh, thì số phong bì giấy thơm của Chang cạn dần. Chang bắt đầu cáo bận và xin lỗi đi vắng. Chang đang bù đầu với công việc phòng bệnh và chăm sóc lứa tôm sắp đến kỳ thu hoạch. Sau này người phiên dịch nói lại rằng Chang vô cùng sợ khách. Mà khách nào đến cũng với tư cách mập mờ là vừa thăm vừa kiểm tra việc thực hiện chính sách, chế độ với người lao động, an ninh, môi trường và nhiều nội dung quan trọng khác theo đơn thư của quần chúng. Một hôm có mấy người đến làm việc đề nghị Chang buổi tối không được ngủ lại ở đầm tôm. Họ nói đó là quy định với người nước ngoài, vì khu vực cửa biển này là vùng an ninh đặc biệt. Chang trình bày rằng trong hợp đồng đầu tư không có quy định ấy, nhưng không được chấp nhận. Thế là Chang phải sáng đi tối về nghỉ khách sạn ở thành phố cách nơi sản xuất hơn ba mươi cây số. Chang đi về như vậy được khoảng ba tuần thì xẩy ra sự cố. Một buổi sáng, xe của Chang vừa dừng bên dốc đê, người tổ trưởng bảo vệ canh đầm đã hớt hải chạy ra báo tin đàn chó canh đầm hơn chục con đã biến mất đêm qua. Theo anh ta thì đàn chó bị đánh thuốc mê rồi bị bắt đem bán. Chang liền cử anh ta và người phiên dịch lên xe đến tất cả các nhà hàng thịt chó trong vùng tìm mua lại chó bằng mọi giá. Hai người đi suốt một buổi sáng, nhưng hỡi ôi, chúng đã thành chả nướng, nhựa mận cả rồi. Họ đành về tay không buồn bã báo lại với ông chủ. Mất chó mới là khúc dạo đầu. Đêm sau máy phát điện tịt hẳn, vì bình xăng bị bỏ muối. Cả cánh bãi mênh mông tối om như thời tiền sử. Máy sục nước cũng tịt luôn. Rồi cứ qua mỗi đêm, tôm ở các ô đầm lại vơi dần. Bọn đánh bắt trộm vừa đông, vừa liều, mấy tay bảo vệ không làm gì được họ. Ông chủ Chang hốt hoảng đến gặp chính quyền và các cơ qua chức năng đề nghị giúp đỡ. Họ tiếp đón ông, ghi lời khai và đề nghị ông làm văn bản tường trình. Rồi họ thành lập đoàn điều tra đến hiện trường làm việc, lấy ý kiến tập thể rồi làm báo cáo đề xuất phương án xử lý. Nhưng báo cáo chưa viết xong thì đầm tôm đã không cần bảo vệ nữa. Một buổi sáng, Chang đi quanh bờ đầm tôm một hồi, rồi về lán bảo người phiên dịch mời tất cả những người giúp việc đến họp. Mọi người im lặng chờ Chang nói. Không ai dám nhìn vào mắt ai, vì họ biết đầm tôm chỉ còn là đầm nước. Cô thủ quỹ đưa cho mỗi người một chiếc phong bì là xuất lương cuối cùng của họ. Chang nói từ nay ngừng sản xuất, vì không còn gì để làm nữa và cũng không thể làm tiếp được. Ông ta khóc. Mọi người ngượng ngùng nhìn nhau và lặng lẽ, từng người một rón rén đi ra. Ngay hôm đó, Chang thu xếp hành lý, thiết bị chuyển đi. Không biết ông ta làm việc với các cấp lãnh đạo thế nào, nhưng người dân làng Giành không còn gặp lại ông ta lần nào nữa. Họ bảo nhau rằng tay Chang đã bỏ của chạy lấy người. Sau một trận bão lớn, sóng biển xoá sạch các ô đầm của Chang, cánh bãi trở lại vẻ tự nhiên hoang hoá quen mắt của người làng Giành. Cánh ông Huấn hỉ hả ra mặt. Họ nói đất làng Giành phải trả cho người làng Giành. Nhưng người làng Giành vẫn nghèo, cánh bãi vẫn bỏ hoang, không ai có vốn và có gan đầu tư cho đất sinh ra của cải. Những người làm ăn từ xa đến thấy địa thế đẹp định đầu tư, khi nghe chuyện của Chang liền lặng lẽ rút lui.
Mấy năm nay vùng ven biển này như tỉnh ngủ. Người các nơi về thuê đất làm ăn, buôn bán như đi hội. Các xã bên cạnh thu tiền thuê đât làm dường rải nhựa, mắc điện sáng choang. Nhà hàng đặc sản, quán bia, quán Karaokê xập xình suốt ngày đêm. Xe lớn xe nhỏ chay qua làng Giàng tung bụi mù, nhưng không xe nào dừng lại. Lãnh đạo xã đau đầu lo lắng về chuyện làng Giành có tiềm năng kinh tế biển mà đang tụt hậu. Xã phát động người địa phương đấu thầu khai thác cánh bãi theo chế độ ưu tiên, nhưng toàn người nghèo, gan bé, không dám liều. Người duy nhất dám vay tền ngân hàng làm đầm tôm lại chính là anh Chiến chủ tịch xã. Hình như anh chủ tịch cũng định xung phong đi trước để làng nước theo sau. Nhưng đến nay cánh bãi vẫn " trơ gan cùng tuế nguyệt", có lẽ một phần vì nghĩ lại gương anh Chang Đài Loan, ai cũng hãi. Cả cánh bãi mênh mông có mỗi mình anh chủ tịch xã đắp đập be bờ ở một góc con con. Đành mèo bé bắt chuột con vậy. Ban ngày lên trụ sở làm việc, đêm đêm chủ tịch ra ngủ lều canh đầm tôm. Từ ngày mất vợ, Chiến vẫn sống độc thân với mẹ, nhất định không để mắt đến cô nào nữa. Chuyện mất vợ ngay trong ngày cưới của Chiến đúng là một truyền kỳ, gần chục năm qua rồi mà người làng Giành vẫn còn kể cho con, cho cháu nghe. Hồi ấy Chiến mới ở bộ đội về, làm bí thư đoàn xã. Trong đám trai làng Chiến nổi bật, vừa đẹp trai, khoẻ mạnh, lại được rèn luyện qua quân ngũ, có trình độ văn hoá hết phổ thông. Con gái làng Giành vốn có tiếng là xinh đẹp nhất vùng, cô nào cũng chết mê chết mệt vì Chiến. Họ thì thầm với nhau về Chiến, họ ghen bóng ghen gió với nhau.Oái oăm một nỗi Chiến lại mê cô Lành làm thợ may trên phố huyện. Cô nàng xinh gái, ăn diện thơm phức, mỗi lần về quê thường đạp xe mini Nhật lượn một vòng quanh làng. Chẳng biết từ khi nào cô nàng bắt mất hồn vía của anh bí thư đoàn. Cuộc tình của họ có từ lúc nào không ai hay biết. Khi nghe tin họ sắp làm đám cưới, đám con trai con gái làng Giành mới xôn xao bàn tán. Tại sao cô Lành ăn chơi tàn bạo nhất vùng lại chấp nhận lấy anh cán bộ đoàn xã nghèo? Bọn con gái rỉ tai nhau rằng cô Lành đã "bị" với tay thợ ảnh phố huyện có vợ con, giờ nó chạy làng mất rồi, phải vội vàng đánh bài trâu ta ăn cỏ đồng ta. Hoá ra Chiến là tay dại gái. Vì cô ta đẹp, biết ăn diện, lại khéo nói và lẳng lơ. Miệng nói vậy, chứ thật bụng thì bọn con trai làng này anh nào cũng sẵn sàng xin chết vì nàng. Có điều là tại sao Lành lại chọn Chiến? Người thì tốt, nhưng hơi khô khan cứng nhắc, suốt ngày chẳng nói một câu, nhà lại nghèo xác, chỉ có một mẹ một con. Vẻ trầm lặng của Chiến có lẽ vì thiếu tình cảm của người cha từ thuở nhỏ. Bố mẹ Chiến cưới nhau được một tháng thì người chồng đi chiến trường chống Mĩ và không bao giờ trở về nữa. Chiến chỉ nhìn thấy ảnh người cha trên bàn thờ và biết về cha qua ký ức của mẹ. Điều không may là với tính cách và hoàn cảnh như vậy, Chiến lại say Lành và quyết cưới nàng cho bằng được, bất chấp nỗi băn khoăn của mẹ và sự can ngăn của chú bác. Biết làm sao được. Xưa nay hiếm gì những bậc chính nhân quan tử thân bại danh liệt vì một chút hồng nhan, huống chi Chiến chỉ là một gã trai làng?
Đám cưới được đoàn thể và hai họ tổ chức khá linh đình. Không biết ông chú chàng rể xem tuổi thế nào mà lại chọn giờ rước dâu sau lúc gà lên chuồng. Hôm ấy, một buổi tối mùa thu trăng thanh gió mát, đoàn người rước dâu đèn đuốc sáng trưng đi trên con đê thơm ngát mùi hương nhu, xung quanh là cánh đồng lúa đang thì con gái, xa xa có tiếng sóng biển rì rầm như khúc nhạc nền. Cô dâu trang điểm rực rỡ như nàng công chúa. Chiến nhìn người vợ yêu đi giữa vòng tay các cô phù dâu, lòng tràn trề hạnh phúc, cảm thấy mình như chàng hoàng tử trong truyện cổ tích. Chỉ vài giờ nữa thôi, bông hoa khôi làng Giành sẽ nằm trong vòng tay anh. Rồi nàng sẽ là mẹ của những đứa con xinh đẹp, sẽ thắp sáng căn nhà vốn buồn vắng của mẹ con anh, thắp sáng cuộc đời anh. Biết bao chàng trai vùng này mơ ước được như Chiến hôm nay. Lòng lâng lâng như say, Chiến khe khẽ hát bài hát của Hoàng Thi Thơ mà người ta hay hát trong đám cưới:" Anh đưa em về, về quê hương yêu dấu, về quê hương mặn nồng, đồng xanh như gái chưa con, lúa mừng xôn xao chào đón, một đàn đom đóm hoa đăng, rước dâu đưa em vào nhà...". Đoàn rước dâu đã về đến nhà. Pháo nổ, nhạc nổi lên. Vẫn bài hát của Hoàng thi Thơ mà Chiến yêu thích:" Em thấy không em, quê hương thân yêu quê hương tuyệt vời, gió mát trăng thanh, ôi gió mát trăng thanh đưa tình ta đi tới ước mơ tuyệt vời...".
- Các cụ, các ông các bà và toàn thể hội hôn kính mến! Xin cho phép cô dâu chú rể ra mắt mời nước mời trầu hai họ.
Anh chàng chủ hôn nhắc lại một lần nữa. Chàng rể tươi cười bước lên. Cô dâu đâu? Mời cô dâu lên ngay, chưa đến lúc trốn vào trong buồng! Nào, xin mời! Nhưng cô dâu đâu? Mọi người hỏi nhau. Mấy cô phù dâu rỉ tai nhau:" Hình như nó đi đái". Các cô chạy ra vườn tìm. Không thấy. Trong phòng chủ hôn cũng không. Các cụ hỏi cánh thanh niên, cánh thanh niên lại hỏi các cô gái, các cô gái ngơ ngác hỏi nhau. Cô dâu đâu? Giọng anh chàng chủ hôn đã hơi run:" Xin chờ một chút, ban văn nghệ có tiết mục mới phục vụ hội hôn". Lại đàn, lại hát. Mười lăm phút, rồi nửa tiếng trôi qua. Anh chủ hôn và đội văn nghệ khẽ thì thào có nên tiếp tục nữa không. Đám cưới bắt đầu xôn xao, nháo nhác. Hình như có điều bất hạnh đã xẩy ra. Hầu hết thanh niên cầm đèn, đuốc toả đi các ngả. Trong đêm tối ánh đuốc chấp chới khắp cánh đồng, trên đê và ngoài bãi biển. " Lành ơi!". Tiếng gọi truyền đi cả một vùng, mất hút trong tiếng sóng biển rì rầm. Đêm về khuya, căn rạp đám cưới chỉ còn lại mấy thanh niên bạn chú rể ngồi uống rượu buồn. Họ đã tìm khắp cánh đồng, bờ bãi, sang cả nhà gái. Cô dâu xinh đẹp đã biến mất không để lại dấu vết gì. Đêm ấy làng Giành không ngủ. Nhà trai và nhà gái như có tang. Chiến như trong cơn ác mộng. Anh tắt cái đài cát- xét cứ hát mãi bài đón dâu của Hoàng Thi Thơ. Đám cưới đã vỡ. Không có đêm tân hôn đầy mong ước. Chiến đã mất cả hạnh phúc và danh dự.
Hai ngày sau, đồng chí trưởng đồn biên phòng cửa biển vào làm việc với xã, mọi người mới hiểu rõ đầu đuôi câu chuyện. Đúng cái đêm đám cưới oan nghiệt ấy, có một bọn vượt bên trốn ra nước ngoài, khi các chiến sĩ biên phòng phát hiện thì chúng đã đi thoát. Cô dâu đã trốn đi với tằng con thứ hai nhà ông Tộ lái trâu. Gọi là Tộ lái trâu, vì đấy là nghề gia truyền mấy đời, nhưng đến ông ta còn thêm nghề buôn bè và làm lò vôi. Nhà Tộ có tiếng giầu nhất làng, mấy thằng con mất dậy trốn bộ đội, ăn chơi đàng điếm phá gia chi tử. Chính cái thằng con vượt biên ấy đã phá sạt nghiệp bố mẹ nó. Không hiểu bằng cách nào, từ lúc nào nó đã dỗ dành cô Lành trốn đi theo nó. Cũng có thể tối hôm ấy nó mời tình cờ cho Lành biết phi vụ chúng nó đã dàn dựng bố trí công phu và rủ rê Lành cùng nó đến miền đất hứa. Với tính cách của Lành, chỉ cần thế thôi, cô ta cũng có thể vứt bỏ tất cả. Hai kẻ bán Trời không văn tự ấy gặp nhau thì chuyện gì chúng chẳng dám làm. Chỉ thương anh Chiến chân thành lương thiện ôm mộng xây lâu đài trên cát đã bị một vố để đời.
Sau chuyện ấy, Chiến càng lầm lì ít nói. Anh không hé răng với ai, kể cả với mẹ, về nỗi đau mất vợ và nỗi nhục đám cưới bị phá. Chiến lặng lẽ đèn sách, thi đỗ và học xong đại học kinh tế tại chức. Giờ anh là một chủ tịch xã giỏi của hàng huyện, được dân trong làng ngoài xã tin cậy, quý mến. Phía nhà ông Tộ bị dân làng ghẻ lạnh như những kẻ tội phạm. Họ rất nể sợ Chiến. Tết nào ông ta cũng mang quà đến nhà để tạ lỗi, nhưng Chiến không nhận. Anh bảo anh không trách ai, chỉ trách bản thân mình. Đã hàng chục năm trôi qua, Chiến không yêu một người con gái nào nữa.
Chiều nay, Chiến đang làm việc tại trụ sở xã thì ông Huấn đẩy cửa bước vào. Chiến nghĩ: " Lại có chuyện rồi đây". Ông Huấn có hai đặc tính: vào phòng bất cứ ai cũng không bao giờ gõ cửa, đã đến là có đơn thư khiếu kiện.
- Tôi xin hỏi đồng chí chủ tịch, anh quyết định thế nào việc cho thuê cánh bãi làng Giành? Ông Huấn mở đầu.
Chiến thong thả rót nước mời ông Huấn, rồi từ tốn nói:
- Việc này các cơ quan chức năng đã thẩm định dự án khả thi, nhưng xã chưa bàn tập thể. Có gì không bác?
- Có, ông Huấn nói cao giọng. Chúng tôi phản đối.
- Bác nói chúng tôi, vậy có nhiều người phản đối à?
- Tất nhiên, tôi đại diện cho số đông quần chúng đến gặp anh chứ không phải riêng cá nhân tôi đâu.
Ông Huấn đưa một tờ đơn có một số chữ ký cho chủ tịch xã. Chiến đọc đơn rồi khẽ khàng nói:
- Bác Huấn ạ, ta cũng nên nhìn nhận kỹ vấn đề này. Cánh bãi ấy bỏ hoang, giờ cho thuê sẽ có nguồn thu cho nhà nước, cho xã, có lợi cả cho dân làng mình nữa. Bác xem các xã bạn họ đang giầu lên, còn xã ta đất rộng mà vẫn nghèo.
- Điều ấy tôi biết, tôi có ngu đâu. Nhưng đói cho sạch, rách cho thơm chủ tịch ạ. Cho thuê, nhưng cho ai thuê?
- Có vấn đề chủ đầu tư à?
- Anh không biết à? Ông Huấn sừng sộ. Việt kiều đếch gì nó, Mai- cơn Tôn cái mẹ gì nó! Nó chính là thằng Tốn con nhà Tộ lái trâu, cái thằng đã cướp vợ của anh trốn đi vượt biên chứ ai?
Chiến sững người. Từ sau đám cưới oan nghiệt ấy, chưa ai trực diện đâm một mũi dao vào nỗi đau của anh như ông Huấn. Ông ta hơi bối rối nhìn trộm sắc mặt Chiến. Chiến im lặng hồi lâu rồi nói bằng giọng kìm nén:
- Thôi được, bác cứ về đi. Đây là việc lớn, có liên quan đến chính sách đầu tư của nhà nước và của tỉnh. Tập thể lãnh đạo sẽ quyết định, tôi chỉ là một cá nhân. Việc riêng của tôi đề nghị bác đừng đụng đến.
Ông Huấn đứng lên:
- Tôi nói có gì quá xin anh bỏ lỗi. Nhưng nếu các anh cứ quyết, chúng tôi sẽ kiện lên cấp trên. Chúng tôi không để yên đâu.
Dáng người nhỏ thó, mặt nhẵn thín không râu không lông mày, ông Huấn lút cút dắt xe đạp ra khỏi cổng uỷ ban. Chiến nhìn theo con người chuyên đứng đầu đơn khiếu kiện, trong lòng dấy lên bao điều dằn vật, day dứt riêng chung. Chuyện về Tốn, anh đã nghe, đã biết trước cả dân làng. Điều trớ trêu là cuộc đời đã đưa đẩy hắn gặp lại anh trong một khúc quanh số phận, ở nơi hắn đã được sinh ra, gây ra bao tội lỗi rồi bỏ trốn, giờ trở lại với danh nghĩa một người thành đạt, một nhà đầu tư. Anh không muốn mà bỗng trở thành nhân vật trong hồi kết của một tấn kịch không rõ bi hay hài. Có lẽ mọi người, từ dân làng đến cán bộ các cấp đang tò mò chờ xem anh sẽ kết thúc tấn kịch này ra sao.
Điều Chiến không ngờ là Tốn chủ động đến gặp anh mà không hẹn trước. Không gặp ở nhà, không ở trụ sở uỷ ban, mà là ở đầm tôm, vào lúc đêm đã về khuya. Lúc đó Chiến vừa đi một vòng quanh đầm, trở về lều coi đầm ngồi đọc tài liệu. Cánh cửa liếp có tiếng gõ lạch xạch. Chiến mở cửa, hơi sững người khi nhận ra Tốn dưới ánh đèn le lói từ trong lều hắt ra. Chiến bình tĩnh nói:
- Chào ông Việt kiều. Đã đến đây rồi thì mời ông vào, ông Mai- cơn Tôn.
Tốn lách cửa vào, lúng túng không biết ngồi đâu. Lều chật, chỉ có một giường cá nhân với một cái chiếu trải trên nền đất nện, vài cái ca, cốc, bát đĩa, nồi xoong. Chiến ngồi xếp bằng trên chiếu, pha trà bằng cái ca sắt bộ đội cũ. Tốn rón rén ngồi xuống, tay chân kềnh càng, ngượng nghịu. Hắn vẫn to con, tốt mã, tuy nhiên trông vẻ phong trần, mệt mỏi. Không còn cái vẻ nhâng nháo bảnh choẹ ngày trước. Sau một hồi im lặng nặng nề, Chiến nói:
- Ông Mai- cơn đến chơi chỗ này không được lịch sự lắm. Có gì để mai tôi mời ông ra trụ sở làm việc, kẻo thất lễ với ông.
Tốn nói nhỏ:
- Anh Chiến, xin anh đừng gọi tôi như vậy. Việt kiều gì tôi đâu. Tôi chỉ là thằng lang thang nếm đủ mùi khổ nhục, giờ muốn làm lại cuộc đời. Tôi muốn làm việc, làm bằng sức của mình. Tôi muốn làm giầu.
- Thì anh đang giầu rồi còn gì, Chiến nói.
Tốn cười gượng:
- Tôi về nước đã hơn một năm. Trắng tay. Tôi không dám về nhà. Theo bạn bè đi buôn hàng Trung Quốc trên Lạng Sơn vào miền Nam. Cũng may tiết kiệm được tí chút, muốn rủ bạn bè góp vốn làm ăn.
- Tại sao anh lại nói chuyện đó với tôi?
- Tôi muốn anh biết tất cả, vì trước sau rồi anh cũng biết. Tôi có tội với anh. Xin anh cho tôi một cơ hội để chuộc lỗi với anh, với dân làng.
- Nghe nói anh phát tiền cho cả họ, đúng không?
- Có, tôi vay tiền bạn bè, thuê xe về nhà. Tôi biếu mỗi người năm mươi đô-la, nhưng không ai nhận. Cụ Thìn trưởng họ đuổi tôi ra khỏi nhà, chửi cả bố tôi. Bố tôi giờ đã khánh kiệt cũng là tại tôi. Cả họ coi tôi như thằng hủi. Người làng thấy tôi thì quay đi, trẻ con thì đọc vè chửi cái nghề lái trâu lừa đảo nhà tôi...
Chiến ngạc nhiên nhìn vẻ nhẫn nhục của cái thằng bán Trời không văn tự một thời. Hắn có vẻ suy xụp và xuống phong độ quá. Anh hỏi:
- Vậy anh còn muốn đấu cánh bãi nữa không?
- Có. Tôi càng cần phải làm. Tiền của anh em bạn bè góp vào, tôi có sức. Tôi biết là không dễ, tôi cũng biết chuyện của ông Chang người Đài Loan. Nhưng tôi là người làng, tôi có cách của tôi, tôi cũng chịu khổ chịu nhục được. Chỉ cần anh đồng ý. Nếu anh lắc đầu, tôi xin đi ngay, không dám oán hận, không dám cầu xin. Vì anh có quyền đối xử với tôi như vậy.
Chiến chợt nhận ra thằng con nhà Tộ này đã được cuộc đời dạy cho khá nhiều. Lòng anh cũng dịu đi vì những điêù bộc bạch mà anh tin là không dối trá của hắn. Trầm ngâm hồi lâu, Chiến nói:
- Cũng còn những phức tạp khác, anh chưa biết hết được đâu.
Tốn bỗng sôi nổi:
- Có phải anh nói đến ông Huấn kiện không? Tôi giải quyết xong rồi. Ông ấy hứa sẽ gặp anh xin rút lại đơn kiện. Lại còn xin tôi cho thằng con ông ta một chân bảo vệ nữa.
- Anh làm cách nào mà thuyết phục được ông Huấn thế?
Tốn nói khẽ:
- Thưa anh, tôi đã biếu ông ấy một cái ti-vi đen trắng.
Chiến phá lên cười. Đã lâu lắm Chiến mới có một trận cười không cưỡng lại được, sảng khoái như vậy. Mà lại là cười với cái thằng đã cuỗm vợ mình trong ngày cưới. Thế mới là trò đời. Chiến bảo:
- Ngồi chờ tôi một lát.
Chiến cầm đèn pin và xách giỏ ra đầm tôm. Khoảng mười phút sau, Chiến trở về với cái giỏ ướt có tiếng tôm bật lách tách bên trong. Chiến nhóm bếp than củi, đặt cái lưới sắt lên, nướng tôm. Chỉ một lát, mùi tôm nướng thơm lựng cả căn lều. Tốn đăm dăm nhìn người chủ tịch xã bằng tuổi anh hắn đang bình thản quạt bếp làm món nhậu đãi hắn, lòng hắn dâng lên một nỗi sợ hãi và kính phục. Gương mặt Chiến sáng lên trong ánh lửa, toả ra sức mạnh của nghị lực và sự từng trải. Một nửa đời sống buông thả, lang bạt trong đám giang hồ, bây giờ Tốn mới mơ hồ hiểu ra làm người khó như thế nào. Chiến bày đĩa tôm nướng lên chiếu, lôi chai rượu trong góc lều rót ra hai cái ca nhựa, đưa cho Tốn một ca. Tốn bất thình lình khom người quỳ xuống, mặt chạm đất, nói run run:
- Anh Chiến, tôi xin lạy anh một lạy.
Chiến bình thản nói:
- Thôi, đừng diễn tuồng làm gì. Uống rượu đi.
Sau vài tuần rượu, Chiến nhìn Tốn chằm chằm và hỏi:
- Cô ấy đâu?
Điều Tốn sợ nhất đã được nói ra.
- Cô ta bỏ tôi rồi. Tốn nói, mắt chớp lia lịa như bị cay khói bếp.
Chiến vẫn im lặng nhìn Tốn, chờ hắn nói tiếp. Giọng Tốn âm thầm:
- Sang đến trại tị nạn Hồng Công, cô ta đã phản bội tôi, lăng nhăng với mấy thằng đẩu gấu người Hải Phòng nằm trại đã mấy năm. Lũ ấy định thịt tôi. Cũng may có đứa bạn nhờ người bảo lãnh, bọn tôi đi thoát được. Sang đến đất Mĩ thì tiền hết, không nghề nghiệp, không biết tiếng, phải ở vạ vật khổ như chó. Tôi xin được chân rửa bát ở quán ăn người Hoa, thuê được căn gác xép kê vừa tấm đệm. Tôi vừa rửa bát, vừa đổ rác, bốc hàng thuê, làm quần quật từ sáng sớm đến tối khuya để nuôi sống hai đứa. Dần dần, tôi gom góp được ít tiền, nhờ ông chủ người Hoa tốt bụng chỉ bảo, mở một quán ăn nhỏ bán cho người nghèo. Quán ăn ngày một đông khách, có cơ mở mày mở mặt. Cô ta ăn trắng mặc trơn, càng đẹp ra, lại theo học lớp tiếng Anh nên nói thạo, giao du rộng với người bản xứ. Tôi tự hào về cô ta, làm hùng hục để cô ta có tiền ăn diện, đi đây đi đó. Trông bộ dạng thì cô ta đúng là bà chủ, tôi là thằng hầu. Vì yêu cô ta, tôi không bận tâm về chuyện ấy, lại thấy hạnh phúc được chăm sóc, nuông chiều người mình yêu. Tôi nghĩ đã bỏ quê hương bản quán đến xứ người thì phải bó bện lấy nhau, cố gắng kiếm lấy tí vốn sau này tìm đường trở về chứ ăn đời ở kiếp xứ người sao được. Đây là thiên đường của ai chứ không phải của bọn lang thang không học vấn, không nghề nghiệp chúng tôi. Tôi nói sao cô ta cũng vui vẻ đồng ý. Vì thế tôi cố sống cố chết làm lụng kiếm tiền. Đã thuê được nhà ở tử tế đủ tiện nghi, mở được nhà hàng khang trang lịch sự đón khách có tiền. Việc làm ăn dần phát đạt. Tiền tích luỹ cũng khá. Được đồng nào, tôi giao hết cho cô ta gửi vào tài khoản tín dụng. Tôi đâu có ngờ bụng dạ con người...
Tốn tu một hơi hết cốc rượu, nấc lên im lặng. Mặt hắn đỏ nhừ dưới ánh đèn. Nấc nghẹn một hồi lâu, hắn mới kể tiếp được.
Một hôm tôi đi lấy hàng về, thấy trong nhà có một thằng tóc nâu to con. Bộ dạng hắn tự tin như ông chủ làm tôi lộn tiết. Nhưng hắn cứ tảng lờ như không thấy hay không thèm để ý đến tôi. Cô ta làm một bữa ăn thịnh soạn, cười nói vui vẻ với cả tôi và gã kia. Khi tất cả ngồi vào bàn, mở sâm-banh xong, cô ta đứng dậy nói: " Giới thiệu với anh, đây là Giôn, chồng chính thức của em. Anh ấy đã nhập quốc tịch cho em. Em biết ơn anh rất nhiều vì những gì anh đã làm cho em những năm qua. Anh Giôn, hãy chạm cốc cảm ơn anh Tốn đi!". Tôi đang nhai miếng bít-tết, tự dưng tắc họng không nuốt được, vội chạy vào toa- lét. Tôi nôn thốc nôn tháo. Thằng Giôn vào khoác vai tôi lôi ra. Nó có cái họ chết tiệt gì khó nhớ lắm. Chúng nó cười cợt diễn trò trước mặt tôi suốt buổi ấy. Tôi muốn giết cả hai đứa, đốt nhà rồi nộp mình cho cảnh sát. Nhưng tôi biết chúng nó đã chuẩn bị từ trước, mình chỉ động chân động tay là chúng nó thịt mình trước. Mình là dân nhập cư trái phép, ai bênh vực mình. Thằng ấy cười cợt xổ ra một tràng. Cô ta dịch cho tôi nghe: " Tao cảm ơn mày đã đưa Giên- ni Lành đến đây, đã chăm sóc cô ấy. Tao bằng lòng nhận mày làm quản lý trang trại cho tao, lương ưu đãi. Ô-kê chứ? ". Bàn tay hộ pháp của hắn vỗ vai tôi một cái thật mạnh đau điếng. Tôi đứng dậy vào trong nhà thu xếp quần áo, tư trang. Lúc tôi xách vali ra, cô ta hỏi: " Anh đi ngay à?". Cô ta vào nhà trong mang ra một gói tiền, dúi vào tay tôi. Tôi đẩy ra, cô ta lại nhét vào túi tôi. Thằng Giôn nhìn cảnh đó vẻ tò mò, giễu cợt. Hắn giơ tay vẫy: " Bai nhé!". Cô ta đi theo tôi ra cổng, mắt đỏ hoe, giọng xụt xịt: " Anh tha lỗi cho em, em cần được sông yên ổn". Hôm sau xem túi, tôi thấy cô ta đưa cho tôi năm trăm đô- la, đó là công lao bao năm tháng chìm nổi, làm lụng như trâu ngựa của tôi. Lúc bị đuổi ra đường, tôi không biết đi đâu. Còn bao gian nan khốn cùng, bao ê chề nhục nhã, có lúc suýt mất mạng, tôi mới về được đất nước...
Tốn im lặng, quay đi lén chùi mắt. Đợi cho Tốn bình tĩnh trở lại, Chiến nhỏ nhẹ:
- Câu chuyện này biết vậy thôi nhé. Chẳng hay ho gì cho ai. Người làng cả mà!
Tốn đứng dậy:
- Tôi đã nói hết mọi chuyện với anh. Anh xử thế nào là quyền của anh, tôi xin nhận tất cả. Xin phép anh tôi về.
Chiến bước theo Tốn ra khỏi lều. Đã tang tảng rạng đông. Cánh bãi hoang mênh mông chìm trong màn sương đục buốt giá. Tốn nhìn ra, trầm ngâm nói với Chiến:
- Với những gì tôi đã nếm mùi, thì được lội bùn, đào đắp trên cánh bãi làng mình, được phơi nắng phơi sương ở đây thật là sung sướng và may mắn. Anh có tin thằng Tốn hư hỏng này nói thật lòng không?
Chiến khẽ cười, im lặng. Anh tin thằng Mai- cơn Tôn giả cầy này quả thật đã khác thằng Tốn ngày trước.
12- 2001
VanVN.Net