Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?

   

Truyện ngắn Tết của nhiều tác giả
Cập nhật: 7:19:00 2/2/2011
VanVn.Net - Nếu thơ là cành đào thì truyện ngắn là bánh chưng của Tết. Tết này mời bạn đọc chùm truyện ngắn Con sứa của Ái Duy, Trứng của Châu Diên, Đồng cỏ nở hoa của Ma Văn Kháng, Trời vẫn nắng suốt đêm của Hồ Anh Thái, Ván cờ lúc nửa đêm của Vũ Tuấn Hoàng và Tóc trinh của Kiều Bích Hậu…Mỗi truyện một phong cách, một phương vị và một vẻ hay...

ĐỒNG CỎ NỞ HOA

Truyện ngắn của MA VĂN KHÁNG

 

Bống hoá ra là một cô bé có tài hội hoạ thật!

Người phát hiện ra điều này trước nhất là bác Lan, nữ diễn viên cải lương, chị gái bố Bống. Thực ra, lúc đầu bác Lan chỉ thấy hơi là lạ, vì con bé mới học có  lớp hai tiểu học mà sao nó lại mê vẽ thế! Nó vẽ như người ta thở,  như người ta nhìn, như người ta nghe. ở trong lớp học, đang trong giờ thầy giảng đoạn  văn, chữa bài tập toán,  nó cũng vẽ. Nó vẽ các nàng tiên, các cô công chúa, các chàng công tử. Còn ở nhà thì hễ có tờ giấy trắng nào là có nét vẽ của nó tất.  Vẽ như nó đã là hoạ sĩ thực thụ  và đang thực hiện câu châm ngôn của Sanvador Daly hoạ sĩ thiên tài: “Là hoạ sĩ, bạn hãy vẽ đi! Vẽ đi !”

Cái Bống rất hay vẽ, nhưng đáng chú ý hơn nữa  là nó vẽ rất giống. Con mèo Kết ra con mèo Kết. Con chó Lu ra con chó Lu. Cây cau ra cây cau. Và cuối cùng bố Lít nó ra bố Lít nó, cái mặt hoằm hoặp, cái mũi cà chua, cái mồm thổi lửa. Cũng vậy, mẹ Phít nó cũng chẳng lẫn được với ai, cái mặt tròn như đồng xu, trắng phău phău với hai con mắt lá dăm, cái mũi tin hin và cái cằm lẹm một nét vát dài.

Bố Bống làm nghề gác chắn xe lửa. Dân thợ thuyền chất phác, chẳng biết gì là nghệ thuật, tính tình lại cục mịch, hết giờ làm  chỉ có vui với bia, rượu, nói tục không ai bằng và nổi danh chỉ là cái đức kiên trì ngồi chờ ù chi nảy trong ván bài tổ tôm. Mẹ Bống buôn hoa quả Tầu. Quẩn quanh nơi chợ búa, ngoài cái tài dán mác Mỹ lên táo Tầu để bán giá cao ra, chỉ thạo món lên đồng và  trò lô, đề một ăn bẩy. Thấy con gái vẽ nhiều, giấy bút, mầu mè bừa bộn, lắm khi mẹ Bống quát tháo mắng mỏ ầm ĩ, coi như mày vẽ vời vô tích sự. Còn bố Bống thì cứ tiện tay là vơ hết tranh vẽ của con gái, để làm giấy nhóm lò rang cơm mỗi sáng. Gặp những lúc như thế, Bống  ngồi khóc ti tỉ.

Thương cháu, bác Lan mời ông hoạ sĩ già tên Phan, người có kiến văn hết sức sâu rộng, nhưng bốn mươi năm nay chỉ chuyên làm một nghề  bôi vẽ hoá trang mặt mày tóc tai diễn viên trong đoàn Cải Lương tới, đưa tranh của Bống cho ông xem để hỏi ý kiến.

Lạ cái là ông hoạ sĩ Phan vừa cầm  xấp  tranh vẽ con chó, con mèo, cây cau, chân dung bố, mẹ Bống lên xem đã  tặc tặc lưỡi trầm trồ: Chà chà!  Vẽ được lắm! Vẽ như đồng cỏ đến kỳ nở hoa! Vẽ được lắm, được lắm!  Đến nỗi bác Lan phải kinh ngạc,   giật giọng hỏi lại; và ông hoạ sĩ già một lần nữa lại gật gù: Rồi tôi sẽ giảng giải cho bác cháu cô hiểu. Còn bây giờ thì hãy cứ nhớ là: Cái Bống vẽ như đồng cỏ nở hoa đã. Đoạn nhìn cái Bống, hất mắt nhẹ nhàng  hỏi: Còn những bức nào nữa, cho ông xem mới nào?  Tất nhiên là Bống lập tức đưa cho ông  cả tập tranh giấu trong cái cặp bìa. Và ông thì  vừa trỏ ngón tay vào từng bức vừa nheo nheo mắt:

- Sao dưới bụng con gà mái mẹ lại có một hàng chấm chấm?

 - Dạ! Đó là tí của nó ạ. Không có tí, gà con bú  mẹ sao được ạ.

- Thế con chuột nhắt đứng cạnh cái vòng tròn có hai chóp nhọn là cái gì?

 - Dạ! Là lưng con mèo ạ. ý cháu là... hỡi tên chuột kia, mi hãy giờ hồn, mèo chưa quay đầu lại đâu!

- Khá lắm! Thế hai người dắt tay nhau đi trong bức tranh này là những  ai? Sao một người thì to đùng, còn  một người lại bé tí và đen thui  như than thế?

 Thưa ông, người to là mẹ cháu. Người bé và đen thui  là bố cháu

Sao bố cháu lại bé tí và đen  thui thế?

Tại là vì bố cháu hay cốc  đầu cháu. Mấy lỵ cũng có bận say rượu, cầm cái ghế  đẩu giơ lên đánh mẹ cháu ạ.

Ông hoạ sĩ già bật cười. Rồi sau khi tặng Bống một tập giấy crôki, một hộp bút chì màu, một tá bút chì đen, ông quay ra hỏi chuyện bác Lan.  Bác Lan  nói: Cả gia hệ cái Bống nhà em chả có ai theo nghề hội hoạ cả. Bống là nhũ danh, cháu họ Đinh, tên khai sinh là Đinh Minh Yên. Cụ tổ sáu mươi đời theo tương truyền tên Sớm. Kiêng huý kỵ, cả dòng họ khi gặp từ sớm đều đọc chệch thành sủa. Ví dụ: sáng sớm thì nói thành sáng sủa. Gốc gác tổ tiên là nông dân ở đất Hoa Lư, theo vua Lý Công Uẩn rời đô về đất Thăng Long, rồi chuyển từ nghề nông sang nghề công, nghề thương cho hợp cảnh phố phường. Gốc cội nào thì cũng xù xì ngộc nghệch. Cụ tổ thế nào, con cháu cũng thế. Cả dòng họ chẳng ai đỗ nổi cái bằng tú tài, chứ đừng nói cử nhân, tiến sĩ. Giỏi giang, mở mày mở mặt với thiên hạ là cụ nội Bống, thì cũng chỉ giữ chân tài xế xe lửa từ hồi Pháp thuộc.  Có chút tiếng tăm là ông nội làm thợ rèn, nghe nói đã rèn cái tăm pông ở đầu máy xe lửa, bền chắc ngang với cái mà nền công nghiệp Pháp hiện đại rèn đúc được, nên đã được đem đi bầy ở Đấu xảo Hà Nội năm 1931. Thế còn các cô, tức em gái bố Lít của Bống? Cũng vậy thôi. Cô Phương mở hiệu trang điểm cô dâu. Cô Lanh là chủ Shop may mặc thời trang.  Nghĩa là chẳng có ai làm nghề dính dáng đến nghệ thuật  cả !

 - Thế còn cô, nghệ sĩ hát cải lương?  

Ngắt đoạn câu chuyện của bác Lan, ông hoạ sĩ hỏi. Bác Lan cười nhè nhẹ:

-  Em kể bác nghe. Mọi sự đều là tình cờ. Em dẫn một con bạn tên Thuý đi thi vào trường nghệ thuật ca kịch dân tộc. Thuý mê cải lương, nhưng nhát. Thi vấn đáp xong, nó chạy ra, ôm chầm lấy em, khóc tu tu vì sợ trượt. Em  lựa lời khuyên  giải nó. Lát sau, vừa đứng dậy định dắt nó về thì một ông béo như ông Di Lặc trong ban giám khảo từ trong buồng hỏi thi đi ra, chỉ tay vào em, gọi: Mời cô vào buồng thi! . Em cuống lên, lắc đầu lia lịa. Ô hay ! Em có xin dự thi đâu ạ! Ông nọ cười: “Thì mời em cứ vào!”. Em vào. Ba ông giám khảo ngồi chễm chệ nhìn em. Một ông nói: Qua những câu em nói với bạn Thuý  của em, chúng tôi phát hiện thấy em có một chất giọng rất quý, nên mời em vào thi thử. Rồi tiếp: “Giờ, em diễn một tiểu phẩm đi!”. Tiểu phẩm là cái gì? Em chẳng biết. May, lúc ấy nhìn ông Di Lặc,   em liền nhớ tới ông bán kẹo kéo gầy còm  ở ngõ chợ nhà em. Thế là em đóng luôn vai ông này. Em làm điệu bê cái bàn kẹo kéo rồi hát: “Hỡi ai đau yếu sài mòn. Mua xu kẹo kéo béo tròn cối xay.” Cả ban giám khảo, nhất là ông Di Lặc, cười như nắc nẻ. Em trúng tuyển một cách tình cờ như thế,   chả hiểu có phải là vì có năng khiếu nghệ thuật hay không. Cái Bống liệu nó vẽ có thành tài không mà sao nó ham quá thế không biết, hở bác!

*

Bống ham vẽ quá. Trừ lúc ngủ, lúc ăn hay bận bịu với công việc nội trợ giúp mẹ ở nhà, lúc nào cũng thấy trong tay Bống không là cái bút chì thì cũng là viên phấn, cái que. Bống vẽ trên giấy, trên bảng, trên đất. Bống vẽ như   có sự thôi thúc từ bên trong, như chỉ có một mục đích duy nhất là  sống để… vẽ. Bống vẽ mê mải.  Vẽ như một hoạ sĩ thực thụ  mà nào Bống có biết mình đang dấn thân vào một bộ môn nghệ thuật lớn,  một nghệ thuật lấy thị giác làm căn bản, một nghệ thuật rắc rối bậc nhất, vì phân chia  ra không biết bao nhiêu trường phái, nào cổ điển, lập thể, ấn tượng, nào dã thú, trừu tượng, đa đa... Một nghệ thuật đã sản sinh ra các danh hoạ vĩ đại, như Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raplael, Pablo Picasso, Sanvador Daly,  như Từ Bi Hồng, Tề Bạch Thạch… Mà nào Bống đã biết tới lời khuyên của các bậc tiền nhân: Thói lười biếng sẽ chẳng sinh ra kiệt tác đâu, là hoạ sĩ  thì hãy vẽ đi! Là hoạ sĩ, bạn không phải diễn giải, bạn hãy vẽ đi! Vẽ đi!

Chẳng một ai dạy bảo, Bống cứ vẽ. Vẽ theo con mắt mình nhìn và trái tim yêu ghét của con trẻ mách bảo. Vẽ như một niềm vui được hít thở không khí trong lành, được ngắm nhìn mọi người, được tiếp xúc với thiên nhiên tạo vật trong một không gian tràn ngập ánh sáng. Vẽ như đồng cỏ đến kỳ nở hoa  ấy thế!  Thì chính ông  hoạ sĩ Phan chẳng đã phải kinh ngạc khi xem bức tranh Bống vẽ và thốt lên như vậy  đó thôi.    

Như tất cả các gia đình lao động, bố Lít gác chắn xe lửa và mẹ Phít buôn hoa quả,  đâu có biết đến việc học hành và thiên tư của con cái mình! Thảng hoặc, thấp thoáng biết được, thì ông bố Bống sẵn sàng trợn mắt nạt nộ: “Ô hay, cái con  lỏi này. Lâu nay mày vẫn cứ vẽ đấy à! Vẽ, vẽ, vẽ để ra đời lấy cứt mà ăn à!” ấy là những buổi Bống đem bích báo của lớp về nhà để trang trí. Từ năm lớp sáu đến lớp mười hai, Bống luôn được bầu là Trưởng ban biên tập báo tường của lớp. Và chẳng năm nào tờ báo tường do Bống trình bày không giành giải cao nhất của toàn trường.

Bố mẹ Bống chẳng biết gì về con gái họ cả. Cũng chẳng biết Bống đã học hết trung học phổ thông và trở thành thiếu nữ từ lúc nào. Ơ này, mày là con Bống  nhà tao đấy à? Ông gác chắn xe lửa say bia rượu, trố mắt nhìn con gái đi học về, ngây đờ ra vì tưởng là ai kể cũng có lý. Vì thật không ngờ vợ chồng thợ thuyền, lái thương khù khì gộc ghệch thế mà đẻ ra được cô con gái tươi đẹp  quá! Mười sáu tuổi, Bống cao một mét sáu lăm. Chân dài. Mình thon. Tóc mượt. Hai con mắt lay láy. Cái mũi dọc dừa. Và đôi môi hiển hiện phúc lộc vì có bờ góc gẫy gọn. Gương mặt chỉ có mỗi nét nhang nhác bà buôn hoa quả có tính đồng bóng ở cái cằm hơi lẹm, điểm một nét đặc sắc riêng.  Nghệ thuật hoá ra lại tác động trở lại,  làm đẹp ngay Bống, hay Bống chính là hiện thân của cái đẹp!

Ông gác chắn xe lửa và bà buôn hoa quả chẳng hề quan tâm gì đến con gái họ cả. Họ đâu có biết con gái họ đã nộp đơn thi và đã đậu với số điểm cao ngất ngưởng vào trường Đại học Mỹ thuật Yết Kiêu, một trường nghệ thuật danh tiếng đã có lịch sử trăm năm, cái lò luyện đã cho ra đời những hoạ sĩ tên tuổi như  Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Mạnh Lân,Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn… Thành ra chiều đó, được tin Bống đậu Đại học, ông bố Bống đang ngồi chễm chệ trên cái phản mộc với chai rượu và đĩa lòng lợn tú ụ,  mới khề khà:

- Bống đâu! Thế đ. nào mà mày câm như hến thế! Con lão Hàng vàng Bảo Châu, con mụ cầm đồ Bảo Tín, con ông tiến sĩ  vật lý Lê Minh ở cùng phố đang tức hộc máu ra kia kìa! Thế đ. nào chúng lại trượt vỏ chuối mà mày lại đỗ đánh oạch thế? Cứt nát lại có chóp, hử! Nhà này làm đ. gì có  mả làm nghệ thuật mà mày theo đòi, hả con ranh!

*

Bống vào học Đại học Mỹ thuật. Cô bé Đinh Minh Yên trở thành sinh viên trường dạy vẽ đẳng cấp cao nhất cả nước. Ngay năm đầu, Bống được nhận học bổng toàn phần ba trăm nghìn đồng một tháng. Xinh xắn, tính tình mềm mại, nhã nhặn, Bống được nhiều bạn quý mến, kết thân. Lại có cả anh chàng cùng lớp đẹp trai, con nhà giàu, đang là sinh viên mà cổ đeo vòng xích hai lượng vàng, đi xe máy S.H giá hai trăm triệu, ngày ngày đưa đi  đón về.

Mỗi sáng thấy anh chàng vè vè  chiếc  xe phân khối lớn rẽ vào ngõ, đón Bống đến trường, lại ríu rít bạn bè đến rủ,  mẹ Phít  vênh vang với chị em phố chợ  lắm. Còn bác Lan,  nhìn cảnh ấy, lòng không  khỏi mừng thầm. Mọi sự thế là đã thuận chiều. Thành ra, chiều ấy, bỗng thấy Bống một mình đeo cái ba lô sách, tay cắp giá vẽ, từ trường học trở về, vẻ mặt buồn thiu, bác Lan mới giật thót mình:

Bống, sao  lại lủi thủi một mình thế? Mà  mày đang  có việc  gì buồn bực phải không?

- Cháu  chán lắm, bác ạ

- Sao mà chán? Thôi, sang nhà bác đi!

Ngồi bên nhà bác Lan, Bống vừa rên rỉ vừa khóc   xụt xùi. Bác ơi , chả có đứa bạn nào nó chơi với cháu nữa rồi.  Cháu chả muốn đi học nữa đâu, bác ạ.  Trời tối nhanh quá. Bác Lan  vừa nghe Bống nói vừa dọn cơm. Rồi nhìn Bống chép miệng:

- Thôi, nói thế là bác hiểu rồi. Bây giờ ăn cơm với bác đi. Ăn xong, đêm nay bác còn phải đến nhà hát diễn. Cháu có biết  đêm nay bác diễn vở gì không? Vở Lục Vân Tiên. Trong vở này, vai Kiều Nguyệt Nga là vai chính, vai nặng. Diễn xong,  về, bác sẽ nói chuyện với cháu.

 -    ừ, bác nói ngay bây giờ cơ.

- Nói ngay, hả?

- Vâng.

Đặt bát cơm xuống bàn,  bác Lan nói từng câu thong thả:

-   Nếu thế thì thế này. Minh Yên ơi! Bác gọi tên khai sinh chứ không gọi nhũ danh  cháu nữa, để cháu thấy cháu đã lớn rồi. Và từ nay cháu phải nhìn đời như một người trưởng thành.

Nuốt nước bọt, bác Lan tiếp :

- Minh Yên! Bác năm nay gần bốn mươi tuổi. Đã sống quá nửa đời người  rồi. Vào nghề diễn viên từ năm hai mươi, có thời đài vinh quang bác đã  leo tới đỉnh. Bác đã từng được tôn vinh là giọng ca vàng. ảnh bác được in trên áp phích quảng cáo. Bác là diễn viên chính, lại kiêm cả dẫn chương trình. Nhưng, cháu có hiểu sau đỉnh vinh quang là cái gì không? Là một con dốc. Nói cụ thể trường hợp  bác. Một con diễn viên bạn bác nó ganh ghét với bác.  Và còn thiếu gì thủ đoạn mà nó không dùng để dìm dập bác. Chẳng hạn, chồng nó, một thằng nhạc công, về hùa với nó. Bác vào vai diễn, nó giả vờ quên không dạo đàn dẫn, tức là không cho một thanh mẫu để mình lựa chọn hát theo, khiến mình hát lệch giọng đi, và thế  là hỏng luôn cả vai diễn   màn đó rồi!

Nhìn hai con mắt ngơ ngác của Bống, bác Lan chép miệng :

-  Minh Yên à, cháu có hiểu không? Vài vai diễn lại bị  một lần như thế là đủ tiêu ma cả sự nghiệp xướng ca của đời mình rồi, cháu ạ ! Còn cháu,  thi hết năm,  cháu đỗ đầu, bạn bè xa lánh dần. Chuyện ấy  là dễ hiểu thôi.  Bạn bè đến với nhau lúc thành công, hiếm lắm. Là nghệ sĩ tức là sống ở môi trường luôn ô nhiễm  thói ghen ghét, đố kỵ của đồng nghiệp. Người ta vẫn nói đó. Nghệ sĩ   là người chết hai lần, cháu ạ. Một lần chết vì tác phẩm bị người đời quên lãng! Một lần chết vì thói đời ganh ghét tị hiềm của bạn bè! Vậy bây giờ ta nên thế nào ?

Ngước lên nhìn bác Lan, hai con mắt ậng nước, Bống khẽ khàng và sụng sịu:

-  Cháu chẳng biết thế nào đâu. Thôi, cháu đã thế nào thì nay cháu vẫn thế thôi, bác ạ.

 Đã thế nào thì nay lại vẫn thế! Đúng là vậy. Bống lại vẽ. Lại sống, học tập,  và vẽ hồn nhiên như xưa rày vẫn thế!  Tuy nhiên lúc này, nhờ học tập,   khiếu năng bẩm sinh của Bống đã  phát triển thành một tài năng hội hoạ thật sự. Và kết quả là năm thứ hai, thứ ba, thứ tư, mỗi năm  tài năng một phát lộ thêm, Bống lại bớt đi một số bạn bè. Còn đến năm cuối cùng, Bống đỗ thủ khoa, đội mũ mặc áo khoác cử nhân tuấn tú ở Văn Miếu Quốc Tử Giám, với tác phẩm tốt nghiệp là bức sơn dầu Thiếu nữ kéo vĩ cầm được trưng bầy ở Triển lãm Toàn quốc, một vinh dự với cả hoạ sĩ chuyên nghiệp lâu năm, thì chẳng còn một mống bạn bè nào đến chúc mừng Bống nữa.   

- Thôi, quên bọn bạn bè đại học đi, Bống. Bác nghiệm ra, bạn bè thân thiết vô tư chỉ có ở thời còn học phổ thông thôi. Vả lại, bây giờ cháu đã ra trường. Vấn đề bây giờ là kiếm công ăn việc làm để  tự nuôi sống mình và để phát triển tài năng, hiểu chưa!

Bác Lan nói. Mẹ Bống nhìn bác Lan khấp kha khấp khởi:

- Vâng, bây giờ trăm sự em nhờ bác. Công ăn việc làm là thứ nhất. Có nó thì mới tính chuyện chồng con được. Sau nữa mới là chuyện tài năng. Cả nhà này, em thì có cũng như không. Bố Tít cháu thì thế, dùi đục chấm mắm cáy, biết gì. Cô Phương thì chỉ giỏi trang điểm cô dâu. Cô Lanh chỉ biết buôn bán áo quần. Quen biết rộng rãi chỉ còn bác. Bác thương cháu, dắt dìu cháu từ lúc nó tập tọng biết vẽ. Giờ, bác cầm tay chỉ đường cho cháu, em mang ơn bác suốt đời!

*

Tổng biên tập báo Văn hoá Thành phố bạn học cũ từ thời phổ thông với bác Lan, tuổi năm mươi, đầu hói như quả dừa, nọng thịt ở cằm đùn một vệt, nheo nheo mắt ngắm bức vẽ minh hoạ của Bống, chưa để bác Lan trình bày đã gật gật đầu khen: “Có hồn lắm! Có tinh thần lắm! Tinh tế lắm! óng chuốt lắm!”. Và nhổm ngay dậy, nhấc điện thoại bàn, bấm số: “Alố alồ. Mời chị Mấn Thị Rào lên gặp tôi nhé!”.

Người đàn bà tên Rào cao lêu đêu, tóc uốn điện xoăn bụt ốc, mặt thười thưỡi như cái lưỡi cày, vai rộng, tướng đàn ông, khoác cái áo thổ cẩm chàm, thêu hoa xanh đỏ tím vàng rờ rợ, bước vào.

-   Chị Rào! Đúng là báo ta đang thiếu hoạ sĩ. Chị nhận cho cháu Đinh Minh Yên về phòng chị nhé. Sau một tháng,  nếu làm tốt thì cho ký hợp đồng dài hạn sáu tháng.

Tổng biên tập nói thản nhiên rồi quay sang Bống và bác Lan:

-  Giới thiệu với cô Lan và cháu, chị Mấn Thị Rào trưởng phòng hành chính- trị sự. Từ nay, cháu Minh Yên là nhân viên thuộc phòng cô Rào nhé !

Mặt người phụ nữ tên Rào lì lì vô cảm. Hai gò má cao nổi lấm tấm những nốt tàn nhang. Nhận tập hồ sơ của Bống từ tay Tổng biên tập,  bà quay lại,  hất hàm vào Bống ra hiệu hãy theo tôi, rồi lắp xắp bước ra cửa phòng.

Bác Lan thở phào, nhẹ nhõm, cám ơn Tổng biên tập rối rít, rồi ra về. ở nhà, mẹ Bống đang ngóng, thấy bác Lan mặt mày tươi rờn, hổn hển chạy lại, hỏi liên tiếp, có được không, có mất nhiều tiền không, bác; rồi nhe răng cười phớn phở: Đấy, bác là tay thầy thước thợ, em biết ngay mà. Bố Bống đang ngồi trước chai rượu, lèm bèm: Đ. mẹ! Không đi làm thì ở nhà chạy chợ với mẹ, lo đ. gì!

Bống đi làm ở báo Văn hoá Thành phố. Tháng sáu nóng như nung qua, bác Lan hỏi: Đã ký hợp đồng chưa? Bống lắc đầu. Hai tháng qua. Trời đã phảng phất vẻ thu. Bác Lan hỏi, Bống cũng vẫn lắc đầu. Bác Lan bảo: Chắc người ta bận bịu quá!

Cho đến một sáng, mẹ Phít đùng đùng chạy tới đập cửa nhà bác Lan. Bác Lan vội nhảo sang.

Sao không dậy đi làm, Bống? ốm à?

Vừa hỏi bác vừa sờ đầu Bống. Bống chống tay ngồi dậy, uể oải:

- Từ hôm nay cháu không đi làm nữa!

- Sao thế?

- Cháu không đi làm nữa!

- Nhưng mà tại sao cơ chứ?

- Chán lắm!

- Ô hay, mày nói gì mà  lạ thế!

- Bà mặc áo thổ cẩm bà ấy nói: Làm ở đây phải có xe máy đi!

- Mẹ Bống rẫy nẩy:

- Khổ quá, bà mặc áo thổ cẩm là bà nào?

Bác Lan nói:

- Là bà trưởng phòng của nó. Rồi vỗ nhẹ vai Bống:

- Thì mẹ mày sẽ sắm xe máy cho mày! Đi làm đi!

- Không!

- Sao lại thế?

- Đến chỉ rửa ấm chén, quét nhà thôi.

- Ô hay! Sao lại thế được?

- Có ai cho vẽ đâu mà làm!

Ngoài cửa, cô Phương, cô Lanh đã tới. Bố Lít đứng ở cửa buồng, làu bàu:

Tao đã bảo rồi, nhà này làm đ. gì có mả làm nghệ thuật!

Cô Phương ngọt nhạt:

- Bống ơi, sao cháu dại thế? Bây giờ chưa được vẽ thì sau này sẽ được. Lúc này, xin được vào cơ quan nhà nước có dễ đâu.  May mà có bác Lan, chứ không phải tiền tấn đấy, cháu ạ!

Cô Lanh riết róng:

- Sao mày ăn phải cái gì mà ngu thế! Cốt là vào được cái biên chế đã. Còn nó bảo hót cứt cũng làm, hiểu chưa? Mày có biết biên chế là thế nào không? Là có lương sướng suốt đời. Về già nghỉ hưu cũng có lương. Còn như tao với cô Phương bây giờ là lo hôm nay, còn lo cả ngày mai về già nữa. Ngu vừa vừa chứ ngu thế thế thì ai chịu được!

Bống vẫn im bằn bặt. Cho tới lúc mẹ Bống xoa đầu con, ngọt ngào:

“Thôi, nghe lời bác và hai cô đi! Với lại con còn phải nghĩ tới chuyện lấy chồng nữa chứ!”

Thì Bống vụt đứng dậy, mếu xệch miệng, khóc oà:

- Các người có hiểu cho tôi không? Cái người đàn bà mặc áo thổ cẩm ấy là cai ngục! Là kẻ giam hãm, đoạ đầy tôi.  Đến ngủ mê tôi cũng thấy cái mặt lưỡi cày nanh ác của mụ. Các người có biết hôm qua mụ ấy nói tôi thế nào không? Mụ ấy nghiến răng kèn kẹt, chỉ tay vào mặt tôi, rủa: “Con kia! Tao căm thù mày! Mày là đứa cướp cơm chim của tao. Chỗ của mày lẽ ra là của con tao. Tháng này nó tốt nghiệp trường Mỹ thuật Công nghiệp. Tao đã dấm sẵn chỗ cho nó. Vậy mà mày đến tranh phần của nó! Tao phải vạch vôi vào cái mặt bất lương của mày!”

*     

Nghỉ việc ở Toà soạn báo Văn hoá Thành phố, tất nhiên, sau đó ít lâu nhờ sự quen biết và tài giao tiếp của bác Lan, Bống cũng đã lại đi làm. Bống là hoạ sĩ vẽ bìa sách ở Nhà xuất bản Trí Tuệ. Rồi tiếp đó làm hoạ sĩ trình bày ở báo Hoa Phượng đỏ. Báo Khăn hồng. Tạp chí Bầu trời. Tập san Thuỷ tiên… Nhưng ở đâu cũng chỉ được dăm bữa nửa tháng. Cùng lắm là một quý.  Và thế là một thời kỳ long đong của Bống đã lại  bắt đầu. Đó là bởi vì,  theo luật định,  cứ tới lúc các cơ quan sử dụng lao động phải xem xét để ký hợp đồng dài hạn với Bống là công việc y như rằng bị...tắc tị. Tắc tị  vì nhiều lý do không tiện nói ra. Có nơi lý do y sì như ở tờ báo có người đàn bà mặc áo thổ cẩm giữ chức trưởng phòng. Còn các nơi khác thì lý do còn đơn giản hơn,  nhưng xem ra càng khó nói hơn.  Các hoạ sĩ chủ trì ở những nơi đó khi xem lý lịch và bản sao tác phẩm tốt nghiệp của Bống đều  tái nhợt mặt mày, bỗng chốc như thấy mình biến thành cái hình bố Lít bé tý, đen thui như than trong tranh vẽ hồi bé của Bống!

Bống chẳng được nhận vào một cơ quan nào hết. Cơ hội xem chừng càng lúc càng hiếm hoi. Nhưng năm sau đó, tiếp tục phát tiết anh hoa, Bống  hoàn thành  thêm  bức sơn dầu Thiếu nữ và hoa phượng được trưng bày ở Triển lãm Mỹ Thuật Thành phố và sau đó được Thành phố mua để đưa vào Bảo tàng văn hoá  

Bống chẳng được nhận vào biên chế một cơ quan nào. Giờ đây, Bống là hoạ sĩ tự do. Mà hoạ sĩ  tự do  ở thời kỳ này cũng có nghĩa là không có công ăn việc làm ổn định, không có thu nhập đều đều. Không may, lúc này  gia đình Bống lại đang gặp hồi túng quẫn. Bố Lít bị mắc chứng đái tháo đường, độ đường trong máu lên tới 13 phẩy 8, phải về hưu non, giờ suốt ngày chỉ lê la ở các chiếu tổ tôm. Còn mẹ Phít, đi đêm lắm cũng có ngày gặp ma, bị phát hiện gian lận  trong việc dán mác hoa quả, phải phạt cả chục triệu đồng, vốn liếng hao hụt  gần hết, giờ đây suốt ngày rầu rĩ, mở miệng là    than van, miếng cơm manh áo còn chưa đảm bảo, làm sao tính chuyện chồng con cho Bống bây giờ?.

Trong khi  đó, lạ chưa,  qua tuổi hai mươi  lâu rồi mà Bống vẫn chẳng nghĩ gì đến chuyện yêu đương, xây dựng gia đình. Bống chỉ một mối bận tâm là vẽ. Bống vẽ mải mê và hình như càng lúc càng ngập chìm  vào cơn mê man thác lũ. Không giờ giấc, chẳng  đêm ngày. Bống  như kẻ sinh ra để vẽ. Bống vẽ như mắc nợ thế gian. Như trong tay lúc nào cũng có ngọn bút  thần. Như  bị thiêu đốt trong khát vọng được biến tất cả  thành hình hài màu sắc. Như Pablo Picasso, trong nhà bất cứ khoảng không nào cũng có nét vẽ. Như Bùi Xuân Phái, một cái vỏ bao thuốc lá cũng có thể là một tấm toile. Bống vẽ như con nhang đệ tử  trong các giá đồng, hoàn toàn chịu sự chi phối của thần linh .Bống vẽ trong cơn thác loạn của tâm thần. Và đây là điều ít người còn biết.  Nghề hoạ, nghề của con nhà giàu. Một tuýp sơn dầu giờ có giá cả nửa triệu bạc. Thành ra mẹ Phít một hôm vừa sờ đầu Bống  vừa lo sợ vì thấy hai mắt Bống đỏ rực như  đang lên cơn sốt và ngơ ngơ ngẩn ngẩn đầy vẻ bất an, liền phát hoảng la gọi bác Lan:

Bác Lan ơi, sao mà cái Bống  nó như kẻ mất hồn thế này. Mà bao nhiêu vốn liếng buôn hoa quả của tôi nó vay sạch cả rồi! Thế này thì   đến bán nhà bán cửa, chết đói vì con mất thôi!

Và nghe vậy thì  bố Lít lập tức nổi cơn lôi đình, ông quát:

Vẽ không ra tiền thì vẽ làm đ. gì, con ranh!

Chưa hết! Đỉnh điểm của tình thế là tuần lễ sau, đúng ngày đầu tuần thấy Bống đi đến Bảo tàng văn hoá thành phố, rồi ôm một bức tranh khổ lớn bọc vải kín lầm lũi đi về; và đến nhà là đóng chặt cửa buồng, nằm liệt một ngày dài. Tiếp đó, hôm sau trở dậy, vẫn không ăn uống gì, ba hôm liền cửa buồng lại im ỉm, bố mẹ gọi năm lần bảy lượt mới chiụ thưa. “Con đã bảo là con không ăn  rồi cơ mà!”. Cửa mở, nói độc một câu nọ trước con mắt  hoang mang sợ hãi của mẹ Phít, Bống ngồi lặng trước cái giá vẽ đang hiện hình một cánh đồng hoa, một cánh đồng hoa tươi mát tràn trề như hiện ra từ một giấc mơ. Ôi, Bống! Hai con mắt trũng sâu như hai vết  dao xẻ, thấp thoáng  ánh thần quang và đầm đìa nước mắt  khổ đau. Những sợi tóc mai khô xác. Cái tạp dề bê bết màu sơn dầu. Một thân vóc mảnh mai gầy gùa, rộc rạc, kiệt lực. Một gương mặt mất máu.

Làm sao có thể hiểu nổi  tính đa tạp và phong phú nhiều chiều của cuộc sống cùng giây  phút  thăng hoa, ép xác dâng mình trong hiến tế của nữ hoạ sĩ trẻ Đinh Minh Yên, mẹ Phít kêu khàn khàn:

- ối con ơi, con có bị làm sao không, để mẹ đi đền chùa xin giải hạn cho con?

Còn ông thợ gác chắn thì vẫn cái giọng bia rượu  quát giật liên hồi:

Bống! Mày điên rồi hay sao thế, hả!

Bấy giờ, Bống mới  từ từ đứng dậy, tay chỉ bức sơn dầu  đặt ở góc buồng mới đem về hôm nào, mặt  mày vừa hoảng loạn vừa  ngơ ngác,  đột ngột gào  một hơi thật lớn:

- Các người có biết là tôi lại  vừa gặp cái người đàn bà mặc áo thổ cẩm không? Hỏi rằng còn có gì ê chệ cho tôi hơn nữa không, hở các người!

*

Cuối cùng thì  bác Lan chẳng còn cách nào hơn là  lại phải cầu cứu hoạ sĩ  Phan, ông già có tầm kiến văn vô cùng sâu rộng, đã bốn chục năm trong nghề hoá trang của đoàn cải lương.

Hoạ sĩ Phan tới nhà Bống xem tranh, hỏi chuyện  của Bống, rồi sang nhà bác Lan:

-  Cô Lan à. Hoạ sĩ già nói: Nghe Bống nó nói loáng thoáng thì hình như là bức Thiếu nữ và hoa phượng của nó bị Bảo tàng văn hoá thành phố   cho rằng là tranh chép lại và có ý tưởng xấu nên bị gỡ ra, trả lại.  Người làm việc này là cậu giám đốc mới về nhậm chức. Cậu này, nghe nói, ừ  nghe nói  thôi chứ chưa chắc đúng, có thời là bạn đồng môn với Bống, ngày đi học cổ đeo vòng xích hai lượng vàng và đi xe máy S.H.  Dừng lại, thở một hơi dài rồi hoạ sĩ già tiếp - Nhưng thôi,   chuyện này hãy nên dừng ở đó. Quan trọng  theo tôi  là chỗ này kia. Là  chuyện cô tình cờ thi đỗ vào  trường nghệ thuật ca kịch dân tộc và vừa rồi  tôi được ngắm  bức cánh đồng hoa  hoạ sĩ Đinh Minh Yên vẽ trong trạng thái phẫn thì phát và trào dâng cảm xúc, cô Lan ạ.   Thế  đã có khi nào  cô nghe nói tới sa mạc Acatama ở Chi Lê là nơi khô hạn nhất thế giới không?

-  Dạ, chưa ạ.

-  ở đó, tức là ở cái sa mạc Acatama thuộc  nước Chi lê ấy, từ năm 1570 đến năm 1971, suốt bốn trăm năm  không hề có một hạt mưa nào. Bốn trăm trăm năm không hề có một hạt mưa nào! Nóng khô hơn cả sa mạc Gôbi, sa mạc Xahara. Vì ở hai nơi nọ, dù sao cũng còn sinh sống cây xương rồng gai và loài thằn lằn thân trắng, mào đỏ. Trong khi đó, ở Acatama thì hoàn toàn không.  Vậy mà…

Dừng lại một lát, hoạ sĩ già nhìn bác Lan, tiếp:

- Vậy mà đến  một ngày nọ, đến một ngày nọ, cứ như là được hưởng phép thần, cả hoang mạc Acatama bỗng biến thành một đồng cỏ tưng bừng hoa tươi.

-  Bỗng biến thành một đồng cỏ tưng bừng hoa tươi!

-  Đúng thế! Biến thành một đồng cỏ tưng bừng hoa lá tốt tươi . Và cô Lan có biết là vì làm sao không?

-   Dạ...

-  Đó là vì...một ngày nọ, bỗng có một hải lưu đổi dòng chảy qua vùng bờ biển, nơi có  cái hoang mạc ấy. Và thế là  hiện tượng Eninô đã xảy ra: mưa bão liên tiếp đổ vào hoang mạc. Mưa bão liên tiếp đổ vào hoang mạc! Và thế là các hạt giống ủ trong lòng cát sâu từ bao năm nay tưởng là đã thui chột hết hoá ra  không chết,  không bao giờ chết, nghĩa là bất tử và  đã bật dậy mầm sống. Đã bật dậy mầm sống như những tài năng thực sự  ẩn mình chờ đợi thời cơ, như đồng cỏ đến kỳ đến cữ thì nở hoa. Chà, tài  năng thực sự là cái bí ẩn,  là sức mạnh  của tự nhiên, không gì có thể chiến thắng   được. Không gì có thể chiến thắng được! Tài năng thực sự là bất diệt, là bất diệt, bất diệt! Bất diệt! Cô Lan à!

Cuối tháng ấy, hoạ sĩ Phan về hưu. Trước khi nghỉ việc, ông đã giới thiệu  và bảo đảm  cho Bống  vào làm ở đoàn cải lương, thế chân ông.

 

CON SỨA

Truyện ngắn của ÁI DUY

 

ÁI DUY

- Tên thật là Huyền Tôn Nữ Kim Ái, sinh năm 1960, tại Nha Trang.

- Quê quán: Thừa Thiên Huế.

- Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm. Đi dạy rồi làm biên tập viên cho tạp chí Văn nghệ địa phương. Hiện đang điều hành một khách sạn nhỏ tại Nha Trang.

- Các tác phẩm đã xuất bản: Những đóa hồng bỏ quên (Truyện ngắn, Hội VHNT Khánh Hoà, 1989); Không buồn (Truyện ngắn, Nxb Hà Nội, 2004),  Người khách lạ (Truyện dài, Nxb Kim Đồng 2004), Quân tử @ (Truyện dài, Nxb Kim Đồng, 2008), Những đứa con của biển (Truyện dài, Nxb Trẻ,  2006).

 

Sự bất công, vô lý và oan khuất…luôn luôn tồn tại song hành và rập rình đe dọa cái đẹp, cái bình yên trong sáng trong cuộc đời của mỗi chúng ta; nhất là khi chúng được tiếp tay bởi bạo quyền trong bóng tối, thứ quyền lực ngầm mơ hồ mà lởn vởn ma mị. ít nhất ai cũng một lần trong đời ngửa mặt kêu Trời. Thế nhưng, không phải ai cũng dễ dàng  buông xuôi quỵ ngã.

Tôi biết một người trong số họ, và người đó đã đơn độc vượt qua…


 

Chiếc ghe máy từ từ khuất dạng vào những đám mây ngũ sắc ở cuối đường chân trời, cùng với bóng chiều đang dần loang những vầng sáng vàng óng, sóng sánh trên mặt biển. Mười hai giờ trưa mai nó mới xuất hiện lại, theo đúng hợp đồng, cái hợp đồng đã được cam kết và thực hiện hàng bao lâu nay.

Những ngày cuối tuần hoặc nghỉ lễ, X, và vài người bạn thân thường chung nhau thuê một chiếc ghe ra đảo, thường là những vùng đảo vắng vẻ trơ trọi giữa biển khơi, nơi có nhiều ghềnh đá cheo leo, các bãi rạn lắm hang hốc để buông câu. Ghe thả người xuống đảo từ chiều hôm trước và đón vào sáng hôm sau, lương thực nước uống đồ nghề đầy đủ. Tự do tuyệt đối, yên tĩnh khoáng đạt, mênh mông bát ngát đất trời sóng nước. Đôi khi có duyên đặt chân lên đúng một hòn đảo hoang  hẳn hoi, chim bay quàng quạc ngang mặt, vượn hú thon thót bên tai, tịnh không bóng người, không một cọng rác thải, cứ như lạc vào thời tiền sử.

Đó là thú vui duy nhất của X, nếu coi thú vui như là một phương tiện tìm quên và hồi sức sau những giờ phút căng thẳng mệt mỏi với công việc, với cuộc sống chung quanh. X không phải là tay  sát cá, mà anh cũng chẳng quan tâm đến điều đó. Dường như X chỉ cần đối diện với biển, hòa sự cô độc của mình vào cái mênh mông bát ngát diệu kỳ của biển là anh lại thấy mình được hồi sinh. Ra tới đảo, X như con kình ngư quẫy về đại dương, như con ngựa hoang tung vó trên thảo nguyên, thấy mình nguyên sơ và trong veo như một con sứa.

- Mình ra tới đảo nào đây vậy anh X?  - Một người cùng đi trong nhóm hỏi, vừa khệ nệ lôi cái thùng xốp lên cái gộp đá cao hơn.

X cũng đang loay hoay với cần câu hộp mồi, đáp mà không ngoái lại:

- Chẳng biết nữa, mà đâu thì cũng vậy thôi!

- úi trời, đảo hoang mà - Ai đó vừa đi sâu vào bên trong quay trở ra thông báo - Không có ai cả. Phía bên kia dường như có mấy cái hang ăn luồng xuống sát mép nước. Toàn là đá và đá.

- à, vậy là có cá mú nhiều lắm đó!

Cả nhóm đi lần này có 12 mạng, X chỉ quen có 2, là A và B, những người còn lại là bạn của bạn, hoặc là bạn của bạn của bạn gì đó, anh không biết, không hỏi han thêm ngoài mấy câu chào làm quen khi lên ghe. Cần gì đâu, miễn là họ cùng chung sở thích, cùng một mục đích, cùng lên một chiếc ghe; gặp nhau trong một chuyến đi câu, chắc gì mai kia mốt nọ vào đất liền mà X còn nhớ mặt họ. Ngay bây giờ đây cũng vậy. Nhận diện một con người cụ thể, đó là điểm yếu nhất của X, tất nhiên là chỉ xét về những yếu tố hình thể bên ngoài mà thôi.

Như thường lệ, lên tới đảo sau khi phân chia đồ đạc cá nhân thì mạnh ai nấy tìm một góc độc lập tác chiến. Ai câu cứ câu, ai nhậu cứ nhậu, ai ngủ cứ ngủ. Họ sẽ tập trung lại vào buổi ăn tối, hoặc cà phê khuya, chỉ cần kiểm đủ quân số khi lên ghe về lại đất liền là được. Dân cư ở đảo nếu có cũng chẳng ai làm phiền họ.

X là dân đi câu biển kỳ cựu mà nơi này anh cũng chưa bao giờ đặt chân đến, càng hay. Cứ như nó vừa trồi lên khỏi mặt nước vậy. Bốn bề toàn đá dựng, lô xô, lởm chởm sắc nhọn, khắc lên bầu trời những dãy tường thành  hùng vĩ đầy uy lực huyền bí. Cứ đi được vài bước là phải leo, phải bò, phải men xuống mà lội băng qua mấy khe nước cạn róc rách có từng bầy cá tí hon đủ màu tung tăng dạn dĩ. Chỉ có được một sườn dốc thoai thoải sâu vào bên trong là có được cây xanh, nhưng màu xanh cũng không được phủ phê tràn trề mà đầy cố gắng  cam chịu.

Nắng chiều vẫn chưa tắt hẳn, hoàng hôn ở biển đầy lưu luyến khắc khoải. Xa xa đã thấy thấp thoáng những ngọn đèn của các tàu đánh cá. X đã bỏ xa nhóm bạn, một mình vác đồ nghề lặn lội vào sâu bên trong. Anh đi vòng qua một cái vách đá nhô cao chặn tầm nhìn, lội qua hai cái khe nước cạn nhìn rõ miệng mấy cái hốc đá tối om đầy khả nghi, đạp qua một bãi cát sỏi lởm chởm xác hàu chết và san hô. Vẫn chưa ưng ý, X cởi hết đồ đạc tư trang gói vào mấy lớp ni lông rồi đội hẳn lên đầu, bơi qua một cái eo nước khá sâu để trèo lên được một cái ghềnh đá cheo leo nhô xa ra biển. Tuyệt hảo! X cột cần câu, buông mình, sải tay chân, dán lưng lên một cái tảng đá bằng phẳng, thấy mình như đang bay lên. Không gian bao la vô tận, chỉ còn tiếng sóng đập vào ghềnh đều đều như hơi thở của biển khơi.

 Đó là giây phút mà X tận hưởng sự tự do tuyệt đối của mình. Anh nhắm nghiền mắt lại, nhớ Y, nhớ từng li từng tí. Cái nhớ không bị ngăn chận, không bị dòm ngó, không cần ngụy trang. Cái nhớ như gió đại dương lồng lộng tuôn tràn bất tận, trải dài từ giây phút đầu tiên mà anh gặp nàng cho đến nụ hôn mà họ vừa trao nhau cách đây 48 tiếng đồng hồ. Cái nhớ dập duềnh, chao đảo, long lanh, đánh thức từng tế bào thần kinh cảm giác. Giờ này Y đang tất bật với căn bếp của mình, đang lau nhà, đang tưới cây; những sợi tóc mai ướt đẫm.  Lát nữa đây khi Y ngồi duỗi chân  hong tóc thì cũng là lúc mà anh sẽ bấm gởi tin nhắn đầy yêu thương quen thuộc này cho nàng, anh yêu em, anh nhớ em, anh muốn ở bên em... Chỉ có vậy là lòng anh đủ ngập tràn bình yên và thanh thản.

Dường như X vừa chìm vào một giấc ngủ, anh mở choàng mắt dậy vì một âm thanh rất lạ lẫn vào tiếng sóng biển rì rầm. Biển đêm. Đảo hoang. Hoàn toàn vắng lặng. Không có ai. Trăng thượng tuần đã bị mây che khuất, những vì sao li ti nhấp nháy mờ xa vòi vọi. Cái cần câu quay và túi đồ nghề vẫn còn đây. X lục tìm đèn pin. Tay anh khua khoắng chạm phải chai nước, hộp cơm, gói thuốc, con dao nhíp... Không có nó, cái vật dụng tối cần trong đêm. Thật quái lạ, chẳng lẽ anh lại bỏ quên nó ở nhà? Không sao, X mở hai lớp bao ni lông lôi điện thoại trong ngực áo ra, tận dụng ánh sáng khiêm tốn từ cái màn hình. Cũng chỉ quan sát trong vòng bán kính 3 bước chân trở lại, nhưng dọ dẫm mà đi chắc cũng không đến nỗi nào. Còn sớm, Y đã nhắn tin trước cho anh. Nàng cảm thấy bất an, nhắc anh cẩn thận. X  như nhìn thấy đôi mắt mở to đầy âu lo trách móc của nàng. Phải, cuộc sống đầy bất trắc, khó khăn rập rình; cố tìm một điểm tựa mà đi. Thậm chí, cả khi đã tìm được một điểm tựa rồi cũng phải lo mà gia cố nó, bảo vệ nó, đặng còn song hành suốt đời. Anh sẽ cùng em vượt qua tất cả Y à, X  thầm nhủ.

Có thể giờ này nhóm bạn câu đã tập trung lại ở trên cái ghềnh đá trung tâm để ăn khuya như đã hẹn. Họ không gọi nhau mà do tùy thích của mỗi người, nên sự vắng mặt ai đó cũng không thành vấn đề. X xếp gọn túi đồ, khoác lên vai, nhắm hướng cái mỏm đá cao nhất to nhất  thẳng tiến. Để tiết kiệm pin, anh không bật điện thoại chỗ nào có mặt phẳng dễ đi, căng mắt cẩn thận đặt từng bước chân. Ra đến cái khe nước cạn ban chiều X khẽ giật mình, nước đã lên cao quá đầu gối anh, như vậy chỗ cái eo nước sâu có khi đã thành vực xoáy mất rồi.

Có một luồng hơi nóng phả ngay sau gáy X. Anh quay phắt lại. Cái mùi biển  trong lành đã bị lẫn chút gì ô nhiễm thì phải. Bóng tối ngột ngạt, đen ngòm. Có cái gì đó vừa chạm vào anh, vừa lướt qua anh. Ai đó?. X dừng bước, định thần lắng nghe, dường như có tiếng cười gằn bên tai. Tôi, X đây, có ông nào đó không?. Vẫn chỉ là những ngọn gió mơn man xạc xào đùa cợt, anh nhủ thầm, có lẽ chúng đã mang âm thanh từ phía những người bạn đang quây quần bên kia ghềnh đá, cùng với hơi hướm từ đống lửa ấm áp tới tận đây. Nhưng không phải. Không có gì. Tuyệt không một động tịnh. Những vách đá đen ngòm dựng chung quanh anh có vẻ như cao hơn, thăm thẳm hơn, và càng lúc càng lùi xa anh hơn.

X quyết định móc điện thoại ra gọi cho A, để định hướng cho nhanh mà tìm về chỗ bọn họ. Khi màn hình sáng lên, anh không tin vào mắt mình nữa, cột sóng điện thoại đã biến mất tăm, không chút dấu vết. Ngoài vùng phủ sóng! Sao lại như vậy được? Anh đang rơi vào cái tình huống quái gì thế này? Chắc phải qua gộp đá này sẽ lại có sóng thôi. Nhưng anh làm sao vậy, mọi khi, anh cũng đã từng qua đêm một mình trên ghềnh đá rồi sáng sớm lò dò lội về, hà cớ gì bây giờ phải hoảng hốt? X cố trấn tĩnh mình, hít một hơi thật sâu, nhưng anh không xua được cái cảm giác, dường như không phải chỉ có một mình anh trong bóng tối dày đặc lúc này. Phải có hơn một cặp mắt đang dõi theo từng động tịnh của anh. Y ơi, X thầm gọi tên nàng.

-   Ông X. Một giọng nói rin rít bất ngờ bên tai.

X  chưa kịp phản ứng thì lập tức đầu anh bị kéo giật ngược ra sau, tay bị khóa tréo, chân anh bị đá khuỵu xuống. Cái đầu tiên anh cảm nhận là một mảnh thép lạnh ngắt kề sát cần cổ. Tất cả diễn ra nhanh như chớp. Những thứ mùi khét lẹt tanh tưởi cùng đồng thời đổ ập tới, 2,3, hay 4, 5 cái bóng đen gầm gừ.

-  Mày mà la lên  một tiếng là tao cắt cổ.

X vẫn mở mắt nhìn trừng trừng vào bóng đêm, xuyên thấu mấy tầng mây đen vần vũ, có một ngôi sao xanh xa thăm thẳm đang đồng hành.

-  Mày là thằng chó, thằng ngu, phải dạy cho mày khôn ra, thằng chó, thằng ngu... Từng cú đấm ác hiểm từ màn đêm đen kịt  tung vào bụng, vào mặt X. Anh đã mang máng hiểu ra trận đòn thù này nhưng hoàn toàn không ngờ chúng lại diễn ra ở đây, vậy là những lời hăm dọa cảnh cáo nặc danh đã thành hiện thực. Ra là chúng mày; X đau đớn mềm oặt gục xuống bãi đá, lập tức anh bị kéo giật ngửa ra sau lại, dao kề cổ.

- Mày móc điện thoại ra, gọi cho con Y, nói câu này thì tụi tao tha. Nói: Y, mày chỉ là một con đĩ, một con đĩ rạc bẩn thỉu. Tao căm thù mày.

Lưỡi dao bắt đầu di chuyển trên cổ X.

- Nếu chấp nhận, mày chỉ việc chớp mắt, tụi tao sẽ buông tay cho mày lấy điện thoại. Tao đếm tới 10, mày vẫn ngoan cố thì đừng trách.

- Thằng chó, gọi đi, nói đi. Con đĩ, nhớ chưa!

Lưỡi dao đã được lấy ra khỏi cổ. X đặt điện thoại vào tai mình, chuông đang đổ hồi thứ nhất.

- Em nghe đây. Anh đang ở đâu vậy?

- ...    

-   Em không nghe gì cả, toàn tiếng sóng và gió ù ù thôi. A lô... A lô.

X đang áp cái điện thoại vào lồng ngực, anh vừa bị một cái thúc đau nhói vào hông. Anh chậm rãi đưa nó lên.

-  Anh yêu em lắm...

Chiếc điện thoại ngay lập tức rơi khỏi tay anh, bật lăn lông lốc trên các tảng đá. Âm thanh cuối cùng mà X còn nghe được đó là tiếng rơi rất êm, rất ngọt của nó khi chìm sâu xuống vực. Cơ thể anh rát bỏng như vừa chạm phải địa ngục, dường như nó đang tan ra, chảy ra,  hòa lẫn vào đại dương

*

Và ánh sáng, ánh sáng chan hòa, bình minh đang lên phủ một màu hồng tươi  khắp vạn vật. ánh sáng đã đánh thức cái cơ thể bất động nửa trên nửa dưới mặt nước lấp xấp. X bàng hoàng ngồi dậy, anh chưa kịp hiểu chuyện gì đang xảy ra thì cả nhóm bạn câu đã lô xô ùa tới.

- Anh X, ngủ ngon dữ ha, tụi này gọi cho ông mãi mà không được.

- Qua ăn sáng uống cà phê đi chớ, rồi bơi một vòng cho khoẻ. Cá mú đâu, đêm qua không câu à? Vậy mà không quay về nhậu với anh em.

Trí nhớ X mù mờ hỗn độn, anh  đang cố sắp xếp, kết nối lại các dữ kiện. Cái điện thoại rơi xuống nước là có thật. Tình yêu của anh và Y là luôn luôn có thật. Cổ anh có vài vết xướt rớm máu cũng là có thật. Bụng anh đau âm ỉ và cơ thể buốt rát là có thật. Những khuôn mặt đang vây quanh anh hỏi han đây cũng là có thật nốt. Vậy suy ra, những bóng đen ma quái hành hung anh cũng đương nhiên là có thật luôn. Tệ hơn nữa, đảo vốn bỏ hoang, không một bóng người, những bóng đen ấy ắt phải đi theo anh cùng trên một chiếc ghe từ đất liền ra, cũng có nghĩa là, họ đang vây quanh anh đây!

Tất nhiên là X gượng đau, cố bình thản góp chuyện với mọi người, anh không muốn cái nhìn của mình dừng lại lâu trên bất kỳ khuôn mặt ai. Ai là bọn họ, bọn họ là ai, X cần biết điều đó để làm gì, để bắt đầu một cuộc trường chinh vô nghĩa cho luật trả vay hay sao? Để lôi họ ra ánh sáng và bắt đầu một cuộc chơi công bằng hay sao? ...Anh lẳng lặng trườn mình xuống nước, nhẹ nhàng bơi tách ra xa, ngắm nghía những vết thương thấy được trên cơ thể mình. Một vài chỗ ửng đỏ, sưng lên. X thả trôi mình lềnh bềnh như một tảng rong, ngửa bụng nhìn trời...

Khi X trồi lên khỏi mặt nước với một cơ thể đỏ rát trước mọi người thì ai đó kêu lên:

- Sứa! Trời ơi ông bị sứa quất rồi! Thấy ghê quá! Rát lắm phải không?

Rồi lại ai đó:

-  ừ, con sứa, sứa độc! Đúng đó!

X hơi ngẩn người ra. ừ nhỉ, những con sứa đủ màu trong veo, bung xòe mềm mại, như người vô hình lởn vởn trong làn nước, chạm phải là mang họa; thế nhưng cứ vớt lên bãi cát nóng ran  là từ từ biến dạng, tan chảy không dấu vết ngay. Y đã từng kể cho anh nghe, ngày còn bé nàng đã nhiều lần đùm túm những con sứa xinh đẹp bị sóng đánh hất lên bờ cát này vào bao ni lông mang về nhà chơi, nhưng thường thì lát sau chỉ còn lại một dúm bèo nhèo rúm ró.

 

 

TRỨNG…

Truyện ngắn của CHÂU DIÊN

 

Châu Diên

- Tên thật là Phạm Toàn.

- Sinh năm 1932.

- Quê quán: Đông Anh, Hà Nội.

- Nghề nghiệp: Dạy học, nghiên cứu tâm lý giáo dục.

Các tác phẩm đã xuất bản dưới tên Châu Diên: Mái nhà ấm (truyện ngắn, Nxb Văn học, 1960); Con nhện vàng (truyện ngắn, Nxb Thanh niên, 1962); Sống giữa những người anh hùng (Bút ký, Nxb Thanh niên, 1962); Người sông Mê (tiểu thuyết, Nxb Hội  Nhà văn, 2004 – Thời đại và Đông Tây tái bản 2010); Bảy mươi ba chiếc cối đá (Truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, 2007); Sấm trên núi (Truyện ngắn, Thời đại và Đông Tây, 2010); Chín mươi ba (Dịch, Victor Hugo, Nxb Văn học, 1982, 1987); Cô chủ quán (Dịch, Carlo Goldoni, Nxb Văn học, 1982); Ruồi (Dịch, Jean-Paul Sartre, Nxb Văn học, 1989); Sư tử (Dịch, Joseph Kessel, Nxb Văn học, 1983); Nhà tiên tri (Dịch, Khalil Gibran, Nxb Hội Nhà văn, 1994 – Thời đại, 2010); Bay đêm (Dịch, A.de Saint-Exupéry, Nxb Văn học, 1986); Mặc cảm của Đê (Dịch, Đới Tư Kiệt, Nxb Phụ nữ, 2007); Hoàng tử bé (Dịch, A.de Sain-Exupéry, Nxb Lao động và Đông Tây, 2008); Vào một đêm không trăng (Dịch, Đới Tư Kiệt, Nxb Phụ nữ 2010).

- Các tác phẩm đã xuất bản dưới tên Phạm Toàn: Công nghệ dạy văn (Đại học Quốc gia, 2000, Tri thức, 2007); Hợp lưu các dòng tâm lý giáo dục (Tri thức, 2008); Cơ cấu trí khôn (Dịch, Howard Gardner, Nxb Giáo dục, 1997); Nền dân trị Mỹ (Dịch, Alexis de Tocquevile, Tri thức, 2007, 2008).

- Các giải thưởng văn học: Giải Nhì cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ năm 1959 (cho truyện ngắn Cái lô cốt).

 

Truyện ngắn là anh em chị em ruột rà với thơ. Cấu tứ truyện ngắn hệt như cấu tứ một bài thơ. Bố cục của truyện ngắn cũng rất gần với thơ. Đặc biệt, văn phong truyện ngắn cũng như thơ, rất cần một nhịp điệu “dễ nghe” còn bố cục thì cần một độ mở để dù có một kết cục mạch lạc nhất thì vẫn như thể không có kết cục gì hết, như vậy cốt để bạn đọc có nhiều cơ hội hơn cùng “lêu lổng” với người viết. Nhưng “lêu lổng” mà nghiêm túc - đó chính là cái huyệt của nghề truyện ngắn.

 

Hình như là các nhà giáo, nếu có chút lòng yêu nghề, thường cũng thích viết văn, làm thơ. Trường hợp của tôi có là ngoại lệ chăng?

Cái phòng làm việc của tôi liền kề với một bờ rào những cây duối già, sù sì, cành lá ken vào nhau như những cây cảnh. Lẽ ra tôi đã định nói: phòng làm việc của tôi nằm cạnh một cái chuồng gà. Nhưng nói thế hơi thô. Mà cũng không “tả cảnh” được hết, để bạn đọc dễ hình dung câu chuyện sắp kể. Thực ra, cái buồng xép tôi mới cơi ra để ngồi làm việc, chấm bài, soạn bài cho yên tĩnh, nó nằm sát một bụi duối, và bên kia bụi duối là một mảnh vườn con nhà bên, và ở cuối mảnh vườn con nhà bên liền kề bụi duối là cái chuồng gà.  

Và đây, trưa nay, từ cái đám bóng mát âm ẩm ấy bỗng vọng vào tai tôi những tiếng nói xúc động của một lũ trẻ. Âm thanh cũng có cái vẻ gì giống như gió. Khi gió lướt qua, thường ta không nhận thấy, và ta chỉ chợt nhận ra gió khi thấy cây nghiêng ngả, khi thấy tiếng tre cót két, khi thấy những đụn lá vàng đang cuốn nhau đi. ở câu chuyện này cũng thế, tôi chỉ chợt nhận thấy bên kia vách phòng làm việc của tôi có tiếng người sau khi những tiếng nói con trẻ kia chợt ngừng bặt sau một hồi lao xao. Và chính khi đó tôi mới chú ý. Và cũng vì vậy mà tôi mới bắt vào giữa chừng câu chuyện.

Xin bạn đọc chớ ngờ là tôi nói dối khi tôi kể tên đứa bé này đang nói, đứa bé kia nheo mũi, đứa bé nọ lấy cây nạng thay cho ngón tay chỉ chỏ … Đừng cho rằng tôi không nhìn thấy chúng vì chúng khuất sau vách và sau một bụi duối rậm rì lá xanh… Không, tôi biết chúng từ lâu rồi, cũng như bạn, bạn đọc thân mến, bạn cũng từng gặp chúng nhiều rồi, những đứa bé đáng yêu nhưng vẫn lạ lùng đối với chúng ta.

Thằng Hải:

- Được rồi! Thế là hết ấp bóng!

Có tiếng cộc cộc của một cây nạng gỗ vào gióng tre.

- Để cao lên… Để cái ổ cao lên…

- Bỏ cái lối gõ gõ gậy ấy đi.

- Cái nạng của nó, mày bảo là gậy à?

- Thôi, tao không gõ nữa, nhưng phải cho ổ lên tầng trên.

Vẫn có tiếng cộc kèm theo và có tiếng trẻ con cười.

- Di chuyển ổ, nó sợ, nó không ấp nữa.

- Không sợ. Gà nào cũng thích ấp trứng. Không biết tại sao ấy nhỉ?

- Thế nó có thích ăn không?

- Cũng thích. Nhưng nhịn cũng được.

Một lát im lặng. Tôi đoán: có lẽ chúng nó đang kê ổ gà lên một tầng cao hơn. Để làm gì? Chẳng hiểu nữa. Trẻ con thường làm gì cũng thích hợp lý. Chắc hẳn chúng vừa làm xong một công việc hợp lý. Chắc hẳn nữa, rằng chúng đang hả hê. Và bây giờ câu chuyện của chúng đã xoay sang hướng khác.

- Thế là có hai quả, một của tao, một của thằng My. Còn mày không có, nhưng khi nào nở, chúng tao vẫn cho mày chơi.  

- Tao cũng ra ao bơi chiều nay, rồi tao cũng mò được trứng.

- Xì! Đây là trứng rùa! Mày đừng hòng mò được. Mày định bơi một chân à?

- Rồi tao cũng nhặt được một quả trứng bồ câu như của thằng Hải xịt!

- Cũng chưa chắc đấy là quả bồ câu. Tao nghi là trứng chim sẻ. Thằng Hải xịt nó nói khoác đấy!

- Tao cam đoan bồ câu.

- Hí! Mày ăn nói thiếu chủ ngữ!

- Cả bọn phá lên cười. Một lát, tiếng thằng Hải xịt:

- Mày cứ như cô Ninh ấy! “Các em à, các em phải nói năng cho có chủ ngứ!”… (Nó nhấn giọng vào hai tiếng chủ ngứ).

- Thế mà nó ấp thật, chúng mày ạ!

- ấp thật, chứ lại không à? Đang ấp bóng, lại có trứng đặt vào, sướng hơn tiên.

- Nhưng có phải trứng nó đẻ ra đâu?

- Mày ngu lắm, giống vật thường hay nhân đạo. Gà nuôi vịt là thường.

- Tao không ngu. Gà nó ngu thì có. Cho trứng gì vào mà nó chẳng ấp? Trứng nào chẳng giống trứng nào?

*

Tôi mỉm cười một mình. Tôi khẽ bóc một tờ lịch. Tiếng tờ lịch khẽ xột xoạt trong căn phòng bé tí. Nhưng tôi thấy như nó vang lên. Và tôi sợ lũ trẻ giật mình. Tôi ghi vào đó bằng mực đỏ, mực ở cái bút tôi đang chấm bài, cái bút tôi đang khen và đang chê những đầu óc non nớt trong lớp học của mình, và tôi trân trọng ghi: “bắt đầu ấp”. Tiếng “ấp”, tự nhiên tôi viết hoa. Tôi lại mỉm cười một mình: vừa sai chính tả, vừa thiếu chủ ngữ. Xin bạn đọc thông cảm cho, tôi không giễu cợt, cũng không thiếu mô phạm, chỉ vì xúc động quá, thực sự tôi cũng thấy hồi hộp như lũ trẻ, tôi cũng như chúng, tôi mong chờ mười lăm, hai mươi, hai mươi lăm hôm nữa, đó sẽ là cái gì…

*

Cho đến một buổi trưa hôm ấy.

Tại sao những điều bất ngờ xảy ra cho con trẻ lại cứ hay xảy ra vào buổi trưa nhỉ? Tôi nghiệm ra vậy, chẳng biết có đúng không. Buổi sáng, đối với trẻ em rất có ít chuyện bất ngờ. Và nếu có chuyện gì bất ngờ thì chúng cũng nhìn bằng con mắt bình thản, trong trẻo, không lo sợ, có lẽ vì chúng còn bận, không bận đi học thì bận đi trâu, không bận đi thi thì bận đi gặt, đi mót. Buổi trưa, sau khi no nê, sau khi một phần lớn công việc đã hoàn thành cho cả ngày, lúc đó chúng mới có dịp nhìn nhận mọi việc kỹ hơn, và lúc đó chúng mới hay ngạc nhiên. Chúng ngạc nhiên để còn cả một buổi chiều làm một việc gì đó cho hết ngơ ngác, để tới khi chiều xuống, chúng lại thanh thản như không, lại đùa vô tư, lại ngủ một giấc ngon lành chờ cái buổi sáng hôm sau trong trẻo sẽ lặp lại …

Vâng, đúng buổi trưa hôm ấy …

ở bên phòng làm việc của tôi, chợt tôi nghe thấy những tiếng kêu:

- Rắn! Eo ơi! Rắn!

- Một con chết rồi, một con vẫn còn sống mày ạ!

- Con gà mái nó mổ chết đấy.

Tôi vội nhảy bổ sang. Trước mặt tôi, ba đứa trẻ đứng lặng trước chuồng gà mở toang cửa. Con gà mái sau mấy chục ngày ấp bóng và ấp nhầm, gầy rạc, đang đứng bên cạnh ổ. Con gà cũng có vẻ ngơ ngác. Như thể nó cũng biết chia sẻ sự nhầm lẫn với con người. Nó há mỏ ra thở. Chùm lông cổ phập phồng theo nhịp thở. Còn lũ trẻ thì cứ tiến vào nhòm cái ổ, sau lại lùi ra xa, rõ ràng là chúng không biết nên làm gì bây giờ. Thực ra thì lúc này đầu óc chúng vẫn căng ra làm việc.

- Tại sao thế nhỉ? … Rõ ràng là trứng mà! Của tao ở ngoài ao, tao cho là trứng rùa, còn của mày, mày bảo là bồ câu đẻ rơi, thì mày nhặt được ở đâu?

- Chắc gì của mày là trứng rùa?

- Thế mày nhặt ở đâu?

- Còn ở đâu nữa? Cũng ở chính bụi duối này. Của tao có lẽ là trứng rắn. Nhưng của mày chắc gì là trứng rùa?

ừ, làm sao tao biết được? Tao thấy ở ao thì tao đoán nó là trứng rùa.

Những câu trao đổi đó có cái ma lực nào đó khiến chúng trở nên bất động. Chúng nó bỗng thấy sợ. Không đứa nào dám thò tay vào ổ gà nữa.

May quá, chính lúc ấy, tôi đánh liều lấy cả hai tay bưng cái ổ gà ra và hất hai con rắn trong ổ xuống đất. Một con rắn bé tí như cái tăm vót thô đã chết cứng. Một con nữa yếu ớt khẽ ngọ ngoạy. Đó cũng chỉ là những con giun. Nhưng rành rành là chúng có đầu, những cái đầu to hơn thân, và ngay từ khi còn yếu ớt thoi thóp thế, cái đầu đã thành hình tam giác, và chắc chắn trong cái đầu ấy đã tiềm tàng nọc rắn.

Tôi muốn tìm một lời an ủi chúng, lũ trẻ thất vọng kia, nói cho các em biết rằng các em nghịch như vậy không phải là có ý xấu, rằng các em rất yêu đời, các em rất tôn trọng sự sống. Nhưng tôi không tìm được lời ngay lúc ấy. May sao một chú gà trụi ục ịch chạy tới. Bằng mấy nhát mỏ, chú gà trụi nuốt gọn những nỗi buồn sợ của thày trò chúng tôi. Và chúng tôi òa lên cười với nhau. Cuộc đời thế mà cũng giản đơn.

Nhưng khi trở lại phòng làm việc riêng, ngồi trước tờ giấy trắng đang soạn dở dang bài tập Hình học, tôi thấy hơi khó làm việc tiếp. Có lẽ từ một nhà giáo tôi trở thành người viết văn vào lúc này đây. Chính vào lúc này khi tôi thấy cần dặn dò các em nên cẩn thận khi nghịch trứng. “ừ, làm sao tao biết được. Tao thấy ở ao, tao đoán là trứng rùa”. Câu nói ấy của đứa nào nhỉ? Của thằng Hải xịt mũi hay thằng My? Chỉ của hai đứa ấy thôi, chứ còn thằng bé kia nó cụt chân, nó chỉ chơi ghẹ thôi…

Hà Nội, tháng 10-1973.

 

 

TRỜI VẪN NẮNG SUỐT ĐÊM

Truyện ngắn của HỒ ANH THÁI

 

Hồ Anh Thái

- Sinh năm 1960 tại Hà Nội, nguyên quán Nghệ An.

- Tác giả hơn 30 cuốn sách đã xuất bản, gồm các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, du ký và tiểu luận, trong đó có Người và xe chạy dưới ánh trăng, Người đàn bà trên đảo, Trong sương hồng hiện ra, Tiếng thở dài qua rừng kim tước, Cõi người rung chuông tận thế, Tự sự 265 ngày, Mười lẻ một đêm, Đức Phật, nàng Savitri và tôi, Hướng nào Hà Nội cũng sông... Hầu hết tác phẩm đã được dịch và ấn hành ở nước ngoài.

- Là tiến sĩ văn hóa phương Đông, Hồ Anh Thái hiện làm việc tại Bộ Ngoại giao.

 

Mùa hè năm 2008 tôi được mời tham dự Đại hội Quốc tế Nhà văn và Dịch giả văn học tại Stockholm, Thụy Điển. Đúng vào lúc thành phố đang trải qua những đêm trắng miền Bắc Âu. Đêm nào cũng sáng trưng, nắng tưng bừng. Thực sự là may mắn, vì dù đến Thụy Điển nhiều lần thì đây là lần đầu tiên tôi gặp đêm trắng. Nhiều đêm tôi đã không ngủ, đi bộ ra phía sau Hoàng Cung, ngồi bên chiếc cầu nhỏ mà dân địa phương hay ra đứng buông cần câu cá. Có đêm tôi ngồi trong phòng mình nhìn qua cửa sổ. Và tôi đã quan sát được một chi tiết về mặt trời trong những đêm trắng Bắc Âu. Coi như là một phát hiện nho nhỏ của riêng mình…

 

Đêm trắng Bắc Âu mà nằm ngủ trong phòng thì phí cả một đời. Bảo nhau thế. Các nhà văn đến dự Đại hội Nhà văn Quốc tế ở khu phố cổ Stockholm. Đi. Đi nào. Từng nhóm kéo nhau ra khỏi khách sạn, xuyên từ phố Vua Kungsgatan sang phố Nữ Hoàng Drottninggatan, rồi đi dọc theo đường phố ấy sang khu Hoàng cung.

Mười giờ đêm, trời sáng như ban ngày. Nắng vàng rực rỡ. Mười hai giờ đêm trời vẫn xanh và mây vẫn trắng. Thời giờ đã chuyển sang nửa đêm về sáng, không gian vẫn sáng bừng lên, cây lá xanh tươi nhuộm trong nắng. Trên chiếc cầu phía sau Hoàng cung, đám nhà văn ngoại quốc vẫn ngồi. Rì rầm chuyện trò. Chẳng lẽ suốt đêm trời nắng mãi như thế này, không có một lúc nào nắng dịu đi, trời sầm xuống một tí để chuyển giao sang một sớm mai của ngày mới?

  Chị nhớ những đêm trắng đầu tiên của mình ở xứ Bắc Âu này. Chị là nhà văn châu á, đâu đó giữa những sa mạc và vùng núi cằn khô sỏi đá, một nước cộng hòa nhưng quyền lực của giới tăng lữ ở đấy là vô hạn. Giới tăng lữ đã ra lệnh cấm cuốn tiểu thuyết của chị. Giáo chủ tuyên án tử hình, cho phép lấy đầu chị. Ai lấy đầu một nhà văn nữ? Bất cứ một tín đồ nào trong nước và ngoài nước, hành động như vậy là chứng tỏ đức tin. Nhưng mà các lực lượng thế tục ủng hộ chị. Các nước dân chủ ủng hộ chị. ủng hộ, nhưng nước này vẫn nhìn ngó nước kia xem ai hành động. Mà các cuộc biểu tình bao vây nhà chị cứ tiếp diễn. Giờ thì người ta ném đá vỡ cửa kính, chất đầy bao cát quanh nhà chị như lập công sự vây người bên trong, còn ngày mai chẳng biết kẻ nào sẽ dùng dao dùng súng. Đúng lúc ấy thì đất nước Bắc Âu xa xôi chìa tay ra đỡ. Quyền cư trú được cấp. Nhanh. Kịp thời. Chị đi ra sân bay như buổi sáng đi đến công sở. Buổi sáng còn ở quê hương, buổi tối đã là công dân Thụy Điển. Hôm trước còn có người yêu, hôm sau đã một mình đơn độc.

Chúng tôi tản bộ trên chiếc cầu phía sau Hoàng cung, nhìn sang nhà hát thành phố rực rỡ trong ánh nắng lúc nửa đêm. Chị kể chuyện tôi nghe. Thực ra chuyện của chị thì báo chí thế giới đã ồn ã vài chục năm rồi. Đã nghe, đã biết, nhưng lúc mới gặp mặt, tôi có hơi sững người. Chị bảo chị là người Thụy Điển. Người Thụy Điển mà vẫn tóc đen da nâu. Hơi lạ. Cũng lạ như khi gặp người da đen da vàng bảo rằng họ là người Hà Lan, người Pháp. Cái lạ sinh ra từ làn sóng nhập cư ồ ạt vào châu Âu mấy chục năm qua. Châu Âu đã thuộc địa hóa theo chiều ngược lại. Đời sống xã hội văn hóa cũng dần dần đậm tính da màu. Cũng đã nảy sinh bao nhiêu thói quen mới tập tục mới, những thứ vốn không phải châu Âu.

Như thế, chị đã thành người châu Âu. Chị không hề ngờ rằng khi viết một cuốn tiểu thuyết, mình coi như đã bắt đầu một cuộc sống tha hương, coi như bắt đầu nộp đơn để nhận quốc tịch châu Âu. Chị viết gì trong ấy? Vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh cho nữ quyền mà một nữ luật sư thường làm ở ngoài đời. Bấy lâu chị vẫn thỉnh thoảng nhận cãi miễn phí cho những người phụ nữ thiệt thòi. Chị kể câu chuyện của những thiếu nữ nhà quê, ngay từ bé đã bị cắt âm vật theo tập quán tôn giáo. Phụ nữ là công dân loại hai. Phụ nữ là ô uế, và trạng thái cực cảm của họ là nỗi ô nhục cần phải xóa bỏ. Vậy. Phụ nữ chỉ là đồ vật trong gia đình, là cái máy đẻ cho chồng. Họ không có quyền đạt đến cực cảm. Thực tế là như vậy, nhưng ai cho phép một nhà văn, lại là nữ nhà văn, được viết như vậy. Là nhà văn, là luật sư thì cũng chỉ là đàn bà. Công dân loại hai. Công dân loại hai báng bổ quyền lực của chúa trời thì công dân loại hai phải mất mạng.

Đang từ xứ nóng, đến nơi cư trú mới, chị va ngay phải mùa đông buốt giá đầu tiên. Phương bắc sáu tháng trời xầm xì âm u, ánh ngày xám xịt từ mười giờ sáng đến ba giờ chiều. Từ tháng mười đến tháng tư năm sau. Không có việc thì chắc chẳng có ai ra khỏi nhà làm gì. Mùa đông đầu tiên lạnh giá nhưng lòng chị đang sôi sục. Những mùa đông sau, chị nguội dần đi thì trời có vẻ lạnh hơn. Công việc của chị là đi đọc sách trước công chúng và trao đổi với họ. Cuốn sách của chị đã dịch ra tiếng Anh và tiếng Thụy Điển. Nhiều thư viện, nhiều câu lạc bộ và trường học mời chị đến gặp gỡ độc giả. Những vấn đề xã hội trong cuốn sách. Những yếu tố cảm xúc. Những chi tiết gây thương cảm. Rồi khi động đến nghệ thuật văn chương thì hình như độc giả đều ngoại đạo. Phần lớn độc giả có mặt tại những buổi tiếp xúc nhà văn đều thế. Những câu hỏi cứ vẩn vơ xa lạ thế nào. Chị thường viết chuyện có thật hay chị thường bịa ra? Có ai gợi ý cho chị viết hay chị tự nghĩ ra? Ban ngày hay buổi tối thì chị viết hay hơn?

Suốt sáu tháng rét buốt âm u, chị ngồi nhà viết. Viết đến mức rỗng cả ra. Trong đầu dường như không còn chứa cái gì nữa. Người cứ trì ra. Không đi thăm ai và cũng chẳng ai đến thăm. Người ta cấp cho chị một cái nhà ở đồng quê. Lái xe đi cả chục cây số mới gặp một cái nhà khác. Chị nuôi mấy con bò. Sau mùa gặt đánh xe đi mua cỏ. Mua rơm khô. Những cuộn rơm được bó lại cuốn lại, trông như những cuộn giấy to tròn trong nhà in. ở cố hương là cô luật sư. ở đây là bà nông dân vắt sữa. Không đi thăm ai cũng chẳng ai đến thăm. Viết và vắt sữa. Vắt sữa và ăn. Càng lạnh càng ăn. Tăng trọng rất nhanh. Sáu mươi hai cân. Bảy mươi mốt. Bảy mươi chín. Tám mươi lăm. Một ngày giật mình thấy trọng lượng đã gần một tạ. Sự cách ly với bản quán, xứ lạnh và trọng lượng có liên quan với nhau. Dần dần những cuộc tiếp xúc độc giả ít dần đi. Người ta để cho chị trở lại cuộc sống bình thường. Phải bình thường, chứ lúc nào cũng khua động lên thì sống làm sao. Một số người cư trú chính trị thậm chí còn bị bỏ quên ngay khi đặt chân đến đất nước mới. Quên luôn. Đã xong việc, cưa đứt đục suốt là vậy.

Tiếng lanh canh loảng xoảng khí giới ở quê nhà cũng xa dần đi. Chị cũng ít nhận được tin tức từ người yêu cũ. Chị rời đất nước khi anh cũng hoảng loạn. Dính líu đến chị, chị bị án tử hình, anh cũng hoang mang sợ hãi. Vẫn thường khi, người ta nhằm bắn người này mà đạn lại lạc sang người bên cạnh. Nhưng anh không thể theo chị sang xứ lạnh, bỏ lại cha mẹ người thân. Anh không thể bỏ lại cái công ty luật mà anh và chị đã gây dựng. Em đi trước, ít năm nữa anh sang sau. Anh bảo. Hoặc ít năm nữa, tình hình đổi khác, em có thể quay về. Anh bảo. Một lời nói không thể nào thực hiện được. án tử có hiệu lực vô thời hạn không ai xóa.

Một ngày chị có khách. Lạ. Xứ này đi mãi mới gặp một cái nhà. Chẳng ai đến thăm chị mà chị cũng không đi thăm ai. Lần này là một anh chàng bản xứ tóc vàng mắt xanh lái xe đến. Anh ta đã dự hai cuộc đọc sách của chị. Đã đọc cái tiểu thuyết ấy đến mức thuộc lòng một số đoạn. Anh ta đến đúng vào những đêm trắng, giữa mùa hè. Chị kéo kín hết rèm cửa sổ và tất cả các loại màn gió trong nhà. Sập những lá rèm nhựa xuống cho tối. Thế mà suốt đêm ánh sáng vẫn xuyên qua những lớp rèm. Cứ như ngủ giữa ban ngày. Người ốm mới phải nằm trên giường giữa ban ngày. Chị không quen ngủ khi cả căn phòng cứ sáng trưng lên như vậy. Chị mở toang cửa sổ ra, ngồi bên cửa sổ mà nhìn sang bên kia sông. Ba giờ sáng. Mặt trời vẫn đỏ ối phía trên cái tháp chuông nhà thờ bên kia sông.

Anh chàng kia cũng không ngủ. Cũng ngồi cùng chị nhìn đêm trắng. Nơi này gần cực bắc hơn, đêm trắng kéo dài một tháng. Thế là anh chàng rủ chị về thủ đô, nơi ấy dịch xuống phía nam, đêm trắng chỉ có khoảng hai tuần thôi. Cắt bớt cho chị nửa tháng lấy đêm làm ngày.

  Nói là làm. Hai người lên ngay xe của anh chàng. Về ngay căn hộ của anh trong khu phố cổ Stockholm. Chị trốn đêm trắng bằng cái băng đen bịt mắt khi ngủ. Em không thể trốn mãi như thế này. Chàng trai bảo. Em nên về lại quê hương mình, ở đấy không có đêm trắng, em không phải trốn đêm trắng. Chị bảo, ở đây em chỉ là dân nhập cư. Anh bảo, đấy là lỗi của đất nước em. Chị bảo, em béo như thế này. Anh bảo, đấy là lỗi của đất nước anh.

Anh xui chị trở về nơi không có đêm trắng. Vừa mới dính vào nhau mà anh đã muốn đẩy chị ra hay sao? Không, chị đi thì anh cũng đi. Chị đi đâu thì anh theo đấy. Chị đã tình cờ chọn cuộc đời chiến sĩ. Mà người lính đích thực là người lính trực diện trên chiến trường, không phải là người lính cầm loa phóng thanh nói vóng từ xa. Thế là hai người lên đường về vùng Tây á. Được phép cư trú ở một nước láng giềng. Chị vẫn chưa được cấp phép trở về quê hương. Tòa án vẫn tiếp tục duy trì lệnh cấm sách của chị. án tử hình vẫn chưa xóa.

Đất nước láng giềng này theo tinh thần dân chủ bao dung và hòa hợp tôn giáo. Chị được phép đăng đàn diễn thuyết. Được đọc sách trước công chúng. Trong một cuộc tiếp xúc với độc giả, người của thế lực tôn giáo cực đoan giả dạng lọt vào khán phòng. Những câu hỏi khiêu khích. Những câu thóa mạ nguyền rủa. Phát triển lên thành những tiếng chửi rủa tục tằn và đả đảo. Đả đảo đả đảo đả đảo. Lực lượng khẩu hiệu biểu ngữ bấy giờ mới từ bên ngoài tràn vào. Những chồng sách của chị trở thành vũ khí cho đám người tấn công. Những cuốn sách bìa cứng tới tấp ném vào đầu chị. Ném. Ném. Ném. Khẩu hiệu biểu ngữ cầm tay đập xuống đầu chị. Đập. Đập. Đập. Như mưa. Chàng trai Bắc Âu phải lấy thân mình che đỡ. Anh trùm từ trên cao một mét chín xuống. Anh khuỳnh khoàng tay chân để bành trướng thân thể sang ngang che thêm cho chị. Bạn bè người đọc che đỡ thêm. Cứ thế anh dìu chị chạy thoát khỏi nơi hỗn chiến. Người chịu nhiều đòn đánh và bị thương nặng lại là anh. Bấy giờ anh mới xem lại lý thuyết đấu tranh của mình. Người lính đích thực không phải bao giờ cũng là người trực diện trên chiến trường. ít ra thì cũng là trong cuộc đấu tranh này.

Họ lại quay về xứ sở đêm trắng. Đúng vào giữa mùa hè. Trên diễn đàn, Đại hội Nhà văn Quốc tế đang vinh danh một nữ văn sĩ châu á. Tóc trắng như cước, có thêm chiếc đũa cầm tay nữa thì bà sẽ ra dáng một bà tiên. Bà chậm chạp bước ra giữa sân khấu, ngồi vào đúng chiếc ghế dành cho mình. Tôi nay đã bảy mươi tuổi và có nửa thế kỷ bị trục xuất khỏi quê hương. Vì sao tôi bị trục xuất ư? Người ta kết tội tôi viết những điều cấm kỵ về số phận đàn bà. Từ bao giờ vậy, thế giới này không coi những chuyện ấy là cấm kỵ với đàn ông, nhưng lại là cấm kỵ với đàn bà?

Chị nhìn bà chăm chăm và nghĩ, bảy mươi tuổi, mình có còn đủ cảm hứng mà ngồi trên cái ghế kia, trên cái sân khấu kia hay không?

Đúng lúc ấy một người ngồi dưới khán phòng đứng dậy, nhận cái micrô từ tay một người trong ban tổ chức. Cô ta cứ đứng nguyên tại chỗ mà nói: Thưa bà, cuộc đấu tranh nửa thế kỷ của bà chủ yếu là trên phương diện xã hội nói chung hay là ở đất nước bà nhập cư, hay là trên trang sách của bà? Nữ văn sĩ đưa bàn tay phải lên khum khum che phía trên cặp mắt nheo nheo: Ô ô, ai đang nói đấy? Cho tôi thấy mặt nào. Cô gái kia trở nên lúng túng, chỗ cô đứng khán phòng âm u, không có một luồng đèn pha nào chiếu vào. Nữ văn sĩ chậm chạp đứng dậy, lẫm chẫm bước mấy bước về phía trước, đến bên lề sân khấu: Ô ô, ai nói đấy? Xin lỗi, cho tôi thấy mặt đi, tôi không quen đối thoại mà không nhìn thấy mặt người nói.

Không quen đối thoại với người nói từ trong bóng tối nói ra. Như ma. Chị lại nghĩ, ngần ấy tuổi, mình chắc sẽ chỉ ngồi nhà yên thân, hay là vẫn đủ sinh lực mà xuất hiện trước đám đông như bà ấy?

Bây giờ thì chị ngồi đây, trò chuyện với chúng tôi, bên chiếc cầu dẫn vào cái cổng đá Hoàng Cung Môn. Đêm trắng. Giờ có về nhà, có kéo rèm thì chị cũng không thể che được ánh ngày lúc nửa đêm về sáng.

*

Chị bảo chị nhớ cái đêm trắng đầu tiên ngồi bên cửa sổ với chàng trai Bắc Âu.

Hai giờ sáng, chị hỏi anh mấy giờ mặt trời mới lặn?

Ba giờ sáng, chị hỏi mặt trời sắp lặn chưa? Mặt trời lúc ấy hình như vẫn giữ nguyên vị trí, phía trên cái tháp chuông nhà thờ bên kia sông.

Bốn giờ sáng chị hỏi lúc nào thì mặt trời xuống, tức là nó sẽ chìm khuất xuống dưới đám cây cối bên kia. ít ra là nó phải xuống một lúc, trước khi lại mọc lên cho một ngày mới. Chị giơ bàn tay ra phía trước mặt, đưa ngón trỏ và ngón cái ra thành một gang tay, đo được một gang từ phía mặt trời xuống đến mặt sông. Lim dim chị ngả đầu lên vai anh.

Năm giờ sáng, chị giật mình ngồi thẳng dậy. Ơ ơ. Chị kêu lên. Ơ ơ ơ. Chị kêu lên một lần nữa. Mãi sau mới nói được. Ơ ơ, sao lại thế kia hả anh? Mặt trời không lặn xuống. Khoảng cách giữa nó với mặt sông vẫn là một gang tay. Nhưng lúc nãy nó ở ngay phía trên nhà thờ. Còn bây giờ nó trượt sang bên phải, treo như một quả bóng màu đỏ phía trên một lùm cây xanh.

Mặt trời không lặn xuống. Nó đi ngang.

 

 

 

TÓC TRINH

Truyện ngắn của KIỀU BÍCH HẬU

 

Kiều Bích Hậu

- Tên thật là Kiều Thị Bích Hậu.

- Sinh năm 1972, tại Hưng Yên.

- Hiện làm việc tại tạp chí Trí tuệ, Hà Nội.

- Các tác phẩm đã xuất bản: Đường yên (truyện ngắn, Nxb Hội  Nhà văn, 2007); Sóng mồ côi (truyện ngắn, Nxb Văn học, 2010).

- Các giải thưởng: Giải Khuyến khích cuộc thi tác phẩm tuổi xanh của báo Tiền phong (cho truyện ngắn Huyền thoại về người đẹp); Giải Nhì cuộc thi truyện ngắn của Tuần báo Văn nghệ năm 2007 (cho truyện ngắn Đợi đò); Giải Khuyến khích cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ Quân đội 2008-2009 (cho 2 truyện ngắn Mùa sen và Nốt cuối của bản nhạc Jazz).

 

Cuộc sống chẳng như những gì ta nghĩ. Nó lộn tùng phèo lên hết cả. Và đàn bà là cái trục  cuốn quanh mình những rắc rối. Khi không cân đối được mình nữa, sẽ tự kết thúc thôi. Nghiệm vào cái tình của người đàn bà trong “Tóc trinh” thì thấy những ngóc ngách ảo của đàn bà vẫn lấp lánh giữa thực tế trần trụi, vô duyên, ngầy ngạt không lối thoát này.

Cho đến bây giờ, chỉ chút động chạm đến gì liên can, là tôi lại nổi gai cùng mình vì cái chết khó lý giải của Phượng, một nhà tạo mẫu tóc tôi quen. Tôi đã không hiểu được cái chết ấy của cô, nhưng văn chương có cách lý giải riêng, nó giúp hoà giải tâm can tôi với nhân vật Thuỳ trong “Tóc trinh”.

Trong cái bùng nhùng của sự thật, thông điệp được mã hoá và bạn đọc có thể lạc. Nhưng tôi không đưa ra một chỉ dẫn nào. Bạn đọc tha hồ đào bới những tầng sâu hơn trong ngóc ngách của chính họ, và có thể họ vẫn chỉ thấy một câu hỏi... Một câu hỏi thăm thẳm.

Tôi nằm lười trên giường, tay chân quắp chiếc gối ôm dài, mắt nhắm hờ, lơ mơ trôi đi trong thanh âm hân hoan và réo rắt từ một bản nhạc nào đó của Dvorak phát ra từ đầu CD. Đang dập dềnh nhởn nhơ như một khóm lục bình trôi sông như vậy thì một bản nhạc vừa dữ dội vừa da diết của Michael Jackson vang lên từ điện thoại cầm tay tôi vứt ở góc giường chặn phắt tôi lại. Quả là như cãi nhau!

- Gì thế bà chị? - Tôi vừa hỏi vừa ngáp dài.

- Mày biết không? Con Thuỳ chết rồi! - Giọng chị đồng nghiệp vẻ hốt hoảng.

- Thuỳ nào? - Tôi hẩy gối ôm ra, mở mắt.

- Con Thuỳ tạo mẫu tóc ý! Mày vẫn còn phưỡn trên giường đấy à? Chín giờ sáng rồi đấy, đồ chó lười!

- Hả? Làm sao nó chết?! - Tôi tỉnh hẳn.

- Nó nhảy từ tầng hai tiệm tóc xuống tự tử, ấy là tao nghe nói thế. Mày thân với nó mà chưa biết gì à? Cảnh sát đang bu đầy tiệm tóc của nó đấy! Mày có cách nào biết tại sao nó tự tử không?

Tôi trân trối nhìn vào màn hình điện thoại một lúc, như chưa tin hẳn vào những âm thanh vừa thoát ra từ cái máy nhận và phát thông tin vô tổ chức ấy? Cái gì thế? Thuỳ tự tử? Một cô gái trẻ trung, có tài, đầy năng lượng; kiếm tiền giỏi thế mà lại tự tử? Cuộc sống này lắm lúc chẳng thể giải thích nổi. Cái thứ logic cuộc sống người đời dày công tìm ra rồi lại cứ hồn nhiên lật úp là sao vậy?

*

Đi hết đường Nguyễn Du, tôi ngoặt trái chạy xe máy vào đường Lê Duẩn. Những cửa hàng với những đòn treo ưỡn ra đường giăng đầy quần áo, giày, tất, mũ bộ đội ở phố này luôn gợi tôi cảm giác về một thời hậu chiến. Nhưng tôi cũng chưa mua thứ gì màu xanh bộ đội nhan nhản bày ở đây, chỉ thỉnh thoảng ghé mua đôi giày múa cho con gái mà thôi.

Phía trên những màu áo bộ đội một tý, là tán mỏng manh của những cây giâu gia xoan trên mười tuổi. Khi xuân về, giâu gia xoan xoè những chùm hoa trắng khói, giống như dòng sương chảy mù mịt lẩn quẩn trên phố, thân và cành thì thẫm đen và ẩm ướt vì nước mưa xuân. Tại sao bây giờ tôi lại chú ý hơn đến quang cảnh trên phố này vậy? Phải chăng nó trở nên đặc biệt hơn sau khi Thuỳ đã chết, hay nó chứa đựng một câu trả lời nào đó cho cái chết của Thuỳ? Người ta không bỗng nhiên chết. Khắp người nổi gai và mắt ầng ậc nước. Tôi vội ngước lên để chặn dòng xúc cảm, ngạc nhiên khi bắt gặp tán lá bằng lăng ủ rũ trên đầu. Tại sao phố này vốn chỉ trồng giâu gia xoan, mà trước cửa tiệm tóc của Thuỳ lại có cây bằng lăng? Mỗi đầu mùa hè, hoa bằng lăng nở tím ngắt, đẹp sâu lắng nhưng buồn! Chợt nhớ, vài lần tới tiệm cắt tóc, tôi thấy mắt Thuỳ có màu tím, hắt lên từ chiếc áo lụa tím cô mặc, hay là từ màu hoa bằng lăng trước cửa, giờ thì tôi chịu không thể xác định rõ nữa rồi.

Di ảnh đen trắng của Thuỳ đặt trên bàn thờ lui lại phía bức tường, nơi thương hiệu Thuỳ Hairdresser đã được phủ kín bằng một mảnh vải đen. Nét mặt Thuỳ trong di ảnh trông nghiêm trang và đôi mắt buồn ám ảnh. Hai tấm màn xô mỏng, nhẹ buông hai bên, nhang khói luẩn quẩn và chỉ còn có thế. Xác Thùy đã được đưa đi, người ta cần làm một số thủ thuật trên cái xác còn lại của cô, để hòng tìm ra một lý do. Người ta không ai có quyền chết mà không có lý do cả.

Tôi ngước nhìn lên tầng hai của tiệm tóc chật chội. Nói đúng ra thì đó chỉ là cái gác xép kiên cố mà thôi. Mấy lần leo lên gác xép đó để nhân viên của Thùy gội đầu cho, tôi phải rón rén vì cầu thang dốc và hẹp, thế mà tôi vẫn mấy lần va đầu vào trần nhà ở bậc thang cuối cùng lên gác xép. Thùy chỉ lao từ gác xép xuống mà chết được ư? Không có lý nào...

Khói của nén nhang vừa đốt làm tôi cay mắt.

- Cô là...? - Một người đàn bà to béo, ngoại ngũ tuần, đường chân mày xăm đen nhức, đôi mắt đầy oán hận, nhìn tôi dò hỏi.

- Cháu là bạn Thùy! - Tôi nói.

- Còn tôi là mẹ nó, mà nào có hiểu gì nó! - Bà cay đắng nói - Cô xem, con gái nó đây, mới 13 tuổi đầu. Bà đẩy lại gần tôi một bé gái, tóc xõa ngang vai, mặc áo đồng phục học trò trắng, bên trái tấm áo có đính tên trường trung học cơ sở T., nét mặt bé chỉ còn vẻ ngơ ngác đến hoảng loạn.

Tôi ôm lấy đầu bé gái vừa mất mẹ, xoa nhẹ lên trán bé, rồi không chịu đựng nổi, tôi rời khỏi đó như một kẻ hèn.

*

Tôi nhìn đi nhìn lại cánh cửa gỗ sơn xanh đã bợt màu vì thời gian, thanh gỗ tiếp giáp nền đất đã mủn ra vì không chịu nổi sự tấn công của thời gian và độ ẩm. Trông cánh cửa ấy chẳng có vẻ gì là niềm nở, và có lẽ người chủ của nó cũng thế. Tôi vẫn cương quyết đưa tay lên nhấn chuông.

Sau chừng năm phút với lần nhấn chuông thứ ba, tôi nghe ổ khóa chìm xoay lách cách vẻ miễn cưỡng và cáu kỉnh. Một người đàn ông trong bộ đồ nhàu nhĩ, râu thưa, tóc thưa, nét mặt căng thẳng, chán chường khó đoán tuổi nhìn tôi như nhìn vào chốn không người.

- Chào anh, tôi vào nhà được chứ ạ? - Tôi cố gắng tận dụng thời cơ, bởi tôi đã mất rất nhiều công mới dò được địa chỉ người đàn ông này.

- Nhưng chị là ai chứ? - Ông ta vừa nghiêng người lấy lối cho tôi vào nhà, vừa hỏi.

- Tôi là bạn thân của Thùy -  Tôi nói rồi ngồi ngay xuống bộ tràng kỷ gỗ cũ kỹ âu sầu, tôi nhìn quanh, trong nhà âm u và hầu như không có lấy một tia sáng tự nhiên nào có thể lọt tới.

- Tôi đến đây là muốn giúp anh cùng cháu bé mà thôi. Tôi nói với vẻ chắc chắn, cốt để làm anh ta yên lòng, bởi tôi đã thấy rõ vẻ bất an mà anh ta cố giấu khi lập cập làm vãi tung hộp chè mạn ra sàn nhà.

- Tôi với Thuỳ li dị chục năm rồi, nên tôi không biết mấy về bạn bè cô ấy. - Người đàn ông vừa chuyên nước từ phích vào ấm pha trà, vừa giải thích.

- Công việc của anh vẫn ổn chứ, anh Nam?

- Có gì đâu mà không ổn, tôi lái xe hai chục năm nay cho bưu điện, chẳng ai phàn nàn gì, chưa gây tai nạn bao giờ, mình biết việc mình, đều tăm tắp, lương đủ ăn.

- Anh sẽ đón cháu Trang về ở với anh chứ?

- Tôi định ngay sau bốn chín ngày của Thuỳ sẽ đón con gái về ở với tôi. Nhưng sẽ không dễ dàng thế đâu, dù trong di chúc của Thuỳ, theo như những gì đến tai tôi, thì Thuỳ muốn con gái về ở với tôi sau khi cô ấy qua đời.

- Tôi hiểu, người nhà của Thuỳ sẽ phản đối tới cùng đấy. - Tôi nhấp ngụm trà nóng, trà pha đặc, rất chát. - Tôi được biết tổng số tài sản gồm nhà, cửa hàng, tiền mặt... mà Thuỳ di chúc để lại toàn bộ cho anh, lên tới gần bảy tỷ đồng. Đàn bà một thân một mình vừa nuôi chồng con mà còn để lại khối tài sản lớn như vậy thì không phải loại vừa!

- Cô ấy là tuýp phụ nữ chăm chỉ, lo toan mà. - Chồng cũ của Thuỳ thở dài.

- Tại sao Thuỳ để lại hết tài sản cho anh, mà không phải là cho mẹ cô ấy, hoặc người chồng hiện tại hoặc cho bé Trang? - Tôi tranh thủ lúc anh ta chìm đắm trong tâm trạng, để hỏi luôn câu hỏi chính, vốn làm không chỉ tôi, mà bất cứ ai cũng thắc mắc.

- Chắc là vì con của chúng tôi. - Anh ta tự rót trà thêm cho mình.

- Lời giải thích theo hướng đó của anh dễ làm người ta yên lòng lắm. Nó hợp lẽ, nhưng mà...

- Nếu không phải là Thuỳ định chơi tôi! - Người đàn ông bỗng dằn tách trà xuống bàn, mặt xạm lại.

- Tại sao anh và Thuỳ li dị? - Tôi hỏi luôn, cố nén cảm xúc, bởi tôi sắp tìm ra được điều gì đó.

Tôi đã bắt đầu lờ mờ thấy có một điều gì đó ở đây, không như mấy đội cảnh sát, sau khi khám nghiệm tử thi, chỉ có thể kết luận là Thuỳ tự tử, tạm thời chưa có manh mối gì.

- Kể từ khi lấy tôi, cô ấy đã làm hỏng cuộc đời tôi! - Chồng cũ của Thùy nói một cách khó nhọc. - Kể cả linh hồn cô ấy có ngồi ngay đây, tôi vẫn nói thật như vậy.

- Hy vọng là tôi có thể hiểu được... Tôi căng tai ra để lắng nghe.

- Trước khi Thùy sinh bé Trang, cuộc sống của vợ chồng tôi có thể nói là hạnh phúc, nếu không có một rắc rối ngớ ngẩn.

- Rắc rối ư?

- Tôi không biết dùng từ nào cho chính xác hơn.

Người đàn ông chợt ngừng lại, nhìn tôi dò xét, có vẻ như ước lượng xem tôi có đáng tin cậy cho anh ta mở lòng. Rồi như đột ngột rút một cái chốt nào đó, dòng thác lũ ào ra.

- Đến bây giờ tôi vẫn không hiểu làm sao mà lúc ngủ với chồng, cô ấy vẫn không chịu thả tóc ra. Một cái búi tóc lớn như vậy, rất không thoải mái. Tôi đã cho là vì búi tóc lớn sau gáy, mà người cô ấy cứng đờ trên giường, cô ấy không thể yêu đương quên trời đất. Có lần tôi bắt cô ấy đứng lên, quay mặt vào tường khi làm chuyện đó, như vậy búi tóc sẽ không gây cản trở nữa, nhưng kết cục thì vẫn không được như ý. Chuyện này, nghe có vẻ không bình thường, nhưng nó làm tôi suy nghĩ hằng đêm, kể cả khi cô ấy đã bỏ tôi để lấy chồng khác.

- Thuỳ có phản đối khi anh bắt cô ấy đứng, quay mặt vào tường khi hai người yêu nhau không?

Tôi hỏi sau khi cố gắng chọn từ ngữ sao cho không làm anh ta lo ngại và tụt vào vỏ ốc.

- Cô ấy đứng, hai tay chống vào tường, tóc búi cao, rất chặt. Tôi ôm cô ấy từ phía sau. - Người đàn ông nuốt nước bọt, nhưng tiếng nuốt nghe khô khốc! - Cô ấy không phản đối gì cả. Ngay cả khi tôi muốn các tư thế khác thì cô ấy cũng không phản đối, miễn sao cách ấy không động chạm và làm búi tóc tung ra.

- Hồi ở với anh, tóc cô ấy dài tới đâu?

- Nói ra thì thật tệ! Có lẽ tóc cô ấy dài quá hông, cô ấy chưa bao giờ để tôi nhìn thấy toàn bộ mái tóc, dù tôi có đánh chết cô ấy.

- Nhưng cô ấy phải gội đầu chứ?

- Cô ấy toàn trốn đi gội đầu ở một chỗ nào đó, tôi không được biết. Đến giờ tôi vẫn lẩn thẩn tiếc, lẽ ra tôi phải tìm hiểu xem vợ mình gội đầu, hong tóc ở đâu chứ!

Câu chuyện nghe được từ chồng cũ của Thuỳ rất có giá trị, nhưng nó cũng làm tôi bối rối thêm. Câu chuyện có thể là từ mái tóc, một mái tóc mà không thể để cho chồng, người gần gũi nhất về thể xác được nhìn thấy. Mái tóc ấy như thế nào chứ? Tôi cố lần mò trong ký ức.

Năm hay sáu năm trước, sau một cuộc họp với những thí sinh lọt vào Vòng chung kết cuộc thi “Cây kéo vàng” - một cuộc thi tạo mẫu tóc do tạp chí Mốt mà tôi làm việc kết hợp với hãng dầu gội tổ chức, tôi nhận được cuộc gọi từ một số máy lạ. Đó là Thuỳ - một thí sinh lọt vòng chung kết cuộc thi ấy, cô nói mới gặp lần đầu nhưng đã rất quý tôi (của đáng tội là tôi không ấn tượng lắm về cô trong buổi họp ấy), cô đã xin bằng được số điện thoại của tôi để làm quen, và cô mời tôi đến tiệm tóc của cô ở phố Lê Duẩn để làm tóc.

- ờ, nhưng tóc chị có bao giờ làm gì đâu. - Tôi tìm cớ thoái thác... - Chị làm báo, bận rộn kinh khủng, chẳng có thì giờ chăm chút tóc tai.

- Chị cứ đến chỗ em. Lúc nào cũng được. Em luôn sẵn sàng đón chị. Em sẽ làm cho chị kiểu tóc thật phù hợp mà không mất công săn sóc!

Thuỳ vẫn kiên trì thuyết phục tôi với giọng nói trong trẻo, vui vẻ như đang cười.

Tôi hứa đại với Thuỳ một câu để ngắt cuộc gọi, rồi tôi cũng chẳng nhớ ra mà đến tiệm tóc của cô.

Tuần sau cô lại gọi nữa. Tôi tặc lưỡi thôi thì đến xem sao, một công đôi việc, vừa thử làm kiểu tóc mới, vừa đặt cô làm một bộ sưu tập tóc mới để in lên tạp chí Mốt vào mùa Thu. Đằng nào thì tôi cũng phải nộp bài mốt tóc mùa Thu cho cái tạp chí đang trả lương cứng cho tôi, mà tổng biên tập thì luôn cho mình cái quyền cấm tôi viết bài cho tạp chí khác.

Tôi không nhớ tóc cô ra sao, có lẽ vì cô che tóc đi bằng một cái khăn màu đen nho nhỏ, theo kiểu buộc khăn của hình ảnh cô gái quảng cáo trên hộp sữa “Cô gái Hà Lan”.

Nhưng tôi nhớ rất rõ cảm giác bàn tay cô chạm vào tóc, vào da đầu tôi, những ngón tay thật khẽ khàng, nâng niu như chạm vào những sợi tơ mỏng manh, nhưng những ngón tay chia lớp tóc thật chính xác, gọn gàng, mềm dẻo và đẹp. Có cảm giác như cô đang múa kéo qua mái tóc của tôi. Mũi kéo hướng ngược, xuôi, tứ phía bay bổng chỉ bằng cái vẫy nhẹ ngón cái và ngón giữa trên bàn tay cô. Cắt tóc mà thật là thư giãn. Tôi đã khép nhẹ mắt.

- Chị chưa bao giờ chải duỗi, nhuộm màu hoặc uốn tóc phải không? - Thuỳ vừa cắt tóc, vừa hỏi.

- ừ, chị chẳng có thời gian. - Tôi đáp. - Với lại chị cũng không khoái làm tóc cầu kỳ.

- Tóc chị như thế này gọi là tóc trinh đấy!

- Tóc trinh á? - Tôi mở choàng mắt, hỏi lại Thuỳ.

- Nghĩa là sợi tóc còn trinh nguyên, chưa bị chút động chạm nào của hoá chất khi duỗi, uốn, nhuộm...- Thuỳ giải thích.

- Hoá ra là thế, tóc mình vẫn còn trinh. - Tôi nói và nhắm mắt.

- Không phải chỉ có mình chị đâu. Tóc em cũng vậy. Những người trong nghề làm tóc tụi em ai cũng lấy mái tóc mình ra thí nghiệm đủ kiểu trên đời, tuần này một kiểu, tuần sau đã kiểu khác, lắm người dùng hoá chất liên tục nên tóc chết ngắc. Riêng em từ thời cha sinh mẹ đẻ tới giờ, tóc thế nào vẫn giữ nguyên thế.

Tôi lại hé mắt, để nhìn xem tóc Thuỳ thế nào, nhưng nhìn không rõ, vì lớp khăn che kín.

- Nhưng để tóc vậy làm gì? - Tôi hỏi và lại nhắm mắt, những ngón tay của Thuỳ khéo léo quá, chúng khiến tôi lơ đãng trôi đi mà không để ý sâu sắc được hiện tại.

- Để giữ mái tóc trinh ấy mà! - Thuỳ đáp.

Tôi cũng chẳng để ý nữa, và quên đi, để đến bây giờ thì nhớ lại, cứ như hôm qua những ngón tay của Thuỳ còn vuốt ve từng lọn tóc của tôi.

Mũi kéo nhỏ, sắc biết múa hướng tới đâu, những lớp tóc theo hàng lối đổ tới đó như gió cuốn.

Nhưng lúc này đây, khi Thuỳ đi rồi, thì câu trả lời ấy của cô không thoả mãn được tôi. Giữa tôi và cô hình thành một khoảng cách xa vời, thiêng liêng theo một nghĩa nào đó, không phải bởi cái chết đẩy tôi và Thuỳ xa nhau vô tận, mà bởi ý nghĩa của cái chết.

*

Việc gặp người chồng thứ hai của Thuỳ không khó như người chồng đầu tiên, bởi anh ta đang cực kỳ bức xúc, và anh ta cần gặp mọi người để tỏ bày bức xúc ấy.

Tôi dẫn xác đến hứng trọn cái nút xả ấy. Tôi cần làm thế, và nỗi bất ổn do cái chết không bình thường của Thuỳ gây ra trong tôi rồi sẽ dẫn tôi đến đâu...

- Tôi cho rằng cần xem lại tính pháp lý của bản di chúc vợ tôi để lại. - Anh ta nhấn mạnh. - Cả gia đình nhà vợ tôi cũng đồng thuận như vậy.

Thuỳ đã cưới người đàn ông này và ở với anh ta khoảng bảy năm, nhưng họ không có con với nhau. Tôi đoán rằng họ không hạnh phúc, bởi Thuỳ chẳng bao giờ để lộ cho người ngoài biết về người chồng thứ hai này. Tôi cũng chỉ mới biết về anh ta sau khi Thuỳ chết. Nhưng thoáng nhìn vẻ bần bần, u lì toát lên từ toàn bộ dáng người, nét mặt, ánh mắt của anh ta thì tôi hiểu tại sao Thuỳ không sinh con cho anh ta, cũng không tìm được mối đồng cảm, mà anh ta vẫn bám lấy cô như thế.

- Cô ấy có biểu hiện gì bất thường không anh, nhất là thời gian trước khi chết?

- Không chỉ thời gian trước khi chết đâu, mà rất lâu trước đó. Cô ấy hẳn bị bệnh thần kinh, tôi nghĩ thế!

Anh ta vừa nói, vừa bồn chồn bẻ các khớp ngón tay kêu rôm rốp.

- Nếu dám nói vậy thì anh phải có bằng chứng cụ thể đấy? - Tôi khó chịu nói.

- Có chứ! Khoảng tháng trước, trong đêm cô ta như mộng du, tỉnh dậy giữa đêm tối đi quanh phòng lẩm bẩm: “Tôi đi cắt tóc đây, cắt tóc!”. Tôi không ngủ được, bực mình hỏi: “Cô đừng có điêu! Tôi biết cô chẳng bao giờ dám cắt tóc.” “Tôi sẽ cắt, nhưng anh đừng hòng biết khi nào tôi cắt!”. Cô ấy loạn trí như thế đấy!

- Anh có bao giờ nhìn thấy toàn bộ mái tóc vợ anh không? - Tôi dò hỏi.

- Không bao giờ! Kể cả lúc cô ấy chết rồi. Đúng là trước đó một tuần, cô ấy đã cắt mất mái tóc. Lúc chết, tóc cô ấy đã không còn.

- Cô ấy cắt tóc ở đâu?

- Tôi mà biết được ư? Ước gì tôi biết được tất cả về vợ tôi. - Anh ta giơ hai tay lên, tỏ vẻ chán nản.

- Hãy cho tôi biết đi, - tôi chồm tới, nhìn xoáy vào mắt anh ta. - Tôi thề giữ kín chuyện này, tôi biết anh không hài lòng khi cùng cô ấy trên giường, hãy kể cho tôi rõ hơn.

Anh ta nhìn tôi một lúc, rồi chừng như không kiềm nổi, lại ào ra.

- Chị đã biết thì tôi không giấu làm gì. Điều này cũng là biểu hiện bệnh thần kinh của cô ấy. Khi nằm với nhau, Thuỳ không nằm ngửa như những người đàn bà bình thường khác. Cô ấy chỉ chọn tư thế nằm nghiêng. Chỉ vì cái búi tóc to đùng chết tiệt sau gáy.

- Anh đã làm gì cô ấy?

- Tôi có thể làm gì? Giết vợ vì cô ấy nằm nghiêng sao? Mà động vào tóc thì cô ấy như beo cái! Nói thật với chị, sau vài tháng lấy nhau, cứ nằm nghiêng theo vợ như vậy, tôi thấy nhàm!

- Chỉ vì chuyện ấy thôi sao?

- Còn một chuyện nữa, tôi còn làm cô ấy giận một lần, chiến tranh lạnh tới cả tháng trời, tôi sợ luôn, không bao giờ chạm tới nữa.

- Chuyện gì vậy? Có liên quan gì tới tóc cô ấy không? - Tôi hỏi dồn.

- Có thể như vậy. Cách đây năm năm, hay sáu năm gì đó, tôi vì không chịu nổi, đã rình xem cô ấy trốn đi đâu để gội tóc, ai nhìn thấy tóc cô ấy? Và tôi không khó gì để phát hiện ra người chủ tiệm cô ấy tới gội tóc. Đó là thày dạy nghề của cô ấy. Tôi đã rất ghen, tìm gặp anh ta và nói anh ta nên chấm dứt quan hệ với vợ tôi.

- Anh ta nói gì?

- Anh ta phản đối, cho rằng tôi ghen tuông vô lý, anh ta chỉ là thày dạy nghề và sau đó làm dịch vụ cho cô ấy thôi, tuyệt nhiên không có chuyện trai gái gì?

- Anh ta là ai? - Tôi thấy máu dồn hết cả lên mặt, lên tay.

- Trời ơi! - Người đàn ông ngã ngửa ra phía lưng ghế, câu hỏi của tôi chừng như làm vỡ ra điều gì đó trong anh ta.

 *

Tôi ngước mắt nhìn biển hiệu “An Hairdresser” bóng loáng rồi đẩy tấm cửa kính dày trên đó in lần lượt những thương hiệu sản phẩm tóc Toni & Guy, Davines... Có vẻ tôi không được vồn vã chào đón, khác hẳn khi tới tiệm tóc của Thuỳ. Một thợ tóc trẻ với mái tóc vàng chói dựng lên như cái mào trên đầu lịch sự hỏi tôi muốn dùng dịch vụ gì.

- Tôi muốn gặp anh An chủ tiệm. - Tôi nói và liếc mắt về phía người đàn ông trạc bốn mươi, cao và gày, vận bộ đồ đen tuyền với ống quần thiết kế đặc biệt, gài rất nhiều loại kéo to nhỏ, lược các cỡ trong đó...

Anh ta liếc qua tôi rất nhanh, ánh mắt lạnh lùng vô cảm.

- Có việc gì mà chị tìm tôi?

- Tôi là nhà báo, tôi muốn có thêm thông tin về Thuỳ... - Không hiểu sao trước người đàn ông này, tôi lại cứng lưỡi ra như vậy.

- Cảnh sát đã hỏi tôi rất đầy đủ! - Anh ta dừng tay kéo, nhìn tôi, nhưng có cảm giác anh ta nhìn qua đầu tôi, tới nơi nào ở xa - nhà báo đến sau mất rồi.

- Sau hay trước gì không quan trọng với tôi - tôi cố vớt vát - Tôi còn là bạn của Thuỳ. Chuyện xảy ra không phải lỗi tại anh, mà có lẽ...

- Chị nói gì vậy?- Anh ta hỏi giật giọng, ánh mắt nhìn tôi bớt vô cảm.

- Thuỳ chỉ đến đây gội tóc, chỉ có anh nhìn thấy mái tóc cô ấy. Và anh luôn đóng chặt cửa tiệm mỗi khi Thuỳ đến!

- Chị điều tra cũng ghê nhỉ?

- Vậy mà anh không nhận ra điều gì sao?

- Điều gì ư? - Anh ta chau mày. - Lúc đầu tôi cũng hơi lạ với yêu cầu của cô ấy, rằng phải đóng cửa tiệm và xua nhân viên ra ngoài trong khi tôi gội tóc, sấy tóc khô cho cô ấy. Cô ấy luôn gọi điện đặt giờ và trả công cao. Nhưng hơn mười năm nay rồi, việc đó liên tục diễn ra, và tôi thấy chuyện này cũng bình thường thôi, tôi làm theo yêu cầu của Thuỳ, đã thành thói quen rồi, cứ làm như một cái máy, chẳng cần suy nghĩ.

- Nhưng anh là người đàn ông duy nhất nhìn thấy tóc cô ấy!

- Thì đã sao! - Anh ta nhún vai. - Tôi không quan tâm! -  Anh ta quay lại với mái tóc cắt dở cho khách.

- Anh mù rồi! - Tôi hét lên.

- Chị muốn chửi bới, la hét gì cũng được, nhưng đừng làm thế trong tiệm của tôi.

Tôi nén xúc động:

- Được, cho tôi hỏi câu cuối: Tại sao anh lại cắt mái tóc của Thuỳ?

- Ai nói với chị điều ngớ ngẩn đấy? Tôi không hề cắt một sợi tóc nào của cô ấy! - Anh ta dừng tay kéo, cao giọng, giọng anh ta có vẻ run, nếu tôi không lầm.

*

Tôi tạm bó tay trước sự bất hợp tác của người đàn ông thứ ba có liên quan tới Thuỳ. Anh là kẻ khó hiểu, anh ta vô cảm chăng, tôi khá nghi ngờ ước đoán này. Tôi vẫn cho rằng anh ta là cái chốt cuối cùng đóng cánh cửa bí mật ngăn tôi tiến lại gần sự thật cái chết của Thuỳ. Với pháp luật thì anh ta vô can, với tự tâm anh ta cũng vô can, bởi anh ta mù loà! Còn tôi thì không thể yên cho được. Cái chết đầy ẩn ức của Thuỳ ám cả trong giấc ngủ của tôi. Nhiều đêm tôi thấy Thuỳ về, nhưng dù tôi cố gắng cỡ nào cũng không thể nhìn thấy mái tóc thực của Thuỳ nó ra làm sao. Kể cả khi ở bên kia rồi nhưng Thuỳ vẫn cố giấu tóc. Chỉ có thể một người nhìn thấy mà thôi. Nhưng kẻ đó lại mù, thương thay cho Thuỳ! Mà cũng giận Thuỳ lắm, Thuỳ ơi!

Chạng vạng hôm đó, tôi nhận được một cuộc điện thoại, số lạ, nhưng tôi cũng bấm máy nghe.

- Chào chị Vân, chị là nhà báo, bạn của Thuỳ phải không?

Cái giọng không màu sắc gì, nhưng vừa lạ, vừa quen. Tôi lưỡng lự đáp.

- Vâng. Lạc Vân đây. Xin lỗi, tôi đang được nói chuyện với ai vậy?

- Chị không nhận ra tôi ư? Tôi tưởng chị có thể nhìn thấy mọi chuyện cơ đấy. Hoá ra chị cũng bình thường thôi. Nhưng làm sao chị lại thấy được tôi mù?

- à, anh An, nhà tạo mẫu tóc. Vì thế mà anh gọi điện cho tôi phải không?

- Không hẳn vậy. -  Người đàn ông ngập ngừng, giọng anh ta như trôi ra xa lắc - Tôi chỉ muốn nói với chị, rằng chị nói thật quá, làm tôi thức tỉnh. Và tôi cũng muốn báo để chị biết, là tôi đã đồng ý cắt tóc cho Thuỳ?

- Thế mà anh đã nói dối tôi, anh muốn lẩn tránh điều gì ư?

- Tôi không nói dối, vì lúc chị hỏi, tôi chưa hề cắt tóc cho Thuỳ. Tôi mới chỉ nhận lời cắt tóc cho cô ấy vào lúc sáu giờ ba mươi chiều nay.

- Cái gì? - Tôi choáng váng, tôi không tin nổi vào tai mình. Điện thoại đã bị ngắt. Tôi bấm máy gọi lại cho số cuộc gọi vừa nhận, nhưng chỉ thấy tiếng tút ngắn như máy đang bận. Tôi gọi lại không biết bao lần nữa mà không được. Tôi thử xem mình có tỉnh táo không bằng cách gọi từ máy di động vào số máy bàn nhà mình, máy reng bình thường. Liệu tôi có bị lẫn lộn trình tự thời gian không?

Tôi nhìn đồng hồ, sáu giờ hai mươi chiều. Tôi hấp tấp lao ra khỏi nhà, đến thẳng tiệm tóc An. Tôi vừa tấp xe đến vỉa hè, thì chiếc cửa cuốn tiệm tóc cũng vừa hạ sát đất.

Tôi vội vã đập vào cửa cuốn. Không ai mở. Sao giờ này ở đây không có ai hết thế nhỉ.

- Giờ này hàng tuần là cậu An tiếp khách đặc biệt, luôn kéo cửa xuống như thế, cô không gọi được đâu. Thánh cũng chẳng gọi được!

Bà chủ cà phê quán bên cạnh khuyên tôi như thế. Nhưng hình như vừa mới đây thôi tôi có nhìn thấy bà đâu?

Tôi hỏi bà, rằng nếu gọi cửa không được, thì có cách nào nhìn vào trong nhà không? Bà nhìn tôi hồi lâu nghi ngại, cho đến khi tôi đưa bà xem thẻ nhà báo, và kể vắn tắt câu chuyện của Thuỳ, thì bà bảo tôi vào trong quán cà phê. Bà kéo ra một cái thang, dựa vào bức tường chung giữa quán cà phê và tiệm tóc. Đây vốn là nhà của bà, có hai phòng thì bà cho An thuê một phòng làm tiệm tóc, một phòng bà tự kinh doanh quán cà phê. Bức tường giữa hai phòng có ba ô thông hơi trên cao. Tôi nhanh chóng trèo lên thang, nhòm vào tiệm tóc của An.

An mặc đồ đen giống như lần trước tôi đã nhìn thấy. Anh ta đứng cạnh một cô gái. Cô ngồi trên ghế cắt tóc, lưng xoay lại bức tường nơi tôi đang lén nhòm qua. Tóc cô buông dài, dài đến đâu thì tôi không nhìn thấy, vì tầm nhìn từ ô thông hơi trên cao chỉ đến thắt lưng cô mà thôi. Tôi rùng mình, nhắm mắt lại.

- Thuỳ định thế nào? - Tiếng người đàn ông rất dịu dàng.

- Thì cứ cắt đi thôi?

- Cắt đi thì tiếc lắm đấy!

- Tiếc cũng chẳng được. Em chẳng còn hy vọng được thêm nữa đâu. Em đau lắm, tít ở bên trong ấy. Tóc trinh giữ mãi chẳng để làm gì. Em cần một nỗi đau khác bên ngoài, để át đi nỗi đau kia, thử xem có được không.

- Dù gì thì tôi cũng xin lỗi.

- Muộn rồi, thôi anh cắt đi.

- Cắt đến đâu?

- Cắt hết đi, chẳng còn tóc nữa là được!

Cây kéo sáng loáng thoắt đưa lên mái tóc đen óng ả. Tôi muốn hét lên để ngăn lại nhưng tiếng hét dường như không thoát ra. Muộn thật rồi. Tiếng xoẹt lia ngang tim tôi, tôi bỗng trố mắt trước cảnh tượng kinh hoàng. Lưỡi kéo cắt đến đâu, máu túa chảy từ chỗ tóc đứt lìa đến đấy. An và lưỡi kéo dường như không thấy điều đó, cứ tiếp tục cắt. Tôi dùng hết lực để gào lên, nhưng máu làm tôi choáng váng, rơi khỏi chiếc thang như một bao gạo.

 *

Chập chờn tỉnh lại, tôi thấy xung quanh là màu trắng miên man. Có bóng người lờ mờ bên cạnh, tôi cố mở to mắt, căng tai ra nghe. Người đó hẳn là người thân của tôi, tôi thấy tay người đó âm ấm nắm tay tôi. Người đó đang cố giải thích cho tôi hiểu. Rằng tôi đang ở bệnh viện, tôi đã bị ngã và chảy máu. Rằng khi tôi tỉnh lại, cảnh sát sẽ thẩm vấn tôi, vì có nhà tạo mẫu tóc tên An vừa tự tử chết, dùng kéo đâm vào cổ. Tôi phải cung cấp thông tin cho cảnh sát, vì tôi đã có mặt ở hiện trường.

Những điều ấy trôi qua tôi như thực, như hư. Tại sao tôi lại bị cuốn vào những chuyện như thế này nhỉ? Tôi phải giải thích với cảnh sát ư? Giải thích điều gì trong khi chính tôi còn chưa tìm ra được lý do thực sự của tất cả câu chuyện này.

Và tôi phải nói những gì với cảnh sát? Còn những điều gì cần giữ lại?

Tôi chỉ biết chắc rằng lòng tôi sẽ mãi không yên ổn nữa, Thuỳ ơi!

 

 

 

VÁN CỜ LÚC NỬA ĐÊM

Truyện ngắn của VŨ TUẤN HOÀNG

 

Vũ Tuấn Hoàng

- Tên thật là Hoàng Tuấn Vũ.

- Sinh năm 1963, tại Hà Nội.

- Quê quán: Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu,

Nghệ An.

- Tốt nghiệp đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên ngành tiếng Nga và văn học Nga; đại học Tổng hợp Đông Ucraina, chuyên ngành lịch sử và tiếng Anh.

- Nghề nghiệp: Phiên dịch, biên dịch và viết báo. Hiện đang sống và làm việc tại Kharkov (Ucraina).

- Các tác phẩm đã xuất bản: Bị vứt vào cõi đời (tiểu thuyết, Nxb Hội  Nhà văn, 2009); Trái tim nôn nóng (Dịch, tiểu thuyết, Stefan Sweig, Nxb Phụ nữ, 2000).

 

Có lẽ, văn chương là sợi dây bền chặt nhất nối người viết xa xứ với quê hương.  Nhất là đối với những ai do hoàn cảnh sống bị cách ly với những người đồng hương của mình. Anh ta luôn luôn bị giằng co giữa hai nền văn hóa, hai ngôn ngữ, hai lối sống, nhưng đây cũng là một lợi thế nếu biết cộng hưởng được để làm giàu thêm  về tư tưởng cũng như  ngôn ngữ của tiếng mẹ đẻ.  Một nhà văn thành công khi hội đủ trong mình ba con người: người kể chuyện, người thầy và nhà phù thủy. Con người thứ ba quyết định cái ma lực của tác phẩm  hơn cả. Nếu chỉ viết ra những cái bạn đọc nhìn thấy và cảm thấy trong cuộc sống thật thì rất ít người thích thú, cái kỳ quái, cái bất thường mới có sức quyến rũ.

Nhà văn K. giật mình thức giấc vì tiếng chuông điện thoại. Ông quờ quạng với tay tìm công tắc chiếc đèn bàn để ở đầu giường. ánh sáng khiến cho tiếng chuông bớt đi vẻ khẩn cấp và chứa đựng điều gì đó bất thường.

- Ai mà còn gọi vào giờ này không biết nữa? Người vợ càu nhàu, giọng ngái ngủ.

- Này mình ơi, điện thoại nối với Kremlin. - Giọng ông lạc cả đi. - Chắc có chuyện gì rồi đây!

Hai tiếng Kremlin như dội xuống đầu hai vợ chồng một xô nước lạnh giá. Người vợ ngồi bật dậy hết nhìn chồng lại nhìn lên chiếc điện thoại màu đen kiểu dã chiến để trên bàn. Cả hai đờ đẫn một lúc, rồi như chợt tỉnh ra và cùng xô cả lại bàn. Người vợ cầm ống nghe lên và áp vào tai chồng. Bốn mắt họ nhìn nhau không chớp đầy vẻ kinh hoàng. Trong cái tĩnh mịch của đêm ngoại ô Matxcova, trong căn phòng treo rèm nhung ấm áp, giọng nói từ trong ống nghe vọng ra nghe rõ cả tiếng thở và tiếng gõ của máy chữ trong phòng thư ký ở bên kia đầu dây:

- Đồng chí Stalin cần gặp đồng chí ngay bây giờ, mười phút nữa sẽ có xe tới đón. Không được chậm trễ. Người vợ tưởng nghe nhầm, chỉ một ngón tay lên trời và lắp bắp thốt ra mấy câu rời rạc, nghe như tiếng nấc:

- Người... Người cho gọi... anh, phải không?

Nhà văn K. cầm lấy ống nghe từ trong tay vợ và khẽ gật đầu.

Trong đời ông chưa bao giờ xảy ra trường hợp tương tự. Lãnh tụ tối cao, người cha của các dân tộc, giữa đêm hôm triệu ông tới nhà riêng.

- Hay là mình nằm mơ ? Ông nói to lên – Đây có phải giấc mơ không?

- Mơ gì mà mơ, tôi còn đang đứng sờ sờ trước mặt ông đây này. – Bà vợ hiểu nhanh ra tình thế và giằng chiếc ống nghe vẫn còn tút tút trong tay chồng, đặt lại vị trí cũ.

- Tại sao đồng chí Stalin lại cho gọi vào giờ này nhỉ? Bà hỏi vọng ra từ đằng sau cánh cửa tủ đựng quần áo. – Anh cứ mặc ấm vào đề phòng mọi trường hợp bất trắc...

Nhà văn K. hấp tấp thắt lại chiếc cavat. óc tưởng tượng của nhà văn vẽ nên hết cảnh này đến cảnh khác. Cảnh sau còn khủng khiếp và rùng rợn hơn. Mấy giọt mồ hôi lạnh đã rỉn ra trên chiếc trán hói bóng. Bạn bè ông không ít người cũng bị gọi đi giữa đêm hôm. Chỉ có đi mà không quay lại.

- Anh nghĩ, chắc là lại về việc cuốn tiểu thuyết lịch sử của anh vừa được tặng giải thưởng Stalin, có thể Người thay đổi lại quyết định. – Nhà văn K. vừa nói vừa định với tay lấy cái tẩu thuốc bằng gỗ sồi để trên bàn viết của mình, nhưng rồi ông lại vội rụt tay lại không cầm vì ngại rằng Stalin cũng hút thuốc bằng tẩu.

- Hay là mình từ chối nhận, chứ không cũng nhiều kẻ ghen ghét gièm pha. – Bà vợ khoác chiếc áo pantô dạ đen lên vai chồng, nói– Mà chẳng nhẽ lại gấp đến mức nửa đêm gọi điện mời đến bàn việc?

- Em không biết chứ, lãnh tụ của chúng ta thường làm việc suốt đêm, Người đọc tất cả các tác phẩm được Hội Nhà văn đề cử. Mà đã biết thực hư thế nào đâu? Từ chối một giải thưởng như thế thì chẳng khác nào ký vào bản án tử hình... Em lấy chiếc áo khác đi, áo này của Hội Nhà văn Pháp tặng, không nên, lấy cái áo cũ lót lông gấu Xibiri ấy...

ánh đèn pha ôtô bất ngờ chiếu loáng loáng vào cửa sổ phòng ngủ.

- Xe đã đến rồi ! Nhà văn K. bồn chồn thốt lên.

Hai vợ chồng lặng lẽ ôm hôn nhau. Người vợ bật khóc và gục đầu vào ngực chồng. Có thể, đây là cuộc chia tay mãi mãi.

- Em sẽ thức và cầu nguyện mong Chúa phù hộ cho anh được an toàn.

- Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, thì đây là lời cuối cùng anh muốn nói: Anh yêu em! Tất cả đều là phù phiếm, chỉ có tình yêu với em làm sự tồn tại của anh có ý nghĩa.

Nhà văn K. hôn thật mạnh vào môi vợ rồi quay ngoắt đi như muốn che giấu sự yếu đuối của mình. Người vợ loạng choạng ngã quì xuống tấm thảm và đưa tay ôm lấy mặt. Tiếng bước chân gấp gáp của chồng trên thang gác nhỏ dần và cuối cùng là tiếng cánh cửa thông ra sân đập đánh rầm một cái, chắc bị bão tuyết thổi bật ra. Người vợ nhỏm đứng dậy và chạy đến bên cửa sổ, đúng lúc cái bóng cao gầy cúi gập xuống để tránh gió của chồng mất hút vào trong chiếc xe Pabeđa màu đen. ánh đèn pha chém loang loáng vào khoảng rừng thông đen sẫm bên kia hàng rào.

Đâu đó, vọng lại tiếng chó hú nghe hoang dã như trong khu rừng nguyên thuỷ chứ không phải đặc khu thơ mộng Peređelkino dành cho tinh hoa của giới văn sĩ Liên Xô.

- Sao lại đi đường này? Không đến điện Kremlin à? Nhà văn K. đột ngột hỏi khi thấy chiếc xe rẽ sang hướng đại lộ Mozaiski.

Người lái xe im lặng không trả lời. Chiếc gáy chắc nịch, phẳng lỳ của anh ta không động đậy, chỉ có đôi mắt với hàng lông mày rậm gần như giao nhau kiểu Gruzin nhìn qua gương chiếu hậu hơi nhếch lên như ra chiều muốn nói: “Đồng chí cứ yên tâm, mọi cái đã được trù liệu cả rồi”.

Ông im lặng ngả đầu ra phía sau và nhắm mắt lại, cố gắng hít một hơi thật sâu để trấn tĩnh. Ông đã đọc được câu trả lời trong sự im lặng đó. Gần hai chục năm nay, kể từ khi Alilueva vợ của Stalin tự sát, lãnh tụ tối cao không bao giờ ngủ đêm tại căn hộ của mình trong điện Kremlin mà thường sống và làm việc tại nhà nghỉ ngoại ô bên bờ sông Xetun.

Tiếng động cơ ô tô đều đều và không gian mênh mông phủ tuyết trắng xóa bên ngoài khiến nhà văn K. có thời gian trấn tĩnh và đánh giá sự việc đang xảy ra bằng cái đầu đã bớt đi choáng váng. Ông nhớ lại và cố gắng rà soát từng lời nói cũng như cử chỉ của mình trong cuộc họp cách đây hai ngày tại Kremlin giữa Stalin, Bộ Chính trị và đại diện của giới văn nghệ sĩ toàn liên bang. Ông cố thử hình dung và đặt địa vị mình vào lãnh tụ tối cao để thử tìm xem mình có điều gì thất thố phạm thượng không, nhưng cuối cùng ông cũng chỉ biết thở dài và len lén đưa tay lên làm dấu thánh vì sợ anh lái xe trông thấy. Cuốn tiểu thuyết lịch sử của ông về người anh hùng nông dân khởi nghĩa Stepan Razin được Hội đồng giải thưởng và chính Stalin đánh giá cao, quyết định trao giải nhất. Nhà văn K. cảm thấy yên tâm khi nhớ lại những lời khen ngợi của Stalin đối với cuốn sách: “Một cuốn tiểu thuyết lịch sử hoành tráng”. Người ông nổi da gà, nước mắt dâng trên bờ mi khi được nghe những lời khen hiếm hoi đó từ cửa miệng của lãnh tụ tối cao, của người Cha các dân tộc. Ông khiêm tốn cúi đầu nhìn xuống cuốn sổ tay để trên bàn và cảm nhận thấy những ánh mắt ghen tỵ của đồng nghiệp đang nhìn về phía mình. Một sự ghen ty cũng dễ hiểu trước một vinh dự quá sức tưởng tượng chẳng khác nào một trận mưa sao dội xuống đầu.

Nhưng đến cuối buổi họp, đột nhiên xảy ra một sự việc bất thường.

Pôkrebusev, thư ký riêng của Stalin, một người đàn ông nhỏ thó, đeo kính không gọng, giơ tay xin được phát biểu ý kiến.

“Thưa đồng chí Stalin, chúng tôi vừa nhận được thông tin: nhà văn K. trong thời gian làm việc tại công trình thủy điện trên sông Amua đã có những vi phạm nghiêm trọng, không xứng đáng một công dân Xô-viết”.

Chẳng khác nào một tiếng sấm giữa bầu trời quang. Cả hội nghị lặng cả đi đến mấy phút, không ai thốt ra được câu nào, thậm chí đến cử động mạnh trên ghế cũng cảm thấy bất tiện. Mọi ánh mắt lại đổ dồn về nhà văn K. nhưng không phải là ánh mắt của năm phút trước đó.

Nhớ đến đây, nhà văn K. cảm thấy tức ngực khó thở và phải yêu cầu lái xe hạ kính cửa xe xuống để cho làn gió lạnh lùa vào, cuốn theo những giọt tuyết buốt như kim châm phả vào mặt. Hai ngày hôm nay, đầu óc ông luôn luôn bị giày vò bởi suy nghĩ: kẻ nào đã chơi xỏ ông và dựng chuyện âm mưu hất ông ra khỏi giải thưởng lớn năm nay. Hắn là ai?

Stalin bất ngờ dừng lại sau lời phát biểu của người thư ký riêng. Lãnh tụ luôn có thói quen đi đi lại lại và hút thuốc bằng tẩu tại các hội nghị. Trong phòng chỉ một mình Stalin hút thuốc. Người im lặng không nói câu nào, rồi lại rảo bước tiếp đến bên cửa sổ của phòng họp và nhìn rất lâu về phía ngôi sao hồng ngọc lấp lánh trên đỉnh tháp Kremlin. Tất cả mọi người đều hướng cả về phía Stalin và nín thở chờ đợi.

- Tha bổng? - Stalin như tự nói với chính bản thân mình nhưng vì bầu không khí quá căng thẳng và lặng ngắt như trên pháp trường trước giờ hành quyết, nên giọng nói trở nên vang to và rất nghiêm khắc – Hay là không ?

Lãnh tụ tối cao cứ chậm rãi đi đi lại lại dọc hai dãy bàn họp và nhắc đi nhắc lại: Tha bổng hay là không? ...Tha bổng hay là không?

Hai vế của câu nói đó chẳng khác nào hòa cùng nhịp với chiếc đồng hồ quả lắc treo trên tường.

... Tha bổng... hay là không?... Tha bổng... hay là không?

Nhà văn K. chỉ còn thiếu chút nữa thì gục xuống mặt bàn vì thần kinh căng thẳng quá sức chịu đựng. Hơn ai hết, ông hiểu rằng đó là ranh giới giữa một bên là giải thưởng cao quí và một bên là tù đầy, thậm chí là cái chết. Quả lắc đồng hồ chao đi chao lại. Số phận một con người đang được định đoạt... Giữa sống và chết thật quá mong manh.

Cuối cùng, Stalin dừng lại ở bên cửa sổ, gõ mạnh cái tẩu thuốc bằng sừng hươu Bắc cực xuống bậu cửa khiến tàn thuốc lá bắn tóe ra và chậm rãi tuyên bố: Tha bổng!

Nhà văn K. đổ gục xuống bàn trong tiếng vỗ tay vang dội của cả hội nghị...

*

Chiếc xe Pabeđa giảm tốc độ khi đến gần đồi Poklon im lìm bị tuyết phủ trắng xóa. Gió ở đây không còn lồng lộn lên nữa vì xung quanh là rừng thông dày che chở. Ngôi nhà gỗ hai tầng huyền thoại, bí ẩn lờ mờ hiện ra phía trước mặt khiến trái tim nhà văn K. đập rộn lên trong lồng ngực. Người ta vẫn chưa dỡ bỏ lớp ngụy trang từ thời chiến tranh. Nhà văn K. bất giác đưa tay lên chỉnh lại chiếc cavat, có lẽ vì cảm thấy bị chèn ở nơi cổ. Người lái xe nháy đèn ba lần, cánh cổng tự động mở ra. Nhà văn K. bước xuống xe và đi theo một người lính bảo vệ Gruzia. Anh ta không nói câu nào, chỉ giơ tay ra hiệu. Đây là lần đầu tiên ông được lãnh tụ tối cao mời đến khu nhà nghỉ ngoại ô nhưng không được biết vì nguyên cớ gì. Người bảo vệ nhẹ nhàng mở cửa tầng dưới và đứng sang một bên để nhà văn K. bước vào. Cánh cửa gỗ nặng trịch sau lưng ông đóng sập lại. Một nỗi kinh hoàng vụt chạy suốt cơ thể như một luồng điện. Đã chuẩn bị đối phó với tình huống xấu nhất nên chỉ sau một phút đứng phủi tuyết bám trên mũ và áo khoác ông trấn tĩnh lại được ngay. Xung quanh yên tĩnh và vắng lặng không một bóng người. Trong lúc ông cởi áo khoác ngoài treo vào trong tủ, chỉ có một chú mèo lông đen hai mắt sáng quắc đi từ phòng thư viện để ngỏ cửa nhẹ nhàng tới cọ mình vào chân ông. Nhà văn K. lưỡng lự một chút và cảm thấy bối rối vì không thấy có người phục vụ ra đón. Ông cúi xuống bế chú mèo lên tay và vuốt ve bộ lông dày mượt để kéo dài thời gian chờ đợi. Đúng lúc đó, từ trên tầng hai đưa xuống giọng nói trầm trầm pha âm sắc Gruzin của lãnh tụ tối cao mà hàng triệu người dân XôViết đã quen từ hơn hai chục năm qua đài truyền thanh :

- Anh cứ vào phòng thư viện đi! Tôi xuống ngay bây giờ.

Chỉ mấy câu nói đó thôi đã trả lại cho nhà văn K. lòng tự tin và tinh thần sảng khoái, chẳng khác nào trút khỏi vai một bao lúa mỳ nặng. Ông tự nguyền rủa mình đã quá yếu bóng vía, thần hồn nát thần tính nghĩ ra đủ các tình huống để hù dọa chính bản thân. Qua âm điệu của giọng nói đó thì không có chuyện gì nghiêm trọng xảy ra. Quyết định trao tặng giải thưởng cao quí không thay đổi!

Bước chân của ông đi vào phòng thư viện cũng vững chắc và tự tin hơn rất nhiều, thậm chí còn hơi nhún nhẩy. Ông cảm thấy không ai may mắn hơn mình. Các bạn đồng nghiệp mà biết được sự việc đêm nay chắc không khỏi ghen tỵ. Có lẽ, lãnh tụ tối cao muốn đàm thoại với một nhà văn nổi tiếng về tác phẩm đoạt giải hoặc về công tác Hội Nhà văn... Ngồi trên chiếc ghế xôpha bên cạnh chiếc bàn gỗ hình bầu dục thâm thấp, ông đưa mắt nhìn bao quát toàn bộ phòng thư viện rộng rãi, bốn bức tường dát toàn sách. Một số cuốn sách đang được đọc dở để trên bàn làm việc gần cửa sổ, trên divant và trên bệ lò sưởi đang bập bùng lửa cháy. Trái tim ông muốn nhảy ra khỏi lồng ngực khi ánh mắt chợt bắt gặp cuốn tiểu thuyết lịch sử của mình để trên bàn làm việc của lãnh tụ tối cao.

“Stalin bình sinh cũng là một nhà thơ có tài khi còn học ở trường dòng, tâm hồn nghệ sĩ không thể tàn lụi được”. – Nhà văn K. suy nghĩ . – “Song, có lẽ cách mạng là con đường ngắn nhất và chắc nhất để đạt được sự bất tử. Phàm là con người, ai mà chẳng muốn sống mãi với thời gian. Bản thân mình đây, cầm bút viết cũng mong mỏi những con chữ viết ra không chỉ cho ngày hôm nay mà còn cho hàng chục, thậm chí hàng trăm năm sau đọc...”

Nhà văn K. đứng dậy khỏi ghế và đi lại gần bên lò sưởi. Ông bỏ một khúc củi ngắn vào trong lò, nhưng dụng ý là tới gần bàn làm việc để nhìn gần hơn đứa con tinh thần của mình đang nằm ngay ngắn trên bàn. Và thậm chí, người đọc còn đánh dấu trang đọc dở bằng một con dao găm kiểu Cozac, nhỏ nhưng sáng loáng.

Tiếng kẹt cửa khiến ông giật mình quay lại, trong tay vẫn còn cầm một khúc củi khô định cho vào lò.

Stalin đứng ở trong khung cửa, mỉm cười. Nhưng, ánh mắt vẫn lạnh.

Lãnh tụ tối cao mặc bộ đồ dân tộc Gruzin giản dị nên mất đi dáng vẻ oai phong đường bệ. Nhà văn K. kinh ngạc khi thấy Stalin cắp dưới nách một hộp cờ vua. Hiểu ngay được ánh mắt ngạc nhiên đó, Stalin vừa bước lại bàn vừa nói:

- Muốn giải lao trong lúc căng thẳng, mời văn sĩ dùng một ván cờ, được không?

Nhà văn K. bị bất ngờ nên chưa kịp phản ứng gì, chỉ còn biết thả khúc củi xuống ngay dưới cạnh chân và quay trở lại ghế.

Stalin bày bàn cờ của mình xong thì đứng lên đi đến bên tủ để lấy đồ uống và ít bánh ngọt để trong chiếc đĩa bằng gốm đã được chuẩn bị sẵn.

- Tôi cho phục vụ đi nghỉ sớm nên chúng ta tự phục vụ lấy nhau nhé?

Mấy ngón tay của nhà văn K. bày quân lóng ngóng, run run.

Stalin rót rượu ra hai chiếc cốc nhỏ. Rượu vang đỏ như máu.

- Nào chúng ta cụng ly một cái, ai đi trước nhỉ? Thôi, nhường cho khách đi trước.

Stalin đưa ống tay áo lên quệt ngang miệng sau khi uống cạn cốc rượu. Nhà văn K. đặt cốc rượu xuống và đi nước cờ đầu tiên. Mặc dù là một tay cờ có đẳng cấp nhưng ông cũng hiểu rằng đây là ván cờ mà số phận của ông bị buộc chặt vào. Nó là ván cờ khó nhất từ trước đến nay, và có lẽ cho đến cuối đời. Ông phải chơi thua nhưng không được để lộ ra rằng mình cố tình thua...

Stalin đưa tay đẩy quân cờ đi nhưng hình như cũng đang có điều gì đó suy nghĩ rất lung. Bởi vậy, mặc dù đã gần nửa tiếng trôi qua, ván cờ hầu như diễn ra trong im lặng. Nhưng rồi đột nhiên, sau một lần đi con mã, Stalin bỗng bật cười khẽ và lẩm bẩm một mình:

- “Thật là một giấc mơ kỳ quái!”

Nhà văn K. ngẩng đầu lên vì không hiểu chủ nhà nói gì. Stalin vẫn chăm chú nhìn vào bàn cờ như mải suy nghĩ.

Mấy phút trôi qua trong im lặng.

Stalin lại lúc lắc đầu, thở dài một cái và nói to hơn: “Một giấc mơ không thể hiểu nổi!”

Nhà văn K. đã nghe rõ câu nói nhưng đâu dám hỏi kỹ hơn, ngay lúc đó, Stalin tự rót cho mình một cốc rượu nữa và giải thích:

- Đêm hôm qua, tôi nằm mơ một giấc mơ rất lạ: Anh đứng cách tôi không xa và chĩa thẳng khẩu súng lục vào người tôi. – Nói xong, Stalin ngửa cổ lên uống một ngụm hết cốc rượu và hướng ánh mắt lạnh lùng, soi mói vào khuôn mặt của khách.

Nhà văn K. cảm thấy đông cứng người lại.

Ông bối rối nhìn xuống bàn cờ vì chưa biết nên trả lời ra làm sao.

“Tại sao lãnh tụ lại kể điều này ra với mình? Hay trả lời rằng chuyện mộng mị cũng là lẽ thường tình, đôi khi con người ta còn nằm mơ làm tình với cả bố mẹ mình ấy chứ! Hay, chuyển sang giọng đùa cợt? Nhưng vẻ mặt của Stalin rất nghiêm nghị, đâu phải là chuyện đùa...” Những ý nghĩ đó làm cứng hàm nhà văn K.

Cuối cùng, ông chỉ còn biết khẽ nhún vai ra chiều ý nói: “Thưa đồng chí Stalin kính yêu, tôi chẳng biết nói như thế nào cho phải phép trong trường hợp này cả!”, rồi đưa tay lên vuốt nhẹ vầng trán cao lấm tấm mồ hôi của mình.

Stalin ngả người ra ghế, ánh mắt vẫn không rời khuôn mặt lúc tái lúc đỏ của nhà văn nổi tiếng K.

“Tôi cũng bất ngờ với chính giấc mơ của mình”. – Nói xong, Stalin đứng dậy và bước tới gần lò sưởi, cúi xuống cầm thanh củi lúc nãy nhà văn K. bỏ rơi trên sàn và ném vào trong lò. Những tàn lửa đỏ rực bắn tóe ra xung quanh.

- Thưa đồng chí Stalin, đồng chí đang chiếu tướng tôi ạ? Nhà văn K. chỉ vào con xe trên bàn cờ và thốt lên với vẻ hân hoan như thể đã tìm ra lối thoát cho tình thế.

- Tôi chiếu tướng anh lâu rồi, anh không nhận ra đó thôi. Uống nốt cốc rượu đi rồi đi ngủ, quá nửa đêm rồi, anh ở lại đây thôi, bên ngoài đang bão tuyết đấy.

Stalin đích thân tự tay lấy những tấm khăn trải giường đã được xếp ngăn nắp ở trong tủ con và trải lên chiếc divant duy nhất trong phòng thư viện. Rồi lấy gối nhồi lông chim và trước khi để lên phía đầu giường còn rũ rũ đập đập cho phẳng đều.

- Anh nằm đây ngủ, còn tôi ngủ phòng bên cạnh.

Nói xong, Stalin bất chợt sải những bước chân dài đến bên cửa sổ và vén rèm chăm chú nhìn rất lâu qua cửa kính. Nhà văn K. vẫn đứng im như chôn chân xuống dưới sàn vì quá xúc động.

“Thật là một vinh dự ngoài sức tưởng tượng. – Lãnh tụ tối cao tự tay trải giường! Không có hư cấu văn học nào có thể nghĩ ra được tình huống tương tự”.

Stalin quay lại và bước về phía cửa dẫn sang phòng bên cạnh, vừa đi vừa nói với mình nhưng cũng đủ cho khách nghe thấy:

- Đã bảo cấm không được dọn tuyết ở phía ngoài cửa sổ, thế mà vẫn có kẻ không nghe lời... Nói đến đây, Stalin dừng lại và nói to với nhà văn K. - Đây là kinh nghiệm khi còn hoạt động bí mật, tuyết lưu giữ dấu vết của những kẻ có mưu đồ xấu.

Stalin đặt tay lên nắm đấm cửa, không quay đầu lại, hỏi to:

- Anh ngủ không ngáy đấy chứ ?

Rồi, chẳng đợi câu trả lời, chủ nhà đóng sập cánh cửa lại sau lưng.

Nhà văn K. thở dài một cái rõ to và ngồi phịch xuống ghế. Nhìn lên chiếc đồng hồ treo tường, ván cờ chỉ diễn ra vẻn vẹn bốn nhăm phút thế mà ông có cảm tưởng rất lâu. Đây là ván cờ có một không hai trong đời ông. “Phải lấy một quân cờ trên bàn kia làm kỷ niệm”, ý nghĩ láu lỉnh đó nảy ra trong đầu khi ông đã cởi quần áo ngoài ra và tắt đèn. Trong bóng tối mờ mờ của ánh sáng từ ngoài cửa sổ hắt vào, ông dò dẫm quay trở lại divant. Khi đi ngang qua bàn lấy tay nhón đúng con xe mà Stalin đã chiếu tướng nước cuối cùng, ông bỏ con xe vào trong túi áo ngực và rón rén đi lại nằm xuống, cố gắng không để gây ra tiếng cót két.

Nằm nhắm mắt thế thôi, chứ có mà tiêm thuốc mê ông cũng không chợp mắt nổi. Cách ông một cánh cửa mỏng là một con người mà cả đất nước và còn rộng hơn thế nữa, sùng kính, thậm chí sẵn sàng hiến dâng cả mạng sống của mình. Trong lòng ông nổi lên sự đua tranh giữa nỗi sợ và lòng tự hào.Ông biết rất rõ Stalin làm bất cứ điều gì đều có tính toán kỹ lưỡng, không bao giờ có chuyện vô tình cả. Việc mời ông giữa đêm hôm đến tận nhà để đánh một ván cờ, rồi lại kể cho nghe một giấc mơ chẳng biết có thật hay không, rồi việc mời ngủ lại, trải giường rũ gối... tất cả những cái đó để nhằm mục đích gì? Hay muốn qua ông gửi tới giới văn nghệ sĩ, trí thức thông điệp gì?

Ông lật đi lật lại mọi khả năng có thể xảy ra và chợt rùng mình ớn lạnh vì ý nghĩ có ai đó đang theo dõi trong bóng đêm. Ông chợt giật mình vì từ phòng bên vọng sang tiếng tắt công tắc đèn. Khô khốc và vang to trong đêm yên tĩnh. Dải ánh sáng dưới chân cửa biến mất. Stalin cũng đã đi ngủ.

Cũng không rõ bao nhiêu thời gian đã trôi qua, có thể là hai hoặc ba tiếng. Bỗng từ phòng bên, lại vọng sang tiếng bật công tắc đèn. Dải sáng dưới chân cửa xuất hiện. Tiếp theo đó là tiếng bước chân và tiếng bản lề cửa kêu rít. ánh điện từ phòng bên hất sang làm phòng thư viện sáng hẳn lên.

“Lạy chúa tôi, nếu Người biết được mình không ngủ tức là lương tâm không trong sạch”, nhà văn K. trộm nghĩ và vội nhắm mắt lại. Toàn thân cứng đờ.

Căn cứ theo tiếng bước chân, Stalin đang bước lại gần divant. Lãnh tụ tối cao đứng ngay bên cạnh vị khách văn sĩ của mình và từ trên nhìn xuống, chăm chú quan sát khuôn mặt sáng sủa thông minh đang thiếp đi trong giấc ngủ.

“Cố gắng làm sao không động đậy mi mắt, không được động đậy mi mắt”. – Vị khách thầm nghĩ trong bụng và tưởng tượng ra chỉ một tích tắc nữa thôi, Stalin sẽ phát hiện ra rồi đặt tay lên ngực túi áo có quân xe của mình... thế là hết! Quân cờ nhỏ bé nhưng chẳng khác nào một tảng đá lớn đè lên ngực trái.

“Chỉ có Chúa mới biết được, Stalin sẽ làm gì khi biết mình giả vờ ngủ”, nhà văn K. nghĩ trong khi nghe rõ tiếng đập thình thịch của trái tim trong lồng ngực, hai bên thái dương và cả tận dưới ngón chân cái. “Nếu có thể chết được ngay lúc này còn hơn là để lãnh tụ biết mình giả dối”.

*

Stalin nhìn chăm chú một lúc khuôn mặt của nhà văn tài năng vào bậc nhất văn đàn Nga, thở dài một cái rõ to và nặng nề, rồi quay gót đi về phòng mình. Cánh cửa khép lại, bóng tối an bình ập xuống. Tiếng công tắc điện ở phòng bên vang lên. Tất cả lại chìm trong im lặng.

*

Nhà văn K. bật khóc và khẽ đặt tay lên ngực trái, nắm chặt lấy quân cờ trong lòng bàn tay nhớp mồ hôi.

Ông không lau đi những giọt nước mắt mặn chát lăn trên má và cứ nằm im như thế cho đến khi bầu trời bên ngoài cửa sổ hửng sáng...

 

 


Tin bài mới

1
2
3
4
5
6
7
8
Tin mới