TRÁI TIM MÁCH BẢO
I
Tôi không bao giờ dám nghĩ rằng mình còn được trở lại vùng đất dưới chân dãy Kon Ka Kinh này vào đúng những ngày đang ngồi chờ nhận tờ quyết định nghỉ hưu. Nghe nói, cái tờ quyết định ấy đã được ông Vụ trưởng vụ tổ chức cán bộ thảo xong, nhưng đúng vào hôm ông ấy định trình lên sếp lớn của cơ quan Tổng thanh tra Nhà nước để kí thì từ Văn phòng Tổng lại đẩy xuống một tờ quyết định khác, đó là quyết định cử tôi là Trưởng đoàn thanh tra vào Tây Nguyên để tái thanh tra một vụ phá rừng khá lừng lẫy ở khu vực rừng quốc gia Kon Ka Kinh. Sở dĩ có cái sự “tái thanh tra” là vì sau khi vụ án đã được đưa ra xét xử, một dây những tên “lâm tặc” thứ thiệt và cả một mớ những tên “lâm tặc bàn giấy” đã bị pháp luật trừng trị nhưng không hiểu sao vẫn còn có đơn khiếu kiện, lại có cả đơn kêu oan nữa, nên cơ quan Tổng thanh tra Nhà nước đã phải vào cuộc. Kết luận của đoàn thanh tra đầu tiên, về cơ bản là nhất trí với những kết kuận của cơ quan điều tra và bản án của toà đã tuyên, nhưng hình như cả bản án của toà lẫn kết luận của thanh tra nhà nước vẫn không tháo gỡ hết được những gút mắt chồng chéo nhằng nhịt của vụ án. Đơn khiếu kiện, đơn kêu oan vẫn tới tấp được gửi tới các cơ quan Đảng và Nhà nước. Đã có người đội đơn lên tới tận Văn phòng của những vị lãnh đạo cao nhất. Vì thế, Thanh tra Nhà nước lại được yêu cầu vào cuộc để “làm rõ nội vụ”. Phải nói thực, trong nghề này ai cũng ngại phải đi làm cái việc dọn dẹp những thứ rác rưởi mà đồng nghiệp, vì những lí do nào đó, còn để sót lại. Hơn nữa, về sau tôi mới biết, cuộc dọn dẹp lần này khá rắc rối, nên trước khi “thượng phương bảo kiếm” được trao vào tay tôi, nó đã được tế nhị đùn đẩy qua nhiều người. Thảo nào, trước khi tôi hăng hái lên đường, có một anh bạn đồng nghiệp đã vỗ vai tôi cười, bảo rằng “Cấp trên thật sáng suốt khi cử ông làm trưởng đoàn phúc tra, vì rằng đằng nào sau vụ này ông cũng về hưu rồi, chẳng cần phải lo “tế nhị” với ai cả?”.
Rõ hay là hai chữ “tế nhị”. Lâu nay trong ngành thanh tra, hai chữ ấy đã được dùng như một thuật ngữ nghề nghiệp không chính thức. Trong nghề, ai cũng biết, mỗi khi các đoàn thanh tra được thành lập để “làm sáng tỏ” một vụ việc nào đó mà lại được ở đâu đó (cơ quan X, cơ quan Y hay anh K,anh H... anh Ba anh Bảy nào đó) yêu cầu nên xem xét vụ việc một cách khách quan chu đáo nhưng lại phải “tế nhị” thì các thanh tra viên, nhất là các vị trưởng đoàn thanh tra cũng hiểu ngay rằng mình sẽ phải ứng xử như thế nào. Thú thực, trong suốt gần hai chục năm làm “quan thanh tra”, hết cấp tỉnh, cấp Bộ rồi lên cấp trung ương, tôi cũng đã có vài lần phải “tế nhị” rồi. Nay nghĩ lại cũng thấy không phải những sự tế nhị ấy hoàn toàn chỉ mang dấu ấn cơ hội hay vụ lợi. Cũng có một vài vụ sự “tế nhị” đã mang lại những lợi ích tích cực cho xã hội khi một người nào đó vốn dĩ là người có tài, thậm chí có tâm nữa, nhưng do “vận dụng cơ chế” không được thành thục nên dẫn đến vi phạm pháp luật, nếu cứ thẳng mực tàu mà chiếu theo điều nọ khoản kia để khép tội thì đương sự khó mà thoát vòng tù tội hay chí ít cũng bị loại ra khỏi bộ máy. Nhưng nếu sự “tế nhị” được vận dụng một cách tài tình (mà điều này phàm đã là thanh tra viên ai cũng biết được vài chiêu), thì chắc chắn đương sự sẽ được bảo toàn danh tiết và cả những chiếc ghế của họ nữa. Cũng xin nhân danh một người sắp về hưu mà nói rằng, thời mà tôi làm thanh tra chính là thời “hoàng kim” của những sự biến hoá tài tình ấy. Bởi vì đó chính là cái thời còn tồn tại sự mập mờ sáng tối, giữa thời quan liêu bao cấp và thời cơ chế thị trường vừa được mở ra. Sự nhập nhằng của pháp luật, sự chồng chéo của cơ chế lãnh đạo quản lí, sự thiếu nhất trí giữa giữa ngành dọc và ngành ngang, giữa trung ương với địa phương, sự mênh mông trong cái khoảng “từ .... đến” ... trong các loại văn bản pháp qui là mảnh đất màu mỡ cho những ông thầy phù thuỷ trong việc chạy án, gán tội. Vì thế, chẳng có gì là khó hiểu khi biết rằng không ít những kẻ tội lỗi đầy mình vẫn thoát hiểm và sự oan khuất ngang trái thì vẫn còn tồn tại một cách nhức nhối.
Còn nhớ hồi tôi mới chân ướt chân ráo bước vào ngành thanh tra thì trên đài truyền hình người ta bắt đầu chiếu rộng rãi bộ phim Bao thanh thiên. Cả nhà tôi đều rất khoái bộ phim này, cha mẹ, vợ và cả các con tôi không bỏ qua một tập phim nào. Và cứ sau khi Bao Chửng phá xong một vụ án thì cả nhà tôi lại nổ ra những cuộc “xê-mi –na” rất sôi nổi, lí thú. Kết thúc mỗi buổi thảo luận bao giờ vợ tôi cũng thở dài nói vu vơ “Cái ông mặt sắt đen sì ấy liêm chính như thế thì vợ con ông ta khốn khổ cũng là phải”. Bố tôi, một vị trưởng ban tuyên giáo cấp tỉnh đã về hưu thì lắc đầu thở dài “Thời này còn kiếm đâu ra một người như Bao Thanh thiên”. Cậu em trai út của tôi, một sinh viên đang học trường Luật Hà Nội thì bĩu môi bảo “Khi nào ra trường em sẽ không bao giờ làm thủ hạ cho một ông quan toà cám hấp như thế?”. Bố tôi nổi cáu chỉ mặt nó quát “Ranh con! Thế thì mày bỏ ngay trường Luật mà ra đường làm giặc đi thì vừa”. Thằng em bất trị của tôi cười ngất “Làm giặc ở công đường mới khó, chứ làm giặc ngoài đường thì khó gì?”. Sau khi ra trường nó làm “giặc công đường” thật. Mới làm thư kí toà được dăm năm nó đã tậu được nhà, mua được ô tô, sau đó thì vào tù vì dính vào một đường dây chạy án. Nó phạm tội khiến cái quyết định bổ nhiệm Vụ trưởng của tôi bị đình lại vĩnh viễn. Ra tù, không hiểu bằng cách nào nó chạy được vào làm việc cho một công ty nhà nước liên doanh với nước ngoài. Một lần tôi có đến thăm cái công ty lẫy lừng ấy và hỏi thử vị Giám đốc điều hành “Vì sao mà ông dám dùng thằng Hải nhà tôi làm thư kí pháp chế? Ông cũng thừa biết nó đã từng vào tù vì vi phạm pháp luật kia mà?” Ông Giám đốc liền cười bảo “Lấy độc trị độc mà... Thằng Hải nhà ông biết đến là nhiều mánh khoé để qua mặt các cơ quan pháp luật. Nó lại có quan hệ rất rộng. Thời buổi này, đó cũng là một “tiềm năng” không thể bỏ qua”. Rời khỏi nơi cậu em trai làm vịệc, tôi cứ khấn trời đừng run rủi cho tôi phải đến thanh tra cái tổ quỉ này của chúng nó! Lời cầu khẩn của tôi đã linh nghiệm, tôi sắp về hưu rồi và cái công ty của thằng em tôi thì đã yên lành trót lọt vượt qua không dưới một chục cuộc thanh tra của các cấp mà không bao giờ có mặt tôi. Hiện nay thì nó đã trở thành Phó giám đốc điều hành của cái công ty liên doanh ấy rồi. Mà lại có chân trong Đảng ủy nữa. Tiến bộ nhanh thật!
II
Tôi tên là Thao, sinh năm Canh Dần. Cha tôi bảo rằng tôi ẩn tuổi ông hổ, mệnh tùng bách mộc, là cây tùng trên núi cao nên suốt đời tôi sẽ phải đương đầu với gió sương, chẳng thể sống đời an nhàn, chẳng mấy khi được thư tâm, điềm nhiên toạ hưởng. Đến nay ngẫm lại đời mình,tôi thấy cũng không mấy xa lời tiên đoán ấy của người. Nhưng hình như cũng vì có những lời tiên tri ấy của cha nên không biết tự lúc nào trong tôi lại nảy sinh một tâm lí khá là tiêu cực, tôi bằng lòng với ngay cả những sự gian nan sóng gió mà cuộc đời mình phải trải qua, với những thiệt thòi, bất công mà mình phải gánh chịu. Thuở nhỏ tôi học hành khá dễ dàng thuận lợi, là học sinh giỏi môn Văn từng được giải nhất toàn tỉnh, nhưng đến khi vào đại học, không hiểu vì sao người ta lại không cho tôi vào học khoa Văn mà lại nhất định nhét tôi vào học khoa Lịch sử. Mặc dù không được như ý nhưng hồi đó tôi cũng đã nhanh chóng đầu hàng số phận, tặc lưỡi mà rằng “Nước ta từ ngàn xưa đến giờ văn sử bất phân, mình há chi phải rạch ròi. Cứ trở thành nhà Sử học đi đã rồi sau này nếu thích thì viết văn làm thơ, ai cấm?”. Thế là tôi chúi đầu vào học Khoa Lịch sử một cách say mê như mình sinh ra là để trở thành một nhà nghiên cứu lịch sử thứ thiệt vậy. Nhưng học tới năm thứ ba thì có lệnh tổng động viên, sinh viên trong trường ùn ùn ghi tên tình nguyện xin nhập ngũ để ra trận đánh giặc Mỹ xâm lược. Tôi đã định không ghi tên, không phải vì sợ chết mà vì hồi đó tôi đang ham học, bỏ dở tiếc lắm. Nhưng anh chàng bí thư chi đoàn của lớp tôi nhất định không chịu xếp thứ hai trong toàn khối vì tỷ lệ thanh niên đăng kí tình nguyện, nên đã nhanh nhảu đăng kí hộ tôi, rồi còn viết hộ cả một lá đơn tình nguyện rất lâm li cho tôi nữa, rồi yêu cầu tôi kí vào để nộp cho đoàn trường cho nó tròn tỷ lệ một trăm phần trăm! Nhưng cuối cùng thì cũng chỉ có ba chục phần trăm số người tình nguyện được gọi nhập ngũ. Oái oăm thay trong số ba chục phần trăm ra đi ngày ấy không có anh chàng bí thư chi đoàn, một người hăng hái nhất, nhưng lại có tên tôi, một kẻ... chưa mấy sẵn sàng cho cuộc “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nhận được giấy gọi nhập ngũ, tôi cũng không hoan hỉ gì, nhưng cũng tặc lưỡi “Thôi, đi cũng được. Chiến tranh đã lan rộng ra cả nước rồi. Chẳng đi trước rồi cũng đi sau. Đằng nào thì cũng học hành dang dở cả thôi”. Thế là tôi lên đường ra trận! Khi kết thúc chiến tranh chống Mỹ, đáng lẽ tôi phải rời quân ngũ trở về trường đại học để tiếp tục học tập. Nhưng hồi đó miền Nam vừa giải phóng đang cần rất nhiều cán bộ để tăng cường cho các địa phương, một cán bộ cấp trung đội, một đảng viên lại đã được học hết năm thứ hai của Đại học Tổng hợp Hà Nội rồi là rất quí cho miền Nam lúc đó. Vì thế, tôi được xếp ngay vào đội ngũ cán bộ biệt phái tăng cường cho bộ máy cán bộ dân chính vào tiếp quản một thành phố. Khi trao cho tôi quyết định đi làm cán bộ tăng cường, ông chính trị viên tiểu đoàn của tôi cũng nói thêm “Đồng chí là sinh viên tình nguyện nhập ngũ khi đang học tập dở dang, nay nhà nước cũng đã có chủ trương trả tất cả sinh viên trở về các trường đại học để đào tạo nhân tài cho đất nước. Nhưng khốn nỗi, chỉ tiêu cán bộ đi tăng cường cho thành phố cấp trên phân cho mình nhiều quá. Vì thế, các đồng chí sinh viên là đảng viên đành phải hi sinh thôi. Nhưng, nếu đồng chí không thông thì có thể đề đạt nguyện vọng lên cấp trên. Biết đâu, cấp trên chẳng chấp thuận cho đồng chí giải ngũ về trường học tập”. Hồi đó, mấy tiếng “đề đạt nguyện vọng” còn rất ít khi được nói đến. Cho nên tôi đành dùng câu nói quen thuộc để trả lời đồng chí Bí thư Đảng uỷ tiểu đoàn “Tôi xin chấp hành mọi sự phân công của tổ chức, không có nguyện vọng cá nhân nào cả”. Thế là xong, tôi đành lỗi hẹn với khoa cổ sử để trở thành một anh “cán bộ biệt phái tăng cường”. Lúc đầu cũng tưởng rằng chỉ vài ba tháng, cùng lắm thì một năm rồi sẽ được trở lại quân đội và được giải ngũ trở về trường đại học. Ai ngờ, cuộc bẻ ghi miễn cưỡng đó đã quyết định cả phần đời còn lại của tôi.
Có lẽ vì có học hành đôi chút nên tôi được bổ sung về tăng cường cho Ngành tư pháp thành phố. Với những người lính như chúng tôi những ngày đó thì, ngoài chuyện đánh giặc ra, chẳng có việc quái gì làm khó chúng tôi được. Kể cả cái ngành tư pháp của nhân loại đã có lịch sử già cốc đế! Tôi còn nhớ những ngày ấy làm cán bộ tư pháp rất vất vả, nhưng rất vui. Nhất là nhiệm vụ đi tiếp thu các cơ sở sản xuất kinh doanh của bọn tư sản, bọn nguỵ quyền tay sai. Người chiến thắng là người được tất cả, quả không sai. Chúng tôi vui mừng vì cách mạng giàu lên rất nhanh. Tôi cam đoan rằng, sự tà tâm, tư lợi lúc đó còn ở rất xa chúng tôi. Vầng hào quang kiêu hãnh của người chiến thắng vẫn còn bảo vệ được chúng tôi khỏi những thói hư tật xấu ấy. Thành phố vừa giải phóng, còn thực hiện chế độ quân quản, nên việc gì cũng cứ theo “quân lệnh” mà làm. Mọi việc cũng rất đơn giản nên chúng tôi cũng chưa thấy bị ngợp. Rồi khi chính quyền thành phố chính thức ra đời, các chủ trương chính sách mới cũng liên tục ban hành, cái của trung ương, cái của điạ phương, cái của các Bộ các ngành, văn bản nọ chồng lên văn bản kia, cứ loạn ù cả lên. Ông Giám đốc Sở tư pháp, cũng là một cán bộ quân đội cấp tiểu đoàn chuyển ngành. Ông vốn là cán bộ Đảng, chưa từng học qua trường luật nào cả, nhưng giải quyết công việc rất tự tin. Những việc động trời ông cũng cứ quyết băng băng, không bao giờ băn khoăn do dự. Ngược lại cán bộ cấp dưới chúng tôi thì vô cùng lúng túng khi đứng trước hàng đống các văn bản chỉ thị, cái nọ đá tréo ngoe cái kia. Có lần tôi ôm một đống văn bản lên hỏi sếp xem việc này, việc này nên thực hiện theo văn bản nào? Sếp bực mình quát tướng lên “Các cậu hỏi tôi thì tôi biết hỏi ai? Trên bàn tôi cũng có một đống những văn bản, cái của trung ương cái của địa phương, cái pháp qui, cái bất pháp qui, cái trên luật, cái dưới luật, cái thì hướng dẫn bỏ văn bản chỉ thị này, cái thì hướng dẫn thực hiện văn bản chỉ thị kia. Ngồi đó đọc cho hết thì hoạ có mà điên! Càng đọc thì các cậu sẽ càng rối, sẽ chẳng còn biết làm gì nữa đâu!” Vậy... chúng tôi phải làm theo cái gì ạ?”. Khi nghe tôi hỏi vậy, sếp của tôi liền đấm thùm phụp vào ngực “Làm theo cái này này... Theo trái tim của người lính, của người Cộng sản, hiểu không? Trái tim sẽ mách bảo cho cậu biết cái nào đúng cái nào sai, cái nào đúng ít cái nào đúng nhiều... Cái nào thì phải vứt vào sọt rác. Trong cái đống bùng nhùng này thiếu chi ba cái thứ rác rưởi của cái đám quan liêu đang ngồi tít tận nơi ông trời rửa chén kia để mà ngày ngày đẻ ra hết văn bản này đến văn bản khác. Chúng ta là người phải chịu trách nhiệm trực tiếp với nhân dân, cứ thấy cái gì dân cần, cái gì có lợi cho dân thì làm trước thế là cấm có bao giờ sai đâu. Còn những thứ trời ơi đất hỡi thì hẵng dẹp đó đã, bao giờ thế giới đại đồng hãy bàn tới cũng chưa muộn!”
Bài học về thực thi nền tư pháp Xã hội chủ nghĩa của tôi bước đầu chỉ có vậy. Chúng tôi cứ theo đó mà làm, cứ “theo trái tim mách bảo” cái gì đụng đến dân, cần cho dân, có lợi cho dân thì làm trước, cái gì chưa có lợi cho dân thì không làm, quả nhiên không thấy phạm phải sai lầm nào.
Nhưng cũng có một lần “sự mách bảo của trái tim”đã chút xíu nữa khiến tôi phải nhận án kỉ luật của Đảng. Lần ấy tôi được giao thụ lí một vụ án khá đơn giản. Một nhà tư sản họ Hoàng, có một vài cơ sở sản xuất ở thành phố bị xếp vào diện “điều chỉnh” bị tịch biên tài sản để sung công, mặc dù ông chủ của nhà máy cũng thuộc diện người có công với cách mạng, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cơ sở sản xuất của ông là một trong những căn cứ quan trọng của biệt động thành, hai con trai của ông cũng đã nhảy núi lên rừng theo bộ đội giải phóng. Khi nhà máy của ông bị tịch biên, đóng cửa, hàng trăm công nhân đã tới Uỷ ban nhân dân lâm thời của Thành phố để đưa kiến nghị đòi chính quyền phải cho mở cửa sản xuất, nếu không sẽ đẩy hàng ngàn công nhân vào cảnh thất nghiệp. Là cán bộ tư pháp chịu trách nhiệm thụ lí vụ này, tôi thấy đây quả là việc “có lợi cho dân” nên đã yêu cầu nhà máy thành lập một Hội đồng tự quản rồi cho phép mở cửa sản xuất. Tôi cũng đã cho phép một trong những con trai của ông chủ doanh nghiệp tên là Hoàng Trọng Phu, tham gia Hội đồng tự quản vì cho rằng, anh ta chưa phải là người đứng tên chủ sở hữu nhưng lại vốn là người được ông bố giao cho quyền điều hành sản xuất chính của xí nghiệp nên nếu có anh ta trong Hội đồng tự quản thì xí nghiệp sẽ có thể nhanh chóng phục hồi sản xuất. Sự việc có lẽ cũng không đến nỗi nghiêm trọng nếu như một tháng sau, anh chàng này không bí mật bán đi một số thiết bị, vật tư quan trọng của xí nghiệp rồi bỏ trốn ra nước ngoài!
Tôi lập tức bị đình chỉ công tác để kỉểm điểm, xác định trách nhiệm. Sau khi tổ chức điều tra xác minh rằng tôi hành động như vậy không phải vì có động cơ tư lợi, cũng không phải vì do bị “viên đạn bọc đường” cuả chủ nghĩa Tư bản bắn trúng mà chỉ đơn thuần là do trình độ chuyên môn nghiệp vụ có hạn, lập trường còn non nớt nên mới phạm phải sai lầm đó, tổ chức đã chỉ dừng hình thức kỉ luật ở mức phê bình trước Đảng bộ, chuyển sang làm công tác khác. Trong vụ này ông Giám đốc Sở chính là người đã có tiếng nói quan trọng nhất để tránh cho tôi phải chịu một hình thức kỉ luật nặng nề hơn. Sau ngày kết thúc vụ án, ông cho gọi tôi lên văn phòng của mình, mỉm cười hồn hậu rồi hỏi:
- Thế nào chú em? Thực thi công lí cũng không phải là chuyện dễ, phải không nào? Nhưng chú em là người có khí phách đấy. Một việc động trời như thế mà dám tự ý quyết định, không hề tham khảo ý kiến cấp trên thì cậu liều thiệt đó!
Tôi nhăn nhó gãi đầu
- Em chỉ nghĩ đơn giản rằng... để cho cái nhà máy ấy nhanh chóng đi vào sản xuất ngày nào thì công nhân đỡ cực ngày đó, nên...
Ông Giám đốc Sở gật đầu:
- Cậu đã nghĩ đúng. Nhưng cách làm thì chưa đúng. Đáng ra vịệc này cậu phải làm phương án, kế hoạch rồi trình lên cấp trên xin ý kiến đã ... Nhất là việc đưa thằng Hoàng Trọng Phu vào Hội đồng tự quản...
- Vâng... đáng lẽ em phải đẩy việc này lên cho sếp quyết định!
Ông Giám đốc cười phá lên:
- Nếu vậy thì tớ cũng sẽ lãnh đủ. Bởi vì chắc cú mười mươi tớ cũng sẽ bốc đồng rồi kí đại cho phép cậu làm theo cách của cậu thôi... Trong khi việc này không phải là việc của Sở chúng ta. Việc cải tạo công thương đã có một cơ quan chuyên trách lo rồi, mắc mớ gì đến chúng ta? Nhưng nếu việc này mà đá qua sân họ thì cha con nhà ông Hoàng lãnh đủ và mấy cái cơ sở sản xuất của ông ta cũng tan ra khói hết! Cái hay của vụ này là nó đã nêu ra được một vấn đề cần phải suy nghĩ, đó là chính sách cải tạo công thương nghiệp phải làm sao tránh gây thiệt hại cho người lao động và tránh thất thoát tài sản của nhà nước. Ngoài vụ thằng Phu trốn ra nước ngoài thì cấp trên xác định việc các cậu làm là đúng cả! Năm ăn, năm thua. Chúng ta đều là dân nghiệp dư mà làm được như thế cũng kể như thắng lợi rồi!
Sau vụ đó tôi cũng bớt hăng hái đi đôi chút, mặc dù cũng có lúc “trái tim mách bảo” rằng phải làm thế này, thế khác nhưng tôi cũng đã biết thận trọng hơn. Tôi cũng hiểu rằng, một thể chế không thể cứ quản lí xã hội “theo sự mách bảo của trái tim” mãi được. Trái tim cũng có lúc mệt mỏi, và trái tim thì khó có thể luôn sáng suốt được. Vì thế nên sếp của tôi, chủ soái của “trường phái tư pháp trái tim” cũng đến lúc mệt mỏi, ông được chuyển đi làm việc khác hợp với trái tim của mình hơn. Một sếp mới, con nhà nòi của Ngành pháp chế, được đào tạo từ nước ngoài về nhận trọng trách mới. Việc đầu tiên của ông ta là thay thế tất cả những “tay nghiệp dư” ra khỏi những vị trí chủ chốt trong Sở. Một số khá đông, trong đó có tôi được điều đi học để trở thành “tương lai của nền pháp chế Xã hội chủ nghĩa”. Riêng tôi, đáng lẽ tôi có thể từ chối sự sắp xếp của tổ chức mà xin trở về trường cũ để học nốt hai năm cuôí cùng, trở thành một cán bộ nghiên cứu lịch sử cha ông. Nhưng vì ý thức tổ chức kỉ luật hơi bị cao, nên tôi đã vui vẻ tuân theo sự sắp xếp của tổ chức để tiếp tục dấn thân vào con đường mà số phận đường như đã lựa chọn cho tôi. Hồi đó, khi nghe tin tôi theo học ngành luật, cha tôi rất vui, ông bảo “Tốt lắm, luật pháp Xã hội chủ nghĩa là một ngành rất có tương lai. Vì đó là một bộ phận quan trọng làm nên nền chuyên chính vô sản”.
Tôi học tập rất chăm chỉ và tốt nghiệp loại giỏi. Cố nhiên rồi! Và, ngay sau khi vừa nhận được tấm bằng đỏ, tôi đã dễ dàng xin được vào làm việc ở ngành thanh tra của tỉnh rồi do được xếp vào diện có năng lực nên chỉ dăm năm sau tôi đã được cất nhắc về làm việc tại cơ quan thanh tra của Bộ. Đây là quãng thời gian tôi làm được nhiều việc có ích nhất, nhưng cũng chính là quãng thời gian tôi chuốc lấy khá nhiều chuyện rắc rối, oán thù và mất đi không ít những người bạn thân của mình. Trong cơ quan thanh tra của Bộ tôi nổi tíếng là một thanh tra có năng lực, nhưng đôi khi còn quá cứng nhắc, không được “tế nhị” cho lắm. Có lẽ vì vậy nên vào đúng cái thời điểm quan trọng nhất của nghề nghiệp tôi đã được “tế nhị” đẩy lên làm việc ở cơ quan thanh tra cao cấp nhất của nhà nước ta. Tế nhị, vì hồi đó ở cơ quan thanh tra của Bộ, tôi luôn được coi là một người có năng lực nhất, vào thời điểm đó, ai cũng cho rằng tôi đã “chín muồi” để được đề bạt lên một chức lãnh đạo nào đó ở cơ quan thanh tra của Bộ này. Nhưng khốn nỗi, tôi lại không thuộc diện được các thủ trưởng Bộ yêu mến. Vì vậy vừa để tôi có “đất” phát triển vừa không cản trở những cán bộ trẻ có nhiều triển vọng hơn, nên tôi đã được đá hất lên cơ quan thanh tra của cấp trên để giữ một chân trưởng phòng. Cha tôi an ủi rằng, thôi cũng được, Trưởng phòng cấp nhà nước cũng oai chẳng kém gì cấp Vụ dưới các Bộ. Tôi cũng chẳng thấy thế làm phiền lòng và vẫn như trước đây, tôi hăng hái bắt tay vào công việc của mình với nhiệt huyết của một người lính ra trận, luôn tin rằng rồi kết cục cuối cùng thì nhất định cái chính sẽ thắng cái tà, cái tốt sẽ thắng cái xấu, một xã hội hiền minh, công bằng, trong sạch sẽ trở thành hiện thực.
Thời gian cứ bề bỉ trôi đi, tôi cũng ngày một trưởng thành, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của tôi càng ngày càng sắc bén, nhưng có điều không hiểu vì sao càng ngày tôi càng thấy chán nghề và chán cả bản thân mình. Và niềm tin như đinh đóng cột của tôi về sự chiến thắng cuối cùng của lẽ phải, của cái tốt, của sự thật và lẽ công bằng... hình như cũng đang dần dần phai nhạt. Đôi lúc, tôi cũng chợt nhớ tới bài học đầu tiên khi vào ngành của ông Giám đốc “trường phái trái tim”, nhưng nhớ tới chỉ để nở một nụ cười buồn và tự an ủi, dù không phải lúc nào mình cũng có thể làm việc theo sự mách bảo của trái tim, nhưng cho đến tận ngày hôm nay “về cơ bản” lương tâm mình vẫn còn trong sạch. Giữ gìn được như thế cho đến chót đời của một cán bộ thanh tra trong thời buổi này cũng đã là điều đáng tự hào lắm rồi, phải không các bạn?
III
Nhưng hình như trước khi đưa ra lời phán quyết cuối cùng, số phận đã quyết định thử thách tôi thêm một lần nữa. Lần này người gây phiền toái cho tôi lại chính là… ông giám đốc “trường phái trái tim”, thủ trưởng cũ, người dẫn dắt tôi trong những ngày đầu bước chân trên con đường thực thi công lí!
Không hiểu bằng cách nào mà khi thôi giữ chức Giám đốc nghiệp dư của một sở tư pháp, ông lại được điều lên Tây Nguyên để làm giám đốc một lâm trường. Có lẽ vì trong lí lịch của ông có ghi hơi bị đậm cái dòng “chiến trường quen thuộc là Tây Nguyên”! Vì thế, người ta trả lại ông về rừng cũng là điều hợp lí. Lâm trường của ông khá nổi đình nổi đám ở cái thời rừng còn ở khắp nơi mà những nghiên cứu qui hoạch nghiêm túc và cả những văn bản pháp lí để bảo vệ rừng thì cũng đang trong giai đoạn thai nghén. Lâm trường của ông thành lập Công ty khai thác chê biến lâm sản, chủ yếu làm nhiệm vụ “phá rừng”. Nghĩa là khai thác một cách triệt để những cánh rừng nguyên sinh lấy gỗ chuyển ra cảng để xuất khẩu. Thành tích sản xuất của lâm trường ông tỷ lệ thuận với diện tích những cánh rừng bị phá. Ông làm Giám đốc phá rừng (khai thác lâm sản) được chừng mươi năm thì rừng ở khu vực này cũng đã cạn. Các lâm trường chuyển hướng nhiệm vụ sang trồng rừng và chăm sóc bảo vệ rừng. Ông cũng được chuyển hướng theo sang làm Giám đốc Chi cục kiểm lâm. Nghĩa là, làm những việc ngược lại những gì ông làm từ trước tới nay, đi săn lùng những kẻ rắp tâm phá nốt những cánh rừng mà các ông chưa phá xong. Với bản tính của người lính, được giao nhiệm vụ gì là làm hết mình. Ông làm nhiệm vụ bảo vệ rừng cũng hăng hái y như hồi ông chỉ huy khai thác, tàn phá những cánh rừng vậy! Khi ông chỉ huy đội quân khai thác hàng ngàn con người, hàng trăm xe máy phương tiện thì là việc giữa thanh thiên bạch nhật, được pháp luật bảo hộ, ông chỉ phải chống lại hai kẻ thù nho nhỏ, đó là những kẻ lười lao động (không hăng hái trong công cuộc khai thác rừng) và những kẻ ăn cắp vặt, thi thoảng lại “chụm” vài chục khối gỗ quí của lâm trường bán cho tư thương. Nhưng đến khi ông làm người bảo vệ rừng thì ông lại có rất nhiều kẻ thù, mà lại toàn là kẻ thù thâm hiểm xảo quyệt cả. Vì từ thời điểm đó rừng đã cạn, gỗ thì ngày càng hiếm, càng có giá. Đó là thời bắt đầu xuất hiện một loại “tặc” mà ông rất căm ghét, đó là “lâm tặc”. Cuộc đời ông kể từ đó cho đến khi… bị bắt vào tù có thể coi là cuộc “trường kì kháng chiến chống lâm tặc các loại, các kiểu”.
Trong trận đấu cuối cùng để bảo vệ những cánh rừng nguyên sinh còn sót lại ở Kon Ka Kinh, ông đã ngã ngựa. Ông đã bị bọn “lâm tặc” gài bẫy một cách tinh vi. Bởi vì chúng biết rằng muốn hạ được những cánh rừng gỗ quí trên Kon Ka Kinh thì…trước hết phải đốn hạ ông!
Tôi gặp ông trong trại tạm giam. Không biết nên buồn hay nên vui đây khi ông không nhận ra tôi, cậu học trò của “trường phái trái tim” ngày nào. Dù đã hơn ba chục năm trôi qua nhưng những lời ông dạy tôi vẫn còn văng vẳng bên tai “Làm theo cái này này... Theo trái tim của người lính, của người Cộng sản, hiểu không? Trái tim sẽ mách bảo cho cậu biết cái nào đúng cái nào sai”.
Không những chỉ trái tim mà cả tài liệu hồ sơ điều tra cũng mách bảo tôi rằng ông không sai. Ông đã bị cài bẫy, bị hãm hại bởi một bọn “tặc” mà ông đã từng tin rằng nó không thể xuất hiện trong hàng ngũ của mình. Đến khi ông nhận diện được nó thì đã quá muộn. Vả chăng, một người lính già và ngây thơ như ông thì làm sao có đủ mưu mô để có thể đương đầu với chúng?
Tôi còn trẻ hơn ông, tôi lại đang đứng ngoài song sắt, nhưng tôi cũng đã là một người lính già rồi, không biết tôi có đủ sức lực và nhiệt huyết để vượt qua thử thách này hay không?
K-Q-T
GIẤC MƠ
Ông Thăng giật mình choàng tỉnh dậy. Mồ hôi toát ra như tắm, chân tay ông vẫn còn run nhẹ, miệng khô đắng.Ông vội quơ tay với công tắc ,bật đèn đầu giường,nhìn sang thấy bà Mai vợ ông vẫn ngáy đều,miệng bà vẫn còn chóp chép ,từ đó nhểu ra một dòng nước sền sệt đỏ ,ngàu bọt khiến ông vội hốt hoảng đưa ngón tay ra quệt ngang miệng bà rồi đưa lên mũi ngửi. Đó là mùi nồng nồng của vôi và mùi hăng hắc cay cay của lá trầu.Tối nay, trước khi rời đám ăn hỏi của thằng Hồi, cháu ông Hóp, bà có nhai một miếng trầu.Vậy là bà ấy vẫn còn sống chứ không phải bị con Sừng vẹo húc cho lòi ruột như trong giấc mơ của ông…Không có chuyện bà bị nó húc lòi ruột rồi hất tung lên trong khi đang bề thằng Hoàng, cháu đích tôn của ông thì cũng có nghĩa là thằng bé không hề hấn gì và chắc chắn nó đang rúc đầu vào ngực mẹ ngủ say xưa.
Yên trí rằng những chuyện dữ dằn vừa rồi chỉ là một giấc mơ, nhưng ông Thăng cũng không thể ngủ lại được. Ông bèn trở dậy, ra nhà ngoài châm một ấm trà rồi ngồi hút thuốc lào vặt .Được một lát, vẫn chưa hết cảm giác bất an, ông bèn mở cửa bật đèn ngoài sân và cả đèn trong chuồng của Sừng vẹo. Như thường lệ, có vẻ như cu cậu cảm thấy khó chịu vì bị đánh thức bất ngờ nên vừa gượng gạo đứng dậy vừa khua cái sừng vẹo vào gióng chuồng lộp cộp
-Mày là con trâu hiền lành chứ đâu có dữ dằn như vậy, phải không nào?
Ông Thăng vừa nói thầm với con trâu quí vừa nhẹ nhàng vuốt ve cái đầu to lớn của nó. Dường như hiểu ý ông chủ, Sừng vẹo quay đầu cọ nhẹ chiếc sừng vẹo vào tay ông như muốn nói
- Đi ngủ đi thôi, ông già lẩn thẩn!
Sừng vẹo là một trong ba con trâu được ông mua tận chợ trâu Cán Cấu trên SiMai Cai, tỉnh Lao Kai về trong một chuyến đi săn trâu chọi cho xã Thành Công để tham gia những ngày hội chọi trâu hàng năm .Mua được ba con trâu có thể đạt tiêu chuẩn trâu chọi với giá hơn chục triệu đồng một con từ Lào Kai về là một thắng lợi không ngờ .Vì ở những phường xã giàu có trong vùng , họ lắm tiền của nên có thể thuê những người săn trâu chọi chuyên nghiệp, lặn lội sang tận đất Lào để mua những con trâu không thể chê vào đâu được, giá lên tới bốn năm chục triệu đồng một con. Ba con của xã Thành Công gộp lại cũng chưa bằng giá một con trâu chiến của họ, thế là hời rồi. Nhưng về đến nhà, các “huấn luyện viên” của phường kiểm tra lại thì có mọt con bị loại một cách đáng tiếc. Nó cũng là con trâu khỏe đẹp, lưng to ức rộng, đùi sắc, móng sò, mắt đỏ lông mi dài…đủ mọi tiêu chuẩn để có thể luyện thành trâu chọi, ngoại trừ chiếc sừng bên phải hơi vẹo một chút, vì thế nó bị loại. Hai người anh em của nó, cùng được “tuyển” một đợt thì đều thành những con trâu chọi đầy hứa hẹn. Tháng năm vừa rồi, Sừng vẹo xuýt nữa đã bị đưa đi làm thit để ăn mừng chiến thắng trong vòng loại của hai người anh em cùng từ chợ trâu Cán Cấu về. Mới có được đôi trâu lọt qua vòng sơ loại khu vực hai huyện ngoại thành thôi, nhưng đối với xã Thành Công thì chẳng khác gì có được một chức vô địch. Đã hơn chục năm nay, xã chưa một lần có được “ông trâu” nào lọt vào xới đấu chính thức trong ngày hội chọi trâu truyền thống ở Đồ Sơn, vì thế đây là một thắng lợi “lịch sử.”
Sừng vẹo được dự kiến sẽ trở thành vật hiến tế để ăn mừng chiến thắng. Nhưng ông Thăng đã kiên quyết không để nó bị xẻ thịt mà chấp nhận bỏ ra mười hai triệu đồng “chuộc thân” cho Sừng vẹo để biến nó thành một con trâu kéo xe
Nó học kéo xe cũng nhanh như hai người anh em nó rèn luyện “võ nghệ” để chuẩn bị ngày ra đấu trường vậy
Có điều làm thân trâu kéo xe , là trâu “lao động phổ thông “ thì nó phải chấp nhận cuộc sống đời thường . Ngược lại, hai người anh em của nó thì đã thành” sao” ,dù hiện giờ chúng mới chỉ là sao xã, sao phường, nhưng dĩ nhiên vẫn được công chúng ngưỡng mộ và được hưởng một chế độ nuôi dưỡng đặc biệt. Chế độ ăn uống của chúng thì khỏi phải nói.Nào là cỏ ngon, bột gạo lức,bột đậu xanh , thịt bò, thịt rắn giã nhỏ, uống thì phải là các loại nước giàu vitamin, giàu dinh dưỡng …Khi đi ngủ còn được mắc cả màn chống muỗi nữa? Trong khi đó thì mặc dù lao động cực nhọc, nhưng Sừng vẹo suốt ngày nhai cỏ khô, uống nước đục, đêm ngủ thì cái đuôi chẳng lúc nào được ngơi nghỉ vì phải canh chừng đám muỗi đói khát luôn chờ thời cơ xông vào mà hút máu.Bù lại, Sừng vẹo cũng có được đôi chút an ủi là được ông chủ cưng chiều nên đôi khi cũng được một bữa cỏ tươi ngon hay vài lon cám thơm lừng thả vào máng nước. Những ngày rỗi rãi còn được bà chủ dắt ra bãi chăn thả kiếm chút cỏ tươi và nô đùa với đám bạn bè trong làng trong xóm. Dĩ nhiên, trong những lúc thư nhàn ấy, Sừng vẹo cũng tích cực tham gia thể thao, dĩ nhiên chỉ là những trận đấu ngẫu ứng, có tính chất phong trào trên những bãi chăn thả thôi, nhưng ở lĩnh vực này, trong làng xóm, Sừng vẹo luôn là nhà vô địch!
Và giống như mọi nhà vô địch nghiệp dư khác, Sừng vẹo cũng đôi khi mơ ước mình trở thành những võ sĩ chuyên nghiệp để được có mặt trong những giải đấu danh giá nhất nước, kiểu như giải vô địch Đồ Sơn chẳng hạn! Tuy chưa bao giờ Sừng vẹo nói ra được nguyện vọng chính đáng ấy,nhưng nhìn vào đôi mắt đau đáu, đỏ ngàu của nó mỗi khi cùng ông dừng chân bên ngoài xới tập của xã để xem hai người anh đến từ chợ Cán Cấu của nó vừa lọt qua vòng loại đang thao dượt chờ ngày lên võ đài chiến đấu giành vinh quang..Những lúc như vậy ,ông chủ lại nhẹ nhàng vỗ vào đầu nó an ủi
- Lao động cũng là vinh quang , Sừng vẹo ạ.
Rồi cái ngày cả làng cả xã mong đợi cũng đã đến. Đó là ngày lễ Hội chọi trâu Đồ Sơn năm nay khai đấu.Khỏi phải miêu tả sự sôi động nhộn nhịp của ngày hội võ hiệp này, những hình ảnh đó có đày trên ti vi, trên mạng internet rồi.Hai người anh em của Sừng vẹo được mặc áo đỏ, sừng thắt dải lụa điều, được dự lễ tế thành hoàng và được tôn kính gọi là những “ông Trâu” rồi được một đội trai làng mặc trang phục lễ hội, cờ xí nghi trượng rợp trời rước đi, theo sau là hàng ngàn fan hâm mộ rầm rập nô nức trẩy về sân vận động Đồ Sơn.
Dĩ nhiên ,gia đình ông chủ cũng kéo nhau đi dự hội,kể cả thằng cu Hoàng mới bi bô tập nói cũng được bà nội nó bồng đi.Chỉ có Sừng vẹo là phải ở nhà,không những vậy còn bị cột chặt trong chuồng có đóng gióng gỗ cẩn thận.Khỏi phải nói, trong lòng Sừng vẹo chất chứa bao nhiêu nỗi đắng cay,thân phận của nó còn không bằng cô Tấm trong chuyện cổ tích phải ngồi nhà nhặt một rá đầy những gạo trộn lẫn với thóc.Vì vậy nó buồn, nó bất mãn, nó dùng đôi sừng của một võ sĩ không chuyên phá chuồng ầm ầm cũng là điều dễ hiểu thôi.Và cũng giống như trong câu chuyện cổ tích mà bà chủ nó vẫn thường kể cho lũ cháu nội cháu ngoại nghe,cuối cùng cũng có một cô tiên xuất hiện. Cô tiên ấy chính là mẹ thằng cu Hoàng, con dâu Út của ông chủ Thăng. Nó còn quá nhỏ để có tinh thần thượng võ,nên không chịu được sự ồn ào của kèn trống ,của tiếng người la hét trên sân vận động.Nó kêu khóc, giãy đạp cho đến khi bà nội nó phải để mẹ nó đưa về nhà cho nó ăn và cho nó ngủ một giấc xứng đáng với sự ưu đãi đặc biệt dành cho trẻ thơ.
Sau khi lót con ngủ trong giường ,cô con dâu út ông chủ Thăng mới phát hiện ra Sừng vẹo đang lồng lộn trong chuồng.Nhưng chị ta lại lầm tưởng Sừng vẹo phá chuồng vì một cơn đói khát sinh học của cái dạ dày trâu chứ không biết rằng đó là sự đói khát thể thao và tinh thần thượng võ lây nhiễm từ người Hải Phòng?Vì vậy khi con đã ngủ say, chị ta vội ra mở cửa chuồng rồi dắt Sừng Vẹo ra ngõ ,định cho nó ra cái ao đầu xóm giải khát một chầu rồi lại đưa về chuồng, ném cho một nắm rơm khô cho cu cậu nằm nhai cả ngày là xong chuyện.
Thời cơ đã đến. Nhằm lúc cô chủ vừa hững hờ cầm thừng vừa luôn miệng đấu hót với cô hàng xóm, Sừng vẹo liền vùng lên, dứt tung sợi dây thừng từ tay cô chủ rồi sải tung bốn vó giông thẳng một mạch.
Một tiếng sau nó đã có mặt ở sân vận động và giống như một fan cuồng nhiệt không mua được vé vào cửa, nó chẳng cần khách khí xông thẳng vào sân vận động giữa lúc kháp đấu quyết định giữa một trong những người anh em đến từ chợ Cán Cấu của nó với một con trâu Lào chính hiệu sắp sửa bắt đầu.
Cả sân vận động lặng đi vì bất ngờ .
Rồi sau đó là ồ lên những tiếng hò reo, tiếng la hét ,tiếng huýt sáo ầm ĩ. Người ta vừa phẫn nộ, vừa ngạc nhiên thú vị vì một sự kiện hi hữu chưa từng xảy ra trong những cuộc đấu từ cổ chí kim trên sân vận động Đồ Sơn
Ban tổ chức cuộc phải lập tức phái một lực lượng đặc nhiệm ra sân để không chế kẻ phá bĩnh, sự việc diễn ra hệt như cảnh sát nước Anh phải lao vào sân vận động để tóm cổ một tên Holigan bỗng dưng nổi cơn điên rồ từ khán đài lao xuống sân vận động để ôm hôn một cầu thủ mà anh ta yêu thích vậy.
Lúc đó dĩ nhiên ông chủ Thăng đang ở trên khán đài.Và dĩ nhiên ông đã nhanh chóng nhận ra sự xuất hiện ngỗ ngược của Sừng vẹo.Và không biết ông tìm đâu ra sức lực và cả sự nhanh nhẹn, khôn ngoan để vượt qua cả một rừng người rồi nhao xuống sân vận động .Ông đã kịp lao tới trước đầu Sừng vẹo trước khi những người lính đặc nhiệm giữ trật tự cho đấu trường dương súng lên định thuốn cho nó một viên đạn thuốc mê. Sừng vẹo khựng ngay lại khi nhận ra ông chủ. Nó nhìn ông trừng trừng giây lát rồi gũc gặc cái đầu ra cái điều muốn phản ứng vì sự bất bình đẳng ghê gớm mà ông bắt nó phải chịu đựng. Ông chủ Thăng lẩm bẩm nói với nó điều gì đó rồi kiên quyết tiến lại.Cả sân vận động bỗng lặng phắc vì hồi hộp. Sừng Vẹo vẫn không ngừng khua hai chân trước xuống nền sân vận động nhưng đã có vẻ sẵn sàng khuất phục trước ông chủ.Cuối cùng ,ông cũng đã nắm được mẩu thừng gắn vào sẹo mũi của con trâu bướng bỉnh.Sừng vẹo đã hàng phục,ngoan ngoãn theo ông chủ ra khỏi sân vận động, nhưng trước khi rời khỏi cái sàn đấu đẫm máu ấy, nó còn kịp nghển cổ ngoèo lấy một lá cờ đuôi nheo ngậm chặt vào miệng khiến cả sân vận động lại ồ lên vì vui sướng và thú vị trước một sự lạ chưa từng thấy trong các cuộc chọi trâu từ trước tới nay
Ra khỏi sân vận động, Sừng vẹo ngẩng cao đầu bước đi, phong thái ung dung kiêu hãnh hệt như một nhà vô địch thực thụ.
Nó đâu biết ông chủ Thăng vừa bị một phen hú hồn.Chỉ đến khi biết cú đột nhập đấu trường vô tiền khoáng hậu của Sừng vẹo không gây ra hậu họa gì, không gây thương tích cho ai ngoài một lá cờ đuôi nheo thì ông mới thở phào nhẹ nhõm.
Hôm đó một trong số hai võ sĩ đến từ chợ Cán Cấu, anh em đồng hương của Sừng vẹo đã trở thành nhà vô địch, người anh em thứ hai bị thất trận ở kháp đấu thứ ba, trở thành kẻ bại trận. Nhưng như vậy cũng đủ để cho bà con trong xã Thành Công vui đến nổ trời.Cả xã tổ chức lễ ăn mừng .Và dĩ nhiên, theo phong tục hết sức độc đáo và khắc nghiệt của xứ này, cả nhà tân vô địch lẫn kẻ bại trận đều bị xả thịt, biến thành những món đưa cay để cho bà con hàng xã ngất ngây suốt mấy ngày liền.
Như mọi công dân trong xã ngoài làng, Sừng vẹo cũng được ăn mừng chiến thắng, được nghỉ kéo xe ba ngày.Ngày ba bữa, ông chủ Thăng đều mang tới cho Sừng vẹo những món ăn ngon, nhưng dĩ nhiên không có thịt đồng loại mà chỉ có cỏ tươi ngon và cám gạo nếp thơm lừng.
Sang ngày thứ tư, ông chủ dậy sớm, mở gióng chuồng, dọn bữa sáng rồi bước tới vỗ nhẹ lên đầu Sừng vẹo giọng rầu rầu
- Chiến thắng thật là tuyệt vời, phải không mày. Nhưng cả hai thằng bạn của mày đều bị giết cả rồi. Sắp tới tao sẽ lại lên chợ Cán Cấu một phen, nhất định sẽ tìm được những con trâu chiến mang về đây chuẩn bị cho những cuộc đấu sắp tới. Mày sẽ lại có bạn , phải không? Tao hứa đấy!
Sừng vẹo gục gặc cái đầu, như có vẻ không hài lòng
-Đừng buồn - Ông chủ lại vỗ về, an ủi- Mày không được chiến đấu, nhưng mày sẽ lao động .Chiến đấu thì nhất thời, thì có mùa ,còn lao động thì quanh năm suốt tháng. Lao động tuy cực nhọc thật, nhưng vinh quang vì lao động mới làm ra lúa gạo, làm ra tiền bạc để nuôi sống con người, phải không nào?
Không biết có phải vì đã hiểu được rằng lao động là vinh quang hay không , nhưng kể từ ngày ấy Sừng vẹo trở thành một con trâu kéo xe, kéo cày rất hăng hái chăm chỉ.Đã trải qua mấy mùa lễ hội, xã Thành Công cũng chưa có thêm lần nào tìm lại được vinh quang năm ấy, Sừng vẹo cũng chẳng lần nào xông vào sân vận động nữa
Chỉ có ông Thăng là thỉnh thoảng lại nằm mơ thấy giấc mơ dữ dằn ngày ấy: Sừng vẹo như một con trâu điên đang lao tới đấu trường, nó húc tung bất cứ thứ gì gặp trên đường, trong đó có cả bà vợ của ông khi đang bế đứa cháu nội trên tay .Đáng kinh hãi hơn là nó còn biết vừa lao như tên bắn, vừa húc như điên như cuồng lại vừa hét lên bằng tiếng người
-Ta mới là nhà vô địch!
Hà Nội 2009
CHÙA LÀNG
Thuở nhỏ,tôi thường được nghe mẹ tôi kể nhiều chuyện từng xảy trong làng Điền Hạ ,một làng quê nghèo mà cha ông tôi đã sinh sống không biết từ bao đời rồi .Trong những câu chuyện ấy,dẫu là chuyện vui hay chuyện buồn ,dẫu kể về những trang hào kiệt hay những anh tá điền nghèo kiết xác thì cũng không bao giờ vắng bóng hình ảnh ngôi chùa làng.Các nhân vật trong những câu chuyện của mẹ dường như bao giờ cũng gặp nhau ở đó để giải quyết mọi ân oán ,cừu thù hay chỉ đơn giản là để tìm lấy những ngày thanh thản cuối đời.Trong tâm tưởng của mẹ tôi,ngôi chùa làng hình như là mảnh đất thiêng cuối cùng, là con thuyền Noe cứu loài người trong cơn đại hồng thuỷ. Nhưng thật đáng tiếc,ngay từ khi tôi biết nghe mẹ kể chuyện thì ngôi chùa làng đã không còn nữa mà chỉ còn là một phế tích với một gò đất cao, một cây đa cổ thụ, hai cây đại già gốc xù xì cóc cáy và vài mảng tường bằng đá ong còn sót lại.Vật duy nhất có giá trị của phế tích đó là một phiến đá xanh rất lớn, có lẽ to bằng một cái chiếu, còn nằm lại dưới gốc đa cổ thụ. Đó là nơi bọn trẻ chăn trâu chúng tôi thường tới ngồi chơi cờ ,chơi tu-lơ-khơ...hoặc có khi đốt lên đó một đống lửa để sưởi vào những ngaỳ đông tháng giá. Mỗi lần đi qua, thấy chúng tôi ngồi ngả ngớn hay đốt lửa sưởi trên phiến đá đó, mẹ tôi thường vác đòn gánh đuổi đi rồi mắng cho một trận, gọi chúng tôi là"một lũ bạo hổ bằng hà" .Người nói "Đó là sập ngự của Đức Ngài. Chúng bay báng bổ thế rồi thì thể nào cũng có ngày ngài vặn cổ đằng trước quay ra đằng sau".Có lần tôi tò mò hỏi"Đức Ngài là ai hả mẹ?" .Người vội bịt mồm tôi lại , củng cho một cái vào đầu và mắng"Mày ngỗ ngược quá con ạ. Không được hỏi tới hành tung của Đức Ngài".
Sau này tôi mới biết Đức Ngài chính là cụ cao tằng tổ họ Hoàng nhà tôi, tướng quân Hoàng Chính Khai,người sáng lập ra ba làng Điền và cũng là người dựng lên ngôi chùa này.Trong cuốn gia phả mà dòng họ Hoàng ở Tam Điền còn lưu giữ được cho đến hôm nay có viết rằng cụ cao tằng tổ Hoàng Chính Khai vốn là thuộc tướng của đức ông Trần Quang Khải.Vì có công trong đánh giặc giúp nước nên cụ đã được phong thưởng một dẻo đất ở vùng tả ngạn sông Linh để dựng nên ba trại ấp . Ba trại ấp đó chính là ba làng Điền Hạ,Điền Thượng ,Điền Trung họp lại thành xã Tam Điền ngày nay.Tương truyền ,dinh thự của Hoàng tướng quân dựng ở Điền Thượng,(nay ở đó chỉ còn một ngôi miếu thờ ngài và một đoạn thành bằng đá ong vẫn được gọi là thành cổ nhưng cũng đang đứng trươc nguy cơ trở thành phế tích),nghe nói ngày xưa còn có cả một thành luỹ,tựa lưng vào núi Sơn Cương làm thế ỷ giốc, gia binh của tướng quân có tới vài ngàn người,hàng ngày luyện voi luyện ngựa trên núi vì thế nay trên núi Sơn Cương vẫn còn có nơi gọi là Đồi Voi,Trại Ngựa .Nhưng rồi,binh thì luyện mãi mà giặc thì chưa có ,Hoàng tướng quân bèn cho đám gia binh lập trại khẩn hoang ,đào sông khơi ngòi,dần dà biến cả một dải đồi núi mênh mông thành làng xóm,binh lính thì thành ra dân thường nhưng dấu vết nhà binh thì còn mãi nên trong vùng Sơn Cương -Tam Điền vẫn còn những Xom Cai,Xóm Quản,Xóm Đội..Khi đã tuổi cao sức yếu Hoàng tướng quân cũng thôi không chiêu nạp gia binh nữa.Không còn lo tới việc giặc giã,Đức Ngài bắt đầu lo tới phần hồn của con dân trong vùng.Đó là giai đoạn mà Đức Ngài cho xây hàng loạt ngôi chùa trong vùng ,mà chùa làng Điền Hạ là ngôi chùa to nhất ,còn được dân trong vùng gọi là Chùa Cả.Cái phiến đá xanh đó là Đức Ngài cho gia đinh chở từ Sơn Cương về đặt dưới gốc đa trước cửa chùa để mỗi khi ngài xuống chùa Cả lễ Phật thì lấy làm nơi ngồi toạ thiền ,tĩnh tâm trước khi bước vào cõi Phật .Từ xưa tới nay, ngày rằm tháng giêng vẫn là ngày hội lớn nhất trong năm của cả vùng Sơn Cương -Tam Điền.Vì đó là ngày người dân trong vùng rước Đức Ngài về chùa Cả lễ Phật.Đoàn nghi trượng của Ngài khởi từ Sơn Cương ,qua Điền Thượng,Điền Trung rồi mới xuống Điền Hạ.Đám rước đi tới đâu là dân trong mỗi xóm ,mỗi ngõ đều phải lập bàn thờ trước ngõ để bái vọng rồi sau đó mỗi xóm ,mỗi ngõ,mỗi phe mỗi giáp,lại có thêm một chiếc kiệu chở theo lễ vật nối vào đám rước.Cứ như thế, khi tới chùa Cả thì đám rước đã lên đến hàng ngàn ,hàng vạn người,cờ xí nghi trượng rợp trời,tiếng chiêng ,tiếng trống vang động cả một vùng.Mỗi khi kể về ngày hội rằm tháng riêng rước Đức Ngài về chùa làng lễ Phật, mẹ tôi thường chép miệng than"Chả bao giờ còn có được những ngày vui vẻ như thế nữa".Rồi mẹ lại đọc bài ca
Tháng Giêng đi rước Đức Ngài
Trẻ già nô nức, gái trai rộn ràng
Điền Trung ,Điền Thượng rước sang
Sơn Cương rước xuống, Đông Hoàng rước qua
Namô Đức Phật di đà
Ngự trong chùa Cả bước ra đón Ngài
Chùa Cả ,tên chữ là Điền Linh tự , được xây cất từ bao giờ thì chẳng rõ,nhưng cái ngày mà người ta đốt chùa để "tiêu thổ kháng chiến "thì nhiều người trong làng Điền Hạ còn nhớ rất rõ.Ngay sau khi chùa bị phá,giặc Pháp có xua quân càn vào vùng Tam Điền -Sơn Cương nhưng chúng lại đóng bốt ở bên Đông Hoàng ,nơi có con đường nối ra thị xã .Rồi chúng xây dựng ở đó một trại lính một sân bay dã chiến .Chỉ thi thoảng chúng mới cho quân đi tua một vòng qua mấy làng Tam Điền hoặc cho bắn moọc-chê vào vùng Sơn Cương mỗi khi nghe tin có Việt Minh mò về.Chưa bao giờ chúng dám ngủ lại một đêm ở Tam Điền .Ây vậy mà cũng có lần bọn lính đi tua đã bị du kích Tam Điền chặn đánh ở cánh rừng nối giữa Điền Hạ và Điền Trung.Diệt được hai thằng Tây đen ,một thằng Tây trắng và năm thằng lính nguỵ Bảo chính đoàn. Ngay sau đó ,chúng bắn mooc-chê và làng Điền Hạ,giết chết gần chục mạng người,đốt cháy hơn hai chục ngôi nhà.Một trong những người du kích tham gia trận phục kích ấy và đã hi sinh là ông nội tôi,liệt sỹ Hoàng Chính Đông. Ngày nay,làng tôi vẫn có ngày giỗ chung vào ngày 12 tháng 10 ,để tưởng nhớ ba liệt sỹ đã hi sinh trong trận phục kích và số dân làng thiệt mạng do trận pháo kích trả thù của địch ngày hôm đó. Mẹ tôi kể rằng: Thi hài ba liệt sỹ trong trận đánh ấy cũng được đưa về cửa chùa Cả ,đặt nằm trên chiếc sập đá của Đức Ngài để dân làng đến viếng trước khi đưa đi mai táng.Vậy là,trên chiếc sập đá trước cửa chùa Cả làng Điền Hạ có cả dấu máu của ông nội tôi.Có lẽ vì thế mà với dân làng Điền Hạ,ngôi chùa càng trở nên linh thiêng hơn chăng? Đã bao nhiêu năm không có chùa,chỉ còn một gò đát và những mẳng tường đá ong nham nhở ,chỉ còn lại một phiến đá xanh và một cây đa cổ thụ,nhưng dân làng tôi vẫn trang trọng gọi khu phế tích ấy là Chùa Cả.Ngôi chùa không còn ,nhưng khí thiêng thì dường như vẫn còn ngưng tụ quanh quất đâu đây làm điểm tựa tâm linh cho dân làng .Điều đó ,liệu có còn được dài lâu?
*
Làng Điền Hạ ở ngay bên bờ sông Linh, thuận lợi hơn hai làng còn lại về chuyện đi lại ,giao thương nên từ lâu đã trở thành một làng sầm uất ,trù phú hơn cả.Tuy vậy,cũng vì ở gần sông hơn nên làng tôi thường phải gánh chịu nhiều tai ương do tính khí thất thường của dòng sông gây nên .Ây là nói ngày xưa,chứ bây giờ ,sông Linh đang chết dần ,chảy thoi thóp giữa những đồng bãi, những xóm làng phố thị ,khu công nghiệp ,đang mở mang với tốc độ chóng mặt.Thi thoảng cũng có những mùa lũ lớn ,con sông dường như được đánh thức,cố gồng mình lên để lấy lại uy phong của một thời oanh liệt ,dâng nước cuồn cuộn tràn lên những xóm làng ,đồng bãi,nhưng nó luôn bị những con đê cứng cáp vững chãi như đôi cánh tay thần diệu của chàng Sơn Tinh trong truyền thuyết xa xưa chặn lại.Nhưng cũng có đôi ba lần ,con sông phá được vòng vây ,chọc thủng một đoạn đê xung yếu để cho nước sông thoả thuê gầm réo ,ùa vào nhận chìm những cánh đồng ,làng xóm.Có một năm ,sông Linh phá được "vòng vây" ở ngay đoạn đê dầu làng Điền Hạ ,mẹ tôi thường gọi đó là năm"lở đường".Năm đó làng tôi thật là thê thảm ,nhà trôi,người chết,đồng ruộng bị nhấn chìm ,xác gà lợn ,trâu bò nổi lềnh bềnh khắp nơi,dân làng chạy nước tứ tán ,nhiều nhà vào tận núi Sơn Cương dựng lán ở tạm tránh nước rồi ở luôn đó khai hoang mà sinh sống, không trở về làng nữã .Trong kí ức của mẹ tôi cái năm "lở đường "ấy cũng kinh khủng chẳng kém gì những năm giặc giã.Nhưng ngay cả trong cái mảng kí ức đen tối ấy của mẹ , vẫn có hình bóng ngôi chùa làng ,mặc dù lúc này chùa đã không còn nữa.Chùa không còn ,nhưng thật không ngờ Phật thì vẫn còn.Nói cho chính xác hơn thì hoá ra những pho tượng Phật của chùa Cả vẫn còn.Thì ra trước khi phóng hoả đốt chùa ,mấy ông du kích làng tôi đã động lòng trắc ẩn ,đem dấu đi mấy pho tượng Phât và cả pho tượng Đức Ngài ,tướng quân Hoàng Chính Khai.Ai dấu ,và dấu ở đâu thì không biết ,nhưng khi xảy ra trận lũ năm đó ,già nửa số nhà cửa của làng tôi bị nước lũ cuốn trôi.Trong hàng ngàn thứ đồ vật lềnh bềnh trôi theo dòng lũ có bốn pho tượng bằng gỗ mít của chùa Cả .Na-mô-a di-đà Phật ...Các ngài đã phải chịu chung số phận nổi nênh với dân đen ,con đỏ trong cơn đại hồng thuỷ.Nhưng may mắn thay,các ngài bập bềnh trôi về tới cuối huyện thì mắc lại trong một bờ đăng và được một ông lão tên là lão Nức, kéo vó vè trên sông Linh vớt lên.Ông lão tốt phúc ấy đem các ngài lên phơi trên một cái gò giữa đồng rồi thông báo đi khắp nơi trong vùng xem chùa làng nào mất Phật thì tới mà nhận.Đợi mãi chẳng thấy làng nào tới nhận ,ông lão Nức vó bè đành đem các ngài về nhà gác lên gác bếp cùng với đám đăng, đó, lờ dủi...Nửa năm sau, tình cờ có một ông lão bán thuốc dạo, trước đây vẫn thường qua lại vùng Tam Điền ghé qua, câu chuyện đưa đẩy thế nào mà bỗng dưng ông vó bè lại xưng ra cái chuyện vớt được mấy pho tượng Phật trong trận lũ năm ngoái.Ông bán thuốc dạo tò mò xin cho lão Nức cho được xem qua. Xem xong ,ông ta gật gù bảo "Tôi đã nhận ra rồi, các ngài đây đích thị từng ngự ở chùa Cả làng Điền Hạ. Đây là tượng đức ông Hoàng Chính Khai, không thể nhầm được. Để tôi về thông báo cho họ Hoàng ở Tam Điền xuống rước các ngài về"
Cái tin tìm thấy tượng Phật và tượng Đức Ngài trong chùa Cả chạy lũ về dưới cuối huyện ,khiến cả ba làng sôi lên sùng sục. Nhất là con cháu họ Hoàng ở Tam Điền. Suốt mấy ngày liền người ta túm năm, tụm ba kể về sự sống sót một cách thần kì của mấy pho tượng chùa Cả qua cả hoả tai lẫn thuỷ tai rồi bàn tính xem nên tổ chức rước các ngài về như thế nào? Và rước về rồi thì để các ngài ngự ở đâu vì chùa không còn nữa ?.Mẹ kể lại rằng ,để rước được các ngài về làng cũng trăm chiêu ngàn gửi lắm. Hồi đó, phong trào bài trừ mê tín dị đoan ,xây dựng đời sống mới đang lên mạnh lắm. Các cụ trong làng bàn mãi rồi quyết định sẽ tổ chức rước chui .Vì có xin phép, Uỷ ban xã cũng sẽ không dám chính thức cho phép tổ chức lễ rước. Các ông cán bộ trong làng ,trong xã đều biết cả nhưng thảy đều phải giả bộ như không biết, như chưa từng nghe đến chuyện này.Vì biết mà không có thái độ rõ ràng thì cũng dễ bị qui là hữu khuynh ,là bao che cho sự trỗi dậy của những hủ tục,của mê tín dị đoan, của những tư tưởng phong kiến,lạc hậu.
Tuy không xin phép chính quyền nhưng cuộc rước tượng Phật về làng vẫn được tiến hành khá rầm rộ .Đầu tiên các cụ cử một nhóm đi trước tới nhà ông lão kéo vó bè tiến một cái lễ mọn để tạ ơn và xin chuộc lại mấy pho tượng.Việc này chẳng gặp khó khăn gì vì ông lão phúc đức ấy cũng chỉ muốn nhanh chóng giải phóng được cái gác bếp để lấy chỗ treo lờ, treo dủi .Với lại ,ông lão bảo rằng chứa chấp các ngài lâu quá cũng cứ thấy nơm nớp.Lỡ mà có ông cán bộ văn hoá nào xấu bụng ,tố cho một câu thì lại mang cái tội oa trữ đồ quốc cấm.Sau khi đưa các ngài ra khỏi nơi trú nấp không được sạch sẽ cho lắm ,các cụ làng tôi xót xa nhìn mấy pho tượng nhuốm màu bồ hóng đen trùi như những ông vua bếp,rồi tróc lở linh tinh khắp cả,trông không còn ra hồn nữa.Nhìn cũng thấy ái ngại, lão Nức vó bè liền cung tiến luôn một bể nước mưa để các cụ làng tôi tắm táp cho các ngài được phong quang ,mát mẻ.Sau đó chú Chín nhà tôi có sáng kiến ra chợ Huyện gần đó mua được một ít phẩm màu,rồi mấy cụ trong làng xúm lại hí hoáy pha màu,tô vẽ mất một buổi.Cuối cùng thì bốn pho tượng sau khi được tân trang lại,trông cũng đã có hồn,không đến nỗi thảm thương cho lắm. Riêng bức tượng Đức Ngài thì rủi thay, trong cuộc thuỷ tai nổi nênh ấy, ngài bị gãy mất một bên cánh tay. Nhưng các cụ làng tôi bảo vẫn còn là may vì cái cánh tay bị mất lại là cánh tay trái, chứ không phạm vào cánh tay cầm gươm của Ngài nên linh khí của Đức Ngài cũng không bị hao tổn.Mãi sau này nhà lão Học cung tiến tiền của để xây dựng lại chùa làng, một ông thợ mọc khéo tay dưới Chàng Sơn mới phục chế lại được cánh tay trái cho ngài, cái cánh tay trái tân trang ấy cũng được làm rất công phu, từ ngón tay cho tới nếp ống tay áo, sau khi sơn lại tất cả, thì đố ai còn nhận ra dấu vét của cơn tai biến vừa qua nữa. Ấy là nói trước cái chuyện có hậu về sau .Chứ hồi mới đưa các ngài từ nhà lão Nức vó bè về làng thì trông các ngài vẫn thương tâm lắm
Mẹ tôi kể rằng ,ngay chuyện rước các ngài về cũng không phải hoàn toàn thuận buồm xuôi gió.Đoàn rước sách tuy đã cố gắng rút gọn tối đa,nhưng cũng đến vài ba chục con người.Thành thử ra có cố muốn cho gọn ghẽ,khiêm nhường cũng chả được.Đã vậy,dân trong cái làng ấy cũng tò mò chả kém gì dân làng tôi,nên chả mấy chốc người lớn trẻ con kéo đến xem dân làng Điền Hạ rước tượng Phật bị trôi sông cũng tới hàng trăm người.Vừa từ nhà lão Nức vó bè ra đến đầu làng thì đoàn đã bị dân quân cái làng ấy họ giữ lại, khăng khăng yêu đầu phải đưa mấy pho tượng về Uỷ ban xã để lập biên bản ,cứ như các ngài là sản phẩm của một băng buôn lậu không bằng.Các cụ làng tôi van xin mãi chả được, đám thanh niên đi tháp tùng bắt đầu nổi cáu. Mà người hăng máu nhất lại là chú Chín nhà tôi. Chú giật phắt cây dao phát bờ tên tay một người trong đám dân làng tôi rồi nhảy lên trước đám rước vừa múa vù vù theo thế "mai hoa xuyên tuyết " vừa hét lên" Ta là tuỳ tướng của Đức ông Hoàng Chính Khai đây! Kẻ nào dám tuỳ tiện ngăn đường cản lối đoàn nghi trượng của ngài thì ta sẽ chặt nó ra làm bảy khúc ngay lập tức!" Nhìn thấy khí thế lẫm liệt và những đường đao đằng đằng sát khí của chú tôi ,đám dân quân làng ấy tái mặt,bèn giãn ra, tránh đường.Thế là chú tôi đi trước múa đao mở đường, đám rước cứ lặng lẽ mà tiến theo cho đến khi ra khỏi địa phận của làng họ .Sau này có người hỏi chú tôi rằng chú học bài đao"mai hoa xuyên tuyết" ấy ở đâu mà múa đẹp thế? Chú tôi đỏ mặt cười, đáp"Từ bé đến giờ tôi có học múa đao, múa gậy bao giờ đâu. Nhưng không hiểu vì sao lúc đó tôi lại hăng máu đến thế?.Cứ như có ai đó vừa nhập vào mình vậy?"Các cụ trong làng cũng khẳng định đích thị là có một vị tuỳ tướng của Tướng quân Hoàng Chính Khai đã nhập vào chú Chín tôi để gải nguy cho đoàn rước tượng. Nghe nói, ngày xưa, cái ông tuỳ tướng ấy sử dụng một cây thanh long đao nặng ba chục cân, y như cây thanh long đao của Quan Vân Trường vậy?
Rước được tượng về rồi nhưng vì không có chùa nên các cụ trong làng đành phải xin HTX cho mượn một gian kho để chứa tạm. Gian kho ấy từ trước tới nay vẫn dùng để chứa phân đạm và thuốc trừ sâu, nay bỏ không đã lâu ngày nên cũng ẩm mốc ,dột nát lắm. Nhưng dù sao so với cái gác bếp nhà lão Nức vó bè thì cũng còn phong quang chán.Vì thế, các ngài có vẻ cũng tạm hài lòng.Mẹ tôi cũng như nhiều người trong làng đều khẳng định rằng,từ khi rước được các ngài về,dân làng tôi làm ăn cũng đỡ chật vật hơn,dịch tật không có,lại được mùa liền mấy năm ,con cháu trong làng học hành cũng tấn tới,hiền lành ngốc ngếch như chú Chín tôi mà cũng lấy được vợ .Rồi lại được phong lên chức Xã đội phó .Đặc biệt nhất là ông Hoành ,một ông cựu chiến binh là chú họ của tôi thì bỗng được lên chức chủ tịch xã Tam Điền ,đó là lần đàu tiên cái ghế chủ tịch xã thuộc về làng Điền Hạ kể từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà tới nay.Trước đó cái ghế Chủ tịch xã luôn thụộc về người làng Điền Thượng và Điền Trung.Người làng tôi xưa nay chưa bao giờ ganh tỵ về điều đó vì họ đều biết rằng Điền Thượng là nơi xưa kia Đức Ngài lập dinh ,Điền Trung thì là nơi sinh hạ ra bà Đồng Thị Phấn ,một trong những người thiếp yêu của Đức Ngài nên ngài có phù hộ độ trì cho hai làng ấy nhiều hơn cũng là lẽ thường tình .Khoá nào khá lắm thì làng Điền Hạ cũng chỉ được một ghế phó Chủ tịch là cùng .Nay dường như Đức Ngài đã thay đổi cách nhìn đối với dân Điền Hạ rồi chăng? Đáp lại ân đức của ngài,ông Hoành chủ tịch mới cho sửa lại gian kho,lợp lai mái,quét vôi ve,xây bục bệ hẳn hoi để "nâng cấp "từ một nơi chứa đồ thành nơi thờ tự .Từ đó vào ngày tuần ngày tiết,các cụ làng tôi lại có nơi hương khói .Riêng mẹ tôi thì phấn khởi lắm,mồng một ngày rằm nào bà cũng sắm sanh để "ra chùa" làm lễ.Các bà trong làng cũng dần dần theo nếp của mẹ tôi .Đúng là Phật ở đâu thì chùa ở đó,cái gian chứa phân đạm ,thuốc sâu ấy dần dần đã biến thành chùa làng Điền Hạ từ lúc nào chẳng rõ?
*
Với đám trẻ con chúng tôi thì cái gian nhà kho ẩm mốc ấy quyết không thể là chùa làng được.Chỉ có một nơi chúng tôi vẫn gọi là chùa,đó là gò chùa,nơi có nền móng phế tích của ngôi chùa cổ,nơi có phiến đá xanh mà Đức Ngài Hoàng Chính Khai từng ngự mỗi khi về lễ chùa và nơi từng thấm máu những người du kích liệt sỹ của làng Điền Hạ.Nơi ấy sân khấu chính của toàn bộ tuổi thơ tôi và bạn bè cùng trang lứa trong làng.Đó là sân chơi,là nơi tụ tập ,là đấu trường ,là nơi trốn những trận đòn roi của các bậc cha mẹ .Và khi đến tuổi trưởng thành, đó cũng là nơi hò hẹn của nhiều lứa đôi trong làng vào mỗi đem trăng sáng.
Có một dạo gò chùa bỗng dưng thành cấm địa. Ấy là vào những năm sáu mươi lăm, sáu mươi bảy, khi cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ mở rộng ra toàn Miền Bắc. Có một đơn vị cao xạ pháo 100 ly về xây dựng trận địa trên cánh đồng giữa Điền Trung và Điền Hạ. Gò chùa được đơn vị cao xạ pháo chọn làm nơi xây dựng một kho chứa đạn và một trạm cấp cứu thương binh.Chỉ trong vòng vài ngày đêm trên nền khu phế tích của chùa Cả mọc lên một dãy nhà ,kèo sắt,tường trát tooc xi trộn rơm,mái lợp giấy dầu đen xì..Chỉ có một ngôi nhà nhỏ hơn ,nằm dưới góc cây đa cổ thụ cạnh phiến đá xanh là được xây bằng gạch ba banh ,lợp ngói,quét vôi sáng sủa vì đó là nhà của Ban chỉ huy kho.Suốt mấy đêm liền ,xe quân sự rì ầm chạy vào làng tôi,thanh niên nam nữ trong làng cũng được huy động ra giúp bộ đội vác đạn vào nhà kho.Lúc đó tôi đã mười sáu tuổi,vừa hết tuổi sinh hoạt đội thiếu niên,chưa được vào đoàn thanh niên nhưng cũng được huy động đi" phục vụ chiến đấu".Lúc đó,được đi phục vụ chiến đấu là oai lắm,không phải đứa nào cùng lứa tuổi với tôi cũng được tham gia.Tôi tham gia vác đạn hai đêm ròng toét hết cả vai,nhưng cũng tự hào lắm.Từ ngày Gò chùa được chọn để xây dựng khu kho quân sự thì người trong làng không ai dược bén mảng tới,trừ những thanh niên thi thoảng được huy động đi "phục vụ chiến đáu" như bọn tôi.Dân làng tôi cũng có ý thức cảnh giác rất cao,không bao giờ bép xép tiết lộ với người làng khác về khu kho quân sự ở làng mình. Đã có một ông thợ đóng cối bị trói gô lại,giải lên tận Huyện giao cho Công an vì đã tò mò hỏi han hơi nhiều về cái khu nhà lợp giấy dầu ở đầu làng Điền Hạ.Đám thanh niên mới lớn chúng tôi được kết nạp vào dân quân ,hàng đêm tham gia tuần phòng vòng ngoài để bảo vệ cái khối bí mật ghé ghớm đang nằm lù lù trên Gò chùa.Hồi đó,mỗi khi ra đầu làng nhìn tháy những khẩu cao xạ khổng lồ vươn cao nòng trong nắng sớm ,rồi lại nhìn vào dãy nhà kho im lìm chứa đầy những viên đạn to đùng,sang loáng,tôi cứ nghĩ rằng ,đến cái làng hẻo lánh như làng tôi mà còn có cả một kho đạn,một trận địa pháo hiện đại thế kia thì thằng Mỹ làm quái gì được mìh?.Trận địa pháo về làng đã nửa năm mà chẳng thấy chiéc mấy bay Mỹ nào dám lảng vảng tới.Hay là chúng nó có gián điệp ,báo về tận Mỹ rằng ở làng Điền Hạ có một trận địa pháo cao xạ rất ghê ghớm,chớ có dại dột mà lảng vảng tới nên bọn phi công Mỹ đã kiềng mặt làng tôi?
Nhưng đến mùa hè năm sau thì những khẩu pháo cao xạ 100 ly ở trận địa làng tôi đã có dịp nổ súng.Không ngờ trận đánh được chờ đợi lâu như thế lại chỉ diễn ra trong vài phút.Mà lại diễn ra vào ban đêm.Đang nằm ngủ say sưa, bỗng cả làng choàng tỉnh dậy bởi những tiếng pháo nổ rền ngoài đầu làng.Tiếng kẻng báo động của dân quân cũng vang lên dồn dập ,thôi thúc.Cả làng náo động.Tôi vội vác lấy chiếc gậy bảy và một cuộn dây thừng ,chạy ngay ra nơi tập trung ,bụng nghĩ thầm phen này nhất định phải bắt cho được một thằng phi công.Tôi vừa chạy ra đến đầu làng thì nghe thấy tiếng máy bay Mỹ gầm rú kinh hồn rồi bay sạt qua ngay trên đầu mình. Ngay sau đó là tiếng bom nổ .Những quầng lửa đỏ lựng trùm lên khu vực trận địa pháo.Chú Chín tôi, lúc đó là Xã đội phó hét lên:
- Chúng nó ném bom trúng trận địa rồi!Anh em dân quân...Theo tôi ra chi viện cho bộ đội !
Theo chân chú Chín, chúng tôi ào ra trận địa. Nhưng khi chúng tôi ra đến nơi thì trận đánh cũng đã kết thúc. Bốn năm cái hố bom sâu hoắm nằm sát trận địa,đất đá bị xới tung lên lấp hết cả lối đi.Trên trận địa bộ đội ta vẫn đang vững vàng ngồi trên mâm pháo.Tiếng hô khẩu lệnh từ đài chỉ huy vang lên vang lên"Máy bay địch đã bay ra khỏi vùng kiểm soát của đơn vị ta.Các khẩu đội khẩn trương cứu chữa thương binh ,củng cố lại trận địa, kiểm tra đạn pháo và khí tài. Sẵn sàng cho trận đánh tiếp theo".
Khi chúng tôi chạy lên tới trận địa thì mới biết không có quả bom nào rơi trúng các hầm pháo, tuy vậy vì máy bay địch rải cả bom bi nên đã có hai chiến sỹ hi sinh, ba người khác bị thương.Tôi được chú Chín phân công đưa những người lính bị thương và hi sinh về trạm cấp cứu ở Gò chùa.Tới lúc này,bọn thanh niên trẻ chúng tôi mới biết thì ra, một trong hai pháo thủ vừa hi sinh lại là người yêu của chị Lụa, chị họ của tôi.Anh tên là Hạnh, người dưới mạn Thái Bình.Thảo nào, mấy hôm trước, tôi nghe thấy mấy chị trong đội nữ dân quân của làng trêu chọc rằng chị Lụa sắp về dưới Thái Bình làm "công nhân nhà máy cháo"...Hồi ấy,dù sao tôi cũng chỉ là đứa trẻ mới lớn ,nên còn tin rằng có lẽ có một nhà máy như thế ở tỉnh Thái Bình và chị họ tôi sắp thoát li để trở thành công nhân thật.Bây giờ thấy chị gục bên thi thể anh Hạnh ,đặt trên phiến đá xanh của Đức ông Hoàng Chính Khai mà khóc như mưa như gió tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện.Thì ra ,anh chị đã kịp báo cáo tổ chức rồi, chỉ còn đợi ngày lành tháng tốt là nhà trai sẽ đưa cơi giầu tới xin cưới chị Lụa về làm vợ anh Hạnh.
Lễ truy điệu hai liệt sỹ được cử hành ngay tại Gò chùa, linh cữu của hai anh được cũng được đặt trên chiéc sập đá của Đức Ngài ,cả làng tôi đều tới dự .Chị Lụa mặc đồ tang ,lả đi trước linh cữu của người chồng sắp cưới.Trông thấy cảnh ấy đám thanh niên nam nữ làng tôi đều không cầm được nước mắt và tôi cứ nghĩ rằng có lẽ chị Lụa rồi cũng đến chết theo người yêu mất thôi.Nhưng chị đã không chết mà sau cái đận tang tóc ấy,chị tình nguyện xung phong đi bộ đội để trả thù cho anh.Chị vào Trường Sơn, rồi mấy năm sau chị trở về với một cái chân cụt. Nhưng bù lại, quân đội đã đào tạo chị trở thành một y sĩ. Chị trở về ,trạm xá xã Tam Điền có thêm một y sỹ tài ba.Có điều chúng tôi cứ nghĩ rằng có lẽ chị khó mà lấy được chồng.Ai ngờ, sau năm bảy mươi lăm, có một anh bộ đội ngày trước cùng đơn vị với anh Hạnh trở về tìm chị. Rồi họ thành vợ chồng.Anh Đừng ,chồng chị Lụa là người tận trong Vinh ,nghe nói gia đình anh cũng không còn ai nữa nên khi được phục viên ,anh đã về sống cùng chị Lụa và trở thành người ở rể của làng Điền Hạ
Trở lại trận đánh máy bay Mỹ trên cánh đồng Tam điền hồi đó. Mấy hôm sau,dân làng tôi được thông báo rằng đêm ấy,trận địa pháo ở Điền Hạ đã bắn cháy một máy bay F111 ...Nhưng chiếc máy bay bị thương ấy còn lết được sang tận rừng Lào mới chịu rơi.Đơn vị pháo cao xạ có mời đại biểu chính quyền và nhân dân xã Tam Điền tới dự lễ mừng công.Đơn vị cao xã thì được trên tặng thưởng Huân chương ,còn "Quân dân xã Tam Điền "thì được tặng một cái Bằng khen của Thủ tướng chính phủ, vì đã có thành tích “Phối hợp và giúp đỡ Bộ đội phòng không hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu" ,hiện cái Bằng khen ấy vẫn còn được treo ở Hội trường Uỷ Ban nhân dân xã. Sau lễ mừng công vài ngày,vào một đêm ,đơn vị pháo cao xạ bỗng kéo pháo đi đâu mất.Sáng ra,dân làng ngơ ngác nhìn ra cánh đồng thấy trống huơ trống hyếch,không còn nghe tiếng kẻng báo thức,báo ngủ,không còn nghe tiếng hô khẩu lệnh,tiếng bộ đội cười nói trên trận địa nữa,dân làng tôi cũng cảm thấy chống chếnh mất một dạo.Bù lại,trước khi chuyển hết đạn dược,dỡ hết dãy nhà kho đi,Ban chỉ huy đơn vị quyết định để lại cho làng tôi cái nhà xây bằng gạch ba banh lợp ngói , để làm kỉ niệm. Các cụ làng tôi cảm động lắm, bèn họp nhau lại làm một lá đơn lên Uỷ ban xã, xin xã giao cho các cụ cái nhà ấy để biến nó thành nơi thờ cúng Đức ông Hoàng Chính Khai "và những Anh hùng liệt sỹ có công với nước".Tài tình nhất là ở cái câu sau cùng này,như thế Uỷ ban mới có thể danh chính ngôn thuận giao cái nhà ấy cho các cụ làng Điền Hạ mà không sợ mang tiếng là tiếp tay cho việc khôi phục lại chùa chiền ,miếu mạo,một việc mà ở vào cái thời ấy còn rất khó chấp nhận.
Đảng uỷ và Uỷ ban xã họp hai ba phiên rồi cũng đồng ý với ý nguyện của nhân dân làng Điền Hạ.Thế là làng tôi lại có chùa.Sau khi tu sửa qua loa,các cụ trong làng chọn ngày lành tháng tốt rước ba bức tượng Phật và bức tượng Đức ông Hoàng Chính Khai lên nhà mới.Sau khi đã an vị cho các bậc thánh thần,các cụ cũng bàn nhau quyên góp được một ít tiền rồi đi thửa một tấm bia đá có khắc tên ba liệt sỹ làng Điền Hạ thời chống Pháp trong đó có ông nội tôi và hai anh liệt sỹ Bộ đội phòng không thời chống Mỹ rồi đem về đặt ở một góc trong "chùa mới",lập một bát hương để nhân dân trong làng có nơi hương khói.Việc làm ấy tưởng chẳng có gì phải cấn cá.Ai dè chỉ mấy tháng sau thì bùng lên thành một vụ kiện cáo rất rắc rối rồi trở thành nguyên nhân gây chia rẽ trong làng trong xóm kéo dài nhiều năm ,khắc vào tâm thức dân làng Điền Hạ một nét buồn trong đời sông tâm linh.
*
Ngay sau khi bộ đội cao xạ rút đi thì tôi cũng vào bộ đội nên mãi tới khi chúng tôi đi đánh Mỹ trở về mới được mẹ tôi kể cho nghe chuyện này . Mẹ bảo,ai ngờ một việc tốt đẹp như thế bõng dưng trở thành cái ung cái nhọt âm ỉ bấy nhiêu năm trời,khiến cho nhiều người trong làng trở mặt thành thù,không còn nhìn đến nhau nữa. Nguyên nhân thì cũng rất đơn giản. Sau khi năm liệt sỹ kia được khắc vào bia đá, đưa vào chùa thờ một thời gian thì nhiều gia đình liệt sỹ khác bỗng dưng thấy mình bị thiệt thòi. Thôi thì hai anh bộ đội phòng không, người ta ở tận đẩu tận đâu về đây đánh giặc rồi hi sinh ở làng mình, thì không nói tới làm gì? Nhưng còn ba ông kia, thì cũng là liệt sỹ như người nhà chúng tôi cả. Sao các ông ấy được đưa vào chùa thờ, mà người nhà tôi thì lại không? Như thế thì còn chi là công bằng nữa? Các cụ trong làng ,những người có sáng kiến lập ra tấm bia ấy thì lập luận rằng, sở sĩ ba ông kia được thờ ở đó vì khi các ông ấy hi sinh đã được mang về đó để khâm liệm và làm lễ truy điệu, hương hồn của họ vẫn còn lảng vảng ở nơi này nên mới nghĩ ra cái việc đưa họ vào thờ trong "chùa mới"...Vả lại, lúc đó làng cũng lấy cái lí này để làm đơn xin xã ngôi nhà ấy, nên mới làm như vậy. Chứ, làng này,nếu tính cho hết cả liệt sỹ thời chống Pháp lẫn chống Mỹ cũng đến con số hàng trăm, thì đưa cả vào chùa sao được? Cái số đông đảo ấy,dù sao cũng đã có nơi để tôn vinh ,đó là nghĩa trang liệt sỹ của xã rồi, còn thắc mắc làm gì? Nghe giải thích như vậy,các gia đình liệt sỹ khác trong làng vẫn không xuôi, họ nói như vậy là vẫn thiên vị, vẫn lấy người này hơn người khác, thờ trong chùa là một vinh dự đặc biệt, là sự linh thiêng đặc biệt ,lại ấm cúng gần gũi hơn, khác hẳn với việc thờ ngoài nghĩa trang liệt sỹ chỉ có ngày lễ ngày tết ,xuân thu nhị kì mới được nén hương chứ?
Chính quyền xã lúng túng không biết nên giải quyết thế nào ,dân lại kêu lên tới tận Huyện. Huyện bảo "Thôi, nếu thế thì nhấc cái bia ấy đi.Làm thế, dù có hơi sái nhưng cũng chỉ mất lòng ba gia đình trong làng, còn hơn là phải đối mặt với hàng trăm gia đình chính sách khác"Huyện chỉ thị như vậy. Xã về triển khai thì vấp ngay sự phản ứng dữ đội của ba gia đình có người được thờ trong chùa, trong đó có gia đình tôi. Người hăng nhất hoá ra lại là chú Chín. Là cán bộ Đảng viên hẳn hoi, mà khi nghe truyền đạt chỉ thị của trên chú đứng phắt ngay dậy vằn mắt hét tướng lên"Đứa nào muốn động đến cái bia ấy thì phải bước qua xác tôi đã". Rồi chú hầm hầm bỏ ra khỏi phòng họp. Những tưởng chú chỉ phản ứng tức thời vậy thôi, ai ngờ tối hôm đó, chú cắp chiếu, vác theo một cây dao phát bờ, một chiếc đèn chai rồi nói với vợ: "Từ nay, tối tối tôi ngủ ngoài chùa".Vợ chú sợ quá,vừa khóc vừa mếu chạy sang gặp mẹ tôi "Bác ơi, bác tính thế nào chứ? Nhà em định đi tu đấy. Anh ấy bảo từ nay tối tối sẽ ra ngủ ngoài chùa" .Mẹ tôi bảo"Cái thằng ...điên hay sao thế không biêt?" Rồi bà vội xách đèn chạy ra chùa hỏi cho ra nhẽ thì mới biết xã có chủ trương dỡ tấm bia trong chùa đi ,chú đã thề không để cho thằng nào đụng tới tấm bia ấy.Có chết,chú sẽ chết ở đây.Tưởng rằng mẹ tôi sẽ dùng lời hơn lẽ thiệt để khuyên chú,ai dè bà lại bảo"Phải đấy.Tôi sẽ tiếp tế cho chú.Khi nào chú bận việc thì bảo tôi,tôi sẽ ra thay cho chú.Nhất định không được để cho người nào đụng tới tấm bia đó."
Những ngày sau, hai gia đình khác có liệt sỹ được thờ trong chùa cũng cử người ra hợp sức với chú Chín tôi .Hai nhà ấy đều là những gia đình có vai vế trong làng ,con cháu họ lại đông,nên chẳng lúc nào trong chùa không có người"chốt giữ"...Uỷ ban nhân dân xã thấy căng quá,định lờ đi cho xong chuyện.Nhưng những gia đình liệt sỹ thuộc"phe nghĩa trang" vẫn tiếp tục khiếu kiện. Có lần họ kéo hàng chục người tới gặp Chủ tịch Huyện.Ông chủ tịch khôn ngoan mời họ vào nhà khách,cho đánh chén một bữa,cho mỗi người mấy gói kẹo về làm quà cho các cháu ,rồi hứa" Việc này,từ từ rồi Huyện sẽ có cách giải quyết"Là ông cũng hứa đại như vậy thôi,chứ biết giải quyết bằng cách nào bây giờ?Cũng may là dân làng tôi dẫu có giận nhau đến mấy thì giận ,nhưng không ai dám động chạm đến nơi thờ cúng Đức ông Hoàng Chính Khai,nên cũng không có chuyện xô sát xảy ra trong chùa.Nhưng ở ngoài chùa thì đã bắt đàu có sự rạn nứt,chia rẽ...Thậm chí đã có đám thanh niên đi tập quân sự hẳn hoi mà cãi nhau một lúc rồi lao vào ẩu đả xô xát ngay trên bãi tập vì chuyện tấm bia .Ông chủ tịch ,kiêm Bí thư Đảng uỷ xã nghe tin tức lộn ruột ,liền hộc tốc đạp xe ra, tập hợp đám thanh niên lại rồi hét lên" Chúng mày có muốn đi đánh giặc nữa không hả? Thằng giặc dữ nó đang lăm le cướp cả cái nước này kia kìa.Chúng bay cứ ngồi ở xó làng mà cãi nhau.Nay mai nó mà tới được đây, thì nó hốt cả mả ông cụ ông kị nhà chúng bay mà đổ ra sông ra biển...Nói gì tới bảng vàng bia đá, hả?".Rồi ông bắt tất cả cán bộ,Đảng viên phải kiểm điểm tuốt. Riêng chú Chín nhà tôi thì lãnh đủ. Chú bị đưa ra chi bộ để họ cạo cho một trận toé khói, bị cách chức Xã đội phó,và còn đứng trước nguy cơ bị khai trừ ra khỏi Đảng nữa..Chức tước chú không màng ,nhưng chú dám lên tận Văn phòng Đảng uỷ nói toáng lên rằng " Tôi bị kỉ luật cũng được....Chả làm xã đội phó thì tôi làm dân, làm chiến sỹ dân quân, có giặc đến cũng chả ai cấm tôi đánh giặc được.Nhưng còn danh hiệu Đảng viên thì tôi phải giữ. Nếu các ông khai trừ tôi ra khỏi Đảng ,tôi sẽ chết cho các ông xem"...Không biết có phải vì sợ chú tôi tiêu cực quá hoá liều hay không ,nhưng người ta cũng không nỡ khai trừ chú ra khỏi Đảng ,mà chỉ ra một cái án kỉ luật cảnh cáo trước toàn Đảng bộ mà thôi.
Thấy chú tôi bị cách chức, bị kỉ luật Đảng, dường như những gia đình thuộc"phe nghĩa trang" cũng hả hê đôi chút.Vì thế,tình hình kiện cáo cũng dịu đi .Có người trước kia rất hăng hái ,từng thề rằng bằng bất kì giá nào cũng phải hoặc là đưa được bố mình vào chùa,hoặc phải kéo bỏ tấm bia kia đi thì nay bỗng xuống giọng ,tặc lưỡi nói rằng" Suy cho cùng thì đó cũng chỉ là cái nhà của bộ đội cho thôi.Đâu phải là chùa chiền gì? Vì thế,có được thờ ở trong đó cũng chẳng phải là chuyện gì ghê gớm cho lắm!"
Hình như đây mới là sự thật .Chú tôi, mẹ tôi và những người thân của ba liệt sỹ đã hi sinh trong trận giặc càn vào Tam Điền năm ấy đã quên mất rằng cha ông họ hi sinh đâu phải vì để có một chỗ thờ cúng ở bên cạnh những ông thần ông thánh ?Vả lại ,cái ngôi nhà ba gian ,xây gạch ba banh ấy đâu phải là chùa làng .Nghe mẹ tôi kể rằng ,sau khi chú Chín tôi bị kỉ luật, ông Bí thư Đảng uỷ đã đến tận nhà tôi rồi gọi cả chú Chín tôi sang mà nói rằng: "Bác Ngạn (tức là mẹ tôi) với chú Chín này...Tôi nói đây có gì không phải thì bác với chú bỏ qua cho. Chứ, cái chuyện này khiến tôi đau lòng lắm. Bố tôi cũng vì dân vì nước mà bị thằng Tây nó đày ra Côn Đảo rồi chết ở đó .Vậy mà cho đến nay tôi đâu có biết được rằng liệu bố tôi có được chết toàn thây hay không, có được chôn cất cho tử tế hay bị chúng nó quăng xác xuống biển làm mồi cho cá rồi? Đến cái danh hiệu gia đình liệt sỹ nhà tôi cũng chưa được hưởng vì người ta bảo rằng bố tôi bị bọn tù thường phạm đánh chết chứ không phải bị địch khảo tra mà chết? Cái chuyện bố tôi bị địch bắt đày ra Côn Đảo có phải vì đi làm cách mạng hay không cũng chưa xác minh được.Vậy mà gia đình tôi vẫn còn phải cắn răng, chờ ngày đất nước thống nhất để xem có thêm manh mối gì không. Cụ nhà ta được chết vì dân vì nước giữa thanh thiên bạch nhật,được dân làng mai táng ,thờ phụng,được hưởng tiếng thơm muôm đời .Như thế chẳng đã vinh dự lắm rồi hay sao? Còn thờ ở đâu thì có quan trọng gì? Được nhân dân thờ trong lòng, trong tim này này, thì mới là vĩnh cửu .Vậy nên tôi khuyên bác chớ nên làm to chuyện này ra làm gì? Còn chú Chín, là cán bộ,Đảng viên mà chú thiển cận như thế,nên chú phải chịu kỉ luật cũng chẳng oan ức gì đâu.Hôm nay tôi sang đây chỉ để nói với bác,với chú Chín bấy nhiêu lời thôi."
Nghe ông bí thư nói thế,mẹ tôi như bừng ngộ.Bà khuyên chú Chín thôi không ra ngủ chùa giữ bia nữa,việc để tấm bia trong đó hay mang đi thì cứ mặc cho chính quyền người ta giải quyết..Hai gia đình kia cũng nghe theo lời mẹ tôi.Chuyện tấm bia thế là xong.Nhưng kì lạ là khi cả ba gia đình không còn nhất quyết đòi để nguyên tấm bia trong chùa mới nữa thì những gia đình liệt sỹ khác trong làng lại không có ý kiến gì nữa,thậm chí nhiều người còn kiến nghị với xã là thôi,cứ để đó,coi như năm ông liệt sỹ ấy làm đại diện cho tất cả những anh em liệt sỹ trong làng ngày đêm chầu hầu Đức ông Hoàng Chính Khai cũng được.Vậy nên ,tấm bia ghi danh năm liệt sỹ hi sinh tại làng Điền Hạ vẫn điềm nhiên tại vị trong ngôi "chùa mới "của làng Điền Hạ.
Ngày tôi đi đánh Mỹ trở về đến đầu làng thì gặp mẹ.Người vừa khóc vừa kéo tôi vào chùa để làm lễ tạ ơn các ngài đã che chở cho tôi thoát khỏi hòn tên mũi đạn..Theo mẹ ra "chùa mới ",nhìn lên mái nhà xô lệch giột nát ,lại nhìn xuống những bức tượng phật tróc lở,tượng Đức Ngài cụt tay ,bị nước mưa dội xuống nên toàn thân các ngài đều nhoe nhoét phẩm màu mà lòng tôi lại thấy cám cảnh,bùi ngùi.Chiến tranh loạn lạc,giặc giã triền miên năm này qua năm khác khiến dân đen con đỏ cơm chẳng đủ no ,áo chẳng đủ mặc,bao người còn chưa có chỗ mà nương thân ,nói gì đến chùa chiền đền miếu ? Thánh thần ở cái đất nước vừa kinh qua mấy chục năm chiến tranh kể cũng vất vả lam lũ thật!
Trong khi mẹ tôi cúi đầu làm lễ trước mấy pho tượng tróc lở,tôi lén móc trong túi cóc ba lô ra một bánh lương khô 702, thứ thức ăn cao cấp của những thằng lính nơi mặt trận, đặt lên trước tấm bia ghi tên năm vị liệt sỹ. Các vị có khôn thiêng thì phù hộ cho dân cường nước thịnh để quê hương ta nhanh chóng thoát khỏi cảnh đói nghèo. Khi ấy, chắc dân làng Điền Hạ chúng tôi cũng sẽ không quên các ngài đâu. Nước nổi thì bèo cũng nổi mà!
*
Không ngờ,lời khấn nguyện của tôi ngày đó cũng có ngày trở thành sự thật.Sự nghiệp đổi mới đã thành công ở những đâu trên đất nước này thì tôi không dám nói tới,nhưng ở Tam Điền quê tôi thì thấy rõ.Gần chục năm liền người dân Tam Điền không phải chống chọi với những trận đói giáp hạt."Dân dĩ thực vi tiên" ,thoát được cái đói đã là ước mơ bao đời nay của người dân quê tôi rồi.Bây giờ về quê, tôi chỉ thấy người ta nói tới chuyện làm giàu.Và quả là đã có nhiều người trong làng giàu lên trông thấy.Mà giàu nhất là nhà ông Học, con một lão phó rèn tới ngụ cư ở làng tôi đã từ khi tôi chưa sinh ra.Ngày còn bé tí ,lũ trẻ chúng tôi vẫn thường rủ nhau ra lò rèn nhà ông phó Động , xem anh Học đánh búa,xem lão Động làm phép phù thuỷ biến những cái liềm cùn ,những con dao mẻ ,những cuốc xẻng cày bừa ,gãy nát trở thành những thứ đồ mới tinh,sắc lẻm.Khi lớn lên ,chúng tôi được vào dân quân ,nhưng anh Học hơn chúng tôi gần chục tuổi thì không được tham gia vì "lí lịch không rõ ràng"...Anh cũng xung phong đi bộ đội nhiều lần mà chả được.Sau này chúng tôi mới biết,sở dĩ anh Học bị phân biệt đối xử như vậy là vì cha anh,lão Động từng đi lính cho Tây.Từng sang tận bên Pháp học làm lính thợ.Khi trở về không hiểu vì sao mà lại bị tai nạn lao động ,hình như lão bị bỏng nặng khi làm việc trong một lò luyện kim khí hay gang thép gì đó.Được giải ngũ,lão Động không về quê mà đi lang thang khắp nơi làm thuê làm mướn cho những ông chủ lò rèn.Rồi không hiểu vì lẽ gì,ông làm quen được bà Hồng ,con ông giáo Thông người làng tôi nhưng có một sạp hàng xén trên chợ Điền Trung .Rồi họ thành vợ thành chồng.Ông giáo Thông cho anh Động về Điền Hạ ở rể.Ông Động trở thành người làng tôi từ đó.
Khi chiến tranh kết thúc ,chúng tôi đi đánh giặc trở về làng thì ông Động đã mất,anh Học đã thay ông đứng chủ lò rèn và đã có ba thằng con trai.Thời bao cấp ,cả làng Điền Hạ còn nghèo đói nhưng anh Học đã mua được một chiếc xe máy Sim Sơn đỏ chót.Có lần chú Chín tôi nhìn theo chiếc xe mấy xịt khói xanh lè của anh Học rồi nói với tôi "Cháu đi xa không biết chứ,các ông cán bộ xã này là mất cảnh giác lắm .Để cho nó tự do mua gom sắt thép ,phế liệu về chất đày nhà.Cả cái xác mấy bay rơi trên núi Sơn Cương nó cũng mua về chất ở xó vườn ấy.Không biết nó định làm cái gì? Thằng này không khéo thành tư bản lúc nào không biết ?"
Kể ra thì chú Chín tôi đã đoán đúng.Mấy năm sau,ông Học giàu lên ùn ùn,ông chưa phải là nhà tư bản ,nhưng theo cách nói của thời mở cửa,ông đã trở thành một nhà doanh nghiệp có máu mặt trong vùng.Ông mở tới ba bốn cái xưởng vừa tái chế sắt thép,vừa sản xuất các mặt hàng kim khí.Có tới một phần ba thanh niên làng tôi trở thành"công nhân" của ông.Nhiều người trong làng tôn kính gội ông là"Ông chủ Học",còn mỗi khi có hội hè gì thì các vị chức sắc trong xã đứng trước Micrô đều phải trịnh trọng giới thiệu "nhà doanh nghiệp Trương đình Học" ngay sau danh sách các quan khách trên Huyện ,trên tỉnh về dự.Như vậy cũng là phải lẽ,vì quả thực ông Học đã có nhiều đóng góp với quê hương Tam Điền chúng tôi.Nhưng ở đây ,tôi không định kể về con đường làm giàu của ông Học, mặc dù xung quanh chuyện lập nghiệp của ông ,có rất nhiều điều li kì.Điều mà tôi muốn kể ra ở đây là chuyện ông Học bỏ tiền của ra để dựng lại Chùa Cả làng Điền Hạ.
Ước mơ dựng lại chùa làng vẫn âm ỉ trong lòng mỗi người dân quê tôi nhưng ít ai dám nói tới.Vì ai cũng biết muốn dựng lại chùa phải có hai điều kiện tiên quyết .Thứ nhất là phải được chính quyền cho phép.Thứ hai là phải có tiền,rất nhiều tiền.Cả hai thứ đó đều là những việc khó như tìm đường lên giời vậy.Nhưng rồi,cơ duyên cũng đến.Điều khó thứ nhất đã có thời cơ tháo gỡ.Ây là khi Sở văn hoá Thông tin của tỉnh,sau nhiều năm điều tra khảo sát,đã xác định và công nhận cụm đi tích văn hoá-lịch sử Tam Điền ,gắn liền với tên tuổi Tướng quân Hoàng Chính Khai đã được lưu trong sử sách.Trong cái cụm di tích ấy,có đền thờ tướng quân Hoàng Chính Khai và dấu vết còn lại của những thành luỹ ở Điền Thượng .Ngoài ra còn có cả dấu tích của Chùa Cả do tướng quân Hoàng Chính Khai xây dựng ở Điền Hạ.Sau khi nhận bằng công nhận di tích ,ủy Ban nhân dân xã Tam Điền được cấp một khoản tiền hơn trăm triệu đồng để trùng tu lại cụm di tích lịch sử-văn hoá.Số tiền ít ỏi ấy chỉ tạm đủ để tu sửa lại đền thờ của Đức Ngài và làm một đoạn đường vào khu thành cổ,chứ chưa thể nói gì tới chuyện dựng lại chùa Cả.
Hồi đó,mẹ tôi chưa qui tiên.Một hôm ,ông Học tìm đến nhà gặp mẹ và chú Chín rồi hỏi hai người" Cụ với bác thử nghĩ xem ,liệu làng ta có thể đứng ra xin với xã cho dựng lại Chùa Cả không?"Mẹ tôi quay về hướng đầu làng vái một vái "Nam mô a di đà Phật...Chuyện này là không nói chơi được đâu, ông ạ.Tiền ở đâu ra mà dựng lại chùa,dân làng mình vẫn còn nghèo lắm".Ông Học liền cười bảo"Tiền thì cháu có thể lo được.Nhưng điều đầu tiên là phải được xã, được Huyện cho phép đã".Chú Chín tôi xưa nay vẫn không ưa gì ông Học, tinh thần cảnh giác cách mạng của chú vẫn còn cao lắm,nhưng nghe nói đến vịệc dựng lại chùa, thì tự nhiên chú hăng hái hẳn lên."Sao lại không được.- Chú nói-Nếu ông có lòng hảo tâm ,thì cứ làm đơn ,kèm theo một bản dự án đàng hoàng,chúng tôi sẽ ủng hộ".Chú Chín tôi nói mạnh miệng thế,vì hiện nay chú vừa là Chủ tịch Mặt trận của xã,lại vừa có chân trong Ban quản lí bảo vệ cụm di tích Tam Điền.Nghe chú Chín nói vậy,ông Học cả mừng ,nói"Vậy thì để em thu xếp"
Và ông Học thu xếp mọi việc cũng nhanh .Chỉ hai tháng sau ,bản dự án xây dựng lại Chùa Cả ,một hạng mục trong cụm di tích văn hoá-lịch sử Tam Điền đã được cả ba cấp xã,huyện ,tỉnh thông qua.Nội dung cơ bản của bản dự án ấy là như thế nay:Ông Trương Đình Học sẽ bỏ tiền ra tổ chức xây dựng lại ngôi chùa ở làng Điền Hạ theo thiết kế được Sở văn hoá thông tin của tỉnh phê duyệt.Bên cạnh ngôi chùa sẽ xây dựng thêm một nhà bia để ghi danh tất cả hơn một trăm liệt sỹ của làng Điền Hạ đã hi sinh trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.Bù lại,ông Học được xã cho phép san lấp ba mẫu ao đầm nằm ngay sát chùa Cả để để xây dựng nhà xưởng và "những công trình phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân trong xã"...Dự toán kinh phí xây dựng ngôi chùa và nhà bia hết khoảng năm trăm triệu đồng,giá trị khu ao đầm mà ông Học được xử dụng ước tính khoảng ba trăm triệu đồng.Như vậy là ông Học chỉ thực sự cung tiến cho việc xây dựng lại Chùa Cả có hai trăm triệu đồng mà thôi.Nhưng số tiền đó cũng là quá lớn đối với mỗi gia đình nông dân ở Điền Hạ.Còn việc ông Học được san lấp ba mẫu ao đầm để sử dụng mà xã định giá những ba trăm triệu đồng thì dân làng tôi đều bảo"Định giá thế cho oai,chứ mấy mẫu ao đầm xình lầy ấy,xã có bán với giá một trăm triệu chưa chắc gì dân làng này đã có ai thèm mua" .Vì vậy,cả làng đều ủng hộ việc làm của ông và mỗi gia đình đều tình nguyện sẽ tham gia lao động công ích cho công trình vào bất kì lúc nào nếu ông Học yêu cầu.Các cụ trong làng thì tiến hành một cuộc quyên góp để có được một ít tiền tô lại mấy pho tượng.Các cụ bảo"Gì thì gì ông Học cũng là một người ngụ cư,chả lẽ việc đền chùa của làng lại để ông ấy gánh hết thì cũng khó ăn nói lắm".
Nghe các cụ nói vậy ,chú Chín tôi nhăn mặt nói" Có gì ghê ghớm lắm đâu.Mỡ nó rán nó thôi.Rồi các ông xem,lão Học cũng chả thiệt thòi gì,mà lại được lưu tiếng thơm muôn đời.Buôn bán như thế mới tài chứ?"
Chú chín tôi cứ lỗ ma lỗ mỗ như thế nhưng rồi hoá ra chú nói đúng hết.Chùa Cả dựng lại xong,khang trang ,đẹp đẽ.Mấy pho tượng được sơn lại trông rất sáng sủa ,trang nghiêm.Bức tượng Đức ông Hoàng Chính Khai cũng đã được lắp cánh tay mới,đăt trên bệ cao ở gian bên tả.Ngài đứng uy nghiêm tay cầm đốc gươm ,nhìn ra khu nhà bia có tấm bia ghi tên hơn một trăm liệt sĩ của làng Điền Hạ .Nhân tiện nói ngay,phiến đá lớn được dùng làm bia chính là cái sập đá của Đức Ngài năm xưa ,từng thầm máu ba liệt sỹ của làng Điền Hạ và hai liệt sỹ pháo phòng không ...Để quyết định "chuyển mục đích sử dụng "phiến đá xanh lớn này các cụ trong làng đã phải tiến hành làm lễ xin Đức Ngài phê duyệt.May mắn sao Đức Ngài cũng là người hào phóng ,nên các cụ xin âm dương một lần là được ngay.Ngày khánh thành Chùa Cả, khách thập phương kéo về nườn nượp,danh tiếng của nhà doanh nghiệp Trương Đình Học nổi như cồn. Chỉ có một điều nuối tiếc là mẹ tôi đã không sống được tới cái ngày vui lớn này.Bà đã ra đi vào đúng ngày ngoài chùa người ta làm lễ cất nóc.Trước khi trút hơi thở cuối cùng ,mẹ tôi còn kêu con cháu lại và dặn rằng ,khi nào xong chùa, con cháu phải nhớ làm lễ qui hoá để đưa bà lên chùa cho thật chu đấo.
Chùa dựng xong thì ba mẫu ao đầm ở đầu làng ,liền kề với ngôi chùa cũng được lão Học san lấp xong và bắt đầu xây dựng thành toà ngang dãy dọc Cùng với thời điểm ấy,một con đường liên Huyện được mở cắt ngay qua đàu làng tôi,chạy qua Đông Hoàng rồi nối thẳng lên thị xã.Ba mẫu đất của lão Học trở thành đất mặt đường cái quan, giá bỗng tăng lên vùn vụt.Những người thạo tính toán nhất của làng Điền Hạ nhẩm tính sơ sơ rằng ba mẫu đất ấy giờ đây bỏ rẻ cũng có giá một tỷ bạc.Nhưng được cái may , Điền Hạ là đất thuần nông ,dân Điền Hạ không có máu con buôn trong người nên họ cũng chẳng băn khoăn nhiều lắm về cái sự được thua ,lỗ lãi ấy.Họ cũng là những người hồn nhiên lạc quan ,nên thường thì chỉ nhớ tới cái được mà không thích nói tới cái mất.
Làng tôi đã có ngôi chùa và cái nhà bia, thế là đủ lắm rồi!
K - Q- T
“HÃY CHỌN GIÁ ĐÚNG!”
Quân được đề bạt chức chính trị viên tiểu đoàn ngay trong đợt đầu tiên chế độ chính uỷ ,chính trị viên trong quân đội được khôi phục trở lại.Như thường lệ, chuyện đó cũng phải “khao” .Một chầu bia cỏ thì cũng không thành vấn đề gì,nhưng vì tạng của Quân không chịu được hơi men nên chỉ sau cốc thứ hai là anh đã cảm thấy choáng váng , đành phải rỉ tai nhờ tiểu đoàn trưởng Vinh ở lại tiếp các chiến hữu rồi về trước.Như thế thì kể ra cũng bất nhã, nhưng vẫn còn hơn là để mình rơi vào tình trạng “mất kiểm soát” ngay từ ngày đầu tiên trở thành chính trị viên.Hai mươi sáu tuổi chưa vợ ,một lần bị thất tình nhưng lại trở thành chính trị viên tiểu đoàn.Cũng chẳng đến nỗi nào!
Điện thoại réo rắt cử bản nhạc Đời mình là một khúc quân hành. Chắc lại có ai đó gọi điện chúc mừng.Thời đại bùng nổ thông tin mà ,chuyện quái gì cũng loang đi rất nhanh.Hôm qua vợ thằng Thìn,đại đội phó đại đội 2, đang nằm trong phòng đẻ ở mãi tận Hà Tĩnh , cũng bấm điện thoại di dộng cho chồng, bắt chồng nghe “ tường thuật tại chỗ” .Thôi thì đủ cả .Tiếng la hét của nàng, tiếng mấy bà mụ trong nhà hộ sinh cổ động “Cố lên !Cố lên! Rặn cố lên một tý nữa đi em. Nó thò ra cái đầu rồi|” Cho đến khi nghe đứa bé khóc váng lên “Oa oa…oa oa!” và tiếng một bà hộ lí nào đó reo lên “Con giai! Thằng cu rồi ,em ơi!”.Kì quặc là lúc đó lại đang giữa giờ kiểm tra điều lệnh chiến sỹ mới.Tiểu đoàn trưởng Vinh có mặt ở đó đành phải cho tạm dừng, nghỉ giải lao ít phút.Thế là mọi người, từ lính đến quan,xúm cả lại nghe tường thuật tại chỗ qua điện thoại. Kể cũng vui thật! Nhạc đời mình vẫn réo rắt. Quái, điện thoại của mình đâu rồi nhỉ? A, trong túi quần chứ không phải trong bao da dắt dây lưng .“A lô! Quân nghe đây…Có gì thì gọi lại sau nhé, đang say ngất ngư rồi.A ,bố đấy ạ? Chào chính uỷ…Báo cáo chính uỷ bố…Chẳng là hôm nay con đã được nhận quyết định chính trị viên tiểu đoàn .Không tiệc tùng gì đâu ạ.Mấy anh em cán bộ chỉ huy trong đơn vị tụ tập lại làm vài chầu bia chúc mừng thôi mà.Bây giờ là hơn tám giờ tối rồi cụ ạ, chúng con có dám bia rượu trong giờ hành chính đâu.”
Đành phải dừng lại, tựa lưng vào gốc cây xà cừ nghe cho hết bài huấn thị của chính uỷ vậy. Ông cụ đang phấn khích,chẳng gì hôm nay cũng là một ngày lịch sử của dòng họ- Ngày nhà ta có tam đại chính uỷ chính trị viên. Ông nội là chính trị viên đại đội từ thời đánh Tây,bố là chính uỷ thời đánh Mỹ .Và giờ, thằng con út của ông cũng lại thành chính trị viên thời mở cửa hội nhập! Vui thế chả trách cụ bắn liên hồi trong điện thoại ? Dĩ nhiên là có đủ cả,nhưng nhất thiết sẽ phải có đoạn “ngày xưa, khi tao còn làm chính uỷ trung đoàn thì…”.Cựu chính uỷ hôm nay hào phóng gớm, nay mai Bưu điện nó gửi hoá đơn đến thì sẽ biết tay với bà già!
*
Lạ thật, nghe ông già lên lớp một hồi tự nhiên Quân thấy đầu mình nhẹ bẫng. Hình như hết say rồi.Về tới dãy nhà của tỉểu đoàn ,nhìn vào phòng thấy đông nghịt những người.Tối hôm nay hình như không phải ngày chiến sỹ được nghỉ sinh hoạt để xem ti vi kia mà.Sao lại có trò tụ tập đột xuất thế này? Trực ban tiểu đoàn đâu rồi nhỉ? Bỗng anh lại thấy đầu mình nóng bừng lên.Vừa định len vào quát một tiếng thì cậu Toàn ,nhân viên quân khí đã nhìn thấy anh , liền reo lên “ A… chính trị viên về đây rồi.Mời thủ trưởng vào xem…Hãy chọn giá đúng!” “ Cái gì?” “Hãy chọn giá đúng ạ!
Thủ trưởng quên rồi sao?Hôm nay cậu Bảo ,trợ lí hậu cần tiểu đòan mình được lên ti vi đấy.Cậu ấy bị trượt một lượt rồi,nhưng lượt sau chắc là được thi thủ trưởng ạ” Nhớ rồi. Câụ Bảo nhận được cái giấy báo của đài truyền hình mời về tham gia trò chơi Hãy chọn giá đúng.Cậu ta lên gặp anh, trình cái giấy mời,năn nỉ xin đi tranh thủ về Hà Nội để tham gia trò chơi. “Cái chính là được lên ti vi,thủ trưởng ạ. Hai nữa là được thử tài một phen.Lính hậu cần thời hiện đại đi chợ đâu có xoàng,phải không thủ trưởng?” Chỉ vừa nghe tới cái tên trò chơi Quân đã nhăn mặt như nhai phải một viên thuốc đắng nghét!
“Hay hớm gì cái trò vớ vẩn ấy mà cậu định lặn lội xuống tận Hà Nội để tham gia,hả? ” Baỏ gãi đầu cười “ Thủ trưởng nghĩ thế nào ấy chứ….Chương trình này hấp dẫn đấy chứ ạ? Cả khu tập thể chỗ vợ em đều mê như điếu đổ.Tối nào đài phát chương trình này là các bà ấy bỏ hết mọi công việc ,tụ tập nhau lại để xem.Rồi hò hét, xuýt xoa, rồi cũng thi nhau đoán giá ào ào…cứ y như…ngoài chợ thật ấy! Em mà…được lên chương trình này thi vợ em phục phải biết!” Thấy dường như vẫn chưa thuyết phục được thủ trưởng tiểu đoàn, Bảo bồi thêm “ Em …không xin đi tranh thủ đâu ạ ,mà chỉ xin thủ trưởng cho đi nửa phép năm.Em cũng xin hứa, nếu được giải thì…tất cả giải thưởng em xung công ,tặng lại cho tiểu đoàn làm phần thưởng thi đua cuối năm hết”.Nó đã thiết tha đến thế, chả nhẽ mình lại khắt khe quá “Thôi được, cậu đã mê cái thứ dở hơi ấy thì tiểu đoàn cũng đồng ý cho cậu đi.Nhưng phải nhớ, nếu được lên truyền hình thì phải ăn mặc cho chững chạc, giữ đúng tác phong quân nhân,rõ chưa?”
Thế đấy, thì ra hôm nay cậu Bảo được lên truyền hình để “chọn giá đúng”.Thảo nào,lính tráng cứ nhộn nhạo cả lên.Làm đảo lộn cả chế độ sinh hoạt.Thôi, thả cho bọn nó vui chơi một tối đi .Có sao đâu? Còn mình thi... miễn đi! Ớn đến tận cổ cái trò chơi quỉ quái này rồi!
*
Thảo là sinh viên khoa Triết ,trường Đại học khoa học khoa học xã hội và nhân văn nhưng không hiểu vì sao mà lại mê cái chương trình “Hãy chọn giá đúng” trên tivi như điếu đổ.Nàng không bỏ qua bất kì một buổi phát sóng nào của chương trình này.Nàng không chỉ thuộc tên tất cả những người dẫn chương trình,đã đành,mà còn nhớ tên rất nhiều người chơi may mắn và sành điệu ,nàng gọi họ là những con người trí tuệ và hiện đại, đúng là con người của ngày hôm nay .Thậm chí nàng còn mày mò tìm được cả địa chỉ để trao đổi thư từ với họ nữa.Và dĩ nhiên,ước mơ cháy bỏng của nàng là làm sao để giành được một tấm vé đến tận trường quay của Đài truyền hình để được tận mắt chứng kiến những cuộc so tài hấp dẫn và sôi động,được gặp mặt những con người sành điệu ấy .Còn nếu được trực tiếp lên đài tham gia trò chơi và được ghi hình thì đó là một cái gì còn lớn hơn cả ước mơ ,mà chỉ mới nói đến nó nàng đã run lên rồi.Hồi đó Quân mới được thuyên chuyển về đơn vị này làm Phó đại đội trưởng về chính trị,mang tiếng là được về gần Hà Nội hơn,nhưng có khi cả tháng anh cũng chỉ một hai lần có thời gian dỗi để về kí túc xá của Trường đại học thăm Thảo.Trong một lần như vậy,anh gặp tại phòng của Thảo một thanh niên khá điển trai,ăn vận như một doanh nhân thành đạt và nói năng như một gã chào hàng .Mà xét ở một khía cạnh nào đó,anh ta là một gã chào hàng thứ thiệt,vì theo lời tự giới thiệu thì anh ta đang là Giám đốc tiếp thị cho một công ty có vinh dự được làm đại lí độc quyền cho một hãng chuyên sản xuất các mặt hàng dùng trong nhà vệ sinh cao cấp của Italia
-Anh Thoảng tốt nghiệp Đại học ngoại thương vào lọại xuất sắc đấy-Thảo nói thêm-Công ty anh ấy đang tài trợ chính cho chương trình “Hãy chọn giá đúng”.May quá, anh về thật đúng lúc,anh Thoảng mang tới cho em một đôi vé mời ,tối mai mình sẽ sang trường quay của Đài truyền hình để xem trực tiếp một buổi ghi hình .
Anh đành gãi đầu cười trừ “ Anh...chỉ được nghỉ hết ngày hôm nay thôi,ngày mai đơn vị bắt đầu bước vào diễn tập rồi, nên...”Thảo sa sầm mặt, nói dỗi “Vậy thì...em đi với ai anh đừng trách đấy nhé!” Dĩ nhiên, làm sao anh có thể trách Thảo. Nhất là khi nàng lại đi với.... nhà tài trợ chính ?
Một tháng sau.Thảo gọi điện thoại yêu cầu “Anh phải về Hà Nội ngay tối nay .Về bằng bất kì giá nào...vì tối nay em sẽ được tham gia chương trình,sẽ được ghi hình...MC của chương trình sẽ hỏi em tới trường quay với ai? Em không thể trả lời người ta là bạn trai của em đóng quân cách Hà Nội có hơn năm chục cây số nhưng không về được!”Anh cũng đành phải trả lời rằng anh không thể về được thật vì anh đang chỉ huy đơn vị đi bắn đạn thật.Đêm nay đại đội sẽ bắn bài bắn đêm.Anh là Phó đại đội trưởng về chính trị,không lẽ anh bỏ đơn vị để về Hà Nội xem em “chọn giá đúng!?Thôi,em cứ chọn đi,còn anh không thể về bên em “bằng bất cứ giá nào” được ...Em đã yêu một người lính thì sẽ còn nhiều lần em phải đi một mình, về một mình,vui buồn một mình .Đó cũng là một cái giá mà em sẽ phải trả vì sự lựa chọn của mình
Đêm đó em chơi tốt,vì em cũng là một cô gái thông minh,lại được sự hỗ trợ đắc lực của anh chàng tiếp thị sen vòi ,bình nóng lạnh ,bồn cầu của người Italia văn minh,nên em đã giành được những giải thướng xứng đáng.Điều quan trọng là em đã được vui chơi thoả thích và sau đó ,giữa không khí thị trường sôi động và hiện đại,em đã có cơ hội để chợt nhận ra rằng đã có một lần em lựa chọn không đúng.Em đã trao tình cho anh,một người lính,một người đang còn rất xa lạ vớí cái chợ đời sôi sục của ngày hôm nay
Và, như một người chơi sành điệu,em đã thản nhiên chọn lại, thản nhiên đặt cho cuộc đời mình một cái giá mới.Nửa đêm,đang trên trường bắn, điện thoại của anh lại réo rắt bản nhạc đời mình .Và sau đó là tiếng em nói như hét vào máy “Helo! Chào người lính .Em đây. Thôi nhé, từ nay anh đừng đến tìm em nữa.Em cũng hết chịu nổi rồi...Bai...bai.!.Vĩnh biệt người tình khắc khổ của em.Có lẽ anh nên chọn một cô thôn nữ,hay một cô mẫu giáo tỉnh lẻ nào đó thì hợp với anh hơn” Và cúp máy! Cuộc gọi ấy hình như được thực hiện từ một quán bar, một nhà hàng nào đấy,vì chen với giọng nói lảnh lói của em còn nghe cả những tạp âm rất ồn ào của nhạc disco,của tiếng cốc chén chạm nhau và những lời hò hét mời nâng cốc chúc mừng em vừa thắng to trong cuộc chơi chọn giá!
*
Từ phía phòng Hồ Chí Minh của tiểu đoàn lại rộ lên tiếng vỗ tay, tiếng hò hét cổ cũ cho cậu Bảo, hình như cậu ta vừa ghi bàn tại cuộc chơi truyền hình.Chưa bao giờ trên các phương tiện thông tin đại chúng lại nhiều những”cuộc chơi” như vậy .Hết Hãy chọn giá đúng lại đến Ai là triệu phú ? Làm giàu không khó... và còn vô vàn những cuộc vui chơi có thưởng,hãy nhắn tin về số điện thoại...cách X.... cách Y ... bạn sẽ nhận được một giải thưởng có giá trị ...Lính lại hò reo như điên ! Chắc là cậu Bảo mặc quân phục để lên truyền hình .Như thế cũng tốt.Để cho thiên hạ biết vào cái thời WTO này người lính cũng biết đi chợ, biết trả giá.
Điện thoại di động lại tấu nhạc đời mình ....A lô ...Quân nghe đây.! Tuấn à? Cậu đang ở đâu! Tận ngoài Phú Quốc mà cũng biết mình vừa nhận quyết định chính trị viên à? Cám ơn vì sự quan tâm của đồng đội,đồng tuế, đồng học nữa chứ! - Tuấn than thở- “Hồi đó hoá ra cậu là thằng lựa chọn thông minh nên thi vào trường sĩ quan chính trị, bây giờ đã nghiễm nhiên được lên làm thủ trưởng ,còn mình thì lại cạy cục thi cho được vào Trường sĩ quan hậu cần để bây giờ còn lẵng nhẵng làm anh trợ lí hậu cần ,có phấn đấu giỏi thì cũng chỉ lên được cấp phó phụ trách hậu cần. Điên thật!”.
Quân chợt mỉm cười một mình, hoá ra cũng có một lần mình đã “chọn giá đúng”!
K-Q-T