Sen nở như không biết người âu sầu/ Hay sen cũng âu sầu mà người không biết/ Cùng sắc trắng trong, cùng đượm hương từ ngàn đời/ Chỉ khác em lên tiếng mà ta lặng im. (Liên bút từ sen - Nguyễn Lương Ngọc)
Gửi thư    Bản in

Tư duy biển

Hồ Anh Hải - 03-05-2012 09:29:08 AM

Tư duy đất liền và tư duy biển

Tư duy đất liền là tư duy coi đất đai là yếu tố quan trọng nhất của một quốc gia. Với tư duy này, tổ tiên ta đã không ngừng mở rộng bờ cõi lãnh thổ ban đầu rất nhỏ bé của mình, cuối cùng hình thành một quốc gia riêng của người Việt trên giải đất hình chữ S có giá trị cao về địa-chính trị, với biên giới thiên nhiên gần như lý tưởng nằm trọn một góc trời.

Cũng với tư duy đó, một số dân tộc hàng hải châu Âu như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh,...  ngày xưa chiếm nhiều nước khác làm thuộc địa. Giữa thế kỷ XVI, các thuộc địa ở châu Mỹ của Tây Ban Nha có tổng diện tích 25 triệu km2. Anh Quốc có các thuộc địa rộng hơn 100 lần chính quốc. Nước Mỹ sinh sau đẻ muộn tuy đất rộng nhưng vẫn rất chú ý bành trướng lãnh thổ. Nước này khi mới độc lập (7/1776) chỉ rộng hơn 1 triệu km2 (hơn 4 triệu dân); ngày nay rộng 9,83 triệu km2 (311 triệu dân). Với óc thực dụng kiểu Mỹ, họ chủ yếu bỏ tiền ra mua đất. Như năm 1803 mua của Pháp vùng Louisiana rộng 2,14 triệu km2 giá có 15 triệu USD, năm 1867 bỏ 7,2 triệu USD mua từ Nga vùng Alaska cực kỳ có giá trị chiến lược địa-chính trị rộng 1,518 triệu km2  .

Nhưng khi thế giới đã hình thành cộng đồng quốc tế gồm nhiều quốc gia có chủ quyền lãnh thổ được quốc tế thừa nhận thì không thể mở rộng lãnh thổ được nữa ; hành động đó bị coi là xâm lược. Nửa đầu thế kỷ XX, Nhật, Đức định mở rộng lãnh thổ, gây ra chiến tranh thế giới và cuối cùng bị tiêu diệt. Tiếp đó hệ thống thuộc địa tan rã, các nước đế quốc phải trả lại độc lập cho các thuộc địa. Anh, Pháp ... mất hết thuộc địa; riêng Mỹ không hề mất các vùng đất đã mua được. Bấy giờ tư duy đất liền trở nên lỗi thời. Cần có một tư duy mới.

Tư duy biển là nói nhận thức biển và vùng đất ven biển là yếu tố quan trọng nhất của quốc gia về cả kinh tế và quốc phòng. Biển chiếm 70,8% tổng diện tích bề mặt trái đất, trừ phần lãnh hải thuộc chủ quyền của các quốc gia giáp biển ra, phần còn lại là của chung toàn thế giới. Tại nước nào cũng vậy, giải đất ven biển là nơi tập trung dân ở và làm ra nhiều của cải nhất, cho nên là nơi quan trọng nhất. Vùng biển đặc quyền kinh tế của nước ta rộng trên 1 triệu km2, gấp 3 lần diện tích đất liền.

Có một sự thật là loài người sống trên đất liền quá lâu, hầu hết tài nguyên đất đã bị khai thác cạn kiệt. Trong khi đó biển lại cực giàu tài nguyên như hải sản, khoáng sản (dầu khí, muối ...); ngoài ra có thể dùng biển để khai thác dịch vụ giao thông hàng hải, du lịch. Các vùng biển xa vẫn còn rất nhiều nguồn tài nguyên chưa khai thác. Bởi vậy nhiều nước phát triển kinh tế theo cách lấy đại dương nuôi đất liền. Trung Quốc đang dùng các chính sách Mỹ đã dùng cách đây 28 năm là dần dần ngừng khai thác hải sản biển gần, dựa khai thác biển xa (đại dương) để nuôi đất liền. Hồi đó, Mỹ đã chuyển sang khai thác các tài nguyên phi vật thể, khai thác giá trị dịch vụ của các hệ sinh thái biển. Năm 2004, trong số 72 tỷ USD của kinh tế biển nước Mỹ thì 23 tỷ USD do nghề cá giải trí và dịch vụ bán cá cảnh và san hô đóng góp; nhờ đó Mỹ đã tiến lên nền kinh tế sinh thái, vừa bền vững vừa hiệu quả.

Biển ngày càng có giá trị quân sự hơn đất liền, vì thế các nước đều cố gắng thu xếp ổn thoả vấn đề biên giới trên đất để tập trung lo kiểm soát biển. Cách đây hơn 2000 năm, triết gia cổ La Mã Cicero nói: “Ai kiểm soát biển thì người đó kiểm soát được thế giới.” Thời xưa các đế quốc phương Tây đều vượt biển xâm lược những nước nhỏ yếu phương Đông. Thời nay, tranh chấp giữa các quốc gia tập trung vào biển, đảo, nhằm mở rộng lãnh hải để khai thác tài nguyên và kiểm soát tuyến hàng hải. Các nước giáp biển đều coi việc giữ an ninh biển là nhiệm vụ chính.

Từ bỏ tư duy đất liền, chuyển hẳn sang tư duy biển, tập trung sức người sức của phát triển kinh tế biển và vùng ven biển, xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh ngày nay đã trở thành xu thế chung của các quốc gia giáp biển.

Các nước lớn đều phát triển hải quân viễn dương nhằm tạo thế cân bằng trên thế giới. Nước nhỏ như Malaysia, Singapore, Indonesia, Thái Lan cũng sớm xây dựng lực lượng hải quân mạnh. Thái Lan có cả tàu sân bay. Philippines, Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia  và Brunei cho Mỹ lập căn cứ hải quân ở nước mình.

Hầu hết các dân tộc trên lục địa châu á đều sống chủ yếu bằng nông nghiệp, vì thế xưa kia họ đều coi trọng đất mà coi nhẹ biển, mạnh về tư duy đất liền mà yếu về tư duy biển; và không dễ chuyển tư duy. Do chỉ lo cày xới mảnh đất nhỏ bé của mình, tự cấp tự túc, yên phận thủ thường, không cần trao đổi hàng hoá với nước ngoài, do đó không đi xa, không giao thương trên biển, vì thế họ có sức ỳ lớn, ít cởi mở, thiếu ý thức cộng đồng, kém năng nổ, ít tính cạnh tranh và kém khả năng khám phá, ít hiểu biết về thế giới và nhân loại. Nếu họ có đánh cá biển thì cũng chỉ ở ven biển. Trong bậc thang xã hội, ngư dân bị coi thường, xếp dưới cả nông dân. Cho tới đầu thế kỷ XX, các dân tộc phương Đông chưa vượt biển để buôn bán, chỉ có những “con đường tơ lụa” trên bộ, đã không chở được nhiều hàng hóa hành khách lại cũng không đi xa nhiều nơi được.

Trong khi đó người Âu Mỹ đặc biệt coi trọng biển và ra sức khai thác biển. Các dân tộc hàng hải ở Tây và Bắc châu Âu từ cổ xưa đã đóng thuyền vượt đại dương đi khắp nơi buôn bán, chiếm đất (hoặc cướp tài sản như người Viking Bắc Âu). Đời sống trên biển đầy hiểm nguy buộc họ phải có tinh thần mạo hiểm, dũng cảm, phải năng nổ, cởi mở, cầu tiến, có ý thức tập thể và ý thức cạnh tranh, chịu khó khám phá, phải biết thiên văn, hình học, toán học. Do luôn đi xa nên họ học được nhiều cái mới, có nhiều khám phá khoa học kỹ thuật nhất là hàng hải học, họ sớm phát triển buôn bán đường biển để làm giàu rồi từ đó bước lên con đường công nghiệp hoá, phát triển KHKT, qua đó nhanh chóng tăng sức mạnh kinh tế, quân sự. Văn minh phương Tây trội hơn văn minh phương Đông chính là vì thế.

Đại đế Pi-ốt (1672-1725) là vua Nga đầu tiên biết coi trọng biển, tự cải trang thành anh thợ sang Hà Lan học đóng tàu, về nước xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh rồi ra sức mở rộng lãnh thổ nhằm giành quyền thông ra biển cho nước Nga đất rộng nhưng có quá ít bờ biển và mùa đông biển đóng băng không đi lại được. Từ đó Nga trở thành cường quốc. Năm 1713 Pi-ốt chuyển kinh đô tới thành St. Petersburg trên bờ biển. Dân Nga gọi ông là Pi-ốt Vĩ đại thật đúng.

Tổ tiên người Việt tuy chưa quan tâm tới biển xa nhưng đã quan tâm tới biển gần. Từ xa xưa ngư dân Việt đã tìm đến định cư tại hầu hết các đảo ở cách đất liền tổ quốc không xa trong vịnh Bắc Bộ và vịnh Thái Lan. Đảo Phú Quốc ở gần Căm-pu-chia hơn nhưng người đầu tiên định cư tại đây lại là người Việt. Ngày nay Phú Quốc đang trở thành một địa điểm du lịch cực kỳ giá trị ở cực Nam nước ta, tương tự đảo Jeju của Hàn Quốc. Đảo Bạch Long Vĩ ở giữa vịnh Bắc Bộ (cách gần đều lãnh thổ hai nước Việt Nam, Trung Quốc) cũng do dân tỉnh Quảng Yên đầu tiên đến ở, năm 1937 chính quyền Bảo Đại lập đồn canh phòng và xây dựng chế độ lý trưởng trên đảo. Nhờ thế Bạch Long Vĩ mặc nhiên là lãnh thổ nước ta, dù năm 1949 từng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch chiếm đóng, năm 1955 quân đội Trung Quốc chiếm lại, nhưng sau đó phải trả cho ta vì Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887 đã quy định Bạch Long Vĩ  “thuộc về nước An Nam (xứ bảo hộ của Pháp)”. Người viết bài này năm 1966 có dịp công tác một tháng tại huyện Trùng Khánh (Cao Bằng) làm phiên dịch cho cuộc đàm phán Việt-Trung về việc Trung Quốc giúp ta làm mấy con đường xuyên biên giới để phục vụ kháng chiến chống Mỹ, từng đi dọc biên giới đến một số cột mốc được dựng theo Công ước Pháp-Thanh 1887 và hỏi chuyện các cụ già dân địa phương về chuyện này, qua đó hiểu được phần nào sự khôn ngoan của người Pháp trong việc gìn giữ biên cương thuộc địa của họ.

Nhìn chung, toàn bộ các đảo ven biển nước ta đều có dân ta sinh sống và làm chủ từ sớm, nhờ thế ngày nay nước ta tránh được bao nhiêu rắc rối về tranh chấp biển đảo với các nước xung quanh. ở đây không thể phủ nhận công lao to lớn của cha ông ta và của các chính quyền Việt Nam trước 1975. Thử tưởng tượng nếu một trong các đảo ấy thuộc quyền kiểm soát của nước ngoài thì nền độc lập của nước ta sẽ gặp rắc rối chừng nào ? Hãy xem mấy hòn đảo nhỏ tý không người ở trên vùng biển giữa Nhật với Trung Quốc và với Hàn Quốc đang gây ra bao nhiêu va chạm có thể biến thành xung đột quân sự.

Sau khi giải phóng miền Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập tức chiếm lĩnh một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa không người ở. Không rõ trong số các nhà lãnh đạo hồi ấy ai là người đầu tiên đưa ra ý tưởng này? Có lẽ Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Quốc phòng không thể không tham gia vào quyết sách chiến lược ấy. Bây giờ chúng ta mới thấy đây là một quyết định vô cùng sáng suốt, có tầm nhìn quốc gia quốc tế, và riêng với sự kiện đó, các nhân vật chủ chốt đưa ra quyết sách này trong ban Lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta xứng đáng được lưu danh sử sách ngàn thu.

Trường Sa gần Việt Nam, rất xa Trung Quốc, thuộc về Việt Nam là hợp tình hợp lý. Sau mấy chục năm xây dựng, các đảo này hiện nay đã có công sự kiên cố, trở thành những chiếc “tàu sân bay không thể đánh chìm” có vai trò cực kỳ quan trọng canh gác bảo vệ tổ quốc ta từ xa. Nên nhớ là rất khó đổ bộ chiếm hải đảo. Trong chiến tranh Thái Bình Dương, quân Mỹ thương vong nặng nhất khi tấn công các đảo của Nhật. Đảo Kim Môn nhỏ tý gần đại lục Trung Quốc (trong tầm trọng pháo) mà mấy chục nghìn Quân Giải phóng khi đổ bộ lên đây đều bị tiêu diệt, về sau Mao Trạch Đông phải bỏ chiến dịch này.

Mặt khác, có thể thấy là do tư duy đất liền mạnh hơn tư duy biển, do chậm đổi mới tư duy nên những quyết định đúng đắn như trên còn quá ít và đưa ra khá muộn. Song dù muộn còn hơn không. Giờ đây hơn bao giờ hết, chúng ta cần trang bị cho mình tư duy biển.

Rõ ràng, nhờ có tư duy biển nên phương Tây nhanh chóng giàu mạnh. Phương Đông đã không có tư duy biển lại chậm đổi mới tư duy. Muốn giàu mạnh nhanh cần tiếp thu học thuyết sức mạnh biển.

Thuyết Sức mạnh biển

Thuyết Sức mạnh biển (hoặc Quyền lực biển, Sea Power) do Alfred Thayer Mahan đề xuất năm 1890. Xuất thân là sĩ quan hải quân dạy sử học ở Học viện Hải quân Mỹ, Mahan đã nghiên cứu kỹ quá trình trở thành cường quốc của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và quá trình Anh Quốc bá chủ thế giới, từ đó ông viết cuốn ảnh hưởng của Sức mạnh biển đối với lịch sử thời kỳ 1660-1783 (The Influence of Sea Power Upon History, 1660-1783), xuất bản năm 1890. Sách này được xếp vào số 10 binh thư có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới. Đây là một trong bộ ba cuốn sách ông viết để trình bầy về thuyết sức mạnh biển.

Mahan cho rằng các quốc gia sống bằng xuất khẩu hàng hoá thì phải kiểm soát biển, phải giành lấy và giữ được quyền kiểm soát biển, nhất là kiểm soát các tuyến giao thông biển huyết mạch liên quan tới lợi ích và ngoại thương của quốc gia mình - sức mạnh biển là nhân tố chính làm cho đất nước giàu mạnh. Muốn thế, phải có lực lượng hải quân và đội thương thuyền mạnh cùng một mạng lưới các căn cứ địa trên biển.

Theo Mahan, các yếu tố sức mạnh biển mà một quốc gia cần phải có gồm: 1- Vị trí địa lý thuận lợi qua biển đi ra thế giới; 2- Địa hình thuận lợi như có nhiều cảng và con sông chảy qua vùng đất màu mỡ thông ra biển; 3- Lãnh thổ có dân sống thì phân bố dọc theo bờ biển; 3- Phải có số dân tương đối đông để có thể cung cấp đủ thuỷ thủ và lao động đóng tàu;  4- Toàn dân phải có khát vọng và nhu cầu về thương mại trên biển; 5- Chính phủ phải có quyết tâm phát triển sức mạnh biển của nước mình.

Mahan đưa ra các điều kiện cơ bản để trở thành quốc gia kiểm soát biển: 1- Phải có hải quân, căn cứ hải quân và các tuyến giao thông trên biển không bị nước khác kiểm soát;  2- Phải có đội tàu buôn mạnh cùng các hải cảng và tuyến hàng hải, phải có buôn bán với nước ngoài. Sức mạnh biển phải thể hiện ở chỗ kiểm soát được và lợi dụng được biển; công cụ chính để khai thác biển là đội tàu buôn và hải quân, phải có lực lượng vũ trang để bảo vệ đội tàu buôn và tuyến hàng hải. Trong thời chiến, đội tàu buôn có thể chi viện hải quân tác chiến, chở vật tư, vũ khí, chở thương binh.

Sau khi phân tích từ góc độ chiến lược ảnh hưởng của các nhân tố sức mạnh biển, Mahan đề xuất chiến lược hải quân là xây dựng và tăng cường sức mạnh trên biển trong thời bình và thời chiến nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của quốc gia. Ông cho rằng phương pháp giành quyền kiểm soát biển là tác chiến trên biển và phong toả trên biển. Ông nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản tác chiến trên biển là tập trung binh lực và chủ trương nước Mỹ nên thành lập hạm đội biển xa, trước tiên để kiểm soát biển Ca-ri-bê và eo biển Trung Mỹ, sau đó tiến ra các đại dương, và chủ trương hợp tác với các cường quốc khác.

Mahan nêu công thức:

Sức mạnh hải quân = Lực lượng + Vị trí.

Hiển nhiên, lực lượng tàu chiến và vũ khí dù mạnh mà không có vị trí thuận lợi thì khó phát huy được tác dụng trong tác chiến trên biển. Để có các vị trí thuận lợi, nước Mỹ đã chiếm một số đảo dù rất nhỏ và rất xa trên đại dương để làm căn cứ địa hải quân, trong khi nhiều nước thực dân khác như Anh, Tây Ban Nha chỉ lo chiếm đất thật rộng. Thực tế sau này chứng tỏ suy tính của người Mỹ rất sáng suốt; nếu không có chuỗi các đảo nhỏ dùng làm căn cứ hải quân ấy, chẳng hạn đảo Guam, Midway, thì sao Mỹ có thể thắng được phát xít Nhật trong chiến tranh Thái Bình Dương. Giờ đây, khi tuyên bố “trở về châu á”, Mỹ cũng chỉ yêu cầu tôn trọng quyền tự do đi lại trên các vùng biển thuộc Thái Bình Dương mà Trung Quốc đang tranh chấp chủ quyền với các nước xung quanh.

Có thể thấy học thuyết Mahan là một trường phái của địa chính trị học, nhưng Mahan nhấn mạnh vai trò của biển chứ không nhấn mạnh vai trò đất liền như thuyết của Mackinder.

Tư tưởng sức mạnh biển của Mahan nhanh chóng được Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt chấp nhận dùng làm căn cứ xây dựng chính sách ngoại giao. Từ năm 1890, chính phủ Mỹ từ bỏ tư duy đất liền, chuyển hẳn sang tư duy biển. Ngoài việc ra sức xây dựng hải quân, Mỹ còn nắm lấy việc đào và kiểm soát kênh Panama, lập căn cứ hải quân ở vùng biển Ca-ri-bê, đảo Hawaii. Năm 1890, Quốc hội Mỹ thông qua Luật Hải quân. Cuối thế kỷ XIX, sức mạnh hải quân Mỹ từ thứ 12 nhảy lên thứ 3 thế giới; sau Thế chiến I thì mạnh nhất thế giới; sau Thế chiến II Mỹ hoàn toàn kiểm soát Thái Bình Dương. Chính phủ Mỹ từ năm 1798 lập riêng một Bộ Hải quân bên cạnh Bộ Lục quân (lập 1789); sau Thế chiến II kết thúc mới lập Bộ Quốc phòng (1947) thay cho hai bộ kia. Nhờ có lực lượng hải quân mạnh nên nước Mỹ trở thành siêu cường toàn cầu.

Tổng thống F. Roosevelt ca ngợi Mahan là một trong những nhân vật vĩ đại nhất, có ảnh hưởng nhất trong đời sống nước Mỹ. Sử gia Kennan đánh giá Mahan là nhà chiến lược quan trọng nhất của nước Mỹ trong thế kỷ XIX.

Sách của Mahan được nhiều nước dịch và xuất bản, có ảnh hưởng lớn tới chính sách ngoại giao của các nước. Tuy là cường quốc biển số 1 hồi ấy nhưng Anh cũng rất sùng bái thuyết Sức mạnh biển của Mahan, chính phủ Anh đã áp dụng thuyết này khi lập kế hoạch mở rộng hải quân.

Hoàng đế Đức William II (kẻ gây ra Thế chiến I) và Bộ trưởng Hải quân Đức Von Tripitz đã nghiên cứu kỹ thuyết sức mạnh biển của Mahan và dốc sức phát triển hải quân đế quốc Đức.

Sau khi bị hạm đội Mỹ do đô đốc Matthew Perry chỉ huy ép phải mở cửa giao thương với phương Tây (1854), chính quyền Nhật nhanh chóng hiểu rằng hải quân, chứ không phải lục quân, là lực lượng quân sự quan trọng nhất. Nhật Hoàng khôn ngoan áp dụng ngay thuyết Sức mạnh biển của Mahan, chuyển chiến lược quân sự Nhật sang xây dựng hải quân và giành quyền kiểm soát trên biển. Các học viên trường hải quân Nhật đều phải đọc sách của Mahan. Tổng trọng tải đội tàu chiến Nhật từ 15.000 T năm 1880 tăng lên 700.000 T năm 1914, mạnh thứ 7 thế giới, làm tăng rõ rệt sức mạnh của Nhật. Năm 1894 Nhật dùng hải quân đánh bại Trung Quốc, chiếm đảo Đài Loan; năm 1904 lại tấn công tiêu diệt hạm đội Đông Bắc á của Nga. Từ thập niên 30 Nhật đã đóng được tàu sân bay hiện đại và có nhiều tàu sân bay nhất thế giới. Các đội tàu chiến Nhật phát huy tác dụng cực lớn trong việc triển khai sức mạnh quân sự chiếm châu á-Thái Bình Dương, mở đầu bằng cuộc đánh úp thành công Trân Châu Cảng (7/12/1941).

Năm 2000 Trung Quốc xuất bản bản dịch cuốn ảnh hưởng của Sức mạnh biển đối với lịch sử thời kỳ 1660-1783 của Mahan và đẩy mạnh tuyên truyền về thuyết Sức mạnh biển. Nhiều năm qua Trung Quốc bắt đầu giảm lục quân, tăng cường hải quân, đóng nhiều loại tàu chiến và tàu ngầm hiện đại, mới đây đóng cả tàu sân bay. Bắc Kinh còn ra sức lôi kéo Myanmar để nước này cho họ mở đường ra ấn Độ Dương. Năm 2009, lần đầu tiên Trung Quốc đưa cả một hạm đội mạnh tới vùng Vịnh Aden ngoài khơi Somalia dưới danh nghĩa tham gia chống cướp biển. Thực chất việc này nằm trong chiến lược đưa hải quân Trung Quốc ra hoạt động tại đại dương. Năm 2010 họ cho tàu chiến lớn nhất là tàu đổ bộ Côn Lôn Sơn 18.500 tấn tham gia hạm đội kể trên. Các cuộc tập trận lớn vừa qua của quân đội Trung Quốc đều là tập trận trên biển, có phối hợp không quân và vệ tinh. Gần đây họ lại có ý định lập căn cứ hải quân tại quần đảo Seychells ở ấn Độ Dương. Hơn bao giờ hết, Bắc Kinh đang đề cao thuyết sức mạnh biển và kiểu “ngoại giao tàu chiến”.

Do vướng vòng cung Hàn Quốc-Nhật-Đài Loan-Philippines nên Trung Quốc hiện nay không thể vươn ra biển lớn về phía Đông. Vì thế họ nóng lòng muốn vươn xuống phía Nam và vội vã nêu ra yêu sách chủ quyền theo “đường lưỡi bò” hòng chiếm 80% vùng biển này. Tham vọng quá đáng ấy đang gây ra các rắc rối trên biển Đông của Việt Nam. Tình hình đó càng cho thấy hơn bao giờ hết nước ta cần đẩy mạnh áp dụng tư duy biển để tăng cường phát triển sức mạnh biển của mình, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống phức tạp.

(Nguồn: vanhoanghean.com.vn)

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Các tin đã đăng

Nhà văn đọc sách  

Mai Văn Phấn “giấu mặt” trong “hoa”

VanVN.Net - Từ xưa đến nay, bài thơ viết ngắn nhất là bài thơ chỉ có một câu. Kỷ lục vẫn thuộc về R. Tagore (nhà thơ ấn Độ, người đã đoạt giải Nô-ben văn chương cách nay trên 30 năm). ...