Sen nở như không biết người âu sầu/ Hay sen cũng âu sầu mà người không biết/ Cùng sắc trắng trong, cùng đượm hương từ ngàn đời/ Chỉ khác em lên tiếng mà ta lặng im. (Liên bút từ sen - Nguyễn Lương Ngọc)
Gửi thư    Bản in

Họ sinh sau ngày 30 tháng 4 năm 1975

02-05-2012 02:18:00 PM

VanVN.Net – “So với các nhà thơ trẻ thì các nhà văn sinh sau ngày 30-4-1975 có vẻ trầm lắng và bình thản hơn, nhưng lao động nghệ thuật bằng con đường riêng âm thầm, nhưng cũng không kém phần quyết liệt. Văn trẻ không có những cách tân bồng bột và những tuyên ngôn nghệ thuật ồn ã, cũng không có những tập hợp thành nhóm văn, mà phân rã riêng biệt, ai biết người đó với thế giới nghệ thuật của riêng mình.” - Nhà văn Sương Nguyệt Minh nhận định. VanVN.Net xin trân trọng giới thiệu chùm truyện ngắn của các tác giả đại diện cho ba miền văn học Bắc - Trung - Nam: Dương Bình Nguyên, Nie Thanh Mai và Nguyễn Ngọc Tư.

MIỀN ĐẤT HOA VÀNG

Truyện ngắn của Dương Bình Nguyên

Lúc ấy đã vào cuối mùa khô, những con đường không thể bụi hơn nữa. Lối vào xã chỉ là một lát cắt giữa hai bên là những cánh rẫy vừa mới phát. Đâu đó có những đám khói xám xịt, bay luẩn quẩn cùng hơi nóng hừng hực.

Chiếc xe khựng lại, ông tài xế có một vẻ mặt rất phong trần nhìn hai đứa, tội nghiệp: “Ngồi đây đi, chút có mấy đứa công an xã tới rước. Nó dặn bây rồi hả?”. Thực ra không phải là dặn, chỉ là lời nói hôm trước đi giao ban công an huyện, ông phó công an xã bảo sẽ đón trong chiều nay. Còn vào lúc nào thì không thấy nói tới. Chúng tôi chui vào chiếc quán độc nhất, những món đồ hàng cũ xỉn và lầm lên màu đỏ quạch.

Bà chủ hàng ái ngại: “Uống nước không? Nhà tôi có “bò húc””. Khương bảo: “Anh có xem quảng cáo trên tivi không? Là nước tăng lực đó mà. Dì cho con xin hai lon bò húc, thật nhiều đá”. Tôi ngồi ngó lơ ra những tàng cây trứng cá, tàn lá của chúng cũng mang cái màu chật vật. Trong nhà, chiếc tivi chết lặng trên bàn. Cái bình ắc quy không đủ điện để phát sáng màn hình.

Bà chủ vừa quạt vừa bảo: “Trong này cực lắm. Cô cậu vô đây công tác hay đi làm gì?”. Khương cười: “Tụi con đi sưu tầm dân ca”. “ờ, bi giờ lại có cái thứ công việc tùm lum đó sao. Sưu tầm dân ca, ngộ thiệt đó. Nhưng... là sao?”. “Là đi coi người ta hát cái gì hay thì mình ghi vào sổ, mai mốt về hát cho người khác nghe”. “Trời, con nhỏ này, giỡn hoài. Tưởng bà già này không biết gì sao?”. Khương cười. Lon bò húc ngọt đến dị người, tôi không sao uống hết. Khương bảo, có lẽ anh không biết, trong này đàn ông pha rượu để uống chơi thôi. Đúng lúc đó có tiếng xe máy rè rè tới. Khương đứng lên, hỏi thân thiết: “Sao lâu vậy?” Cậu thanh niên lúng túng, quệt hai tay bê bết dầu mỡ vào quần, chiếc quần cố gắng chỉn chu lại vần lên những vết tay màu đỏ vàng kì cục: “Tại ruột xe bị lủng”. Rồi nhìn qua tôi, anh ta chào: “Chú Chin nói tôi qua đón anh”. Khương nhìn tôi: “Thôi, anh vào trong đó đi, tuần sau Khương lên thăm. Khó khăn chung mà”. Người thanh niên nhìn Khương, ánh mắt buồn buồn: “Về luôn sao?”. Khương mím môi: “Công việc nhiều lắm”. Rồi cô lôi ra một chiếc bàn cạo râu và tá dao lam: “Xài đi, dạo này trông để râu... dữ dội quá”. Khương về. Người thanh niên không nói gì, tay vân vê chiếc bàn cạo. Chiếc bàn cạo đen, nhẵn bóng. Được một chặp, Khương quay lại bảo tôi: “Thôi, anh vào đi, trong đó có điện thoại, anh gọi cho Khương là được rồi”. Tôi khẽ gật, nhìn màu chói gắt đang đổ ập xuống đầu mình. “Về!”- chiếc xe bất thần rung bần bật và anh ta đang chờ tôi leo lên.

Bụi mù mịt. Chừng như không còn chút không khí nào để thở cả. Chỉ là một màu bung phát, tơi tả. Xe phăm phăm lao đi như một chàng ngựa dũng mãnh. Tôi không mở được mắt, tất cả đập vào tôi quá mạnh, quá hối hả, kể cả sự im lặng đến bạo liệt của anh chàng tài xế bất đắc dĩ này. Đến đầu suối, anh ta đột ngột dừng lại: “Xuống rửa mặt đi”. Một không gian khác, yên lành bất ngờ đến bên cạnh tôi. Con suối nhỏ nhưng trong vắt, đâu đó là tiếng cười trẻ nhỏ. Kề bên là những bờ cây lá, những bóng cây hồn nhiên trôi trên mặt nước hiền lành. Tôi thả chân xuống suối. Mát lạnh. Mà không dám tắm. Tôi nghe nhiều đến những chuyện như người ta bị ngã nước rụng trọc cả đầu. Trong khi đó anh ta đang dần trút bỏ quần áo: “Sắp tới anh sẽ phải tắm ở đây, như thế này”. Dứt câu, anh ta nhoài mình xuống đáy nước như một con rái cá. “Anh tên gì ?” - tôi hỏi. “ Cứ gọi là Yơng”. Yơng – thực tình nó không gợi cho tôi bất cứ cảm giác gì, nếu có thì là sự ngạc nhiên, hoá ra mỗi vùng đất đều có thể xuất hiện những cái tên khá kỳ lạ mà đôi khi người gọi ra nó cũng không hiểu vì sao lại thế. Hay giả chăng giữa những ngọn đồi này, giữa những mênh mông cỏ xanh và thung lũng này, có một huyền tích, một câu chuyện, một mối tình mà nhân vật chính mang tràn đầy khát vọng tên Yơng?

Đưa tôi về tới ủy ban xã, Yơng lặn không tăm hơi, bỏ mặc chiếc xe cà khổ nằm phất phơ giữa nắng chiều bỏng rát. Ông chủ tịch xã là người bản địa, một thời rước quân giải phóng qua sông Pôkô. “Cậu từng nghe tới đất này bao giờ chưa? Cực dữ lắm, nhưng không thể quên được. Mà người ta giao cho cậu làm những gì?”- ông chủ tịch hỏi. Tôi ngồi nhìn những đốm hoa bông gòn nở xoá trắng mặt sân nhà rông. Chúng nở bung và bay la đà trong những làn gió hiếm muộn. Tôi chưa từng nghĩ có một ngày mình sẽ phải đến đây, làm cái công việc rất chi là trừu tượng, giải đáp thắc mắc của nhân dân về chính sách. Tiếng Việt thì đồng bào không biết, làm sao tôi nói được tiếng dân tộc? Tôi cười: “Là một chút việc giúp đồng bào mình thôi, chú”. “ờ, là hỏi vậy. Để nói với Yơng. Ơi Yơng, đưa cán bộ đi tắm. Nắng dữ lắm. Nhưng suối thì mát thiệt mát”. Hoá ra anh ta làm một chân “loong toong” ở xã, cái người đảm lược nhiều khâu đoạn trong một miền rừng mịt mù.

Và về sau tôi mới nhận thấy rằng, nếu không có Yơng thì mọi việc từ giản đơn nhất như đăng ký khai sinh cho một đứa trẻ đến những công việc lung tung beng khác ở cái xã này sẽ rối lên như canh hẹ. Nhưng đó phải là nửa năm sau, khi kỳ thực tập của tôi kết thúc. Còn khi đó, Yơng hiện ra ngay khung cửa, hàm râu cạo vội vẫn còn vương lại màu xanh ánh thép. Không để râu, trông anh ta hiền lành và có gì như thu bé mình lại. Tôi lôi ra chiếc khăn bông, chai dầu gội cùng hộp xà bông mới. Tất cả như một luồng điện nhanh chóng đập vào mắt Yơng. Anh ta nói: “Mấy chai lọ này đúng là thứ chiếu trên tivi?”. Tôi nhìn Yơng, có gì đó thật bất nhẫn: “Đúng vậy. Chúng chẳng đáng gì”. Yơng nhìn tôi: “Anh đi tắm đi. Anh chưa quen, có thể bị sốt rét như thường. Ba tháng rồi, xứ này không một giọt mưa”. Đến vậy sao? Tôi chưa nghĩ tới cái cảnh người ta có thể khoả thân trầm mình trong rừng như một câu chuyện khá mọi rợ mà tôi đọc được từ đâu đó. Nó rất xa với suy nghĩ của tôi. Vừa đi xuống suối, tôi hỏi: “ở đây có gì đáng kể không?”. “Là sao?”. “Là những chuyện động trời một chút, những câu chuyện đánh nhau, bắn rơi máy bay Mỹ chẳng hạn”. “Nhiều, kể sao hết. Nhưng mà phải nói với già làng. Chuyện mười năm, chuyện trăm năm già đều biết”. Nước lạnh làm tôi rùng mình. Dường như lâu lắm rồi, tôi không có được cái cảm giác thoải mái và tự do thế này. Những cánh rừng phấp phới nắng. Và loài chim gì có những chiếc lông cánh màu đỏ rực đang ngồi vắt vẻo trên thân bằng lăng trắng, chúng tụ tập nhau để gẫu chuyện. Yơng đang ngồi trên bờ, tay vấn điếu thuốc sâu kèn to bản. Rồi hơi thuốc khét lẹt phả ra xung quanh. Cái cần cổ Yơng bạnh ra, rướn lên như làm một việc nặng nhọc rút kiệt sức lực. Tôi ngoái đầu lại, cảm giác như để chống chọi với cái buồn tẻ và u ám của xứ này, anh ta đã phải gồng lên với tất cả nghị lực phi thường, hệt như anh phải vươn cần cổ rít từng mẩu thuốc sâu kèn khét lẹt và không mấy ngon lành kia. Tắm xong, tôi leo lên bờ ngồi cạnh Yơng.

Chìa cho tôi bản thuốc lớn được quấn trong tấm vải nhựa, Yơng bảo tôi, giọng nhuốm một màu huyền thoại : “Dùng thử đi, mới đầu không chịu nổi, miết rồi lại không thể xa được. Thuốc này được trồng trên đỉnh núi Chư Pru, ba năm mới nở hoa, ba năm lá mới kịp rụng”. Tôi nhìn Yơng quấn bản thuốc lớn, nghĩ có thể lịm đi vài giờ liền vì độ nặng của nó với vòm họng bé nhỏ của mình. Tôi hỏi: “Nhà anh ở làng nào?”. “Làng Klong. Cái làng đẹp, những cô gái đẹp. Làng của người Campuchia”. “Sao lại vậy?”. “Họ qua đây lâu lắm rồi, giờ thành người Việt đến nơi. Họ muốn ở lại”. “Cả gia đình anh ở đó chứ?”. Yơng không trả lời, châm thuốc và đưa cho tôi: “Bắt vợ chưa?”. Tôi chưa nghĩ được tới điều này. Tôi cười: “Tôi còn nhiều thứ phải lo quá”. “ờ, người thành phố thường vậy. Nhưng xứ này không có cái gì hay cả, nên bắt vợ là chuyện lớn. Người lớn nghĩ hộ bọn trẻ khi chúng bước vào tuổi mười lăm”.

Giọng Yơng như trôi đi về một góc rừng nào đó, phiêu diêu và ngậm ngùi. Yơng giục tôi đi về. Phía đầu dốc Khẩu Súng mặt trời sắp rụng xuống. Những tàng cây kơ nia hai bên đường ánh lên sắc đỏ đầy bỡ ngỡ. Đám trẻ con lúc lắc rong đàn bò về nhà. Ngập trong tiếng leng keng mõ, tiếng ậm ò của bầy đoàn no đủ là một cảm giác thật bình ổn, thật mê say. Những cô gái quấn xà rông ướt lượt thượt đi phía sau. Họ nói với Yơng bằng tiếng Giarai. Rồi tất cả cùng cười rũ. Dường như rất nhiều cô gái biết trước sự kiện này. Phải gọi là sự kiện vì năm sáu năm rồi mới có một “cán bộ” người Kinh về đây công tác tương đối lâu như vậy. Tôi nhìn thấy ánh mắt những cô gái lấp lánh. Những ánh mắt đẹp. Vừa khát cháy vừa mênh mang.

Đêm trong buôn nghe tiếng mõ bò lộc cộc buồn nôn nao buồn. Chỉ có thể coi hết thời sự, màn hình tivi bỗng tối om bởi nút nhấn trên tay ông chủ tịch: “ Thôi, đi ngủ đi. Yơng, mai bàn kỹ với cán bộ, coi làm những thứ gì. Ô, nhớ đi nhấc lưới thiệt sớm”. Rồi ông mang chiếc võng dù cũ sờn ra ngoài hiên mắc nằm, mắt ngước lên những chòm sao dày đặc. Trời trong veo, không gợn u ám mây. Thoảng qua gió và tiếng mang tác tìm bạn, tiếng bầy chim chập choạng gọi ăn đêm là một khúc dân ca nào đó trôi về. Tôi và Yơng nằm chung trên tấm bạt pháo sáng đã cũ. Dường như Yơng cũng như tôi, không ngủ được. Bữa cơm chiều với món muối giã ớt thật đậm khiến tôi cay xè con mắt. Rất lâu trong mông lung, Yơng lén ngồi dậy, ra ngoài cầu thang, ngó chơi vơi lên những bóng kơnia đổ rậm một vùng đen thẫm trước sân nhà. Tôi cũng ngồi dậy. Yơng hút thuốc, điếu thuốc sâu kèn đỏ rực trên khoé môi. “Ngủ đi. Đường xa mệt nhiều chứ? Đi thẳng từ Hà Nội vô đây?” “Vâng. Thực tập mà”. “Ngày mai thì làm gì?”. “Tôi muốn xem lại sơ đồ của toàn xã. Rồi đi tới từng làng buôn. Này, đi lên biên giới chắc là xa?”. “Chỉ một đoạn đường. Đó là sông Pôkô. Đẹp miệt mài”. “Sao anh không về làng?”. “Trong này dường như cả ủy ban xã thức đêm. Lâu thành quen”. “Khi nào anh về làng?” “Mai mốt. Vợ mình mới sinh con. Một đứa con gái”.

“Điều đó rất thiêng liêng mà” – tôi gần như thốt lên. Yơng cười, hàm răng loá buốt dưới trăng: “Vợ mình sinh con gái cho người khác”. Yơng nói thật bình thản, cảm giác mọi nỗi buồn đau đã đi qua trong ngày hôm trước, để sớm nay trở dậy anh đã rất đỗi bình tâm, đến ủy ban làm việc một cách bình thường. Tôi im lặng. Tôi sinh ra, lớn lên ở vào một khoảng khác biệt quá lớn để có thể hiểu những gì đang đến với Yơng. Nhưng đêm nay ngồi đây, tôi thấy Yơng thật cô độc, cái dáng chùi chũi xuống, cái dáng cắm cúi lao lư như một bức tượng nhà mồ đôi chân im lìm nằm trong khoang đất bí ẩn. Tôi bảo: “Anh cùng đi ngủ đi. Đêm nay có rất nhiều sương”. Yơng vịn vai tôi, đứng dậy: “Chừng nào anh về ngoài Bắc?”. “Còn rất lâu nữa, hình như phải đi qua mùa mưa” - tôi nói phỏng chừng. Nói phỏng chừng để chờ đợi và kiếm tìm những gì đang cất giấu như men rượu lâu ngày trong tâm hồn kia. Và sau câu nói ấy, tôi thấy mình thật tàn nhẫn.

Một cuốn sổ cáu bẩn, chỉ là rất tình cờ thôi, tôi tìm ra nó trong đống hồ sơ cũ kỹ, những sơ đồ, đường làng, những ký hiệu ám định những ngôi nhà, con suối... Bên cạnh cuốn sổ bìa cứng ghi khai sinh là cuốn sổ này, nó được ghép lại bằng nhiều loại giấy nham nhở nhưng những con chữ lại khá đẹp. Trong cái nét nghiêng đều đưa trên mặt giấy thấp thoáng sự tài hoa. Thoạt tiên, tôi cho là cuốn sổ nhỏ mà một ai đó, như mấy cô giáo tiểu học chẳng hạn, ghép lại lúc rỗi việc để chép bài ca. Tôi bỏ qua một bên, lẫn cùng với những giấy tờ lem nhem màu đất đỏ. Có thể thấy rõ dấu vân tay ông chủ tịch in lên mỗi trang sổ ấy. Ông có thói quen chấm nước bọt trước khi giở sách. Và đất đỏ cũng theo đó mà lưu hằn lên giấy. Nhem nhuốc – phải nói cho đúng là như vậy. Hồ sơ ghi về dân số, về đất nông nghiệp, sản lượng... khá mờ nhạt và không cập nhật, có khi đó là kết quả của mấy năm trước, mà người chép vô thức tỉ mẩn ngồi sao y bản chính. Phải bằng nhiều chắp nối, tôi mới tạm hình dung được thực trạng của một xã biên giới heo hút và khó khăn chồng vai gối đầu lên nhau như thế này. Những lúc ấy, Yơng thường quanh quẩn đâu đó. Rồi anh lại mang con dao rẫy lên vai, qua bên rừng vạt những đám cây nhỏ, chăm chỉ dọn đám rẫy mới. Xung quanh khu nhà ủy ban, Yơng đã phát khá nhiều. Anh bảo: “ Để cho ủy ban nấu cơm khi có cán bộ lên công tác. Mình không biết làm gì đâu, làm thế này cũng thấy tốt hơn”. Chặp thoảng, anh lại chạy về, mang cho tôi ly nước, hoặc một bao thuốc ERA, một thứ thuốc bao cứng đồng hạng, không quá đắt nhưng vượt trội thứ thuốc Mai cuốn điếu không có đầu lọc khét lẹt. Thực tình, tôi hút không bao lăm, chỉ để lúc rảnh ngồi chơi bài tú lơ khơ lại đem ra làm vật nhạy cảm hấp dẫn mọi người vào cuộc. Có lẽ mọi thứ ở đây diễn ra quá tẻ nhạt khiến người ta chóng thấy nhàm. Tôi đã đọc hết tất cả những cuốn sách có thể mang theo. Và tôi nghĩ đến cuốn sổ ấy, biết đâu giống như lời Khương nói, nó sẽ có một cái gì đó hay ho, một bài dân ca là lạ chẳng hạn. Tôi ngồi tỉ mẩn soi lại những đường chỉ khâu gáy cuốn sổ. Gần như mục cả rồi. Mới thấy mưa nắng xứ này nghiệt ngã thật, có thể làm tơi mục mọi thứ, xoá phủ đi mọi thứ. Những con chữ nghiêng nghiêng, đẹp và lượn đều đặn. Nó không bao giờ là sổ chép bài ca.

Ngày...

Mình vào bộ đội. Giấc mơ của mẹ đây mà. Mẹ bảo, chân cứng đá mềm nhé. Con đi con đường của bố. Bạn bảo, thôi, chúng ta mỗi người một hướng đi. Nhưng hẹn gặp lại. Mình chẳng cản bạn bao giờ.

Mình vào bộ đội. Mẹ sẽ không bao giờ biết mình đang đi trong những khu rừng ướt đẫm nước mưa thế này đâu. Và ngay bên kia, con sông sóng dữ ầm ào chảy. Mình đi gác đêm. Bên cạnh mình, anh Trung bảo: “Tao nhớ nhà quá, còn mày?”. Tự dưng mình cũng thấy nhớ nhà cồn cào. Mình muốn khóc. ừ, nhưng con trai mà khóc ư? Khóc lúc này thật là ủy mị và lãng xẹt. Mình bảo: “Em quen rồi. Em nghĩ anh cũng đã quen”. Làm sao mà quen được. Nói cho nhau ấm lòng thế thôi. Anh Trung bảo: “Mày có người yêu chưa?”. Mình bảo: “Chưa kịp yêu”. Mình nói dối. Anh Trung bảo: “Sang năm tao nghỉ phép về nhà cưới. Không cưới nó đi lấy chồng mất. Người yêu tao xinh gái nhất làng. Mà mày cũng chẳng hình dung được làng tao như thế nào đâu. Nó rộng và đông đúc, phải gần bằng cái thành phố Plêiku”. Mình cười: “Em chẳng được đi đâu nhiều. Học xong, em vào lính luôn”. “Thế mày đã biết thế nào là nụ hôn đầu đời chưa? Nó... buồn cười lắm, ngòn ngọt mà lại ... hay hay. Nói chung là nên yêu đi ông em ạ. Đời lính chúng ta phải yêu ngay cho nó đỡ sầu”.

Cứ  cuối tuần, bưu tá ở ngoài đơn vị mới đưa thư báo vào phà tám, nơi tiểu đội mình đóng quân. Lúc ấy mình không làm được gì. Phấp phỏng, lo lắng và nhiều lần thất vọng. Nhưng một buổi sáng mình nhận được thư bạn. Mình phải ngồi im một lúc lâu rồi mới len lén ra bờ sông đọc. Bạn kể đã khóc và thương mình. Không nên thế, đồng chí ạ. Mình tự nhủ vậy mà sao nước mắt lại trào ra.

Mình hối hả viết thư cho bạn, nghĩ đến những ngày phép. Những ngày ấy chúng ta sẽ làm gì nhỉ. Chẳng biết sẽ làm gì nhưng chắc chắn sẽ rất hạnh phúc. Có thể mình sẽ chở bạn đi lang thang ngoài phố, đi suốt đêm bên nhau, ngó lên những khung cửa kín bưng le lói những ánh đèn. Ngày trước mẹ mình thường mắng hai đứa trẻ con quái gở, thích thú khỉ gió gì như thế chứ. Nhưng mà chúng mình thích thế, không hiểu vì sao lại thế. ừ, thành phố, hiện diện trong tâm trí mình luôn là một thành phố với những khung cửa le lói, những quầng sáng chấp chới màu hy vọng. Mình nhìn những thân bằng lăng trắng bóng trong chiều nắng, thấy nơi này sao mà rộng mà dài, thấy nỗi nhớ bạn rất nhiều mà đường lại rất xa…

… Tôi bắt đầu chuyến đi vào từng buôn. Yơng đi cùng tôi, anh đưa cho tôi một chiếc khăn bịt mặt. Còn Yơng vẫn để đầu trần, mái tóc Yơng khô xác như râu ngô được nắng. Và chiếc áo Yơng đang mặc, giống rất nhiều người đàn ông khác, đó là một chiếc áo bộ đội đã cũ. Không biết nó đã gắn bó với Yơng từ bao giờ, nhưng những sợi vải đã nhão nhừ và mỏng tang. Yơng bảo: “Vô làng anh nhớ phải nhiệt tình uống rượu nghe. Rượu ghè, thiệt ngọt và thiệt mát. Anh là khách qúy, hôm qua mình đã bảo với già làng rồi”. Dù chiều đã tàn muộn, tôi vẫn kịp nhận ra ngôi làng Klong của Yơng nằm trên mảnh đất bằng phẳng, có cảm giác mấy chục nóc nhà khuôn tròn lại với nhau, ở giữa là cây pơ lang hoa đỏ thắm rực rỡ. Bên cạnh, vẫn còn cây nêu của lễ đâm trâu. Chiếc xe chạy vào giữa sân, lũ trẻ con lập tức nhào đến: “Yơng về rồi, chị Hnơl, Yơng về rồi”. Thấp thoáng từ bóng nhà dài một vạt thổ cẩm nhàu nhĩ và có tiếng trẻ khóc ré lên. Yơng bảo: “Vợ mình đấy. Còn con người khác”. Cha vợ Yơng đã rụng răng phóm phém, miệng ngậm tẩu thuốc: “Cán bộ về chơi sao?”.

Yơng bảo: “Nguyên vô làng mời mọi người ra ủy ban làm việc”. Nhà Yơng nghèo thật nghèo, quanh cái bếp cháy xém đen đúa chỉ một đôi cái nồi sứt quai. Ông già vẫn không rời tẩu thuốc khỏi miệng, chỉ thấy từng hơi khói mệt nhọc trôi qua phía đỉnh đầu. Yơng lặng lẽ ra ngoài, từ trong những ngôi nhà bắt đầu tiếng chân lịch bịch, tiếng người í ới gọi nhau. Yơng về lại làng. Yơng đem cán bộ đến giới thiệu với dân làng. Thế thì đàn ông phải đến, đàn bà phải đến. Những ghè rượu được đặt giữa nhà Yơng. Tôi như lịm đi trong thứ nước cay dịu, say dịu và ngọt mềm như những vòng tay người. Người ta hỏi han, chúc tụng Yơng. Tôi nhìn thấy ánh mắt Yơng chợt như đờ dại, chợt như hằn lên những nỗi buồn âm u như men rượu. Yơng uống rất nhiều, Yơng hát những bài ca mang mang buồn, bài ca tình gần, bài ca tình xa. Yơng không say rượu. Giữa lơ mơ thức tỉnh, giữa những lần vít cần và những khói thuốc chờn vờn, tôi vẫn thấy Yơng ngồi hát. Hát mê mải. Nước mắt Yơng lặng lẽ chảy. Trong vắt. Không giống nước sông Pôkô.

Tôi bắt đầu buổi nói chuyện, kế hoạch tuần đầu thực tập là tôi phải gặp gỡ bà con, trò chuyện và lắng nghe ý kiến từ mỗi buôn làng. Tôi nói chuyện, những kiến thức ngờ nghệch qua những lát cắt vụn vặt từ vài tài liệu, vài đoạn báo khiến những câu nói khá rời rạc và ngập ngừng. Yơng đứng dậy. Anh dịch ra tiếng Giarai, khiến những gương mặt ngơ ngác sáng bừng lên. Rồi mọi người quay qua tôi, hỏi đủ thứ chuyện. Đại loại là những thắc mắc về chế độ dây thép gai, tại sao nói cho để rào vườn trồng cà phê mà chưa có? Tại sao nhà Puih Năm được hai chục ký gạo, nhà tôi chỉ được mười lăm ký... Trong số ấy có cả những kẻ vượt biên, bị nhốt thành tù binh trong cái ảo vọng của đất lạ, rồi lại quay về. Khá mệt mỏi, mắt họ cắm cúi xuống sàn nhà. Tôi nói với Yơng, cần phải nói cho họ hiểu tất cả. Yơng kêu mọi người im lặng. Lúc này tôi nhìn thấy Yơng trong một trạng thái mê say kỳ lạ. Anh đã thành thục với cách nói chuyện thế này từ rất lâu rồi. Mọi người ồ lên, có ai đó vít cổ Yơng xuống, những cái ôm hôn rất chặt. Và lại uống. Trong góc nhà, vợ Yơng đang ôm con ngủ. Chị nhìn Yơng, ánh mắt ấp ủ như lửa nhỏ. Tôi nhìn đứa bé trên tay chị, nó không mang bóng dáng nỗi buồn Yơng.

Ngày…

Hôm nay lớp học về sớm. Mình biết bọn trẻ sẽ rất khó chịu khi trong buôn đang có lễ Pơthi. Nghỉ sớm. Nói chung là mình cố hoàn thành bài giảng cho tốt. Mình chẳng có kinh nghiệm gì, biết sao nói cho chúng dễ hiểu là xong. Cô bé áo xám lớn nhất lớp nhưng học khá nhất lớp. Giá có một trường học ở đây, giá như cô bé được đến trường sớm hơn. Hay là mai mình vào nhà mình vận động. Biết đâu bố mẹ cô bé lại ưng bụng cho về huyện học tiếp. Mình biết cô bé rất mê Toán. Nếu về đó, cô sẽ rất khá. Mình thương cô bé, cuộc sống vất vả khiến cô bé già đi rất nhiều so với tuổi. Những đốt tay chai sần, những tuổi đời vụn đi theo những mùa lên rẫy. Nhưng mình chẳng làm được gì. Chỉ một tháng nữa, trường học sẽ mở ở đây. Mình sẽ về. Ra quân mình sẽ làm gì? Mẹ viết thư bảo, cứ về với mẹ, mọi thứ đã xong xuôi cả. Xong xuôi – với mẹ thì mọi thứ đều có thể dễ dàng xong xuôi.

Ngày…

Cô bé áo xám bảo, thầy ơi, có thể chị gái em sẽ chết trong đêm nay. Làm sao mà chị lại chết ? Thầy không biết được đâu. Ba tháng trước chị ấy đã bị đuổi vô rừng rồi. Chị ấy mang bầu. Làng bảo đó là con ma lai. Làng không có đất cho chị ấy nữa. Chị ấy chết thôi, sắp sinh rồi… Mình chạy theo cô bé áo xám. Chạy gần hết chiều mới tới con suối ấy, con suối lạnh tanh không người. Tiếng vo ve dài, tiếng trái rụng lẫn vào tiếng gió rớt qua những vòm lá. Tràn vào đó là tiếng réo ma quái của rừng già. Hun hút, âm u và đầy bất trắc. Cô bé hú dài, tiếng hú xa vời. Đáp lại là một tiếng hú gấp gáp nhưng yếu ớt ở phía sau ghềnh đá. Mình lao đến. Dường như người phụ nữ ấy cực kỳ hoảng loạn. Cô ta định vùng dậy chạy. Đúng lúc đó có tiếng trẻ nhỏ. Mình giật thót. Một cảm giác quái lạ ập đến. Có cái gì như sự ớn lạnh. Mình đã nghe tiếng trẻ nhỏ bao giờ nhỉ ? Cái tiếng khóc rạch trời lảnh lót. Mình giật áo ra, bọc lấy cái mầm sống đang quẫy đạp bên ghềnh đá, cắt riêng cho nó một cuộc đời. Oe oe khóc, nó gợi nên trong ánh mắt người mẹ một nỗi thèm khát về một mái làng. Phải, giá mà cô ta có một mái làng, một vuông sàn để sinh nở, một bầu nước để lau rửa cho con. Mình hỏi cô bé áo xám: “Có cách gì đưa chị em về nhà được không”. áo xám khóc: “Em không biết. Làng đã đuổi đi rồi mà. Nó sẽ chết thôi”. Mình rất sợ, mình chưa bao giờ phải trực diện với cái chết. Mình vốn được cuộc đời hào phóng ban phát một đời sống bằng phẳng và lành sạch. Mẹ vẫn bảo mình, đi bộ đội cho nó cứng cáp lên. Thì cứng cáp. Nhưng đối diện với những khoảnh khắc mong manh thế này…

Ngày…

Từng đám lửa đỏ rực, cái màu hừng hực hằn lên trên mỗi ngọn đuốc. Sân nhà rông như một vầng lửa khổng lồ, sẵn sàng thiêu rụi mọi ý chí phản kháng. Mình nhìn những ánh mắt dò xét. Những đứa trẻ ngày ngày lên lớp gọi mình trìu mến “thầy ơi” giờ đây đang chằm chằm chờ lời phán xét của già làng. Tiếng chiêng gõ, tiếng trống dồn. Những đôi mắt mở lớn. Và những điếu thuốc sâu kèn thật lớn.       

Mình nhìn thấy cô ta với ánh mắt kinh hoảng và da mặt xanh nhợt. Cô ta không dám ngẩng đầu, ôm khư khư đứa bé. Và tiếng khóc của nó đã bật tung mọi ý nghĩ. Dân làng bắt đầu hỏi tội. Lại khóc. Lại cúi mặt. Và bỏ chạy. Có ai đó hét lớn: “Giữ nó lại! Giữ lại”. Không thể chạy. Cô ta lại ngồi xụp xuống gốc pơ lang ngập tràn màu hoa đỏ rớt. Một khoảng lặng nghẹt thở giữa hừng hực kìm nén. “Ai?Đứa nào?” - có đôi tay thô bạo giật tung đứa bé trong tay người mẹ yếu ớt đến thảm hại. Tiếng trẻ nhỏ la hét không ngớt. Và đầu óc mình như bị sét đánh. Mình nhìn trân trối vào đám người đang huơ cao ngọn đuốc. Cô ta đã ngất lịm. Bố cô ta cũng ngất lịm. Mình không thể nào làm khác được.

°Tôi đã trở thành thân quen với các buôn làng. Những cụ già, em nhỏ, những cô gái xà rông thổ cẩm ánh mắt như nắng lấp lánh cười. Cuộc sống từ mỗi buôn làng phả lên cái mùi hoang sơ và dân dã. ở xứ này người ta chưa nghĩ tới việc phải lao lư kiếm thật nhiều tiền và chờ đợi quá nhiều vào những ước vọng xa xôi. Mỗi đứa trẻ ở đây sinh ra được gội dưới giọt nước nguồn, được khóc giữa trời cao đất rộng, giữa bạt ngàn rừng đồi và được lớn lên bằng một mạch nguồn của đất. Chúng mang màu da vàng au như mật và khoẻ mạnh như những chàng Đam San với những cánh cung vút tên bạt gió.

Khương lên thăm tôi. Một tháng ròng với những món ăn đặc quánh của mùa khô khiến tôi thèm một bữa cơm của mẹ với món canh dưa truyền thống. Khương mang lên rất nhiều thứ, rau quả và những đồ vặt lỉnh kỉnh khác. Vẫn là một tá dao cạo râu cho Yơng. Và Yơng lại lặng lẽ nhận lấy. Không vui và không buồn. Khương ở lại ủy ban, bắc bếp nấu cơm. ủy ban ngày chủ nhật, mọi người rủ nhau vào rừng săn thú, chỉ còn tôi và Yơng đang ngập đầu trong những con số mà phải mất khá nhiều ngày tôi mới tính toán lại được. Đó là một phần công việc trong chuyến thực tập. Tôi hỏi Yơng: “Xưa anh học lớp bao nhiêu?”. Yơng nhìn tôi, rồi lại hút thuốc: “Biết cộng trừ là được rồi, học nhiều cũng chẳng làm được gì”. Tôi bảo: “Có bao giờ anh đi qua thành phố?”. “ở đó chẳng có gì vui. Tôi ở đây lâu, đã quen”. Người ta quen đi khi cuộc sống vốn được bắt đầu như thế này, từ lúc đứa trẻ biết hình thành ý nghĩ.

Ngày…

Luôn là bộn bề những suy nghĩ trong những ngày tháng đầu tiên ở lại với làng. Mình hoảng sợ khi nghe ai đó gọi tên mình, nghe tiếng bước chân lạ bậm bịch nơi cầu thang. Mình ngồi đó, bây giờ thì mình có thể hút mấy điếu sâu kèn mà không choáng váng. Mình đã vậy rồi, bộn bề râu tóc. Tay áo mình rách toạc khi đi rẫy. Bàn chân mình chai mốc khi đánh lưới ngoài sông. Thơ ấu của mình đi mất. Cuộc đời là cái gì mà mình lại hậm hực sống thế này?

Lại một đêm mình không ngủ. Thành phố vẫn còn le lói trong những nỗi nhớ không tắt được. Và những tháng ngày ồn ã đơn vị với bè bạn và những lá thư. Cả bạn nữa. Từ khi rời quân đội mình không liên lạc với bạn. Phải chi một phần trí nhớ được biến mất, mình sẽ sống trơn tru, sống như cây kơnia yên lặng trên những lối về làng.

Mình gục đầu bên bếp. Những gốc lửa đã vạc dần, gió hắt lại lay phay những đốm đỏ nhè nhẹ. Đêm trong làng tĩnh lặng, tiếng chim đêm tác vọng nghe xa xăm buồn. Có tiếng trở mình khe khẽ. Và một cái gì rất nhẹ, ấm mềm khẽ rủ xuống vai mình. Đừng khóc nữa. Phải sống, thế thôi. Từ sâu thẳm trong lồng ngực, mình nén lặng một tiếng thở dài...

Trong tôi vẫn thường trực những ý nghĩ về Yơng, về cuộc sống kỳ lạ của những đứa trẻ xứ này. Chúng được sinh ra, lăn lóc lớn lên, rồi lại vội vã ngụp mặt vào đời sống vợ chồng và bề bộn sống, sinh đẻ trong lam lũ. Vậy mà, khi họ hát, họ nhảy múa, cuộc sống bỗng trở nên rộn rã và đầy khát khao…Yơng đã lặng lẽ bỏ đi từ khi nào. Khương đang quạt bếp, khói hoay hoả đỏ gay con mắt. Khương bảo: “Trong này buồn lắm, phải không?” Tôi cười: “Dần dà rồi cũng quen”. “Khi nào ra ngoài Bắc, anh cho Khương gửi chút quà về nhé. Hà Nội mùa này có gì nhỉ? Em thèm được một buổi chiều đi xe đạp bên hồ Gươm. Ngày xưa…”. Khương nói lửng vậy rồi thôi, khói làm cay xè con mắt. Tôi nhìn quanh, thấy trên hiên nhà rông, Yơng im lặng làm việc, anh cộng trừ những con số một cách tỉ mỉ và kỹ lưỡng. Không có chút gì đặc biệt từ Yơng. Tôi nhìn Khương. Cô như đang bị một góc phố hay một con đường nào đó cuốn lấy. “Quà cho bồ à?” – tôi hỏi. “Không, mẹ em vẫn còn ở đó. Nhà em ở tập thể Thanh Xuân Bắc”. “ờ, cũng gần”. “Ngày xưa Khương học trường nào?” “Quang Trung. Ông thầy em dạy Toán phát buồn ngủ. Nhưng mà kể chuyện tiếu lâm lại vui. Ngày ấy buồn cười, em cứ nhất mực thi vào trường anh đấy, trượt vỏ chuối, may lại đỗ vớt vào trung cấp cảnh sát”. “Vào đây mình thấy Khương có vẻ hợp đấy”. Bỏ lại những con số, Yơng nằm võng hút thuốc sâu kèn. Mùi thuốc khét lẹt. Tôi và Khương đi dạo. Đã bắt đầu cạn mùa khô. Từng đám khói đốt rẫy bốc cao ngất. Khương bảo, anh thấy nơi này thế nào? Tôi bảo, cũng chẳng có gì đặc biệt. Mình chỉ đi thực tập. Khương lại hỏi, thế nếu vì một ai đó, một cô gái chẳng hạn, anh có định tình nguyện ở lại không? Tôi chưa nghĩ tới tình huống này. Lũ chúng tôi bị thành thị cuốn hút đến mức, mọi ngõ ngách của phố xá cũng đã là những kỷ niệm sâu đậm. Và tiện nghi. Và những thói quen…

Nhưng Khương là một người can đảm. Có cảm tưởng như sức sống của cô đã khuất phục được cái thời tiết nghiệt ngã mưa nắng của vùng đất này. Nắng đỏ au. Mưa dầm dề. Cô vẫn phơi phới sống. Đi cùng tôi trong rừng bằng lăng trắng, cảm giác như Khương đã thuộc về miền đất này. Cô say sưa nói về công việc của mình, những dự định sẽ làm. Cái xã biên giới này làm cho cô phải lặn lội khổ sở nhiều. Nhưng chính cô lại bị mê hoặc. Cô có thể say sưa hát những bài dân ca mà cô đã nghe, đã thuộc. Cô lôi bọn trẻ trong làng ra suối, lột vỏ bánh xà bông và chà sát tới thơm tho những cái đầu râu ngô cháy nắng… Khương chỉ cho tôi một đỉnh rừng đầy những đốm hoa rất lạ, nở trong những ngày khốc liệt của thần lửa. Những đốm hoa rực rỡ, càng nắng lớn càng khoe sắc tươi. Tôi tìm lối bẻ hoa cho Khương. Những cánh hoa rất dày, thơm khắc khoải. Chúng tôi ngồi lại trên một thảm cỏ nhỏ, giữa rừng. Ngồi rất gần Khương, tôi chợt nhận ra cô có một vẻ đẹp kỳ lạ, lặng lẽ và nền nã. Tôi nhìn Khương. Chúng tôi nhìn nhau. “Khương đẹp thật” – tôi buột miệng. Khương ngỡ ngàng: “Anh cũng biết tán gái rồi đấy à?”. Tôi không nói được. Có một cảm giác lạ đột ngột xuất hiện. Khương bối rối thực sự. Tôi cầm tay cô, rất nhẹ, kéo Khương về phía mình. Loài hoa lạ lùng, khắc khoải thơm.

Ngày…

Biết nói với bạn thế nào nhỉ? Thành phố, đường về sao mà dài. Mình có buồn không nhỉ? Bạn là bạn. Bạn đã sống khác mình. Rất khác.

Mình có khao khát bữa cơm của mẹ không nhỉ?Chắc mẹ vẫn ngồi đó mất, nắng chiếu dài qua khung cửa. Phố chắc là vẫn dài như cũ. Anh em trong đơn vị hầu như đã ra quân cả. Hôm khoác ba lô lên vai cho anh Trung, anh Trung khóc mà bảo: “Tiếc cho mày lắm, nhưng mà thôi, cố lên”. Mình có tiếc không nhỉ? Tiếc thì bỏ về đi, chẳng ai đi tìm được mình đâu. Mình chả đã từng vậy rồi sao? Tại sao cô ấy lại im lặng? Tại sao nó lại oà khóc đúng lúc mình dợm bước xuống cầu thang. Mình nhìn ông già vợ, ông ngồi trên nhà dài mái tóc bạc xóa và nỗi buồn nêm kín cả khuôn mặt. Ông bảo, muốn đi phải không? Đi nhanh lên, không thì làng sẽ phạt đấy. Mình đi ra đầu làng, thấy mái nhà rông cao vút. Mái nhà rông mang khát vọng của những người đàn ông dũng mãnh, kiên cường. Mình bỏ cái nhà này, nhà chỉ toàn đàn bà thôi. Mình quay lại, ngồi bệt trên cầu thang. Tại sao mà mình lại khóc?…

Rồi thì cũng đến bữa cơm muộn màng. Tôi cảm thấy thật ngon lành. Chúng tôi ngồi ăn, nói chuyện về những cơn mưa sắp tới. Khương bảo, cố gắng ăn đi, bù đắp những ngày chịu cực và đói. Tôi cười, lúc nào cũng như thế này thì thích thật. Yơng lầm lũi ăn, hệt mọi lần. Rất hiếm khi tôi thấy những dấu ấn khác lạ trên mặt Yơng. Anh có một vẻ ngoài phẳng lặng đến mức, đôi khi tôi ngỡ anh thờ ơ với tất cả. Và những gì anh làm, anh cần mẫn giống như một thói quen. Đến chiều thì Khương xuôi. Tôi đưa cô ra ngoài ngã tư. Chiếc xe máy vẫn lao nhanh và đường chưa hết bụi. Đến ngã tư, xe dừng lại. Khương đặt tay lên vai tôi, cười: “Anh chẳng thể hiểu được đâu”.

Tối đến trời bức bối. Không một đợt gió thoảng. Chúng tôi ngồi ngoài sân nhìn những đám sao dày đặc. Yơng hút thuốc liên tục. Rồi như không kìm được, Yơng nói như quát lên: “Mày yêu Khương thật lòng không?”. Tôi giật mình: “Thật ra là có chuyện gì vậy?”. “Mẹ kiếp! Chuyện gì? Mày yêu thật không?”. Tôi không nói, dợm bước bỏ đi. Yơng là ai, là cái gì để can thiệp vào chuyện của tôi, chuyện của những người con gái con trai chưa bị những vòng xoáy hôn nhân ràng buộc? Yơng ở một khoảng rất xa kia mà. Yơng kéo giật tay tôi lại, quỳ gục xuống: “Tao xin mày đấy, thằng khốn. Tao biết mày chỉ tạm bợ, thoáng qua. Đồ tồi!”. Yơng khóc rống lên như một đứa trẻ. Còn tôi thấy mặt mình rát lên như vừa bị táp lửa. Cũng không biết vì sao đến mãi về sau khi viết những dòng này tôi vẫn trĩu buồn.

°Ngày…

Mình đã thành cây của đất này. Mình sẽ chẳng ghi nhật ký nữa. Buồn lắm. Mình biết, cần phải quên đi. Nhưng mình cũng biết, dẫu có thế nào, thì đó cũng là tình yêu.

Mùa mưa đến thật bất ngờ. Sau khi đốt rẫy chừng nửa tháng, trời vần vũ mây mang nặng trĩu hơi ẩm. Và đến khi không khí như đặc quánh đến nghẹt thở thì ầm ào sấm mang đến những cơn mưa. Mưa vắt qua những triền rừng, lấp đầy những kẽ đất nở toác vì khô hạn. Buôn làng nhìn mưa, vui như hội. Chờ cho mưa thấm, người người đi dọn rẫy và bắt đầu vào vụ mới. Tôi vẫn phải hoay hoả với những phần cuối của chương trình thực tập. Những đối tượng trốn chạy qua biên giới lặng lẽ trở về, ra trình diện với chính quyền. Lại phát gạo, cho muối, đưa thuốc diệt sốt rét vào làng. Lại tiếp tục đi vận động bà con dọn làng, trồng rẫy mới. Yơng vẫn cùng tôi giải quyết mọi chuyện, lặng lẽ như người giúp việc. Tôi im lặng rất nhiều và những cuộc viếng thăm của Khương cũng thưa đi. Những dòng cuối cùng ấy tôi đọc vụng trộm khi sắp xếp tài liệu, chuẩn bị rời Tây Nguyên, kết thúc đợt thực tập. Yơng có vẻ như hơi buồn khi tôi nói tôi sắp trở ra. Anh đưa cho tôi bó thịt nai khô: “Có tính trở lại đây không?” Tôi nhìn sững Yơng. Tôi giống như con chim trong lồng chuẩn bị được thả tung vào trời gió, biết bao là ao ước, biết bao là dự định, mà nào đã dám chắc điều gì. Tôi bảo: “Tôi sẽ rất nhớ nơi này”. Yơng nhìn tôi lâu lắm: “Cậu đã đọc tất cả, nhưng tôi chẳng giận. Xứ này chẳng có gì vui thú. Những ngày qua thật buồn chán, phải không?”…

Sau những cơn mưa đầu tiên, một sớm mai tỉnh dậy mới thấy sự kì diệu mà thiên nhiên đã tạo dựng cho cuộc sống ở nơi này. Những vạt đất trơ trọi hôm nào, chỉ mới sau vài ngày cỏ đã mọc xanh mướt mát. Và những loài cây lớn bé như chỉ chờ đợi hết cơn khát là vội vã vươn lên. Mảnh đất này thật kỳ lạ, đến khi sắp rời xa tôi mới chợt nhận ra nó vẫn là một khoảng bí mật. Lẫn vào trong sự đẹp xinh của đất và cây là sự bạo liệt và giản đơn đến không ngờ. Hệt như Khương…

 

Dương Bình Nguyên tên khai sinh là Dương Văn Toàn sinh năm 1979 tại Phú Lương, Thái Nguyên.

Tốt nghiệp Học viện An ninh năm 2001.

Hiện đang là phóng viên Chuyên đề ANTG Cuối tháng, Báo Công an Nhân dân , văn phòng phía Nam (TP Hồ Chí Minh)

Tác phẩm :

- Làng nhan sắc - Tập truyện ngắn (2001);

- Về lại thiên đường - Tập truyện ngắn (2003);

- Hoa ẩn hương - Tập truyện ngắn (2005);

- Giày đỏ - Tập truyện ngắn ( 2007 - tái bản 2008, 2009).

- Chuyện tình Paris - Tập truyện ngắn(2010)

- Giải thưởng: -

- Giải 3 cuộc thi truyện ngắn Báo Hoa học trò/ 2000

- Giải nhì Cuộc thi Truyện và ký “Cây bút vàng” - Tạp chí Văn hoá - Văn nghệ CAND và ANTG tổ chức/ 2001

- Tặng thưởng truyện ngắn Cuộc thi sáng tác “Tầm nhìn thế kỷ” - Báo Tiền Phong/ 2002

- Giải A Truyện ngắn hay - Báo Người lao động TP Hồ Chí Minh/ 2003

- Giải nhất cuộc thi truyện ngắn áo trắng 2002- 2005.

 

Lời bình của nhà văn Nguyễn Khắc Trường:

Truyện như một du ký, một hành trình để nhận thức. Kết cấu lỏng, mọi thứ đang mở ra, không kết thúc, không gói lại. Một vùng rừng Tây Nguyên với những tập tục xưa cũ còn giữ nguyên, nhưng cũng chỉ hiện lên thoáng qua trước con mắt ngỡ ngàng của người mới tới lần đầu. Cái còn lại ở đây là không khí của truyện, một không khí nguyên sơ, nguyên sinh, khiến người đọc canh cánh một điều: ấy là chúng ta đã làm được gì, mang lại được gì cho những con người đã cùng ta đi suốt hai cuộc trường kỳ để làm nên một Tây Nguyên bất khuất?

 

 

SỚM MAI THOANG THOẢNG...

Truyện ngắn của Niê Thanh Mai

 

Tôi mặc áo mới vào một buổi sáng thứ bảy. Khi cha dắt chiếc xe 50 có tiếng nổ gầm gừ đi ra cổng, ông lướt qua tôi và mỉm cười âu yếm, rồi phóng vụt đi, chỉ có vệt khói xe mờ mờ ,hăng hắc thoảng lại.

Mẹ dắt tôi xuống ruộng rau. Đường đến ruộng rau muống rất trơn và hẹp nhưng mẹ đi băng băng. Tôi vẫn chơi một mình; cặm cụi trên bờ ruộng với chiếc áo màu đỏ chói. Mẹ cặm cụi dưới ruộng rau muống với đôi ủng cao-su dài qua bắp vế, chiếc nón cũ nhấp nhô giữa xanh um. Lúc lấp loáng nước thì mẹ trở lên, cả người sực mùi nắng đến khét thịt.

Tôi lớn lên bên bờ ruộng. Và đôi khi tự hỏi sao chưa bao giờ mình lộn cổ xuống đám ao bùn thơm mùi rau quế. Và giả sử nếu tôi có lộn cổ xuống ao, chắc ngày hôm sau mẹ không thể lội ra ruộng bằng đôi ủng cao-su quá gối để cặm cụi dưới trời gay gắt.

...

Một vài lúc nào đó tôi nghĩ cha không phải là một người bình thường. Ông vừa cười với tôi âu yếm nhưng quay lưng lại có thể ném vào mặt mẹ tôi cái thúng, cái mẹt bà để quên dưới sàn nước (mẹ rất hay quên, ngày nào cũng quên cái gì đó vật gì đó hay việc gì đó - Những khi quên mẹ lẳng lặng đi tìm kiếm, khuôn mặt nhợt nhạt và nín lặng nghe cha nổi cáu). Cha không cho mẹ con tôi qua lại nhà ai, kể cả nhà cậu út cách nhà tôi mười ba bước chân, thậm chí cha cũng không muốn cho mẹ sang nhà bà ngoại non cây số. Cha hầm hừ khi cậu mợ sang nhà. Cậu giận. Mợ giận. Rồi họ hàng giận. Nhất là họ thấy mẹ tôi thụt lùi sau cánh cửa không phản ứng gì. Đổi lại, ông mua cho tôi nhiều đồ chơi, kể cả những thứ tôi không bao giờ thích, ông vẫn treo đầy nhà.

Mẹ không có bạn. Tôi cũng không có bạn. Hai mẹ con cặm cụi chơi với nhau.

Cha bảo thương tôi. Ngay cả khi ngầy ngật trong cơn say không đi nổi vào nhà ông vẫn lặp đi lặp lại câu nói cũ kỹ ấy. Chỉ có điều tôi không muốn đáp lại cái tình thương của cha dù ông cặm cụi ở ruộng rau từ hai giờ sáng.  Khi mùa rau cần, ông thức giấc lúc một giờ mà không cần đồng hồ báo thức. Ông vác đống rau cần lên bờ, chân lủm chủm nước dưới ánh sáng mờ mờ của bóng đèn compact, mẹ tôi vừa giũ lá héo, vừa bó cần thoăn thoắt. Cả hai không nói gì với nhau cho đến khi mẹ xốc gánh cần ngồi sau xe hon-đa cho cha chở ra chợ đêm bán mối.

Tôi không thương cha vì chứng kiến cảnh mẹ khóc phía bên hông nhà.

Mẹ khóc giữa ruộng rau muống.

Mẹ khóc giữa luống cải xanh đã trổ ngồng, hoa vàng phơ phất giữa trời trưa nắng.

Nước mắt mẹ lúc nào cũng được giấu trong ống tay áo cũ kỹ. Mẹ khóc nhiều nhất mỗi khi cha uống say sau cuộc hội hè giỗ chạp gì đó. Những lúc ấy ông chì chiết mẹ bằng cái giọng rin rít trong cổ họng. Câu chuyện chắp vá không đầu không cuối. Giọng điệu buồn phiền ngủ quên giữa lè nhè rượu. Mẹ cặm cụi dọn dẹp nhà cửa, cặm cụi lau cổ lau chân lau tay và chườm khăn ấm trong khi cha mắt nhắm nghiền và miệng không ngớt nguyền rủa. Một đôi lần nào đó tôi chứng kiến cảnh ông co chân đạp mẹ quay đơ xuống giường. Bà lồm cồm bò dậy, tiếp tục lau người xoa đầu đắp mền cho ông.  Những lúc ấy tôi giận mẹ ghê gớm.

*

Một ngày tháng năm.

Cha đưa về nhà một người lạ. Người đàn bà có khuôn mặt dài, áo xanh nhàn nhạt bước vào, ngồi rón rén ở tấm phản rộng, hai bàn chân nhấc lên khỏi mặt đất một cách nhẹ nhàng. Tôi ngồi lọt thỏm trong lòng mẹ, hết nhìn cha lại nhìn người đàn bà mặt dài. Lâu lắm tôi mới thấy nhà mình có khách. Nhưng mẹ không xăng xái hớn hở như tôi vẫn tưởng, bà ngồi yên lặng trên ghế. Ngồi rất lâu. Lâu đến mức độ tôi không thể cựa quậy hơn nữa vì mông ê ẩm.  

Người đàn bà lạ mặt dài ở lại nhà tôi. Và ngủ ở bộ phản rộng. Mẹ đưa tôi sang nhà bà ngoại, mẹ bảo đêm nay bà mệt, mẹ con mình sang trông bà. Cha không nói gì, lúc ấy tôi sung sướng quá đỗi bởi chưa bao giờ được dắt ra ngoài đường lúc tối trời như thế. Đoạn đường sang nhà bà ngoại sụt sùi nước mắt của mẹ, và bước nhảy chân sáo của tôi. Tôi ngủ quên giữa tiếng thút thít của đêm khuya. Hôm đó tôi được ngủ với mẹ đến sáng, khi tỉnh dậy vẫn mải miết vùi sâu vào gầy guộc thoang thoảng mùi rau cần.

Tôi không thích việc tối nào cũng sang nhà bà ngoại.

Người đàn bà mặt dài không còn rụt rè ngồi ở góc phản nữa, bà ấy ngồi ngoài sân, tẩn mẩn xếp rau vào sọt và nhẩm đếm tiền. Người đàn bà mặt dài thường nhìn mẹ dắt tôi ra khỏi nhà bằng một đôi mắt lạ, lúc bối rối, lúc ngại ngần rồi sau đó là bình thản.

Rồi một buổi sớm mai.

Bà ngoại thức tôi dậy bằng đôi tay run. Cậu mợ ngồi bên cạnh. Tất cả những đồ đạc ở góc tủ gỗ cũ kỹ của bà chỉ còn lại một khoảng nhỏ. Quần áo, búp bê tóc hoe hoe của tôi. Đồ đạc của mẹ biến mất. Mẹ đi đâu. Mẹ bỏ đi rồi Sin à. Đi đâu? Bà không biết. Cậu không biết. Mợ không biết. Đáp lại sự giãy giụa khóc lóc của tôi là khuôn mặt nhợt nhạt xanh xám của cha. Ông đến tự bao giờ.

Không ai nhìn cha ngoại trừ tôi, ông né tránh ánh mắt ngơ ngác đầy giận dữ của tôi. Hình như lâu lắm rồi tôi mới thấy ông cúi gằm mặt như vậy, cúi  để nhìn mãi bàn chân to bè nứt nẻ, cha năn nỉ tôi rất lâu nhưng tôi không chịu theo ông về nhà - nơi có người đàn bà mặt dài đang lặt lá héo rau cần ngoài sân. Cha rớm nước mắt. Mặc. Tôi ở lại với bà ngoại. Có lẽ mẹ sẽ về vào sáng mai sáng kia hay ngày nào đó sớm thôi.

*

Lâu lắm sau đó.

Khi nào tôi biết mình lớn. Hôm trăng. Hôm sớm hay một ngày nào đó xa lắc. Vồng ngực căng. Tóc cuốn tít giữa đỉnh đầu. Mọi thứ giấu kín trong khẩu trang và áo sơ-mi cũ dài lượt thượt.

Tôi ra chợ vào lúc ba giờ sáng. Rau từ ruộng muống của bà. Rau húng rau thơm rau quế từ vườn của cậu. Mỗi ngày tôi quảy mọi loại rau trong quang gánh. Giữa mờ mờ trăng sáng, tôi thích hít hà sự mỡ màng của thứ xà lách rôn vừa hái đêm trước. Tôi cười với người mua sỉ với nụ cười rám nắng, và đáp rất kiệm lời trong tất cả cuộc mua bán của chợ đêm.

Gia đình của cha có một sạp bán rau ở gốc si đằng kia, dưới ngọn đèn cao áp mờ mờ nhạt nhạt của chợ đêm. Cha thường mặc áo xanh lao động nhàu nhĩ, quần lúc nào cũng tất tả xắn ngang ống quyển. Vội vã chào, vội vã thối tiền và vội vã chạy theo khi tôi đi qua. Một đôi lần tôi thấy bụng người đàn bà ấy phưỡn to, khuôn mặt sưng vều. Nhà của cha cách nhà bà ngoại chỉ hơn cây số, mà tôi không còn biết gì về cuộc sống hiện tại của ông. Lúc nào tôi cũng hả hê vì điều đó. Cha vẫn hay níu tay tôi lại hỏi con có khỏe không sống có tốt không... Tôi đáp lại ông với cái nhìn ngơ ngẩn, cái nhìn của buổi sáng lúc mẹ tôi đi.

Tôi vẫn nghĩ sớm hôm nào đó, khi đi chợ về sẽ thấy mẹ. Mẹ ngồi trong căn buồng nhỏ nhìn xuống vườn qua ô cửa sổ có song sắt rỉ sét. Mẹ hỏi sao về muộn thế, có nhớ mẹ không. Hay sao con gái cưng của mẹ lớn nhanh thế, mẹ còn chẳng kịp nhận ra. Cũng sớm hôm nào đó, mẹ sẽ lội xuống ruộng muống, bảo lâu không xuống ruộng nhớ mùi bùn quá con gái à. Rồi sao đó, sao đó.

...

Cậu dắt tôi ra khỏi cơn trầm uất của mười một năm. Sự chờ đợi mẹ nguôi đi khi người đàn ông xuất hiện ở ngưỡng cửa. Cậu mợ bảo muốn tôi lấy chồng. Tôi lặng lẽ (lúc nào cũng lặng lẽ nghe, lặng lẽ cười và lặng lẽ nhiều thứ khác nữa) nghe người này người kia nói chuyện. Bà muốn người ấy ở rể. Bà chỉ có con bé cháu tật nguyền. Nhà cửa đấy. Ruộng vườn đấy. Túc tắc làm rồi nuôi nhau. Rồi sinh con đẻ cái.

Tôi không hiểu vì sao người đàn ông ấy muốn lấy tôi. Anh chàng chở rau mướn cho người bán mối ngoài chợ đêm hay nhìn tôi dịu dàng. Hay hỏi han. Và đôi lúc đặt giữa sọt rau của tôi mấy cái bánh cam nóng hổi. Tôi khóc nơi bậc thềm cuối cùng xuống ruộng. Tôi cũng muốn lấy chồng. Nhưng bao giờ mẹ về nhìn con gái lên xe hoa.

Tôi không lên xe hoa. Vì không có cuộc rước dâu nào. Người đàn ông  gầy nhẳng có đôi mắt ấm mồ côi cha mẹ, sống trong căn phòng mướn 500 nghìn đồng một tháng, trở thành chồng của tôi sau bữa cơm nho nhỏ. Cô dâu nhỏ xíu, váy dài chân ngắn nên váy quét đất. Bà ngoại sung sướng. Cậu và mợ nhét phong bì dày cộm vào lòng bàn tay đẫm mồ hôi của tôi. Cha đến sớm. Trong buổi lễ gia tiên, ông cho tôi nhiều thứ: Kiềng đeo cổ, vòng đeo tay, nhẫn tay trái tay phải. Cha dịu dàng: Cha không thể bù đắp cho con Sin à, còn giận cha thì bỏ qua cho cha con nhé. Tôi không nghĩ mình còn giận ông. Cũng có khi tôi nhìn thấy tóc ông lơ phơ quá. Cũng có khi tôi nhìn thấy thân hình ông quắt queo và sặc sụa mùi rượu quá. Cũng có khi vì tôi thấy giận mẹ nhiều hơn. Mẹ của tôi mải miết với cuộc viễn chinh nào đó, mẹ của tôi không thèm quay về để nhìn tôi lấy chồng. Tôi gục lên vai chồng nức nở: Bao giờ mẹ về em sẽ đóng cổng không cho bà vào nhà.

Tôi có một đứa con. Xinh xẻo. ồn ào bi bô.

Rồi một đứa con gái thứ hai. Xinh xẻo. Cũng ồn ào như chị.

Từ bao giờ bà ngoại quên mất từng có mẹ trên đời. Bà mải mê với những đứa chắt. Bà ngoại thích bế chúng sang nhà hàng xóm hoặc gọi lũ trẻ con sang nhà chơi với chắt bà. Nhà lúc nào cũng ngổn ngang đồ chơi trẻ con. ồn ào. Tôi quanh quẩn với con cái: Sáng đút cháo, trưa đút cơm, dỗ dành cười nói. Những khi đi ngang qua nhà cha - bọn trẻ con - mặt dài, tóc hoe nắng ngồi yên lặng trên ghế xích đu giữa thềm hiên nhà hanh nắng chơi đồ hàng. Bán rau. Người đàn bà mặt dài lặt rau héo. Bó rau muống ở đúng cái ghế con giữa sân như mười một năm trước xa lơ xa lắc. Chúng chơi với nhau. Lẳng lặng như mẹ chơi đồ hàng với tôi của ngày nảo ngày nao.

Chồng chạy sấp ngửa vào nhà, hối hả bảo tôi mặc áo khoác. Để làm gì. Đi với anh. Anh nghĩ nhìn thấy mẹ của em. Nhưng anh đã từng nhìn thấy mẹ tôi bao giờ đâu. Tôi ngơ ngác nhưng vẫn bươn bả chạy theo anh. Mũ bảo hiểm cài mãi không được vì mọi thứ trong tôi run rẩy. Nếu không phải đó là mẹ! Nếu người đàn bà anh nhìn thấy là mẹ của tôi. Tôi sẽ khóc. Sẽ mừng. Sẽ cuống quít ôm chầm lấy bà. Rồi sao nữa. Mọi thứ trở nên buốt và lạnh. Như hơi sương sớm hai bên đường xộc vào mũi vào mắt.

Tôi bám chặt lấy càng xe, cũng không nghĩ bàn tay khi siết vào nhau thì đau đến buốt óc.

Người đàn bà tóc búi thoăn thoắt vặt lông gà giữa ngổn ngang lồng gà lồng vịt. Đanh đá, cười sặc. Gian hàng ngun ngút khói sặc mùi cứt gà. ồn ào tiếng gà thét lên khi bị cứa cổ. Tiếng gà quác quác sau nhát dao gọn.

Tôi dợm buồn ói. Sự nhộn nhạo của chợ phiên sớm. Khẩu trang hở hai mắt nên không ai nhìn thấy điều đó. Bên này đường, tôi tựa hẳn vào lưng chồng. Có phải mẹ không em. Không biết. Mẹ tôi mỏng manh. Mẹ chỉ biết lội ruộng bó rau, mắt lúc nào cũng cùm cụp vì nhặt rau héo rau sâu. Mẹ chưa bao giờ cười sặc như thế. Mẹ chưa bao giờ mắng người làm chao chát như thế. Về đi anh à. Không phải mẹ hả em. Mẹ em đấy. Đâu có nhầm được. Sao em không vào nhận mẹ.

Sao em không vào nhận mẹ. Sao tôi không bươn bả băng qua đường, len giữa lồng gà lồng vịt, giẫm lên cứt gà lông gà để gọi mẹ ơi, mẹ ở đây à. Vậy mà để con đợi mãi. Mẹ ơi, mẹ quên con rồi à. Người này là ai. Người làm của mẹ hay chồng mẹ. Chồng mẹ là gã lái gà phải không?

Tôi tháo khẩu trang xuống thì mẹ có nhận ra tôi không? Chắc là có. Con gái vẫn nép sau lưng mẹ mỗi khi cha gầm thét. Con gái vẫn rúc vào ngực mẹ thầm thì mẹ ơi thơm mùi rau cần quá thì mẹ quên sao được. Nước mắt tôi ướt đẫm mọi thứ. Khẩu trang. Vạt lưng của chồng. Đường về xa lắc, xa như không biết ngày nào mẹ tìm về nơi ruộng rau của bà của tôi.

Tôi cũng không biết mình có đủ sức để khóa trái cổng khi mẹ dừng một ngày cắt cổ gà quay về không. Đêm nay tôi sẽ nghĩ. Đêm mai tôi sẽ nghĩ. Thoang thoảng chồng tôi tha thiết. Băng qua đường vô hỏi mẹ có nhận ra con không đi em...

Hết mùa rau cần rồi mà sao xuống đến ruộng vẫn thấy lá cần chấp chới.

Niê Thanh Mai (dân tộc Êđê) sinh năm 1980 tại Buôn Mê Thuột - Đăk Lăk

Hội viên Hội văn học Thiểu sổ Việt Nam, Phó chủ tịch Hội VHNT Đăk Lăk

Hiện là giáo viên trường phổ thông dân tộc nội trú N’ Trang Lơng

 

Lời bình của nhà văn Thái Bá Lợi:

Một truyện ngắn đầy ắp ký ức. Ký ức của người con gái từ thuở bé thơ tới kỳ trưởng thành. Mà sao cũng chỉ một dòng ký ức ấy? Tha thiết mà trần trụi. Sớm mai thoang thoảng, cái tên truyện thật là hợp. Tên truyện hay vì nó cùng với nội dung là một.

Mấy ngàn chữ ứng với mấy chục năm của đời người con gái sao mà ít niềm vui, lắm nỗi buồn, được kể lại với giọng văn bình thường, có phần lạnh lùng, hết sức kiềm chế. Đó là tố chất của văn xuôi. Tác giả biết dấu cảm xúc của mình dưới lớp ngôn ngữ được chăm sóc, có chọn lọc... Nhưng cũng còn những hạt sạn, như “tiếng nổ gầm gừ” của xe 50 thì tôi nghe chưa quen.

Nhiều tác phẩm văn xuôi có đề là truyện ngắn rõ ràng, nhưng khi đọc xong tôi cứ phân vân đây có phải là truyện ngắn hay không? Nhưng Sớm mai thoang thoảng thì đúng là một truyện ngắn.

 

 

NƯỚC NHƯ NƯỚC MẮT

Truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư

 

Đừng sợ hãi, dù vì nó mà người ta sống, chết… (*)

 

1.

Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai.

2.

Nhà chức trách nói rằng họ đang tìm sự thật nhưng có thể chồng Sáo đã lẻn lên bè rẫy Đại Thanh trộm tài sản của họ, lúc người ta bắt gặp đã xảy ra xô xát nhỏ, anh lao xuống sông định trốn, chết nước là chuyện rủi ro không ai ngờ… “Những người đầu tiên trông thấy xác chồng cô đều chứng kiến trên tay anh ta còn cầm một sợi dây chuyền vàng đã đứt”, nhà chức trách bảo vậy. Sáo nói không phải đâu, anh Thi chồng tôi chỉ muốn lén hái vài lá ngò. Nhà chức trách hơi xẵng giọng, chúng tôi dựa trên nhiều bằng chứng quan trọng. Sáo cãi không phải đâu, chồng tôi cần có chút ngò gai thôi. Họ kiên nhẫn kêu vài nhân chứng tới nói mấy câu chuyện ngập ngừng.

Sáo cãi phăng đi. Ngay khi Sáo ôm xiết chồng đang nằm thõng thượt trên cái bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chức trách, ngay khi nó vùi mặt mình vào cơ thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm, ràn rụa tìm kiếm hơi thở của anh núp trốn đâu đó, trong rún, trong mắt hay ở bên sườn. Khi lướt qua đôi môi dập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai. Trời đất ơi, chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa hái được. Anh vẫn chưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Người ta đang nhâm nhi ngò gai thì không ngó ngàng tới vàng bạc đâu, Sáo nói và xốc ôm chồng tha về ghe.

Dưới sạp ghe hai con cá Bạc Đầu đã chết. Cặp cá này sáu tiếng đồng hồ trước vợ  chồng Sáo giăng lưới bắt được. Cá bị nước đuổi ốm tong teo nhưng chồng Sáo sướng quên trời đất, và như con nít, anh đứng múa may quay cuồng ở đầu ghe, kêu hết sẩy hết sẩy, nói phước đức ông bà để lại. Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đến vậy, đến nỗi nó đã chạnh lòng ngay lúc đó, anh đâu có từng tỏ ra quý mình như quý cặp cá này.

Cá Bạc Đầu luôn đi thành đôi, là loại cá rất hiếm hoi. Sục sạo như chồng Sáo cũng chỉ một lần thấy chúng. Má chồng Sáo hồi còn sống thường thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốt mật cặp cá Bạc Đầu thể nào cũng cấn thai. Bà hay ngồi ở cửa trước hóng coi trẻ con bên xóm đang chạy giỡn, tiếng thở dài của bà lửng thửng bay về phía Sáo nhoi nhói. Chồng Sáo cà rỡn, “bắt được cá Bạc Đầu rồi vợ con sanh một lần bảy đứa, cho má giữ mệt nghỉ…”. Má chồng không chờ được, lúc bà chết bên vách vẫn còn giắt mớ vỏ tỏi - thứ đàn bà đẻ dùng để xông da thịt cho thơm. Chồng Sáo vẫn phấn khích quăng chài xuống sông Sắc nuôi hy vọng, không hoàn toàn vì khao khát trẻ con. Chồng Sáo đã được ăn cá một lần  hồi mười lăm tuổi mà mỗi khi anh nhắc lại nồi canh cá nấu mẳm, Sáo lại thấy nước miếng rỉ ra rưng rưng bên mép anh. Người Châu Thổ hay nói, bắt tao tả đau bụng đẻ ra làm sao chẳng khác nào kêu tả mùi vị con cá Bạc Đầu, tức là chẳng thể chia sẻ cảm giác với người khác nếu họ không tự mình trải qua. Sách “Bi ký” chép lại, năm 813 đã có một làng chài lưới bị tàn sát vì giữ lại cá Bạc Đầu mà không cống nộp cho vua. Một trăm ba mươi bốn người trong làng đã chết. Ba chồng Sáo quý cuốn sách đó  như một gia tài nhưng nhà nó đã làm mất vào một bữa nước đột ngột dâng.

Giờ con cá của những đồn đại, con cá huyền thoại, con cá vì nó mà người ta sống, chết đang nằm trong ghe nhà Sáo, đuôi màu xám đậm rồi phai dần cho đến phần đầu thì trắng muốt tựa bông lau chín. Cái chết cận kề không làm cho chúng thôi quấn quýt. Chúng chạm râu vào nhau khẽ khàng, như  âu yếm như đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức. Phải, nước đuổi đã quá hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc bạc đi.

3.

Mùa nước đuổi bắt đầu từ giữa tháng Giêng. Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn Tết trên ghe. 

Cứ mỗi năm nước đuổi lại tới sớm hơn, mùa mỗi năm mỗi dài hơn. Tết chưa tàn, vợ chồng Sáo đã lụi hụi dọn đồ đạc lên ghe, bông vạn thọ trồng trong cái khạp lủng để trước hàng ba còn chưa bung nở hết. Chồng Sáo cứ tiếc là ghe chật quá, không rinh cái khạp đó đem theo được.

Anh còn muốn bứng cả cây cỏ quanh nhà theo, nếu có thể. Nên trên ghe lủ khủ những bụi hành hẹ, sả, vài cây ớt, ít hẹ, ngò om… Mấy thứ cỏn con này hay làm chồng Sáo bận lòng, ăn cá chốt nấu cơm mẻ mà thiếu sả ớt, cá trê nướng mà không gừng… là anh băn khoăn lắm. Anh nói thà không ăn, chứ ăn vầy không đúng điệu.

Chồng Sáo ưa nói hai từ đúng điệu. Coi kìa, đêm nay trời trong nhưng trăng tròn quá nhìn không đúng điệu, phải khuyết chút ngó hay hơn. Nắng vầy mà có bóng cây để treo võng nằm chơi là đúng điệu. Con lá lóc này phải có rơm khô chất lên đốt nướng trui mới đúng điệu. Sống giữa trời nước bao la vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ mà tức.

Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khi đang ngồi ểnh ra, se miết mấy ngón tay da cổ làm đất rụng xuống lả tả. Gọi là tắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong sẽ tắm ướt bằng hai gàu nước. Nhưng có bữa chồng Sáo tắm cả xô, tắm đúng điệu. Chữ đúng điệu nhiều lúc làm Sáo sợ. Nhất là khi nghe bảo “em nằm day lại tui gãi cho đúng điệu cái coi”. Đêm nào trước lúc ăn nằm với nhau bao giờ chồng cũng gãi lưng Sáo, trong một trình tự lớp lang đúng điệu, bắt đầu từ lúc những ngón chân cọ vào bắp chân Sáo, sau đó này sau đó kia, anh nhẩn nha đến nỗi nó thiu thiu ngủ luôn bỗng nghe cái gì đó xộc tới chới với. Nó không thích vậy nhưng không dám nói, biết đâu vì cái khoảnh khắc chới với đó mà trẻ con không chịu ra đời.

Sáo còn hồ nghi vì hai chữ đúng điệu mà nhà nó nghèo. Gieo mấy giồng cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổ bán là không đúng điệu, nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau rách nát. Có năm trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo đòi bán cho thương lái. Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa căng bóng mới đúng điệu. Ai ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt dây dưa nổ lụp bụp như pháo, nứt vỏ hết. Trắng tay.

Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ nghĩ nước tràn  quanh quẩn những vùng gần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào chân ruộng. Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo nhau lên ghe ở cho rồi. Cây trái tàn rụi, chỉ còn cỏ Đuôi Mèo là sống được, đem bán rẻ mạt cho những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới, chẳng được bao nhiêu tiền.

Chồng Sáo không lấy chuyện đó làm phiền, cả khi ôm cái lư hương cha mẹ rút lên ghe chờ qua mùa nước đuổi, anh vẫn làm mặt tỉnh queo. Cả xứ này bỏ đất mà đi chớ đâu phải chỉ nhà mình, chồng Sáo nói vậy. Chỉ một lần duy nhất chợt thèm ớt giữa bữa cơm, mà cây ớt đem theo đã chết queo, anh mới dựng đũa kêu trời.

Trời im ắng ở trên cao, trong ngằn ngặt, trong như nước mắt. Nắng quay quắt như vắt như vo con người thành những hòn đá khô khốc có thể lăn cọc cạch. Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đất vườn mình, cạnh mái nhà mình, lây lất sống nhờ chài lưới những con cá nước đục còn sót lại ốm ròm trên mình đầy ghẻ lở… sau đó thì tới đám cá nước trong len lỏi vào sâu trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đến nỗi cực ăn. Nhưng có bữa chỉ bắt được cá Sầu Ngư, đành ăn cơm với muối hột.

Sầu Ngư bình thường vảy màu xám bạc chỉ nhẩn nha ăn bèo rong trôi dạt, đến nước đuổi thân cá trở nên đỏ thẫm. Chúng có thể sống tỉnh queo nhờ rỉa xác súc vật chết trôi, trong đó có cả xác người. Chồng Sáo vừa ghét vừa ghê sợ chúng, anh xỉa xói: “Cái thứ ham sống tới nỗi bất chấp tội lỗi…”. Sáo mắc cười quá, mắng cá mà như mắng người.

Sáo đâu có ngờ có ngày mình phải bảo vệ chồng khỏi miệng cá Sầu Ngư.

4.

Chồng Sáo ốm teo, nằm gọn đeo trong cái hòm được ghép tạm bằng mấy tấm ván ngựa xóm giềng giúp mò lấy từ dưới nhà lên. Lúc lau rửa cho chồng, men tay theo từng tấc thịt da dường như đang tan chảy Sáo thấy buồn quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hòm xuống nước, lấy dây buộc níu vô cột nhà, chờ nước rút mới đem âm thổ. Vị mặn của nước ngấm vào sẽ làm chồng Sáo lâu tàn rữa, họ nói vậy.

Xóm giềng lặng lẽ tiễn chồng Sáo. Cũng mệt mỏi và đuối sức như những con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển, họ chới với khi bị bứng lìa khỏi đất, khỏi cái màu xanh rười rượi của cỏ cây. Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông… 

Riêng chồng Sáo thì chết vì thèm rau. Hàng xóm bảo, không phải, nó chết vì nghèo đó chớ. Vì nghèo nên không đi ra khỏi cái xứ trần ai này được. Vì nghèo nên phải bỏ mạng vì gặp phải bọn cậy giàu coi sinh mệnh người như cỏ rác. Bứt mấy cọng ngò thôi mà, có phải thù oán gì cho lắm đâu mà nhẫn tâm quá thể ? Sáo cũng muốn đi hỏi người của bè rau Đại Thanh câu đó. Sao vậy, tại sao, vì sao? 

- Thời thế loạn rồi, đất không còn thì có thứ gì còn.

Ông bán xôi dạo thở hắt ứ hự. Ông nói bữa trước đi ngang bè rau nghe có tiếng kêu cứu, nghe trên đó rầy sao mầy không chết đi, sống làm chi mà làm khổ người ta. Không biết “người ta” là ai, mắc mớ gì tới cái bọn sống sung sướng trên cái bè rau đó.

Sáo nghe xong tưởng trong lồng ngực có thứ gì vừa đứt phựt, nó hức lên, anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. ủa, vậy chồng mình chết chỗ khác thì mình đỡ đau lòng hơn sao? Sáo giật mình nghĩ vậy khi vừa khóc dứt. Trong nỗi ân hận Sáo ngồi dựa vách ghe, mong xóm giềng cứ ngồi chơi, nếu không muốn nhắc tới chồng nó thì cứ nói chuyện bâng quơ, chuyện những vùng đất cao cẳng xa xôi nước biển không bao giờ đuổi tới, chuyện ở đâu đó con chó đẻ ra con dê, cây dừa có chín đọt… Hoặc họ không nói gì cũng được, ca hát cũng được… Nhưng họ phải về, phải sống. Cuối buổi sáng là nhà chức trách xả nước ngọt ở các máy nước công cộng, không kịp chèo ghe đi lấy sẽ không có nước nấu cơm, tắm giặt…

Sáo chỉ còn một mình.

Một mình.

Sáo lết đi bắc xoong cơm lên bếp lửa. Cảm thấy tay áo giở lên còn không nổi. Bụng không đói miệng thì đắng nhưng Sáo phải ăn, để chờ người ta trả lời tại sao chồng nó chết. Đợi chán Sáo lại chèo ghe tới chỗ nhà chức trách thăm chừng, khi thì thấy vài anh say sưa chơi cờ, khi thì thấy một anh ngủ gục bên bàn làm việc kệ ruồi o e trên mép. Hỏi thì họ chưng hửng nói cô còn đợi sự thật nào? Như thể có rất nhiều sự thật nằm nhấp nhổm trong ngăn kéo, và họ đang chọn một cái sự thật hợp với tướng tá xơ rơ, túi áo lép kẹp của Sáo.

Hơi thất vọng, Sáo chèo trong chảo nắng mặn trở về, bỗng nín thở nhìn thấy cái lưng dài nhằng của chồng mình trên mái nhà. Em chồng Sáo mang nó về, cả đôi chân mày rậm. Nó thảng thốt hỏi chị Hai làm gì vậy. Sáo nói chị đâu có làm gì. Trời ơi chị xởn tóc chị xơ cờ kìa.

Em chồng nhìn Sáo như thể kêu Sáo nín đi, như thể Sáo xởn tóc là một cách khóc. Sáo chỉ gượng cười rồi luýnh quýnh đi nấu cơm cho em chồng ăn, bận bịu làm sự sống quay trở lại trong nó. Sáo đã quen sống và làm lụng vì ai đó. Như bà nội Sáo vì thương chồng mà bơi xuồng đi cưới hai bà vợ bé cho chồng, như má Sáo vì chuộc chồng khỏi núi nợ ở trường gà mà phải bán hết đất lên ghe sống lênh đênh. Năm mười chín tuổi, nghe má ao ước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy chồng. Lấy người má nó chọn, lý do “thằng đó có tới chục ngoài công đất”. Sáo nhìn thấy chồng lần đầu khi anh đang ôm con gà tre đi trên đường, miệng ngậm vung vinh cọng cỏ mần trầu, nó tự hỏi đây sẽ là chồng mình sao? Lễ ăn trầu uống rượu rồi, chồng vỗ mông Sáo, nó lại hỏi đây là chồng mình sao? Hôm cưới nghe chồng phả hơi rượu nóng rực vô vành tai, vẫn hỏi chồng mình đó sao? Nhưng lúc Sáo cài khuy áo lại, ngó cái người đang lật ra ngủ queo đó, nó nghĩ đây là chồng mình. Nghẹn căng ứ mũi.

Má Sáo vui lắm, gói gém mấy lễ, bà mua hai công đất dành để chôn. Nhờ con gái hiếu thảo mà thím đổi đời rồi, má giả đò vu vơ khoe với một khách thương hồ quen, không lâu sau, anh ta cũng lấy con gái nhà giàu dưới chợ.

Nước đuổi vào sâu Châu Thổ, đất - thứ vì nó mà Sáo lấy chồng -  trở nên vô nghĩa, như cái tên xóm Rẫy mà còn cái rẫy nào đâu.

Giờ đến cả chồng, Sáo cũng làm mất.

Em chồng rút trong túi xách ra bộ đồ tây mới cáu đặt cạnh đôi dép da mà nó đã mua cho chồng Sáo từ năm trước. Món quà còn nguyên niêm mạc, chồng Sáo chưa đi lần nào, anh nói chờ kiếm có quần áo đẹp mặc cho đúng điệu. Có lần đi chợ gặp em chồng, Sáo kể, nó buột miệng chửi thề: “Má, thằng cha cầu kỳ quá, con nhà lính tính nhà quan…”. Giờ thì em chồng im lìm ngồi vuốt mớ đồ của anh nó. Bao giờ chồng nhập thổ, Sáo sẽ chôn chúng theo.

Ngó cái cảnh đợi công lý của Sáo, thằng em chồng cười khào, con dao bấm trên tay cứ lè lưỡi ra tanh tách, sáng quắc. Nó nói “công lý ở trong tay mình mà, chị Hai…”

Em chồng đi giang hồ từ nhỏ, lưng em giờ đã hai mươi hai cái thẹo, đó là những lần em thực thi công lý hay bị công lý của nhóm giang hồ khác thực thi lên. Không thẹo người ta không biết mình dân giang hồ, em khoe vậy, giống như ở chợ hay gắn chữ văn hóa cho người ta biết là có văn hóa vậy. Em chồng cũng thường khoe công lý của em nhanh hơn, luật của em công bằng, sòng phẳng hơn. Không tin không được, nhiều lần nó tìm lại những món đồ nhà Sáo bị trộm lấy đi, dù chúng đã bị thay hình đổi dạng, bị tháo rã ra bán đầu một nơi mình một nẻo. Nó còn dẫn thằng ăn trộm về biểu: “Xin lỗi anh chị Hai tao, mầy!”, và thằng kia cun cút cúi đầu.

Nhưng đó chỉ là thằng trộm nhỏ thó hom hem, giờ em chồng Sáo sẽ đối đầu với một bè rau đông người lắm của. Em chồng đi rồi Sáo nóng ruột bồn chồn quá, như thể chỉ cần vo gạo rồi ôm cái nồi vào bụng, gạo sẽ sôi thành cơm. Mấy bữa sau nghe ở mấy máy nước công cộng người ta hể hả bàn tán, nói xe hơi của nhà Đại Thanh dưới chợ bị đập phá, tụi giang hồ còn đánh thuốc chết mấy con chó, tưới xăng định đốt biệt thự, may mà nhà chức trách tiếp cứu kịp.

Bữa sau nữa, người ta rủ Sáo đi coi một bảo vệ của bè rau bị dìm chết. Sáo không đi, nó không chắc mình sẽ hả hê khi nhìn thi thể đó. Sáo sợ cái bàn lạnh ngắt giữa căn phòng lạnh ngắt, nơi hơi thở một con người bỗng dưng biến mất. ở đó, biết đâu cũng có con đàn bà gột rửa da thịt chồng bằng nước mắt, mong gọi những hơi thở trở về.

Nhưng buổi tối hôm đó Sáo đã phải xuôi ghe tới văn phòng của nhà chức trách, vì em chồng Sáo. May phước, em chồng không nằm trên bàn mà bị trói gô, khiến cái lưng dài thượt gần như cuốn tròn lại. Sáo thở phào nhẹ nhỏm dù hoàn cảnh của thằng em hiện giờ rất cay đắng. Vậy mấy bữa qua Sáo đã bồn chồn lo lắng cho ai? Nó tự hỏi, người mướt mồ hôi lạnh. Ngó vẻ mặt đờ đẫn của Sáo, em chồng cố an ủi mà giọng nói cứ nghiến sít sìn sịt :

- Chị buồn con c. gì, tụi nó bắt tui như bắt cóc bỏ dĩa. Chỉ uổng là tui chưa kịp bẻ cổ thằng Giang.

Câu nói làm Sáo rúm ró. Sáo biết người đàn ông tên Giang đó, lầm lì ít nói, da ngăm đen mắt sâu, hai bàn tay đều chai. Và tóc gội sương gió cứng đến nỗi nếu ai đó để anh ta gối đầu lên đùi, họ sẽ nghe vừa nhột ran vừa đau nhoi nhói. Người đó đã từng hiền lắm, ngập ngừng mãi mới dám nắm bàn tay con gái, nhưng theo lời em chồng Sáo thì giờ anh ta đã đổi thay quay quắt như con cá Sầu Ngư. Sáo muốn đi tìm coi anh ta nhuốm đỏ tới mức nào.

Sáo sẽ đi. Nó quyết định vậy khi nhìn theo em chồng bị người ta đưa đi mất. Nhanh đến nỗi Sáo nhận ra công lý thật ra đâu có già nua hay chậm chạp hay đui mù. Sáo thấy mình vừa mất hết, cả người thân cuối cùng và chút niềm tin cuối cùng. Nhưng cái cảm giác đó thật sự rõ ràng khi nước bắt đầu rút, Sáo đào xuống năm lớp dá, rồi kéo cái thứ đất ngâm lâu bủng beo trong nước đó, đắp lên cho chồng.

Chờ những mầm cỏ Đuôi Mèo lún phún lên xanh, Sáo chèo ghe đến bè rau Đại Thanh. Nhắm mắt thì nó cũng chèo được tới cái chuỗi xanh ngằn ngặt ở ngã ba sông Sắc, chỗ sông Mê cắt qua.

5.

Bè đang tuyển người làm. Những nhân công cũ sợ giang hồ đòi công lý nên xin nghỉ quá nửa. Sáo bị xua đuổi ngay khi trờ tới, họ nhận ra vợ của thằng oan gia bứt ngò. Nhưng vì người ta biết Sáo nên nó vẫn cắp cái nón trong nách nấn ná chờ. Hồi lâu có người kêu, cô kia tên gì để tôi ghi hồ sơ ? Ông ta hỏi mà vẻ mặt thảng thốt như không hiểu cái câu vừa rồi sao lại tuôn ra khỏi miệng, như thể đang nghĩ mướn con này chẳng khác nào rước giặc vô nhà, sao ông chủ mình ngu vậy ?

Cũng ngơ ngác, Sáo nói tên mình. Ngay lập tức trên danh nghĩa nó trở thành người của bè rau. Dù Sáo chỉ muốn tới hỏi người đàn ông tên Giang đó có thật đã muốn chồng nó chết không. Sáo nghĩ người đó sẽ im lặng hoặc nói không, vậy đỡ quá. Chối bỏ nghĩa là còn biết sợ hãi. Nhưng con rể của nhà giàu Đại Thanh, người quản lý bè rau mênh mông này, anh ta nói có. Anh ta nhìn thẳng vào Sáo, nói có, nó – đáng – chết…”. Anh ta vẫn rám nắng chắc chắn vạm vỡ như năm bảy năm trước, mắt vẫn rười rượi sâu. Mặt anh ta phẳng lặng, giọng cũng đều đặn thản nhiên, mà buốt nhức :

- Em sẽ làm gì tôi ?

Sáo chết trân. Nó không biết. Nó đinh ninh là anh ta sẽ chối bay chối biến và nó cắp nón ra về, an ủi mình đã tìm được sự thật giống như sự thật. Nhưng anh ta thừa nhận, trâng tráo như Sáo không thể làm gì được. Sáo sẽ chạy tới nhờ nhà chức trách đang ngủ gục hay sẽ đòi công lý bằng dao bấm giống như em chồng?

Ngơ ngác, Sáo bỏ đi. Vài ba bận chèo ghe trở lại, cũng chừng ấy lần lủi thủi quay về, Sáo nghi chắc tại phải chèo xa mệt mỏi nên sự căm thù hao hụt. Nó quyết định ở lại làm công cho bè rau. ở đây nó sẽ tích tụ được những cơn giận dữ, đến khi chúng căng chật, nổ tung thì đường đến căn phòng của tên gian ác cũng gần.

Và nơi này làm cho Sáo không bao giờ nguôi oán giận. Sáo gánh nước tưới những giồng ngò gai và tưởng tượng cái tối chồng mình khoái chí nhấm nháp chúng, chắc anh không kịp rửa, chắc trong cái vị cay nồng có lẫn oi oi mùi rơm mục. Sáo ngồi bó rau bồ ngót ở sàn nước và nghe gan bàn chân tê tái bởi ý nghĩ  chồng mình đã bị người ta đánh đập, lăn lộn đau đớn ở đây (dựa theo sự thật của ông bán củi). Trầm mình dưới khúc sông bên hông bè để ủ rơm tươi, Sáo đánh dấu lên dòng nước chỗ người ta đã dìm chồng nó xuống (vịn vào sự thật của thím bán bánh dừa).

Có lần lửa bùng lên tới mặt, Sáo đã chạy tới căn phòng đó, khi xô cửa bỗng bàn tay Sáo chui tọt vào vạt áo. Một đứa trẻ đang ngồi trong lòng người đàn ông, nó đang vùng vằng cằn nhằn cha không biết chải tóc làm đầu nó đau lắm luôn. Anh ta nhác thấy Sáo liền nói, “Cô để lần sau…”. ừ, Sáo không muốn khi xiên con dao trong túi nó qua ngực người đàn ông đó lại có đàn bà và trẻ con trông thấy. Đi men theo những giồng gừng về dãy nhà ngang nơi dành cho những người làm công ngủ, tiếng con nít thỏ thẻ vướng chân làm Sáo trợt chân té sấp. Nó gượng bò dậy khỏi những vũng nước săm sắp, nghĩ phải chi mà vợ chồng nó cũng có đứa con như vậy, chắc bọn nó sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau, sẽ không phải tìm kiếm mỗi đêm dù nó mệt đến rã rời, chỉ muốn ngủ thôi. Và đứa con sẽ làm Sáo thôi nhớ tháng ngày trôi nổi.

Trưa thứ bảy ca nô đưa trẻ con ra bè, chiều chủ nhật trẻ con vào trong chợ. Vợ của người đàn ông, tức bà chủ của Sáo thì tới bè mỗi buổi chiều, lúc các máy nước công cộng đã khóa chặt và những người không lấy nước kịp sẽ ghé qua chỗ chị ta mua nước với giá cao. Cuối chiều cho tới nửa đêm, thương lái nườm nượp tới để giành giật nhau từng bó rau, chị ta đứng bán rồi sáng hôm sau cũng biến mất sau con đê kiên cố sừng sững như tường thành bọc quanh thành phố. Nó cao tới mức những người lam lũ như Sáo cảm giác bị bỏ rơi, bị rời ra, thấy mình nhỏ nhoi như kiến, cỏ. Nó nhắc nhớ nắm xương của ba Sáo đã lạc mất bên dưới tầng tầng lớp lớp nhà cao. Nó nhắc nhớ ba mươi sáu bậc thang mà Sáo đã dò dẫm từ mặt đê xuống ghe cùng với xác chồng.  

Nên nhìn thấy bà chủ là Sáo nghe giận. Chị ta cứ lai vãng hoài nên mỗi tuần Sáo chỉ còn lại chừng bốn mươi tiếng đồng hồ để tiếp cận kẻ thù, mà không phải lúc nào kẻ thù cũng ở một mình, bởi người làm công cứ dập dìu qua lại. Trắc trở nhiều khi đến từ trong Sáo, bởi đôi lúc đứng nhìn một vạt cải con xanh non, đôi lúc đi ngang giồng quế đang trổ bông, hay bước chân giẫm lên một lá gừng già… mùi thơm nồng nàn làm người Sáo lỏng lơi ra, nhẹ bỗng. Vậy đâu có được. Nó ở đây để đòi công lý cho chồng, sao lại quên chỉ vì mùi hương của những thứ cỏ cây này.

Nhưng trước những đọt ổi non, những giồng rau húng lủi, đống rơm mới…Sáo vẫn không cầm lòng nổi. Sáo đã nhớ chúng biết bao nhiêu, từ khi nước đuổi lấp ló phía chân trời.

6.

Sáo sống gần như đơn độc trên bè. Thui thủi. Bạn làm công dè dặt, đám bảo vệ canh chừng, và Sáo biết mình đi đâu làm gì cũng có người ngó theo, khi da diết khi mãnh liệt, khi hờn mát khi chua chát. Có cảm giác người ta rọng nó ở lại bè rau chỉ để Sáo quẩn quanh trong tầm mắt, nó không phải thả ghe chơi vơi chài lưới chật vật kiếm sống trong mùa nước đuổi.

Sáo hơi tuyệt vọng, nó vẫn chưa trả được thù chồng. Người xóm Rẫy ghé qua bè mua rau đổi nước cắt Sáo bằng ánh mắt căm ghét đến rát mặt, ý nói “thứ người gì tệ bạc, đi làm tôi mọi cho giặc...”. Sáo càng nôn nóng, sợ năm dài tháng rộng mớ màu xanh ngằn ngặt trên bè sẽ loang hết mảng tím bầm trong lòng nó. Vậy đâu có được. Nhưng kết thúc bằng cách xiên một mũi dao thì quá dễ cho anh ta. Cái cảm giác sống mà mất hết, nhìn thấy mọi thứ chung quanh tàn rữa mới ghê. Nhưng những thứ mà kẻ thù yêu quý Sáo đều không thể chạm vào. Trẻ con, đàn bà, và cả những giồng rau trái thênh thang trên bè - thứ mà mùa nước đuổi trắng xóa những chân trời, chúng là vàng. Có thể anh ta còn thứ quý giá hơn, Sáo đang tìm kiếm. Nó tới gần anh ta hơn, tới mức có thể nghe giữa những cơn nín thở là tiếng nuốt nước bọt lục cục trong cổ họng. Có lần vô tình cùng khiêng chung một cái lu, Sáo bỗng thấy cảnh này sao giống đôi vợ chồng đang chuẩn bị đón mưa đầu mùa, ý nghĩ làm nó giật mình buông tay làm lu rớt xuống mấy ngón chân anh ta tươm máu. Sáo đau, đến nỗi nó tin rằng nếu lưỡi dao thấu qua ngực anh ta chắc nó là người gục xuống.

Phát hiện đó làm Sáo về luẩn quẩn gần mộ chồng ân hận cả ngày. Oán đong đầy lại. Sáo bắt đầu ráo riết tìm kiếm, bằng cách nhìn rười rượi vào mắt anh ta mỗi khi chạm nhau giữa mấy luống cà chua, dưa chuột. Bằng cách vu vơ hát lên một câu hát cũ, hoặc ra ngồi nhìn trời nước chỗ cây quao. Trời ơi, khi mà mỗi tấc đất trên bè này đều là một tấc vàng, thì người ta bứng trồng lên đó một cây quao, chẳng làm gì cả, trái không ăn được lá lại hôi rình.

Anh ta không thèm giải thích. Con người kỳ cục đó hùng hục làm giàu, nhưng có khi Sáo thấy anh ta đứng ngó bạn hàng vây quanh vợ mình, ngó những xấp tiền xập xòe bằng cái nhìn trống rỗng, tựa như chúng vô nghĩa. Dù nhiều tiền thì gì cũng có, có cả nhà chức trách hồ hởi ghé chơi. Bạn làm công lâu năm vui miệng kể hồi lập bè anh ta cũng chỉ nói với vợ một câu, “tôi ra sông làm rẫy, em ưng thì theo…” Bè dứt khoát phải đặt ở ngã ba sông Sắc, người xóm Rẫy đi chợ đằng nào cũng phải ngang qua. Vợ anh ta nghĩ chắc chồng nhớ sông, nhớ quãng đời lênh đênh nên quyết ra bè sống. Sau này nước đuổi, rau trái quý như vàng, bên nhà vợ khen con rể biết nhìn xa trông rộng. Sáo nghe chuyện nghĩ, thì anh ta hại chồng nó chết mà có giải thích gì đâu.

Mỗi khi nhìn những bông quao trắng muốt, Sáo nghiến ngầm trong bụng, thằng gian ác thằng gian ác, mình căm thù mình căm thù mình căm thù. Như thể không đinh ninh vậy thì Sáo sẽ coi anh ta như người yêu cũ mất. Vậy đâu có được.

Một bữa người ta cho phun thuốc khắp nơi trên bè. Mọi bán mua vốn đang tấp nập bỗng dưng ngưng bặt. Bà chủ của Sáo cũng không trèo đê ra với chồng. Tắm đêm giữa chừng Sáo để nguyên quần áo ướt xông vào căn phòng người đàn ông đó. Anh ta nằm im lìm như mặt ao ngày không gió, cả khi bọc tay nó trong bàn tay chai cứng vì từng chèo chống sông hồ.

- Em đi với tôi nghen…

Sáo muốn khóc. Câu nói này Sáo đã nghe lần đầu dễ chừng bảy năm trước, hồi chưa lấy chồng. Sáo đùng đưa chân khỏa nước trên sông, nói má em bệnh không ai lo. Lần thứ hai ngồi dưới chòm quao lập lòe đom đóm, nó nói má em nhận lễ của người ta rồi. Lần thứ ba là vào một mùa mưa, bữa đó đi chợ, đứng đụt mưa ở hiên nhà người ta, gió tạt làm hai ống quần sũng nước, Sáo bỗng nghe ai đó nói “em đi với tôi nghen…”, như tha thiết như thương hại, xót xa… Nó đi hết chặng đò rồi, về tới nhà vẫn còn nghe. Chục bữa sau vẫn nghe. Sáo không đi chợ nữa, cần gì thì chồng đi hoặc nhờ hàng xóm tiện thể mua giùm.

Nhưng Sáo có cài bao nhiêu cửa, có ngồi miết trong buồng thì vẫn nghe “hãy đi với tôi…”. Bằng thứ âm thanh chỉ mình nó biết, nó nói đâu có được, tui mắc nấu cơm cho chồng tui, người khác không biết ý ổng nấu ăn sẽ ấm ức lắm. Như bữa ở chợ Sáo nói mắc đi mua chỉ về cho chồng vá chài. Sáo luôn phải bận bịu, vướng víu vì ai đó, dù đôi lúc giữa đêm Sáo mặc lại áo, nó nghĩ nếu đi với Câu Nói thì giờ chắc mình được ngủ rồi.

Lần cuối cùng Sáo nghĩ tới chuyện nắm tay Câu Nói ra đi, là khi chồng Sáo  nhảy lên chiếc xuồng câu bơi đi hái trộm ngò gai nêm canh cá Bạc Đầu. Nhìn theo anh rẽ lân tinh lấp lánh như con tôm mon men vào ven đó, Sáo nghĩ, nếu con cá, cọng ngò có thể làm anh vui vẻ tới vậy, thì không nó cũng không sao. Nó muốn có một đứa con được tạo thành bởi tình yêu chớ không phải bởi phép màu của cá. Đang nghĩ bùi ngùi bỗng có người tới gọi, chồng bây bị người ta đánh té xuống nước chết queo rồi. Sáo chôn cất cuộc đi, vì mắc tang tế, đòi công lý cho chồng, cúng quảy người nhà chồng. Chớ ai. 

Hôm đó, Sáo chôn cất luôn những ý nghĩ chạy trốn vẩn vơ. Giờ người đàn ông này lại bảo, “Em đi với tôi nghen - Cũng câu nói hôm xưa, giờ nhuốm màu vô vọng - Chồng em có còn đâu…”. Sự vô vọng của năm chữ đằng sau phả hơi lạnh tới cả cái gật đầu của Sáo, ừ thì đi.

7.

Cả hai không xếp hành lý, thậm chí không lấy ghe, cứ ào xuống nước bơi về phía bờ mà ai cũng biết là đã không còn bờ từ nước đuổi. Sau lưng, bè rau càng lúc càng rực rỡ. Ngọn đèn chong Sáo kê sát vách mùng giờ chắc đã bén lửa lan vào tận những đụn rơm phía ngoài. Người đàn ông bơi cạnh Sáo không một lần ngoái lại. Sáng hôm qua khi tiễn con gái nhỏ trở vô trong chợ, anh ta đã xiết nó đến nỗi nó kêu đau. Như không có lần sau. Giây phút đó Sáo nhận ra thứ anh ta quý nhất, đến nỗi sẵn sàng từ bỏ tất cả để có được. Là Sáo.

Nó rớt nước mắt. Đi cùng nó có gì vui đâu mà người này cứ đòi phải đi cho được, bảy năm trời không chịu thôi. ừ vậy thì đi. Hai đứa bơi mãi trong ánh lân tinh réo rắt dìu dặt. Nước tràm trụa trên mặt, nước mặn xót mấy cái chân răng. Bơi đến kiệt sức, đến trống rỗng, đến mức có thể chìm trôi, có thể quên hết quá khứ. Chớ Sáo biết đi đâu với người đã vô tình làm chồng nó chết, bởi một cơn nóng giận, bởi một lầm lẫn, tưởng đạp rào là sẽ được bước qua.

Quanh hai con người đau đớn, cá Sầu Ngư đang nhơ nhởn họp bầy.

… Đoạn, có người hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi không biết, tôi đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi.

-------          

(*) Từ Bi Ký

Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Hội viên  Hội nhà văn Việt Nam.

Tác phẩm tiêu biểu:

Ngọn đèn không tắt (2000)

Ông ngoại (2001)

Biển người mênh mông (2003)

Giao thừa (2003)

Nước chảy mây trôi (2004)

Cái nhìn khắc khoải

Sầu trên đỉnh Puvan (2007)

Cánh đồng bất tận (2005)

Ngày mai của những ngày mai (2007)

Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (2008)

Biển của mỗi người (2008)

Yêu người ngóng núi (2010)

Khói trời lộng lẫy (2010)

 

Giải thưởng:

2000: Tác phẩm Ngọn đèn không tắt: Giải Nhất trong Cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi 20 lần II

2001: Tác phẩm Ngọn đèn không tắt: Giải B ở Hội nhà văn Việt Nam

2000: Tác phẩm Ngọn đèn không tắt: ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học - Nghệ Thuật Việt Nam

2003: Một trong “Mười nhân vật trẻ xuất sắc tiêu biểu của năm 2002”

2006: Tác phẩm Cánh đồng bất tận: Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2006

 

Lời bình của nhà văn Đức Hậu:

Tình và thù. Một chủ đề không mới, được tác giả triển khai trên một đề tài không mới, nhưng với một hệ quy chiếu khá mới mẻ, độc đáo. Các nhân vật trong truyện là những con người nhỏ nhoi sống lắt lay, ngoi ngóp và kiệt sức trong cuộc mưu sinh ở một vùng châu thổ ngập lụt nhưng không có nước để ăn uống, tắm giặt. Không gian trong truyện vừa thực vừa ước lệ như thưở hồng hoang. Trên cái nền sống khốc liệt ấy, một mối thù được nghiền ngẫm trong một mối tình bị kìm nén chôn vùi. Cuộc sống càng khốn cùng, tuyệt vọng thì ý chí trả thù cho chồng của nhân vật Sáo càng quyết liệt. Nàng tìm cách tiếp cận kẻ thù để hành động. Người đọc chờ đợi một cuộc báo thù không cân sức giữa một  một người yếu đuối thân cô thế cô với một kẻ thù quá mạnh và lại được nhà chức trách che chở. Nếu non tay, câu chuyện sẽ biển thành chuyện hình sự. Nhưng đến đây bước ngoặt của truyện đã làm người đọc sững sờ. Trước câu nói: “Em đi với tôi nghen” của kẻ thù, bàn tay cầm dao của người đàn bà rã rời. Không thể trả thù cũng không thể yêu. Đây là điều mà tác giả đã lựa chọn, là sự khác biệt của Nguyễn Ngọc Tư với lối tư duy thông thường. Nhưng không cả hai thì sống tiếp sao đây? Hai kẻ thù ấy và mối tình câm ấy đã lựa chọn, đốt cháy và bỏ lại tất cả, nhảy xuống biển để bơi về một nơi không bến bờ. Nguyễn Ngọc Tư, với cách kể chuyện quen thuộc và hệ thống ngôn ngữ giàu sức biểu cảm của mình đã chấm hết bằng một câu tửng tưng: “có người hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tui không biết. Tui đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi”. Đọc xong, gấp tờ báo lại, người đọc không khỏi bàng hoàng ám ảnh vì kết cục của truyện. Tình yêu và thù hận cái gì mạnh hơn?...

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Các tin mới hơn

Nhà văn đọc sách  

Mai Văn Phấn “giấu mặt” trong “hoa”

VanVN.Net - Từ xưa đến nay, bài thơ viết ngắn nhất là bài thơ chỉ có một câu. Kỷ lục vẫn thuộc về R. Tagore (nhà thơ ấn Độ, người đã đoạt giải Nô-ben văn chương cách nay trên 30 năm). ...