Chân dung văn

21/10
10:44 AM 2017

HÒA HỢP DÂN TỘC NHƯ LÀ MỘT TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA VIỆT

Bùi Việt Thắng (Trích tham luận tại Cuộc gặp mặt lần thứ nhất nhà văn với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc)…Chủ đề hòa hợp dân tộc, xét đến cùng không là “độc quyền” của bất kỳ nhà văn nào. Đó là tiếng gọi của lương tri, tự nó hướng dẫn ngòi bút. Tiểu thuyết Chim én bay (Nxb Tác phẩm mới, 1988) của nhà văn Nguyễn Trí Huân nhận liền hai giải thưởng: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989), và Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng (1989).

                                     Các nhà văn bên lề Cuộc gặp mặt "Nhà văn với sứ mệnh Đại đoàn kết dân tộc"

Dĩ nhiên giải thưởng chưa phải là tiêu chí cuối cùng để thẩm định giá trị tác phẩm văn chương. Nhưng rõ ràng Chim én bay là một trong số không nhiều tác phẩm văn chương thời hậu chiến “chạm” được đến một vấn đề nhạy cảm nhất, vừa có tính thời sự vừa có ý nghĩa dài lâu, vấn đề hòa hợp dân tộc trong và sau chiến tranh. Bối cảnh của tiểu thuyết là mùa đông năm 1969, một thời điểm khó khăn nhất của cách mạng miền Nam.

Sau Mậu Thân 1968, có thể nói tình thế của cách mạng có nhiều thoái lui cục bộ. Bọn phản động có cơ hội ngóc đầu dậy làm mưa làm gió. Bối cảnh câu chuyện ở vùng nông thôn Bình Định. Trong tình hình mới các đội Chim Én được thành lập - đội gồm những thiếu niên dũng cảm nhận nhiệm vụ diệt ác trừ gian. Đội ở tập trung (nằm hầm bí mật), được trang bị vũ khí. Những hoạt động của đội Chim Én tỏ ra rất hiệu quả.  Nhân vật chính là cô bé Quy, lúc này mới 11 tuổi. Cô đã chứng kiến cảnh Giám Tuân, vốn là một du kích chiêu hồi, nay thành một tên ác ôn khét tiếng. Hắn đã đem quân đến bắt và giết anh Dương, chị Hảo (đều là du kích) của Quy. Bản thân bố Quy cũng mất vì trận đòn dã man của Giám Tuân. Quy được phân công cùng một đội viên khác đi xử Giám Tuân. Vợ hắn trước cũng tham gia du kích nên vẫn có tình cảm nhất định với cách mạng. Khi tiếp cận được Giám Tuân một cách khó khăn, khi đang định bóp cò thì Quy phải ngừng vì lúc đó Giám Tuân đang cõng con nhỏ trên lưng. Lần đó Giám Tuân thoát chết và Quy cũng thoát được sự truy đuổi của bọn dân vệ nhờ sự giúp đỡ của vợ Giám Tuân. Sau đó Quy bị bắt trong một lần đi trinh sát để chuẩn bị xử tên Linh - ấp trưởng ấp 5, một tên ác ôn khét tiếng. Để trả thù, Giám Tuân cho chân tay hãm hiếp Quy. Đòn thù thâm hiểm đã gây hậu quả xấu cho cô gái tuổi 14 dậy thì, về sau mất khả năng làm mẹ. Sau đó Quy được giải thoát nhờ một cơ sở trong hàng ngũ dân vệ. Quy lại nhận nhiệm vụ khác tìm diệt tên Hai Đích - một du kích mới chiêu hồi quay ra đàn áp cách mạng. Chiến sĩ du kích (Dũng) cùng đi với Quy hy sinh do bị pháo kích. Một mình Quy diệt Hai Đích và tìm thoát vòng vây của địch. Giám Tuân càng ngày càng lộng hành, tàn ác và quỷ quyệt. Quy lại được giao nhiệm vụ tìm diệt tên này. Cuối cùng chị đã hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc. Nhưng lần này thì chị bị bắt và bị đày qua nhiều nhà tù cho đến ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng. Trong hòa bình, Quy được học hành, được nhận công tác ở nhiều cơ quan Nhà nước quan trọng. Chị gặp lại anh Cường, người yêu, người đồng chí trong chiến trận, chị nói rõ tình cảnh của mình (mất khả năng làm mẹ), để anh yên tâm đi tìm hạnh phúc mới. Chị tìm mọi cách giúp đỡ vợ con Giám Tuân, Hai Đích. Họ chịu đựng sự kỳ thị do chồng gây nên trong quá khứ. Chị thương những người vợ, người con của những kẻ ác ôn bị chính chị tiêu diệt năm xưa. Chị cố gắng làm nhiều việc để bù đắp cho những số phận thiệt thòi do chiến tranh gây nên. Chị làm việc hăng say ngày đêm để quên đi nỗi cô đơn và bệnh tật. Nhưng bệnh ung thư đã cướp mất sự sống của chị. Trước lúc lâm chung, chị thác cậy anh Cường về việc chăm nuôi đứa con út của Giám Tuân, đứa trẻ mà ngày trước vì nó mà chị không dám nã súng vào bố nó. Đó là bi kịch của nhân vật Quy, của những người tốt. Bi kịch thường có tác dụng thanh lọc tâm hồn. Trong đau thương mất mát con người nhận ra chân giá trị đời sống. Tác phẩm không phải không gây ra những khúc mắc trong tiếp nhận. Nhưng nếu đứng trên quan điểm “tính người” thì sẽ thấy tác phẩm đã vượt qua được cái “ba-ri-e” vốn lâu nay khiến chúng ta e dè, băn khoăn, thậm chí không dám thể hiện những góc khuất, những gai góc của sự thật tâm hồn con người. Đó là biện chứng tâm hồn mà văn chương cần khám phá.

Nhà văn Lê Minh Khuê trong nhiều tác phẩm truyện ngắn gần đây đã hướng ngòi bút đến vấn đề hòa hợp dân tộc. Chủ đề này xuyên thấm vào những trang viết vừa dữ dội vừa xúc động khi kể những câu chuyện của những gia đình Việt Nam đã trải qua cuộc đấu tranh nội tâm dai dẳng và khó khăn để tiến tới xóa bỏ hận thù do hoàn cảnh chiến tranh gây nên. Hai tập truyện ngắn xuất bản gần đây của nhà văn đã chiếm trọn cảm tình của người đọc - Nhiệt đới gió mùa (Nxb Hội Nhà văn, 2012) và Làn gió chảy qua (Nxb Trẻ, 2016). Cấu tứ chung cho nhiều truyện trong hai tác phẩm này - thù hận làm đời ta ngắn lại. Tiêu biểu nhất phải kể đến truyện Nhiệt đới gió mùa được dùng đặt tên cho cả tập truyện thứ nhất. Câu chuyện xảy ra trong một gia đình nhưng nhìn rộng ra, nó như một thấu kính, khúc xạ những thăng trầm của đời người trong một thế gian biến đổi, trong những cuộc chiến không ai muốn nhưng vẫn cứ phải diễn ra như một tất yếu lịch sử. Hiếu và Phong là hai anh em cùng cha khác mẹ, cùng chung một gia đình mà do nhiều nguyên nhân dẫn đến tan đàn sẻ nghé suốt mấy chục năm (trừ trước 1954 đến đầu những năm tám mươi thế kỷ trước). Hiếu là con vợ cả (bà Hân), Phong là con vợ lẽ (bà Việt). Thế đã là phức tạp nếu chỉ sống trong yên hàn. Nhưng thời cuộc đã chi phối họ đến tận chân tơ kẽ tóc. Vì một tai nạn hy hữu mà một mắt của mẹ của Phong phải bỏ đi trong khi mẹ của Hiếu có phần can gián. Nhưng là vô tình. Mẹ con Phong sau đó vào Sài Gòn mang theo “mối thù tận xương tủy”. Trước khi đi bà Việt còn kịp cho ông Cơ, người tình bội bạc, phải vào trại giam vì nhà chức trách phát hiện trong nhà ông có truyền đơn (!?). Lớn lên Hiếu gia nhập quân đội và làm công tác đặc biệt (An ninh nội bộ). Vào Sài Gòn, Phong học giỏi và đăng lính, thành sĩ quan làm việc trong Phủ đặc ủy tình báo trung ương quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cuộc gặp gỡ định mệnh giữa Hiếu và Phong diễn ra ở chiến trường Quảng Trị khét lẹt thuốc súng, khi Hiếu trong “vai” là tù binh của Phong. Mẹ Phong làm ăn buôn bán có đủ tiền cho Phong ra nước ngoài để tránh cuộc chiến, nhưng bà cũng muốn con trai ở lại vì: “Biết đâu tiến về Hà Nội được mà trả thù cho mẹ” (!?). Còn Phong thì hứa: “Con sẽ đòi nợ cho mẹ”. Tên Pát, cố vấn Mỹ, nói với Phong: “Hai miền của chúng mày nội chiến triền miên, anh em ruột thịt choảng nhau như thế, hận thù phải hàng trăm năm chưa trả hết”. Giáp mặt Hiếu, Phong lại nghĩ đến chuyện cũ: “Giá như con mắt mẹ Việt bị khoét đi mà vết thương lành được thì mối thù không ghê gớm thế”. Dĩ nhiên Phong không ra tay trả thù trực tiếp người anh cùng cha khác mẹ. Đã có thuộc cấp của hắn hành sự. Khi một mắt của Hiếu bị khoét, Phong hể hả: “Thế là huề nhá, anh Hiếu! Tôi xin một mắt của anh đền cho mẹ tôi!”. Và: “Phong nhặt cái cục thịt đẫm máu trong có con mắt của Hiếu cho vào túi ni lông như giữ tang vật”. Người ta nói tạo hóa có những trò đùa trớ trêu là đúng. Sau 30-4-1975 thì Phong lại vào “vai”  kẻ phải ra trình diện và cải tạo. Hiếu trở về với một mắt bị hỏng, tiếp tục làm nhiệm vụ Quân quản, sau đó chuyển sang An ninh chuyên phân loại sĩ quan Việt Nam Cộng hòa ra trình diện và tập trung cải tạo. Một lần nữa, Hiếu và Phong lại “đụng đầu” trong những “vai” khác trước hoàn toàn. Hiếu phải đấu tranh nội tâm rất quyết liệt để đối xử với Phong trên tư thế người chiến thắng. Trong thời gian Hiếu bị giam giữ trong lao tù trước 1975, Phong đã tìm mọi cách để hành hạ Hiếu. Đã có lúc: “Thù hận trong Hiếu mới nảy sinh mạnh mẽ từ lúc ấy. Tất cả bất hạnh đổ xuống gia đình, đổ xuống đầu Hiếu là do Phong - anh nghĩ vậy. Phong phải chịu trách nhiệm”. Nhưng sau này, khi Phong đã trong tầm kiểm soát của Hiếu, thì anh lại nghĩ khác. Đất nước thống nhất. Dân tộc hòa hợp. Con người ngày càng ngộ ra chân lý, cần lấy hòa hiếu, hòa  giải, hòa hợp để ứng xử, để cùng tồn tại. Không có sự trả thù nào từ phía Hiếu và những người chiến thắng. Sau sáu năm cải tạo, Phong có cơ hội được trở về với mẹ, với đời sống thường nhật. Đó là chủ nghĩa nhân văn của một xã hội với những con người giàu lòng vị tha như Hiếu. Có thể gọi con đường của Hiếu, của Phong, và của những ai trải qua lửa đỏ và nước lạnh là con đường đau khổ để tìm chân lý.

Năm 2016, nhà văn Lê Minh Khuê nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho tập truyện Làn gió chảy qua. Trong tác phẩm mới nhất này, nhà văn đã hơn một lần “chạm” đến một vấn đề nhạy cảm đang đặt ra cho mỗi người khi chiến tranh tuy đã lùi xa hơn 40 năm nhưng lòng người chưa thực sự được hàn gắn, tâm thế chưa thực sự được giải tỏa vì muôn vàn lý do khách quan và chủ quan.

Trong chiến tranh cái chết không chừa bên nào. Có một bà cụ hay đến một nơi thắp hương và “Đếm mấy ngôi mộ quân Giải phóng chưa được quy tập, lại hỏi thăm phía Mỹ những ai chết ở đây mà đã được mang đi… Bà thắp hương ngày lẻ mỗi tuần. Bà nội xem tất cả đã là người cõi Phật” (Làn gió chảy qua, sđd, tr.73). Như thế để hiểu  sâu sắc hơn chuyện một người lính Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam đã lưu giữ cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm mấy chục năm, đã trở lại Việt Nam để cầu nguyện và sám hối (Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã xây dựng thành công bộ phim Đừng đốt dựa trên sự kiện lịch sử này).

 Chủ đề hòa hợp dân tộc vẫn tiếp tục được nhà văn khai thác và thể hiện bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Năm 2016, nhà văn Khuất Quang Thụy ra mắt tiểu thuyết Đỉnh cao hoang vắng (Nxb Văn hóa dân tộc). Bề ngoài nó là một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh. Tất nhiên, vì chính tác giả chia sẻ: “Cuốn sách này tôi viết để tưởng nhớ đồng đội mình đã hy sinh trong trận đánh ác liệt trên dãy cao điểm phía Tây sông Pô Kô (Kon Tum) vào mùa xuân năm 1972 và để trò chuyện với những người còn sống sau chiến dịch đó. Khi đọc xong cuốn sách này chắc chắn đồng đội của tôi sẽ hiểu rằng tôi không chỉ muốn kể lại trận đánh mà còn muốn đi tìm ý nghĩa sâu xa của cuộc đụng đầu đẫm máu này và cắt nghĩa vì sao chúng tôi lại là người chiến thắng. Hơn thế nữa, cuộc chiến đã lùi rất xa rồi. Ngày hôm nay chúng ta đang tìm cách tạm khép lại những tàn dư của hận thù để hòa hợp dân tộc. Trong khi dọn dẹp đống tro tàn của chiến tranh để lại, ta bỗng hiểu ra rằng, thực ra chúng ta không khác nhau nhiều như vẫn tưởng. Đơn giản vì ngay cả khi cầm súng đối địch với nhau từ hai bên chiến tuyến, chúng ta vẫn là người Việt Nam” (Mấy lời đầu sách). Nói Đỉnh cao hoang vắng vượt ra ngoài cái gọi là “văn học chiến tranh” cũng có cái lý của nó. Vì sao? Câu chuyện được kể lại có cái “đường viền” là cuộc chiến vào thời điểm ác liệt nhất của nó. Nhưng “cái ruột” của nó lại là vấn đề muôn thuở của con người - sống và chết, bạn và thù, được và mất, tốt và xấu, hòa giải và hận thù, hòa hợp và chia cắt,…Ba nhân vật chính (đại úy dù quân lực Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Lang, trung sỹ Điết thuộc hạ và Vân, y sỹ Quân Giải phóng) đã nương tựa, giúp đỡ nhau để tồn tại trong hơn một năm lạc rừng. Vân là tù bình của hai quân nhân phía bên kia. Nhưng họ đã đối xử với Vân như với một con người. Cuộc đấu tranh của mỗi bên không phải để chết mà là để sống. Đôi khi họ phải thỏa hiệp nhau để cùng tìm lối thoát hợp lý cho mình. Kết cục, khi đại úy Nguyễn Lang trở về được quân ngũ thì lại tử nạn vì đạn của máy bay Hoa Kỳ trong một cuộc không kích nhầm. Sau chiến tranh, Điết trở về đời thường, làm chân bảo vệ rừng và trông nom ngôi mộ của Nguyễn Lang. Còn y sỹ Vân thì trở về quê hương bản quán. Nhưng bất hạnh thay, hơn một năm chui lủi trong rừng sâu, sinh hoạt bất thường nên chị đã bị tước đi cái thiên chức làm mẹ. Chị sống đơn chiếc, một mình một bóng. Cuối tác phẩm, Vân gặp lại Điết trong một bầu không khí và tâm thế mới của những thường dân đã trải qua cuộc chiến không mong muốn. Họ nhắc nhở về Nguyễn Lang như một con người tử tế (lời của Vân: “Ông ấy là một người tốt…và là người trọng danh dự”). Chính Nguyễn Lang là người chủ động  giải thoát cho Vân (lời ông ta: “Tôi muốn một cuộc chia tay trong hòa bình”). Đỉnh cao hoang vắng kể từ khi xuất hiện đã chiếm trọn vẹn tình cảm của độc giả bởi tư tưởng tuy không mới mẻ hoàn toàn nhưng thực sự táo bạo. Và hấp dẫn bởi cách viết độc đáo, đi vào lòng người.

HÒA HỢP DÂN TỘC NHƯ MỘT SỰ THAM GIA VÀO VĂN HÓA THẾ GIỚI

Đây là một chủ đề nhạy cảm và khó khăn thách thức nhà văn sáng tác. Khi tác giả Lê Lan Anh ra mắt tiểu thuyết Ở đất kẻ thù (Nxb Văn học, 2007) không phải không có những dư luận trái chiều trong đánh giá. Tiểu thuyết kể một câu chuyện trong chiến tranh tuy là hi hữu nhưng không phải là không phổ biến - đối xử với kẻ thù như thế nào khi họ là tù binh (lại là phi công Mỹ) trong tay ta? Trong một cuộc không kích miền Bắc, máy bay của thiếu tá James Mc- Clean (thường được gọi là Jim) bị bắn hạ và y bị bắt làm tù binh. Y được tạm giam giữ trong nhà ông Bi. Ông và cô con gái (tên Na) đã cứu chữa chăm sóc Jim chu đáo tận tình. Những giờ phút trong tay “Việt Cộng” đã làm cho đầu óc Jim sáng ra, ngộ ra bao điều mà từ trước tới giờ y bị “mù” (lại có lẽ do truyền thông Mỹ!?). Sau đó trên đường dẫn giải Jim lên địa điểm cần thiết theo yêu cầu của cấp trên, thì chính Jim và những người du kích trong đó có Na lại bị dính đạn của không lực Hoa Kỳ đến ứng cứu đồng đội. Lần đó, Na đã tử nạn ngay trước mắt Jim. Khi nhìn thấy ông Bi đau đớn ôm xác con gái, Jim bỗng nhiên ứ trào cảm xúc: “Tim Jim nhói lên. Hắn ước ao, một ước ao tột cùng, ngay lúc này đây, được thay thế người cha ấy dù chỉ trong một phút”. Trên đường bị dẫn giải đến nơi giam giữ mới, Jim ngộ ra: “Đối với đất nước này không bao giờ và chưa bao giờ có Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, chỉ có một đất nước duy nhất mà đường vỹ tuyến 17 phi lý tạm thời chia cắt… Không một ai, một thứ vũ khí nào có thể chống lại sự quyết tâm và lòng tin của cả một dân tộc”. Ai đó nói, cái đẹp cứu rỗi thế giới. Nhưng lúc này, với Jim, thì có lẽ tình thương mới cứu rỗi được thế giới, trong đó có y. Nhà sử học Dương Trung Quốc trong Lời giới thiệu đã nhấn mạnh: “Khi nghiên cứu về những cuộc chiến tranh mà dân tộc Việt Nam đã từng trải thì có một hiện tượng khá đặc biệt trong quan hệ Việt - Mỹ là sau một cuộc chiến tranh ác liệt và kéo dài, để lại rất nhiều hậu quả nặng nề cho cả hai quốc gia, thì cựu chiến binh của hai nước lại là cái cầu sớm nhất được dựng lên để góp phần tích cực vào quá trình hòa giải một cách có trách nhiệm và hiệu quả cùng với quá trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và sự hợp tác làm ăn của các nhà kinh doanh”(sđd, tr.195-196). Trong những lời được dùng làm Đề từ cho cuốn sách, chúng tôi chú ý đến lời của ngài Lester Peason (Cựu Thủ tướng Canada, nhà văn, Giải Nobel văn chương 1957): “Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên, khi mà các nền văn minh khác nhau phải học cách cùng sống trong hòa bình, học hỏi lẫn nhau, nghiên cứu lịch sử, tư tưởng, văn hóa, nghệ thuật của nhau; cùng nhau làm phong phú thêm cái vốn của những nền văn minh khác nhau. Đi ngược lại, thế giới nhỏ bé chật chội này chỉ còn lại sự hiểu lầm, căng thẳng, va chạm và thảm họa… Một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh là một bảo đảm an toàn nhất chống lại chiến tranh thế giới”

 

Nguồn Văn nghệ số 42/2017

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *