Những ban đêm thành cột mốc tháng năm/ Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng/ Đêm thao thức đón chờ ánh sáng/ Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời. (Đêm trắng - Nguyễn Văn Thạc)
Gửi thư    Bản in

Thơ Khánh Phương & những trái tưởng tượng

(Đọc tập thơ “Thành phố đại dương” của Khánh Phương, Nxb. Hội Nhà văn, 2013)

Mai Văn Phấn - 17-12-2013 08:50:17 AM

Sau thế hệ thơ chống Mỹ, một số nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng cách tân đã khởi xướng con đường riêng biệt, khẳng định mình, mở ra diện mạo mới cho thơ Việt đương đại. Bài viết nhỏ này nhằm nhận diện thế hệ tiếp theo, thế hệ thứ hai sau 1975, trong đó, thơ Khánh Phương là một trong những gương mặt tiêu biểu, đã khác thế hệ trước, với không gian thơ khơi mở, giàu liên tưởng và tích nạp nhiều trạng thái cảm xúc.

Khánh Phương đã tạo nên vườn thơ riêng với những trái tưởng tượng, bằng kết nối các phương chiều không gian và thời gian đồng hiện. Tính đồng hiện thời gian là một đặc trưng thi pháp thơ Khánh Phương. Chị kết nối nhuần nhuyễn cảm xúc, suy tưởng để tạo ra dòng chảy siêu hình: người đàn bà từ ba ngàn năm trước/ cõng trên vai đứa bé/ vừa chết/ chiều nay (Kanji, 7). Để đạt được điều đó, Khánh Phương đã hóa thân trong thế giới riêng biệt, ám thị người đọc bằng những ẩn ức xa, tái hiện hình tượng từ nhiều nguồn xung động, được hòa trộn cùng những dữ liệu của đời sống thực tại: Tôi lục lọi những ý nghĩ tìm bạn/ buổi sớm mai, cánh rừng đang cháy, mặt hồ/ ly nước, màu vàng của trái chuối, cuốn sổ, chiếc khăn tay…/ bóng bạn trùm xuống bờ vịnh tối/ như cây cọ (Viết cho Machzumi Dawood). Hình ảnh bóng bạn như cây cọ trùm lên câu thơ được kết nối vào những mảnh vỡ tuyệt đẹp của tưởng tượng. Chúng ta thất lạc nhau có lẽ từ một trận sóng thần/ kiếp trước/ đến bây giờ/ em vẫn chưa có anh (Con tàu như cây kim trên mặt biển). Đó là cách nói bộc phát như một mặc định, nhưng có vẻ như ai cũng tin - và tương tự “chúng ta từng cho đi/ cả kho ngọc vàng châu báu” mà không chút đắn đo, nghi ngờ.

Cách liên tưởng của Khánh Phương đa dạng, phong phú. Chị dồn nén cảm xúc, cuốn theo xác tín, đam mê của mình, và, hình ảnh cứ thế được nhân lên, phóng đại gấp nhiều lần so với hiện thực: Bờ biển một ngày nở phồng lên/ Tôi quên mình là ai/ Trần truồng đi xuống bến tắm (Chakti). Chị đảo lộn những khái niệm thông thường, đan cài những hình ảnh vốn được khuếch đại hoặc thu nhỏ theo cách của riêng chị, biến hóa chúng thành máu thịt trong cơ thể, đời sống con người: Ánh sáng chậm/ như bóng tối/ trời anh đào ngực em/ Còn thở/ Mạch máu chảy thành những con đường nước Nhật…/ Mặc áo cho biển/ vạt áo thêu hoa dạ hội/ Tiếng chuông đánh mặt trời (Kan ji, 6).

Cách hòa trộn hình ảnh rất lạ và có phần quái đản, nhưng vẫn được bạn đọc chấp nhận vì chúng xuất hiện và chuyển động logic, tạo những hình dung về một thế giới vừa quen vừa lạ, vừa ló rạng sinh sôi, vừa héo rũ tàn úa: Người ta cắt động mạch/ những bình minh/ em làm sao thoát sống/ máu chúng ta nhuộm đen những câu chuyện/ xưa/ ngực anh giấc mơ quay lại (Sang…). Đây là cách ám thị đầy mộng tưởng, có lúc cố tình lẫn lộn giữa thế giới rộng lớn với cá thể người bé nhỏ. Nhiều hình ảnh đứng cạnh nhau nhưng rất khác biệt, như không hề liên đới được Khánh Phương kết nối, tạo nên những trường nghĩa sinh động và độc đáo. Chiếc rốn/ Bông anh đào biến mất (Kanji, 7). “Chiếc rốn” và “bông anh đào” là hai khái niệm khác xa nhau cả ý nghĩa lẫn biểu trưng, nhưng khi nhà thơ xếp chúng gần nhau và để chúng “biến mất”, thì hai hình ảnh ấy bất ngờ chuyển động, hóa trị ngữ nghĩa cho nhau, vượt qua giới hạn liên tưởng và cảm xúc vốn có. Khổ cuối bài thơ “Kanji 7”, gồm 3 câu thơ với ba nghĩa riêng biệt, nhưng được Khánh Phương liên kết, tạo dựng một trường xúc cảm mạnh và xuyên suốt, hiện thực hóa sự biến chuyển từ thế giới hữu hình sang vô hình, giới hạn thành vô hạn: cỏ mồ lan xanh dưới lưng ân ái/ cắn chặt cái hôn/ quà của anh từ cõi khác. Vẫn cách đan cài giữa chuyển động của vật thể, thiên nhiên, muông thú với đời sống con người, chị dồn nén hình ảnh trong một khổ thơ ngắn: Gieo tóc anh xuống khu vườn/ Mọc lên cây/ Chùm trái tóc như trái phá/ Gọi tới ăn/ Bầy chim biết nói tiếng người (Vết cắt). Những hình ảnh “tóc”, “cây”, “trái”, “bầy chim” trong khổ thơ trên vận động tương hỗ theo quy luật riêng của nhà thơ trong một “khu vườn”, để dẫn đến kết cục Bầy chim biết nói tiếng người.

Thơ Khánh Phương cho bạn đọc cảm nhận được bản chất và chuyển động của sự vật, hiện tượng trong thế giới riêng biệt, dị biệt. Thế giới ấy hiển thị ngổn ngang, thô mộc, nhưng tự nhiên và hồn nhiên. Đó là không gian không bị bất kỳ bàn tay nào can thiệp, sắp đặt, dù các sự vật mang bộ mặt lương thiện hay khăm ác, cứ ngẫu nhiên/ ngang nhiên “xưng xưng” xuất hiện trong thơ chị. Những tiếng bò dê kêu trong chuồng..., lượn sóng trắng theo chân..., áo quần không thời trang..., vết thương tím bầm ở bụng..., ánh mắt có lửa của chó sói..., cái miệng giá lạnh của tuyết đêm..., hay chòm ria, nấm mộ, người ăn mày ở góc chợ… đều hiện lên như chứng nhân lịch sử, “vết bỏng” của những cuộc hỏa hoạn, tao loạn. Đan xen cùng những hình ảnh gai góc ấy, thơ Khánh Phương thường đột khởi xuất hiện những bóng dáng rất đáng yêu, thơ ngây đến nao lòng, như mỗi chiếc lá giấu một con chim trên cây dâu (Cây dâu của chị Hà Thị Kim Liên), người đàn bà bước vào khoảng không (Trong phòng đợi), Cù ký trẻ nhỏ trong nôi/ Cười rúc rích (Gọi...), Trong hồn tôi xanh/ Một chú thỏ nâu tới ngồi.../ Hạt cát/ Còn run rẩy/ Khi nước triều rút xuống/ Bình thản trong ánh mặt trời.../ Vẻ đẹp là đóa hoa nở không ngừng suốt đêm đen (Đọc Chú Đại Bi)… Những hình ảnh này hé mở từng cánh cửa, có khi rất nhỏ, để bạn đọc biết được trái tim nhân hậu, lòng vị tha, vẻ đẹp tinh khôi trong tâm hồn nhà thơ.

Đọc thơ Khánh Phương ngỡ như có nhiều con sóng lớn nhỏ xô đến, táp mạnh, có lúc trùm lên dữ dội. Những “con sóng” sự kiện, những chi tiết, có lúc tưởng chừng vụn vặt ấy, nhưng chúng đều mang ý tưởng, chủ đích của tác giả, liên tiếp bầy đặt chồng chất trước mắt bạn đọc. Tôi chọn ngẫu nhiên bài thơ “Trong nắng” để nói về áp lực sau những hình ảnh, những câu chuyện được chị kể ra tinh nghịch, tưng tửng, ngẫu nhiên: … chiều chúng ta ngồi bên cửa biển. Rồi cũng ngẫu nhiên chị chạm vào thế giới của loài hải âu trắng và cả linh hồn còn lẩn khuất…, ngẫu nhiên nhậu với món cá xanh xương nướngđi tiểu trong rừng dương, và, bất ngờ đưa câu chuyện sang một không gian và thời gian khác, xa lạ, nhưng vẫn có thể chấp nhận… kể về tro cốt chúng ta mai sau bay trên sóng. Đây chính là “ma thuật” trong thi pháp thơ Khánh Phương, nó cho bạn đọc tri nhận, cảm giác được bản chất sự việc, của thế giới vừa được chị tạo lập, vừa hiện hữu vừa mơ hồ, muốn theo đuổi nhưng rất khó nắm bắt. Chiều rút nước chầm chậm/ lộ ra thân thể biển/ sau cuộc làm tình. “Nước rút” hay thời gian trong bài thơ đã dần trôi sang một thời điểm khác, trái đất đã quay sang một khung cảnh khác? Những hình ảnh về cuộc tụ bạ bạn bè trên bãi biển bỗng chốc lùi vào dĩ vãng. Tấm màn của một vở kịch đã khép lại, với hình ảnh kỳ lạ khác của vở diễn khác đã diễn ra: Sớm mai lấy ra những dây muống biển xanh rì/ Cái ôm hôn tạm biệt… Những thi ảnh trong bài không rậm rạp, đan xen, khó hiểu, và, thường xuất hiện ngẫu nhiên, nhưng cho ta cảm nhận được vạn vật đang quay với vận tốc riêng. Cũng có lúc nhìn những bọt nước mà đoán biết được tốc độ và đường bay của con cá lớn chạy trong lòng biển, nghe tiếng chim hót mà hình dung ra màu sắc, đường bay của chúng...

Thơ Khánh Phương chuyển động trong không gian mở của hành trình, bởi mỗi bài thơ của chị là một điểm “khai phóng” cho giai đoạn tiếp theo của sáng tạo. Do vậy, nếu phần lớn những bài thơ trong tập của chị là con đường, cánh đồng, mặt nước, sườn dốc, thì bài “Thành phố đại dương” là lòng đất, độ sâu của hang núi, lòng hồ… Ở bài thơ này, hồn cốt không giấu dưới bề mặt sự kiện, hình ảnh mà được tan hòa, thấm đẫm trong từng câu thơ, trong nhịp thơ để làm nên một không gian đặc trưng phong cách Khánh Phương. Do vậy, những bí ẩn, linh ẩn của đời sống con người và vũ trụ khi đồng hiện cùng các thi ảnh, thì mạch thơ chuyển động đa tầng hơn, có phần phức rối, khó nắm bắt hơn. “Thành phố đại dương” chưa phải bài thơ hay nhất trong tập, nhưng là tổng hòa các thủ pháp của nhà thơ, đồng thời mở một cửa sổ cho bạn đọc nhìn thấy giai đoạn tiếp theo của Khánh Phương sau tập thơ này. Lửa rực hồng dưới biển sâu/ Tôi vươn mình/ Tóc xanh dài trong nước. Đó là chặng đường sáng tạo đầy tự tin trong cảm xúc mãnh liệt của chị.

Cách kết thúc bài thơ gây hiệu ứng bất ngờ cũng là nét độc đáo trong thơ Khánh Phương. Nó đẩy bài thơ sang một liên tưởng khác với những gì ta đã gặp trong phần nội dung, biến cái vô lý thành có lý, cái lỏng lẻo, lan man thành điểm hội tụ tỏa sáng. Trong bài thơ “Thành phố”, nhà thơ kể bâng quơ, như huyên thiên nhiều mẩu chuyện, từ chuyện cơn đau trở dạ của một người đàn bà, những phát đại bác, rồi đột ngột nhảy sang Những đội thuyền được tiếp thêm nhiều buổi sáng yên tĩnh trước lúc ra khơi, đến chuyện Nhặt được người một chiều lang thang… Nghe như đã nhàm chán, chẳng muốn nhớ, chẳng muốn quan tâm nữa, nhưng bất ngờ ở khổ thơ cuối, hình ảnh người đàn ông và người đàn bà xuyên lấy nhau, mãnh liệt và hoang dại trong cơn dâng hiến đã đẩy bài thơ sang một chủ đích khác: Như nhặt được mối tình/ trước cửa/ super market lúc 13 giờ đêm/ xuyên lấy nhau/ cùng anh/ lại sinh hạ thành phố.

Bài thơ “Chiếc bình bát”, từ tên bài đến nội dung đều giản dị, thường hằng. Đa phần những hình ảnh trong đó được tác giả thuật lại với giọng điệu chậm rãi, như cố ý mệt mỏi “chán không thèm nói”: Đựng nắm nếp xôi dính tay/ vốc đậu phụng, mảnh cơm dừa/ trái xoài chín rục… Có lúc nhà thơ như một võ sỹ ngái ngủ, rồi bất chợt giật mình rút thanh gươm ra khỏi vỏ, ánh thép chạm vào bầu không lóe sáng: Có khi rỗng không/ soi bóng bầu trời. Miệng “Chiếc bình bát” bỗng hé mở cho bạn đọc nhìn thấy sự lộng lẫy, thăm thẳm của bầu trời; nó hé lộ, những chi tiết, chuyển động từ đầu bài thơ như thể vật ký sinh bên bức màn vô minh, nơi tạm gửi, chênh vênh của cõi thế. Và, đây là đoạn kết: Có cô bé bỏ vào một trái chanh/ nó lăn tới lăn lui/ theo nhịp bước chân… “Nhịp” của “bước chân” hay chính là “nhịp” sinh học của nhân sinh, vũ trụ? Đoạn kết bài thơ cho bạn đọc nhìn thấy điều kỳ diệu của thiên nhiên, vạn hữu được hiển thị từ những những chuyển động bình dị, tưởng chừng giản đơn trong “Chiếc bình bát”, một cửa sổ quan sát thế giới thu nhỏ.

Có  nhiều cách liên tưởng về những hình ảnh trong thơ Khánh Phương. Trong bài thơ “Tôi thấy”, Khánh Phương hóa thân thành một cây con mọc trên tường ngôi nhà sắp đổ, và, hình ảnh Anh cún con ngoạm thử lá tôi/ ngạc nhiên thấy chảy máu gợi cho tôi cảm giác được chạm tới cái cốt lõi mong manh của kiếp người trong hằng hà bất tận của vũ trụ và cũng thấy ớn lạnh, rờn rợn khi nhìn thấy quy luật sinh-diệt khắc nghiệt của đời sống. Bài thơ đem đến nhiều liên tưởng lạ, khổ cuối lại gợi cho tôi hình dung một bông hoa bị sâu đục gần hết những cánh mỏng bấy bớt, nhưng phần còn lại vẫn ung dung mịn màng tỏa hương: Chiều qua/ anh xe ủi tới lui chỗ này/ không cán phải tôi/ Chúng tôi cùng lớn dưới mặt trời. Cái cây con mà chị đã tự nhận ấy dẫu non nớt, nhưng đầy kiêu hãnh, tự tin trong mọi hiểm họa luôn rình rập. Bạn đọc còn được gặp tâm thế ấy trong khá nhiều bài thơ của Khánh Phương. Hãy ngồi/ Cho ban mai thấm vào thịt da/ Ý nghĩa của đời (Tôi thấy, II). Đó là thái độ sống của thi sỹ, là cách hướng thiện, lòng tin cậy mãnh liệt vào những điều giản dị và chân xác của đời sống.

Thơ Khánh Phương ít lệ thuộc vào hiện thực sự kiện đang diễn ra hàng ngày. Có vẻ chị không chú tâm hoàn toàn vào việc phản ánh nó, nhưng một vài hình ảnh dù chỉ thoáng qua, vẫn cho ta hình dung một thực tại khốc liệt, lạnh lùng và đôi khi quá phũ phàng: Cô gái điếm đợi khách/ Trong hành lang cầu vượt/ Người ghiền xì ke nằm trên đống rác/ Đàn muỗi vuốt mắt cho anh ta (Tôi thấy). Nhưng thực tại đó trong thơ Khánh Phương vẫn được nhìn bằng sự thừa nhận và bao dung, không phán xét,  vẫn lóe sáng những ánh chớp của khao khát giải phóng: Hoa trắng rơi không ngừng/ Phủ lên điều không biết/ Những người chết nửa đường tự do (Chakti).

Khánh Phương mê mải tạo dựng ngôi nhà thơ của mình, luôn tin mãnh liệt vào tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm, soi sáng và hóa giải tất cả. Giọng thơ thường biểu cảm chân thành, giản dị, nhưng đem đến cho bạn đọc sự bất ngờ về món quà vô giá mà thượng đế đã ban cho loài người: Anh yêu/ chỉ tình đôi ta/ mới làm nên điều đó. Tình yêu mang sứ mệnh của Thiên sứ có thể làm được nhiều phép lạ trên thế gian: Khi cái hôn em gửi lên môi anh/ giữa mặt biển mênh mông/ bỗng mọc lên hòn đảo/ mọc lên cây xanh, âm nhạc, con người (Trong rừng Pahang). Trong bài thơ “Ca dao”, hình ảnh “chàng về với em” vừa dịu dàng, vừa quấn quyện, chảy xiết và hài hòa như dòng nước, để từ đó sinh ra tất cả mọi điều bình dị và cao đẹp: Như ánh trăng rơi trên lưỡi kiếm, con đường xa khỏi bàn chân…/ Về với em/ Như giọt sương tan dần, phiến đá ấm mặt trời…/ Với em/ Như tách trà sớm mai, chuyến xe khuất trong bụi đường, hơi thở người hàng xóm trở bệnh chiều qua, trái đêm nở ngôi sao xanh, đoàn người đi qua cây cầu gỗ lúc 1h sáng, đụn khói canh mùa thu, cây bạch dương khắc lên nền trời, giọt nước vạch lá sen, mùi mưa ẩm. Mọi chuyển động trong bài thơ trên đều khơi lộ vẻ đẹp kỳ diệu của thế giới, nó diễn tiến tự nhiên như hơi thở, ánh sáng, như khí trời… Trong câu thơ cuối, nhà thơ đã để bạn đọc thảng thốt khi nhìn thấy ánh hào quang tỏa rạng từ những điều bình dị khi “chàng về với em” mở ra từ đầu bài thơ: Như một ngày ngả vào lòng đất/ hắt ánh lên bầu trời sáng rực. Ánh sáng rực rỡ trong câu thơ đã phủ trùm lên các thi ảnh trong bài, làm cho “anh” và “em” hiện lên thành biểu tượng kiêu hãnh và lộng lẫy. Bài thơ “Tiếng đàn”, là cách chị phục dựng câu chuyện xưa về tình yêu. Ngay từ khổ thơ đầu, Tình em/ giọt sương nằm trong lá sen/ mặc gió lay giật cho thấy vẻ đẹp chênh vênh, dễ tan vỡ nhưng lạ kỳ, huyền ảo. Các hình ảnh hiện lên trong bài thấp thoáng nét “cổ trang” nhưng được bài trí rất hiện đại, cho bạn đọc cảm giác được sống trong không gian đương thời, rồi bất chợt chìm sâu vào xa xưa cổ tích. Chị đã vận dụng ngôn ngữ biểu cảm, nửa hư nửa thực rất khó nắm bắt: Hãy nằm nghỉ nơi đây/ mái nhà ta/ trong tiền kiếp/ mặt trời sẽ vén lên ngực chàng/ mảnh chăn ấm của em. Hình ảnh mảnh chăn ấm của em tỏa ánh sáng gần gũi và thánh thiện, thanh lọc đến trong suốt mọi hình ảnh khác trong bài và sưởi ấm những góc khuất ẩn sâu, giá lạnh.

Cũng như nhiều nữ sỹ, Khánh Phương có nhiều bài thơ, câu thơ độc đáo về tình yêu. Một tình yêu bao gồm cả dâng hiến, đắm say đến mê muội, gần gũi với tinh thần cao cả của phụ nữ Á Đông. Trong bài “Thơ viết cho anh ngày bệnh”, khổ thơ mở đầu Biển nuốt mất nửa thân anh/ thức dậy em cầu nguyện ngày lên đã mang trọn vẹn nội hàm này. Người đàn bà trong thơ chị đã yêu để hóa thân, tan chảy trong câu thơ: Em còn một nửa người đàn ông/ nửa kia là biển/ đổ vào em những sóng…/ Anh chệnh choạng bên rìa sóng/ Đêm xuống không ai biết mình ép làm một. Chị yêu để đồng nhất, để thoát xác và hòa nhập với cái vô cùng trong một cõi khác. Đây là phút giây tình yêu viên mãn trở về trái đất, giờ phút “giáng thế”: Đem cái hôn chúng mình xuống mặt đất/ Gió thốc/ Sáng loà. Ánh sáng lòa trinh bạch và khôi nguyên này ta còn được gặp trong nhiều câu thơ khác của Khánh Phương, những câu thơ mang hàm nghĩa cứu rỗi: Giấc mơ/ ta bước sang nhau trộn vào nhau cái hôn vô biên/ trên những đứt gãy vỏ trái đất (Chuông buổi sớm). Thơ tình của chị không hoàn toàn mới lạ, nhưng thu hút người đọc ở sự trong sáng, và luôn trở thành một trong những cái cớ để bộc lộ những tiêu chí đa dạng của cái đẹp, nhân cách và nhân tính. Vậy mà mình yêu/ Như cơn gió đêm bão/ Không còn chốn lùi… Đó là tuyên ngôn yêu của Khánh Phương, và, cũng là áp lực mãnh liệt thôi thúc chị trên hành trình thơ ca đầy mỹ cảm.

Thơ Khánh Phương hát nhiều hơn nói. Có lúc giọng thơ chị chậm rãi và giản dị như những lời tâm sự chân thành, cho bạn đọc đủ hình dung tình tiết của câu chuyện, rồi ngay sau đó, chúng được biến hóa/ biến ảo vào những không gian tưởng tượng, đầy ắp huyễn tưởng và mộng mị. Bài thơ “Trong rừng Pahang”, chị bình tĩnh bầy đặt một khung cảnh thực bằng giọng văn kể, những hình ảnh và tình tiết giản đơn như ta vẫn thường gặp: Sương đêm dâng tới cửa sổ tầng bảy/ nhòa trắng những ngọn đèn. Nhưng ngay sau những hình ảnh quen thuộc như bất động kia, nhà thơ đã bất ngờ mở ra liên tưởng mạnh: những con đường không dấu tích trên cao, và sau đó, chị đã bình tĩnh lý giải ý nghĩa của điều kỳ diệu, thiêng liêng đó: Anh yêu/ chỉ tình đôi ta/ mới làm nên điều đó. Những tình tiết “sương”, “cửa sổ”, “ngọn đèn” trong câu thơ trên được nhà thơ chắp cánh, bay bổng cùng với những con đường trên cao trong khoảng không rộng lớn và thanh tĩnh. Thơ Khánh Phương hát lên bằng nhiều cung bậc. Tôi nói chị hát, vì những thi ảnh của chị thường biến thành âm thanh có giai điệu, nhịp điệu dội vào tâm trí bạn đọc. Chúng ta đợi mặt trăng lên và nó đang xuống/ Đàn muỗi bay đi hút đêm và sự sống từ đêm/ giản dị như cái chết (Viết cho Thúy). Đoạn thơ trên cho ta hình dung chị đứng hát khẽ một mình trong bóng tối, mọi vạn hữu xung quanh như tạm dừng lại trên ranh giới giữa tĩnh và động, xuất và nhập, sáng và tối, thiện và ác v.v… Trong bài thơ “Hiện thân”, Nơi thân thể chúng ta chạm nhau, câu thơ thăng hoa trong tiết tấu nhanh, gấp gáp như tiếng gió rít qua cánh đồng rộng, làm cho tất cả cây lá trên đó như rạp xuống: làm thành thứ ánh sáng không ai chịu nổi/ sức nóng/ không gì chịu nổi. Bài thơ “Lá” là một tiêu biểu cho cách hát của Khánh Phương. Mở đầu là tiếng lá hát: Bay lên cao cùng nắng/ không trung triệu chiếc cầu vồng/ Chìm xuống vực sâu/ mang theo trái tim em. Đó là thần thái của chiếc “Lá”đang ngự trị/ trị vì trên trái đất. “Lá” vô danh, vô tình, nhưng cũng hữu tình che chở con người. Và trái tim chị đã hóa thành trái tim “Lá”, biết đau đớn, biết rộn ràng trước mọi biến thái của thiên nhiên, đời sống. Kết thúc là khúc ca run rẩy, đắm say khi “môi anh” xuất hiện với nhiều tầng nghĩa âm vang: Ghé môi anh/ Uống/ soi gương vào lá/ ly thuốc mang em đi xa

Những bài thơ của Khánh Phương viết gần đây đã vượt lên giai đoạn trước trong hành trình thơ của mình, đã hoàn thiện và ổn định hơn so với tập “Hai bầu trời” (thơ, Nxb. Hội Nhà văn, Bách Việt Books, 2010). Vẫn cách liên tưởng lạ, tạo dựng không gian rộng và mở nhiều lối tiếp cận, ngôn ngữ hiện đại, giàu biểu cảm, đa nghĩa…, nhưng thơ Khánh Phương đã định hình rõ phong cách, gây ấn tượng hơn trước. Đó là cách liên tưởng mạnh bạo mang tính áp đặt, gây cảm giác lạ, nhưng được sáng tạo trong cảm xúc mạnh, chân thành, nên dễ được bạn đọc chấp nhận, và, tinh thần khách quan hóa nhuần nhuyễn trong việc tạo lập một thế giới thơ tích nạp nhiều tầng lớp cảm xúc và không gian - thời gian. Nếu trong tập “Hai bầu trời”, chị sử dụng nhiều thể loại thơ (tự do, thơ-văn-xuôi, hai-kư, tân hình thức…) với cách chuyển dịch ngôn ngữ có phần gần với thơ siêu thực, tượng trưng, biểu hiện…, thì đến giai đoạn gần đây, chị đã thoát ly tất cả những khuynh hướng ấy, kể cả hậu-hiện-đại sau này. Chị chú ý biểu đạt thi ảnh bằng ngôn ngữ giản dị, tinh lọc, và, chúng được bầy đặt hợp lý trong những ngữ cảnh đặc biệt để diễn tả rõ nét những chuyển động hỗn mang của đời sống và trong tâm thức. Xe hủ tiếu vết bỏng đêm sương/ những bậc thang không dẫn ta đi/ lưng chừng bóng tối/ Sao ngăn lòng đừng khiêu vũ/ gió thổi bay hết áo anh/ (Hoa).

Đọc thơ Khánh Phương, tôi vẫn thích giá như tên một số bài thơ có thể gợi mở hơn nữa. Đặt tên bài thơ cũng là một thủ pháp quan trọng của một tác giả, nó gọi ra phần khuất lấp còn mơ hồ ở nội dung của bài, hoặc mở tiếp một cánh cửa khác,cho bạn đọc được tự do liên tưởng xa hơn, suy ngẫm sâu sắc hơn. Tôi thấy chưa thật thỏa mãn tên một số bài thơ mà chị đã đặt, như “Viết cho Thắng…”, “Viết cho Thúy”, “Nhớ”, “Thành phố I, II, III”

Khánh Phương sáng tác thơ không nhiều và cũng ít hoặc ngại công bố. Do tính cách lặng lẽ, muốn trốn tránh nơi đông đúc, lẽ khác, thơ ca là một vỉa trong nhiều vỉa tầng sáng tạo của chị. Khánh Phương là cây bút viết lý luận phê bình khá sắc sảo, có cách nhìn riêng, giàu cá tính. Ngoài ra, chị còn viết văn xuôi, viết chân dung, phóng sự, làm báo… Ở lĩnh vực nào chị cũng tạo được dấu ấn, đóng góp đáng kể cho đời sống văn học. Còn với thơ, chị là một trong những nhà thơ tạo được vóc dáng riêng, thể hiện bản lĩnh của người cầm bút, khước từ sự quen nhàm, bằng lặng, để tạo ra những cây trái tưởng tượng của riêng mình. Rừng ở Kalimantan chắc dày đặc hơn/ mọc đầy những trái tưởng tượng của tôi (Con tàu như cây kim trên mặt biển). Con đường thơ Khánh Phương mới là những bước chuyển động đầu tiên, nhưng tin rằng người đọc sẽ đón nhận được những thành quả tiếp theo rất đáng trân trọng của chị./.

 

 

 

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Nhân vật  

Người đi về phía ánh trăng

VanVN.Net - Nhà thơ Lò Ngân Sủn là một thi nhân Việt Nam xuất sắc, tác giả của 14 tập thơ, 2 tập truyện ký, 10 tiểu luận nổi tiếng và hàng loạt bài thơ được phổ nhạc rộng rãi. Mãi ...