NHỊ CA
(1926-1984)
Họ và tên khai sinh: Chư Đức Kính. Sinh ngày 18 tháng 7 năm 1926. Quê quán: làng Cổ Điển, xã Tứ Hiệp, huyện Thanh Trì, TP Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Mất ngày 28-10-1984 tại Hà Nội.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tham gia quân đội từ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, phóng viên mặt trận các báo Bắc Sơn, Vệ quốc quân, nhiều năm làm công tác thư viện, biên tập thơ, phụ trách tổ Lý luận phê bình tạp chí Văn nghệ quân đội. Trước khi mất là chuyên viên Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Ngoài viết phê bình, nghiên cứu còn dịch sách văn học.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Viết hồi ký (biên soạn, 1968); Từ cuộc đờiT vào tác phẩm (tiểu luận phê bình, 1972); Dọc đường văn học (tiểu luận phê bình, 1977); Gương mặt còn lại Nguyễn Thi (khảo cứu, 1983), Kịch Sê khốp (dịch); Tiếng hát dân gian vùng Pôđốpxki (dịch); Cha và con (dịch của Tuốc ghê nhép); Ngày xuân thánh nữ (dịch của A. Seghentrucốp); Anna Carêrina (dịch của L. Tônxtôi); Pháo đài cổ (dịch của Vơladimia Belaep); Nhà thờ Đức bà Pari (dịch của Vích to Huggô); Chuỗi hạt hổ phách (dịch của Nhicola Pôgôđin).
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC:T Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, ngành Lý luận - phê bình văn học với tác phẩm Gương mặt còn lại Nguyễn Thi (1983-1984). Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
PHẠM QUỐC CA
Họ và tên khai sinh: Phạm Quốc Ca. Sinh ngày 5 tháng 3 năm 1952. Quê quán: Diễn Kỷ, Diễn Châu, Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Trưởng khoa Ngữ văn Đại học Đà Lạt, Phó Tổng biên tập tạp chí Lang Bian, Uỷ viên BCH Chi hội các nhà văn Việt Nam tại khu vực Đông Nam Bộ. Hiện thường trú tại: 1 Phù Đổng Thiên Vương, TP Đà Lạt. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1997.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Nhập ngũ năm 1970, chiến đấu tại Đông Nam Bộ và Cam puchia. Năm 1977 chuyển ngành học tại khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ 1983 đến nay công tác tại Khoa Ngữ văn Đại học Đà Lạt. Thực tập sinh tiếng Nga tại Liên Xô (1989-1990). Bảo vệ luận án Tiến sĩ Ngữ văn tại Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh năm 2004.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Tiếng trầm (thơ, 1987); Chân trời mở (thơ, 1994); Làng trong nỗi nhớ (thơ, 1996); Mấy vấn đề trong thơ Việt Nam 1975-2000 (chuyên luận, 2003); Những cánh rừng, những bài ca (thơ, 2004).
GIẢI THƯỞNG VĂNT HỌC: Đã nhận 08 giải thưởng, tặng thưởng văn học, trong đó có: Tặng thưởng hạng B (tập thơ) Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, 2003. Tặng thưởng (LLPB) Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1996. Tặng thưởng hạng B (LLPB) Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, 2003.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Viết văn, làm thơ là công việc cao quý đòi hỏi cùng lúc cả tài và tâm. Khởi đầu đó là hành động tự giải thoát những điều chứa chất trong tâm hồn, không viết ra không được, nhưng kết quả của việc sáng tác lại phải góp phần làm giàu thêm kinh nghiệm thẩm mỹ của con người. Vì vậy văn chương đồng nghĩa với sáng tạo và có vô vàn lối, vô vàn vẻ đẹp khác nhau. Tự do sáng tác bao hàm trong đó sự tôn trọng cái khác với mình nơi đồng nghiệp.
HOÀNG HỮU CÁC
Họ và tên khai sinh: Hoàng Hữu Các. Sinh ngày 13 tháng 9 năm 1946. Quê quán: Diễn Lộc, Diễn Châu, Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Vào Hội năm 1986.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Nhiều năm tham gia trong quân ngũ: quân chủng Phòng không - Không quân, từng làm trợ lý câu lạc bộ sư đoàn, trợ lý văn nghệ quân chủng Phòng không - Không quân. Hiện là phóng viên báo Gia đình và Xã hội.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: TrênT không yên tĩnh (tiểu thuyết, 1982); Ký sự sư đoàn (ký sự, 1984); Câu chuyện không định viết (tiểu thuyết, 1986); Tỷ phú hạnh phúc (tập truyện, 1997).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhất bút ký của báo Văn nghệ 1985 với Làng tôi bên bờ sóng.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Văn chương như hoa, có loại hoa thơm mà khôngT đẹp ngược lại và có loại hoa độc. Tôi muốn làm một thứ có ích cho đời có thể vừa ngắm vừa ăn được như hoa thiên lý.
PHAN VĂN CÁC
Bút danh khác: PHÁC VĂN, PHÁC CAN
Họ và tên khai sinh: Phan Văn Các. Sinh ngày 21 tháng 6 năm 1934. Quê quán: Đức Lạc, Đức Thọ, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Chủ tịch Hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Hán Nôm, Uỷ viên Hội đồng khoa học Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Hiện thường trú tại: 31, ngách 46/12 Hào Nam, quận Đống Đa, Hà Nội. Vào Hội năm 1991.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp Đại học năm 1956, giảng dạy ngoại ngữ ở Đại học Nông nghiệp I, Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Sư phạm ngoại ngữ Hà Nội, làm công tác nghiên cứu ở Viện Khoa học giáo dục, Viện Bảo tàng Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu Hồ Chí Minh và Viện nghiên cứu Hán - Nôm (từ 1990 đến 2000 là Viện trưởng Viện nghiên cứu Hán - Nôm); Nghiên cứu viên cao cấp Viện KHXH VN. Phó giáo sư ngôn ngữ học.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Một số tác phẩm dịch: Cùng cất lời ca (1960); Thơ Quách Mạt Nhược (1964); Bài ca Lôi Phong (1965); Một nửa đàn ông là đàn bà (tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng, 1989); Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh ngoài Ngục trung nhật ký (1992); Phong cách nam nhi (tiểu thuyết của Trương Hiền Lượng, 1994); Lửa ghen (truyện ngắn Đài Loan, 1995); Lã Thị Xuân Thu (1999); Thơ Lỗ Tấn (2002); Hoa viên kỳ ngộ (1997); Cổ duệ từ (2000). Nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu: Tổng tập văn học Việt Nam (tập 11, 1994); Tuyển tập văn học Hồ Chí Minh (tập 3, 1995); Thơ văn Nguyễn Cao (1992); Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời Lý (chủ biên, 1998); Văn khắc Hán Nôm Việt Nam thời Trần (2 tập, chủ biên, 2002); Từ điển Hán Việt (1994); Từ điển Hán Việt (chủ biên, 2002); Từ thường dùng trong Hán văn cổ (1999) ; Đại từ điển Việt- Hán (2006) ...
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng văn học của HộiT Nhà văn Việt Nam năm 2001 cho tác phẩm Cổ duệ từ (dịch).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Biển văn mênh mông và sâu thẳm, đầy sức lôi cuốn. Mỗi người đến với nghề văn bằng một nẻo đường riêng, gắn với con đường học tập và công tác của mình. Phiên dịch, giới thiệu văn học chữ Hán Việt Nam và văn học Trung Quốc là hai lĩnh vực khác nhau nhưng rất gần nhau và đều có ích cho sự nghiệp xây dựng nền văn học Việt Nam hiện đại. Có dành cả cuộc đời mình cũng chẳng thấm vào đâu, vì công việc cực kỳ lớn lao và nặng nề. Đóng góp được phần nào hay phần ấy.
MẠC CAN
Họ và tên khai sinh: Lê Trung Can. Sinh ngày 14 tháng 4 năm 1945. Quê quán: Minh Hải. Dân tộc: Kinh. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Diễn viên. Hiện thường trú tại: 54/29/23 KP4 Bình Trị Đông, Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Vào Hội năm 2006.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ nhỏ đến nay chỉ học- tự học là chính, để làm diễn viên. Từng đóng nhiều vai, nhiều phim. Mới đây thêm việc sáng tác văn chương.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Món nợ kịch trường (tập truyện ngắn, 1999); Tấm ván phóng dao (tiểu thuyết, 2004); Tờ 100 đô la âm phủ (truyện ngắn, 2004); Cuộc hành lễ buổi sáng (truyện ngắn, 2005); Tạp bút Mạc Can (2006).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải A cuộc thi tiểu thuyết năm 2005 của Hội Nhà văn Việt Nam (cuốn Tấm ván phóng dao).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Độc giả và khán giả thương tôi- và biết rất nhiều về tôi- vì tôi là một diễn viên hài vui tính- và là: một người viết văn nghèo ít chữ cô độc. Tôi viết các câu chuyện về hoàn cảnh, vui buồn của người xung quanh tôi. Tôi nghĩ rằng dù cho cuộc sống có khắc nghiệt đến mấy, cũng không nên trả lại bằng sự hằn học cay cú. Thương yêu kẻ bất hạnh và không ganh tỵ với hạnh phúc của người may mắn là quan niệm sống của tôi. Về sáng tác, tôi cố học hỏi và viết mới hơn - nhưng không cầu kỳ khó hiểu. Dù cho câu chuyện nhỏ, nhưng viết dễ đọc, dễ hiểu, là cách sáng tác của tôi. Cám ơn các độc giả và các nhà văn đã giúp đỡ tôi trong bước đường văn học mà tôi đang tập tễnh bước vào.
Nếu không viết tôi sẽ chết. Tôi nghĩ viết tức là sống một cuộc đời khác, một cách sống khác.
XUÂN CANG
Bút danh khác: CHIỀU QUỲNH
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Xuân Cang. Sinh ngày 25 tháng 12 năm 1932. Quê quán: xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 214 nhà A7, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1963.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ năm 1948 làm liên lạc trên chiến khu Việt Bắc, sau đó làm thợ tiện quân giới, thợ lò cao luyện gang quốc phòng, vào bộ đội làm trinh sát pháo binh. Năm 1959 làm cán bộ Công đoàn khu gang thép Thái Nguyên. Đã tham gia các chức vụ: Tổng biên tập báo Lao động, Giám đốc nhà xuất bản Lao động, Uỷ viên Ban thư ký Tổng liên đoàn lao động Việt Nam khoá VI, Ban thư ký Hội Nhà báo Việt Nam khoá IV, Ban chấp hành Hội Nhà văn khoá IV, Đảng uỷ khối dân vận trung ương khoá III.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Suối Gang (tiểu thuyết, 1960); Lên cao (truyện ngắn, 1962); Những vẻ đẹp khác nhau (truyện ngắn, 1971); Trước lửa (tiểu thuyết, 1973); Hạt máu (hồi ký ghi theo lời kể của Trần Bảo, 1970); Chặng đường nóng bỏng (hồi ký ghi theo lời kể của Hoàng Quốc Việt, 1985); Dấu vết khác thường (truyện ngắn, 1982); Những ngày thường đã cháy lên (tiểu thuyết, 1987); Con bé mùa thu vàng (tiểu thuyết, Thanh niên, 1990); Huyền thoại một thời ly tán (tiểu thuyết, 1990); Dấn thân (tiểu thuyết, 1990); Nụ hoa cau (truyện ngắn, 1997); Gió thiêng (tiểu thuyết, 2004); Tám chữ Hà Lạc và quỹ đạo đời người (biên khảo, 2000).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Hai tặng thưởng văn học đề tài công nhân năm 1971- tập truyện ngắn Những vẻ đẹp khác nhau; năm 1974 - tiểu thuyết Trước lửa. Giải thưởng thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh và báo Công an thành phố Hồ Chí Minh tác phẩm Dấn thân. Tặng thưởng của Hội Nhà văn năm 1968 cho tập truyện ngắn Những vẻ đẹp khác nhau.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Quá trình sáng tác của nhà văn là một hành trình tìm mình. Tác phẩm thành công của nhà văn bao giờ cũng là một cái nhìn xuyên suốt mang dấu ấn cá nhân và một nghệ thuật đi tìm bạn đọc. Dấu ấn cá nhân chính là cái hồn của tác phẩm. Nó làm nên nhân vật và cấu trúc tác phẩm, và đây chính là điều tôi đang dành thời gian tìm tòi, cảm nhận.
ĐÀO CẢNG
(1941-1987)
Họ và tên khai sinh: Đào Văn Cảng.
Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1941, tại huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.
Quê quán: xã Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Mất năm 1987 tại Hải Phòng.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Thợ cơ khí trong thời kỳ giặc Mỹ đánh phá miền Bắc. Sau đó chuyển sang công tác nghiệp vụ tại cảng Hải Phòng. Thời kỳ này bắt đầu có nhiều thơ in trên các báo.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Nắng lên, Buồm trong phố (thơ, 1977); Thời yêu thương (thơ, 1985) và nhiều bài thơ in chung trong các tập khác, in rải rác trên các báo.
LÊ ĐÌNH CÁNH
Họ và tên khai sinh: Lê Đình Cánh. Sinh ngày 21 tháng 9 năm 1941. Quê quán: Xuân Tân, Thọ Xuân, Thanh Hoá. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 168 Trường Chinh, Đống Đa, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1990.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội khoa Vật lý. Tốt nghiệp Đại học tại chức Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Biên tập và sáng tác văn học. Tốt nghiệp tiếng Anh Đại học sư phạm ngoại ngữ Hà Nội. Tốt nghiệp các khoá sau Đại học về Văn nghệ phát thanh ở AIBD, IPTAR, BC, BCC, ABC. Nguyên phó ban Văn nghệ Đài Tiếng nói Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Miền đất đã có tên (bút ký, 1985); Đất lành (thơ, 1986); Người đôn hậu (thơ, 1990); Gió lành (bút ký, 1998); Trời dịu (thơ, 2001); Đường xuân (bút ký, 2003). Phù sa đỏ (bút ký, 2005)
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Ba lần đoạt giải cuộc thi thơ báo VănT nghệ: năm 1972, Giải khuyến khích với bài thơ Một mình anh đi; năm 1976, Giải nhì với hai bài Trên cao nguyên Tả Phình và Mẹ ra Hà Nội; và năm 1990, Giải ba với bài Trăng nở nụ cười; Người đôn hậu.
PHẠM NGỌC CẢNH
Bút danh khác: VŨ NGÀN CHI
Họ và tên khai sinh: Phạm Ngọc Cảnh. Sinh ngày 20 tháng 7 năm 1934. Quê quán: Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1974.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Cách mạng Tháng Tám thành công, làm liên lạc viên Vệ quốc đoàn, rồi tham gia vào đội tuyên truyền văn nghệ của trung đoàn 103 Hà Tĩnh. Trong kháng chiến chống Mỹ là diễn viên ở đoàn Văn công quân khu Trị Thiên. Về sau là diễn viên đoàn kịcn nói Tổng cục Chính trị. Say mê sáng tác thơ, được Tổng cục Chính trị điều về Tạp chí Văn nghệ quân đội làm biên tập thơ, rồi cán bộ sáng tác của tạp chí trong 20 năm cuối thế kỷ XX.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Gió vào trận bão (thơ, in chung, 1967); Đêm Quảng Trị (thơ, ký tên Vũ Ngàn Chi, 1972); Ngọn lửa dòng sông (thơ, 1976); Một tiếng Xamakhi (thơ, in chung với Duy Khán, 1981); Lối vào phía Bắc (thơ, 1982); Trăng sau rằm (thơ, 1985); Đất hai vùng (thơ, 1986); Miền hương lặng (thơ, 1992); Nhặt lá (thơ, 1995); Bến tìm sông (2001); Khúc rong chơi (2002); Tuyển thơ (2003); Góc núi xôn xao (1999); Cát trinh nguyên (2003).
T GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi phải vượt qua nhiều khó khăn để đứng được trên sàn diễn hai mươi lăm năm. Những bài thơ đầu tiên ra đời khi tôi đã là diễn viên thực thụ. Rồi bầu trời thơ ca mênh mông, cánh rừng thơ ca thăm thẳm, cuộc tìm kiếm thơ ca đầy quyến rũ và không bị trói buộc ấy là của tôi. Một hành trình không có ga dừng, không có trạm nghỉ. Khi có dấu hiệu mệt mỏi, tôi thường ngoái lại gọi tên một người lính, một người tình. Hai người này chứ không phải ai khác đã cổ vũ tôi, nâng sức tôi bay tiếp.
VĂN CAO
(1923-1995)
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Văn Cao. Sinh ngày 15 tháng 11 năm 1923, tại Hải Phòng. Quê quán: thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, Nam Định. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Mất ngày 10 tháng 7 năm 1995 tại Hà Nội.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Hoạt động trên nhiều lĩnh vực văn học nghệ thuật, là một nhạc sĩ, họa sĩ tài năng, tác giả bài Tiến quân ca, nay là Quốc ca của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Nguyên là Phó Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhạc sĩ Việt Nam (khóa 1 và 3).
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Cái hầm sông (kịch, 1948); Những người trên cửa biển (trường ca, 1956); Lá (thơ, 1988).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt I, năm 1996.
“Văn Cao xuất hiện ở làng văn nghệ buổiT ban đầu với mấy truyện ngắn và kịch. Nói chung anh bắt đầu bằng văn xuôi... Nhưng dù sao, trong thời gian trước Cách mạng, Văn Cao nổi tiếng là nhạc sĩ tài danh. Bên cạnh những bài hát trữ tình như: Thiên thai, Bến xuân, Suối mơ, Cung đàn xưa... anh còn có những hành khúc yêu nước viết cho tráng sinh Hướng Đạo thuộc nhóm “Đồng Vọng” của nhạc sĩ Hoàng Quý như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca...
Từ đó đến nay, vị trí Văn Cao đã được xác lập như chính anh đã đạt được qua nhiều năm cống hiến. Qua nhiều thể nghiệm và xem xét, năm 1993, Quốc hội một lần nữa khẳng định vị trí bất di bất dịch của Quốc ca Việt Nam do anh viết”.
(Trích Điếu văn do Giáo sư nhạc sĩ Trọng Bằng –Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam đọc tại Lễ tang nhà văn, họa sĩ, nhạc sĩ Văn Cao, đăng báo Văn nghệ số 29 ngày 22 tháng 7 năm 1995).
VŨ CAO
(1922-2007)
Họ và tên khai sinh: Vũ Hữu Chỉnh. Sinh ngày 18 tháng 2 năm 1922. Quê quán: xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1957.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống văn học, là anh ruột nhà văn Vũ Ngọc Bình và nhà văn Vũ Tú Nam. Từng nhiều năm hoạt động văn học, báo chí trong quân đội, phóng viên báo Vệ quốc quân, báo Quân đội Nhân dân, biên tập viên, Phó rồi Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội (1967-1980), Giám đốc Nhà xuất bản Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Hà Nội.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Sớm nay (thơ, 1962); Đèo trúc (thơ, 1973); Núi Đôi (thơ, 1990); Truyện một người bị bắt (tập truyện ngắn, 1958); Những người cùng làng (tập truyện ngắn, 1959); Em bé bên bờ sông Lai Vu (truyện thiếu nhi, 1960); Anh em anh chàng Lược (truyện thiếu nhi, 1965), Từ một trận địa (tập truyện ngắn, 1973); Tuyển tập (2002).
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, đợt I, năm 2001.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Khi còn đi học, tôi rất thích đọc sách văn học. Từ đó tôi hiểu rằng văn học giúp tôi hiểu được rất nhiều điều về con người, về cuộc đời. Tham gia Cách mạng, vào bộ đội, làm báo, lấy công tác biên tập, phóng viên làm công việc chính của mình. Rôi bắt đầu học làm văn, làm thơ mục đích cũng chỉ là để phục vụ bộ đội. Những gì tôi viết ra là rút từ cuộc sống của bộ đội, của nhân dân, từ cuộc sống để trở lại cuộc sống. Do đó, người sáng tác cần phải trau dồi vốn hiểu biết, từng trải, phải luôn luôn gắn mình với đất nước, nhân dân và Cách mạng. Người viết còn phải có trách nhiệm với câu chữ của mình và cần nhất là sự giản dị, trong sáng. Người viết cần có phong cách riêng, tính cách riêng, nhưng theo tôi không được tách ra khỏi cuộc sống nhân dân.
HOÀNG CÁT
Bút danh khác: HOÀNG PHÚC CHỈ
Họ và tên khai sinh: Hoàng Cát. Sinh ngày 1 tháng 1 năm 1942. Quê quán: xã Hùng Tiến huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 10A-P14, Trương Định, Hà Nội. Vào Hội năm 1994.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Đi học Trường Trung cao cơ điện tại Hà Nội từ 1960. Đi làm cán bộ kỹ thuật tại nhà máy cơ khí Trần Hưng Đạo, Hà Nội từ 1963. Bài thơ đầu tiên in trên báo Văn nghệ năm 1963. Năm 1965 vào chiến đấu tại Thừa Thiên - Huế. Năm 1971 ra Bắc vì bị thương, tiếp tục làm thơ, viết văn từ đó.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Tháng giêng dai dẳng (thơ, 1991); Ngôi sao biếc (thơ, 1994); Mùa thu tình yêu cuộc đời (thơ, 1999); Thì hãy sống (thơ, 2002); Chuyện tình của Xin (tập truyện ngắn, 2005); Cảm ơn vỉa hè (thơ, SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Là một nghề vô cùng cao quý; cho dù nhà văn có thểT2006). rất nghèo. Nếu một xã hội không biết quý trọng một cách đặc biệt các nhà văn, nhà thơ chân chính nữa - thì đấy là một xã hội man rợ, một xã hội bỏ đi. Là con người thật sự, con người đúng nghĩa, là CON NGƯỜI (viết hoa) - không thể thiếu thi ca, không thể thiếu văn học. Nếu có kiếp sau, xin cho tôi lại là Thi sĩ...
HOÀNG CẦM
Bút danh khác: LÊ THÁI, LÊ KỲ ANH, BẰNG PHI
Họ và tên khai sinh: Bùi Tằng Việt. Sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922. Quê quán: xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện sống ở Hà Nội. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (1957).
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Dịch sách từ 1940, tham gia Việt Minh từ 1944. Hoạt động văn nghệ quân đội trong những năm kháng chiến chống Pháp. Từng là trưởng đoàn Văn công Tổng cục chính trị quân đội, uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Hận ngày xanh (phóng tác theo La martine 1940); Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen, 1940); Cây đèn thần (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1941); Tỉnh giấc mơ vua (phóng tác theo Nghìn lẻ một đêm, 1942); Thoi mộng (truyện vừa, 1941); Hận Nam quan (kịch thơ, 1944); Bốn truyện ngắn (đăng Tiểu thuyết thứ Bảy từ 1939 đến 1943); Ông cụ Liêu (kịch nói, 1952); Đêm Lào Cai (kịch nói 3 hồi, 1957); Tiếng hát quan họ (trường ca, in chung trong tập Cửa biển, 1956); Những niềm tin (thơ dịch của Boualem Khalfa - Algérie, 1965); Men đá vàng (truyện thơ, 1989); Mưa Thuận Thành (thơ, 1991); Lá diêu bông (thơ, 1993); Bên kia sông Đuống (thơ chọn lọc, 1993); Về Kinh Bắc (thơ, 1994); 99 tình khúc (tập thơ tình, 1995); Kiều Loan (kịch thơ, 3 hồi, 1995).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Mơ mộng. Học, tìm, mơ mộng rồi lại học, lại tìm, tìm mãi cái Đẹp, cái Thật, cái Thiện. Trung thực với bản ngã, dần dần tự tạo ra phong cách thơ riêng, thế giới thơ riêng, không vay mượn lặp lại người khác, không tự mãn, cố gắng không lặp lại mình.
HOÀNG NHUẬN CẦM
Họ và tên khai sinh: Hoàng Nhuận Cầm. Sinh ngày 7 tháng 2 năm 1952. Quê quán: Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không
Vào Hội năm 1981.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1969, học trường Đại học Tổng hợp. Năm 1971 tình nguyện nhập ngũ vào binh chủng Phòng không- Không quân. Đã chiến đấu tại các mặt trận Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên- Huế cho đến chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Năm 1976, giải ngũ trở về trường cũ tiếp tục học. Năm 1981 về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam rồi làm việc tại Đài truyền hình Việt Nam. Năm 2005 trở lại làm việc tại Hãng phim truyện Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Thơ tuổi 20 (thơ, in chung, 1974); Những câu thơ viết đợi mặt trời (thơ, 1983); Xúc xắc mùa thu (thơ, 1992); Thơ với tuổi thơ (2004). Một số kịch bản phim: Lầm lỗi, Đằng sau cánh cửa, Đêm hội Long Trì, Hà Nội - Mùa đông năm 46, Pháp trường trắng, Ai lên xứ hoa đào, Đoạn trường chiêm bao, Nhà tiên tri, Mùi cỏ cháy...
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1972-1973. - Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1993 (tập thơ Xúc xắc mùa thu).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Mê thơ đến muốn chết và say điện ảnh đến phát mệt, cả hai tạo thành tình yêu cuộc sống, có lẽ đó là tất cả quá trình cống hiến văn học của tôi. Về sáng tác: cố gắng không giống ai và không lặp lại mình, điều này được gửi gắm trong hai cầu cuối của bài thơ Sông Thương tóc dài:
... Mây trôi một chiều, chim kêu một giọng
Anh một mình - Náo động - Một mình Anh
LƯƠNG SĨ CẦM
Họ và tên khai sinh: Lương Sĩ Cầm. Sinh ngày 15 tháng 12 năm 1929. Quê quán: xã Bùi Xá, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1977.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống hiếu học; đã đỗ Thành Chung. Sau Cách mạng Tháng Tám, vào đội quân Nam Tiến, chiến đấu ở vùng đất khu V. Từng làm báo, làm công tác địch vận, đã trực tiếp quản lý tù hàng binh Pháp. Tập kết ra Bắc, được phân công về công tác trong lực lượng bộ đội biên phòng, làm báo, làm tuyên huấn, viết ký sự lịch sử; nghỉ hưu với quân hàm đại tá. Đã qua Trường bồi dưỡng viết văn của Hội Nhà văn (1962), tốt nghiệp Học viện Chính trị trong quân đội (1967-1968). Từng là Phó trưởng ban kiểm tra Hội Nhà văn Việt Nam (2000-2005).
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Ánh lửa (truyện và ký, 1962); Đất rừng lau (truyện ngắn, 1963); Từ núi rừng Ba Tơ (ký, 1964); Lê Đình Chinh (truyện ký, 1980); Rừng biên giới (truyện, 1984); Người thợ săn (truyện, 1984); Trận đầu (tiểu thuyết, 1986); Sắc rừng A Bai (tiểu thuyết, 1986-1987, hai tập); Em vẫn chờ ngày cưới (tiểu thuyết, 1991); Ngang trái (tiểu thuyết, 2002).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: - Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn Văn nghệ quân đội 1960 (Chuyến tuần tiễu đêm cuối năm). Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết (Bộ Công an- Hội Nhà văn Việt Nam) 2002.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi theo đoàn quân Nam Tiến vào mặt trận Đèo Cả (1946). Mới tham gia chiến đấu được hai trận thì được nhà thơ Trần Mai Ninh “phát hiện” ra khả năng viết báo tường và rút về làm tờ Xung phong - tờ báo in của Đại đoàn 27 (Nam Trung bộ)... Cho đến bây giờ tôi vẫn không quên những lời dạy bảo của nhà thơ đàn anh hồi ấy, rằng phải đi sát bộ đội để viết về bộ đội. Một đời viết văn của tôi chỉ tâm niệm viết về người chiến sĩ, viết về đề tài bảo vệ tổ quốc. Trải qua ba cuộc chiến tranh Vệ quốc đã có biết bao đồng đội của tôi hy sinh, vì nghĩa cả không tiếc cuộc đời, máu xương. Họ là nơi tụ hội của nhiều vẻ đẹp Việt Nam. Viết về họ, tôi cảm thấy tâm hồn mình trong sáng hơn. Các nhân vật của tôi thôi thúc tôi sống tốt hơn. Không thể nói đến “chân”, “thiện”, “mỹ” nếu người cầm bút không hướng thiện. Dù trong chiến tranh hay trong hoà bình, mỗi bước đi của dân tộc ta đều vất vả gian nan. Hãy giữ vững niềm tin vào con người ! Tôi thường tự nhủ mình như vậy mỗi khi cầm cây bút.
ĐÀO HỒNG CẨM
(1924-1990)
Họ và tên khai sinh: Cao Mạnh Tưởng. Sinh ngày 4 tháng 1 năm 1924, tại xã Hải Phú, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Sinh thời sống ở Hà Nội. Đại tá, nghệ sĩ ưu tú. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Mất ngày 16 tháng 1 năm 1990 tại Hà Nội.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Trước Cách mạng tháng Tám, hoạt động ở địa phương, tham gia quân đội từ 1947, hoạt động trên lĩnh vực văn nghệ là chủ yếu. Đã qua các cương vị: Chính trị viên đoàn văn công Đại đoàn 308 (1951), trợ lý văn nghệ Tổng cục Chính trị (1956), Trưởng đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị (1957), Giám đốc Nhà hát Quân đội (1970). Là một trong những nhà viết kịch có nhiều vở công diễn trong những năm 1960-1975; tham gia Ban chấp hành Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam, là Đại biểu Quốc hội khóa VII.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Chị Nhàn (kịch, 1964); Nổi gió (kịch, 1964); Đại đội trưởng của tôi (kịch, 1974); Tổ quốc (kịch, 1976). Ngoài ra còn nhiều vở khác được công diễn như Nghị hụt (1957); Trước giờ chiến thắng (1960); Ông cháu (1965); Bước theo anh (1966); Một người mẹ (1978); Đêm và ngày (1980). Nhiều vở diễn đã được giải cao tại các Hội diễn Văn nghệ toàn quốc như Chị Nhàn, Đại đội trưởng của tôi; có vở được dựng thành phim sân khấu như Nổi gió.
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ, thuật, đợt I, năm 1996.
BÙI HẠNH CẨN
Bút danh khác: HẠNH, THÔN VÂN, LÊ XUNG KÍCH
Họ và tên khai sinh: Bùi Hạnh Cẩn. Sinh ngày 16 tháng 5 năm 1921. Quê quán: Vụ Bản, Nam Định. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Hiện thường trú tại: Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1957.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Viết báo, làm thơ từ trước 1945. Hoạt động nhiều năm trong ngành báo chí, sưu tầm văn hoá dân gian, dịch thuật.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Năm đời tổng thống Mỹ (truyện ký, 1973); Ký sự lên Kinh (dịch); Bà Điểm họ Đoàn (nghiên cứu, 1987); Lê Quý Đôn (truyện ký, 1984); Thơ chữ Hán Nguyễn Du (dịch, 1996); Thơ, phú Nguyễn Huy Lượng (biên soạn, 1996).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Với khả năng bản thân và trình độ mọi mặt còn hạn hẹp, nên viết hoặc dịch thuật được chút ít gì thì cứ làm. Được in trên báo hoặc sách là mừng rồi.
HÀ ĐÌNH CẨN
Họ và tên khai sinh: Hà Đình Cẩn. Sinh ngày 21 tháng 3 năm 1945. Quê quán: Tử Du, Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Nhà 9, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1984.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ tháng 3/1965 là chiến sĩ Sư đoàn bộ binh 312 làm nhiệm vụ chiến đấu ở chiến trường Thượng Lào. Từ tháng 3/1971 là phóng viên báo Quân đội nhân dân, tiếp tục nhiều năm làm nhiệm vụ ở chiến trường. Từ 8/1987 về Hội nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, làm Phó tổng biên tập tạp chí Sân khấu, Phó giám đốc Nhà xuất bản Sân khấu. Từ 9/2000 đến 7/2005 chuyển sang Hội Nhà văn Việt Nam, làm Tổng biên tập tạp chí Nhà văn. Từ 8.2005-8.2007 là Giám đốc NXB Sân khấu,Tổng biên tập tạp chí Sân khấu.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Các tập truyện, ký: Quần đảo san hô (1979); Vùng rừng âm vang (1980); Những ngôi sao Itxala (1981); Vòng Lăm vông thứ hai (1982); Đường gập ghềnh (1984); Ký sự những ngày xưa (2004). Tập thơ: Những câu thơ nhặt được (1998). Các tập kịch: Trò đùa người lớn (1994); Thứ phi (2001); Ô cửa sổ bỏ ngỏ (2002). Và tiểu thuyết Cây Samu còn lại (1987).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhất phóng sự báo chí của Hội Nhà báo Việt Nam năm 1979. Giải ba cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội. Giải thưởng Bộ Quốc phòng cho các tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng và người chiến sĩ. Hai giải nhì cuộc thi ký của báo Văn nghệ và Đài Tiếng nói Việt Nam. Ba giải nhì về kịch bản văn học của Hội Nghệ sĩ Sân khấu và Hội Điện ảnh Việt Nam.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Khi ngồi viết, tôi thấy mình tử tế hơn .
HUY CẬN
(1919-2005)
Họ và tên khai sinh: Cù Huy Cận. Sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919. Quê quán: xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Mất tại Hà Nội năm 2005.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ đầu năm 1942 vừa học Nông Lâm vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. 1945 tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Uỷ ban giải phóng toàn quốc, sau Cách mạng là Bộ trưởng Bộ Canh Nông và Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, năm 1946 là Thứ trưởng Bộ Nội vụ. Trong kháng chiến chống Pháp là thứ trưởng Bộ Canh Nông, rồi Thứ trưởng Bộ Kinh tế. Từ 1949-1955: Thứ trưởng, Tổng thư ký Hội đồng Chính Phủ. Từ 1955-1984, Thứ trưởng Bộ Văn hoá. Từ 1984: Bộ trưởng đặc trách công tác văn hoá thông tin tại Văn phòng Hội đồng bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Uỷ ban TƯ Hội LHVHNT Việt Nam. Từng là Phó chủ tịch UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Phó Phủ tịch Hội đồng chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, đại biểu Quốc hội khoá 1, 2 và 7, 8, uỷ viên Hội đồng chấp hành UNESCO từ 1978-1983, đồng chủ tịch Hội đồng văn học Á Phi 1962 tại Cairo, đồng chủ tịch Hội đồng Văn hoá thế giới 1968 ở LaHabana, uỷ viên Hội đồng văn học Pháp ngữ 1985-2000. Năm 2001 được bầu làm Viện sỹ Viện Hàn lâm Thơ thế giới.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Lửa thiêng (1940); Vũ trụ ca (1942); Kinh cầu tự (văn xuôi, 1942); Trời mỗi ngày lại sáng (thơ, 1958); Đất nở hoa (1960) Bài thơ cuộc đời (1963); Hai bàn tay em (thơ, 1967); Phù Đổng Thiên Vương (thơ, 1968); Những năm sáu mươi (thơ, 1968); Cô gái Mèo (thơ 1972); Thiếu niên anh hùng họp mặt (thơ, 1973); Chiến trường gần đến chiến trường xa (thơ, 1973); Những người mẹ, những người vợ (thơ, 1974); Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (thơ, 1975); Sơn Tinh, Thuỷ Tinh (thơ, 1976); Ngôi nhà giữa nắng (thơ, 1978); Hạt lại gieo thơ (thơ, 1984); Lửa nồng muối mặn (2001); Cha ông nghìn thuở (tráng ca, 2002); Tâm sự cùng hai thế kỷ, Tao phùng, Chim làm ra gió, Ta về với biển, Thiên nhiên nôi ấm của mình, Thông điệp từ vừng sao và từ trái đất.
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt I, năm 1996.
LÊ CẬN
Bút danh khác: LÊ VÂN
Họ và tên khai sinh: Lê Văn Cận. Sinh ngày 20 tháng 5 năm 1932. Quê quán: Bắc Giang. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 48 Phó Đức Chính, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1984.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ 1949: làm việc tại tòa án huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang và tham gia Cải cách ruộng đất. Từ 1956: đi học bổ túc công nông (cấp 2 và cấp 3), học đại học Tổng hợp Văn. Từ 1962: làm việc tại Nhà xuất bản Kim Đồng, từng là Phó Giám đốc - Phó tổng biên tập Nhà xuất bản Kim Đồng. Từ 1987-1993: Tổng biên tập tạp chí Tuổi Xanh.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Các tập truyện ký: Dương Văn Nội (1981); Nhà vua và bậc cao sĩ (1999); Bóng người áo xanh (1999); Chuyện cũ bên thềm (2001).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhì cuộc vận động sáng tác do Hội Nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh năm 1981 (tác phẩm Dương Văn Nội). Giải ba cuộc thi viết do Hội Nhà văn Việt Nam và Uỷ ban chăm sóc trẻ em Việt Nam tổ chức năm 1992 (truyện Vua Minh Tông và người học trò cũ).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Văn học là nhân học. Để văn học không “lóc cóc chạy theo cuộc sống” người viết phải tắm mình trong cuộc sống, nhạy cảm phát hiện vấn đề và có bản lĩnh thể hiện nó một cách thuyết phục. Có như vậy mới mong xóa dần khoảng cách giữa văn học và cuộc sống, đáp ứng yêu cầu của độc giả. Những tác phẩm hay của những tác giả nổi tiếng đồng thời là những nhà tư tưởng.
LÒ VĂN CẬY
Bút danh khác: LA PHẤN CHINH
Họ và tên khai sinh: Lò Văn Cậy. Sinh ngày 25 tháng 4 năm 1928 ở bản Sốp Cộp, xã Sốp Cộp, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Quê quán: Sơn La. Dân tộc: Thái. Tôn giáo: Không. Vào Hội năm 1991.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tham gia Cách mạng từ năm 1952, cũng bắt đầu làm thơ từ thời kỳ đó. Sau hoà bình lập lại năm 1954, nhiều năm làm công tác biên tập sách văn hoá, văn nghệ tiếng Thái của Hội Văn nghệ tỉnh Sơn La.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Hạt muối-hạt tình (thơ, 1986).
SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Mấy chụcT năm gắn bó với thơ nhưng dường như chưa thực sự biết làm thơ. Tuy số lượng bài in trên các báo trung ương và địa phương không phải ít nhưng những gì đích thực là thơ chưa nhiều. Song, so với bạn bè cùng lứa, sự cống hiến về thơ nhằm phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân cũng không đến nỗi phải e thẹn.
NGUYỄN BẢO CHÂN
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Bảo Chân. Sinh ngày 23 tháng 11 năm 1969. Quê quán: Thanh Hóa. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Biên tập viên Đài Truyền hình Việt Nam. Hiện thường trú tại: P302, B12, Nghĩa Tân, Hà Nội. Vào Hội năm 2002.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1991: tốt nghiệp khoa Lý luận biên kịch Điện ảnh Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội. Từ 1992-1996: là biên tập viên của tạp chí Điện ảnh ngày nay và tuần báo Nông thôn ngày nay. Từ 1997 đến nay là biên tập viên chương trình văn học nghệ thuật - Đài truyền hình Việt Nam. Làm thơ và có thơ in báo từ 1986.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Dòng sông cháy (thơ, 1994); Chân trần qua vệt rét (thơ, 1999).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải C của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (cho tập thơ Dòng sông cháy).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Khi tôi trẻ hơn, thơ đến với tôi thật dễ dàng. Nó ào ạt cuốn tôi. Tôi trôi theo nó như chiếc lá nhỏ hân hoan trôi theo dòng sông mà xa kia là biển lớn. Tôi đã có thể viết rất nhiều, viết về bất cứ điều gì mình nghĩ, rồi sau đó lấy làm nhẹ nhõm như được chia sẻ lòng mình với một tri âm. Bây giờ, vẫn dòng sông ấy, tôi đi. Tôi đã qua ghềnh thác, đã biết sợ cái vô tận của biển cả. Tôi viết, ít thôi, sao chật vật. Tôi nghĩ rất nhiều về những điều mình viết. Và nghi ngờ, liệu nó có ích gì cho chính tôi hay cho ai đó hay không. Nhưng dòng sông không dừng lại.
NÔNG QUỐC CHẤN
(1923-2002)
Họ và tên khai sinh: Nông Văn Quỳnh. Sinh ngày 18 tháng 11 năm 1923. Quê quán: xã Cốc Đán, huyện Ngân Sơn, tỉnh Cao Bằng. Dân tộc: Tày. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1958. Mất năm 2002.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Sớm giác ngộ cách mạng, tham gia du kích và giải phóng quân trước tháng 8 năm 1945. Sau Cách mạng Tháng Tám vẫn tiếp tục hoạt động trong mặt trận Việt Minh, tham gia Tỉnh uỷ tỉnh Bắc Cạn, bắt đầu hoạt động văn hoá văn nghệ. Sau 1945 tham gia khu uỷ Việt Bắc, là đại biểu Quốc hội khoá 2, Chủ tịch Hội văn học nghệ thuật khu Việt Bắc, uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn, uỷ viên rồi phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam. Từ năm 1964 là Thứ trưởng Bộ văn hoá kiêm Hiệu trưởng Đại học Văn hoá, Hiệu trưởng Trường viết văn Nguyễn Du, Chủ tịch Hội văn hoá văn nghệ các dân tộc thiểu số Việt Nam, Phó chủ tịch UBTQ Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật, uỷ viên Đoàn chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng biên tập tạp chí Toàn cảnh sự kiện và dư luận.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Tiếng ca người Việt Bắc (thơ, 1959); Người núi Hoa (thơ, 1961); Đèo gió (thơ, 1968); Bước chân Pắc Bó (thơ, 1971); Suối và biển (thơ, 1984); Một vườn hoa nhiều hương sắc (tiểu luận, 1977); Đường ta đi (tiểu luận, 1970).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: - Bài thơ Dọn về làng, giải thưởng ở Đại hội Thanh niên, sinh viên thế giới họp ở Beclin 1951. - Một số bài thơ cách mạng và kháng chiến được Hội Văn nghệ Việt Nam trao giải thưởng 1954, Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng 1958. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt II (2000).
ĐỖ BẢO CHÂU
Họ và tên khai sinh: Đỗ Bảo Châu. Sinh ngày 12 tháng 1 năm 1946. Quê quán: Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Tây. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Trưởng ban- báo Nông nghiệp Việt Nam. Hiện thường trú tại: 656 Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1990.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Bắt đầu sáng tác văn xuôi (tác phẩm được in) 1968. Theo học khoá 7, trường Bồi dưỡng những người viết văn trẻ Hội nhà văn Việt Nam 1974-1975. Tốt nghiệp trường viết văn Nguyễn Du khoá 2 (1983-1985). Hiện nay làm nghề viết báo.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Dòng sông (tập truyện ngắn, 1972); Khúc quanh đường bằng (truyện, 1986); Trái tim nông nổi (tiểu thuyết, 1990); Bão đêm (tập truyện vừa, 1998); Hoa của biển (tiểu thuyết, 2000).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải chính thức truyện ngắn Hội Văn nghệ Hà Nội 1970. Giải chính thức truyện vừa tạp chí Tác phẩm mới 1998. Giải C phóng sự điều tra Hội Nhà báo Việt Nam 1997.
HOÀNG MINH CHÂU
Bút danh khác: MINH CHÂU, THANH TRÌ, MC
Họ và tên khai sinh: Hoàng Minh Châu tức Nguyễn Thanh Trì. Sinh ngày 6 tháng 6 năm 1930. Quê quán: Hưng Nguyên, Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Chung cư Trung Tự, Đống Đa, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1960.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Học trung học thời Pháp thuộc. Tham gia Việt Minh tiền khởi nghĩa rồi đi bộ đội . Sau một khoá văn hoá kháng chiến năm 1949 chuyển ngành sang văn nghệ Liên khu IV. Từ 1957 ra Hà Nội liên tục công tác văn nghệ: biên tập báo Văn nghệ, Văn học, Nxb Văn học, Trường đào tạo lực lượng viết văn trẻ rồi lại về báo Văn nghệ với chức danh Phó tổng biên tập.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Đã sáng tác được trên 23 đầu sách gồm thơ, truyện ngắn, ký sự, tiểu luận văn học. Năm 2001 in Tuyển tập Hoàng Minh Châu. Thơ: Biến đổi (1959); Mở đường (1962); Hoa mươì giờ (1966); Anh có về thăm (1966); Người trong trận (1971); Mai này năm ấy (1977); Xôn xao (1983); Thơ và Em (1990); 16 bản tình ca (thơ phổ nhạc, 1991)...Văn: Đàng sau phía trước (truyện, 1974); Biệt danh Q.C (1992); Chuyện nhà bác Lân (1993); Bài học tình yêu (1994); Cô cháu cùng nghe (1996); Một chuyến đi Nga (2000); Trung hoa du ký (2001); Gặp gỡ ở Pháp (2001). Tiểu luận: Bàn về thơ (1990); Nghĩ về nghề, ghi về bạn (1990).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thơ và nhạc tốt nghiệp Trường văn khoá kháng chiến Liên khu IV (1949). Giải thơ Chi hội Văn nghệ Liên khu IV. Giải thơ Cuộc thi do Hội Nhà văn và Bộ Lâm nghiệp tổ chức năm 1979.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Bước đầu vào nghề, nhận thức làm Văn nghệ là phục vụ phong trào. Dần dần thấy tác dụng “Nhạc đổi buồn cho mỗi đời riêng-Họa giúp khách đường xa thưởng ngoạn-Thơ nhắc mình từ mơ sang tỉnh-Kịch nêu gương cách sống ở đời”... Càng ngày càng hiểu thêm: "Thơ khởi sự từ tâm hồn, vượt lên bằng tầm nhìn và đọng lại nhờ tấm lòng người viết". Sáng tác văn học không chỉ là phục vụ mà chính là bày tỏ lẽ sống của nhà văn. Với riêng tôi, là biết quên cái riêng bé nhỏ để gặp niềm vui rộng trên từng chặng đường đời.
NGUYỄN CHÂU
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Châu. Sinh ngày 15 tháng 1 năm 1950. Quê quán: Hoành Bồ, Quảng Ninh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phó tổng biên tập báo Hạ Long. Hiện thường trú tại: phường Hà Khẩu, TP Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2000.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Đã từng làm các nghề: dạy học, làm cán bộ biên tập ở nhà xuất bản, làm báo. Bắt đầu sáng tác từ năm 1971.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Tiếng đàn mở hội (thơ, 1976); Cuộc đời một chiếc lá (thơ, 1987); Bê con nhú sừng (thơ thiếu nhi, 1988); Sừng trăng (thơ thiếu nhi, 1989); Nhái bén ra biển (truyện thiếu nhi, 1992); Ai làm ra mùa xuân (truyện tranh thiếu nhi, 1992); Con trai Bạch Tuộc (truyện thơ, 2004); Anh em nhà kiến (truyện vừa cho thiếu nhi, 2006).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Hai lần giải thưởng cuộc thi sáng tác văn học cho trẻ em của Uỷ ban Chăm sóc bảo vệ bà mẹ và trẻ em Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam, UNICEF- Giải Ba và Giải Tư - (1993, 2001). Giải Tư cuộc thi sáng tác thơ và truyện cho lứa tuổi mầm non do Bộ Giáo dục Đào tạo phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, năm 2004; Năm lần giải thưởng Văn nghệ Hạ Long (giải của UBND tỉnh Quảng Ninh).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Viết văn, làm thơ, theo tôi là một nghề nặng nhọc. Mà nghề này không có trường nào, lớp nào đào tạo được. Khi ngồi trước trang giấy, tôi như được sống trong một thế giới riêng. Những cảm giác, những sự việc diễn ra trên trang viết là những cảm xúc, sự việc diễn ra trong cuộc sống nhưng lại sống động hơn bay bổng hơn. Khi tác phẩm hoàn thành, được độc giả chấp nhận, khuyến khích là lúc người viết thấy mình hạnh phúc nhất, thấy nghề mình thật sự là một nghề cao quý.
NGUYỄN MINH CHÂU
(1930-1989)
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Minh Châu. Sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930. Quê quán: làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1972. Mất ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1944-1945: học trường Kỹ nghệ Huế. Tháng 1-1950: học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng, sau đó gia nhập quân đội, theo học trường Sỹ quan Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956: công tác tại Ban tham mưu tiểu đoàn 722, 706 thuộc Sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến năm 1958: trợ lý văn hóa Trung đoàn 64 thuộc Sư đoàn 320. Năm 1962: về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Cửa sông (tiểu thuyết, 1978); Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972); Miền cháy (tiểu thuyết, 1977); Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977); Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983); Bến quê (truyện ngắn, 1985); Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982); Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987); Cỏ lau (truyện vừa, 1989).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm 1984-1989 cho toàn bộ tác phẩm viết về chiến tranh và người lính. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989) cho tập truyện vừa Cỏ lau. Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật, đợt II, năm 2000.
+ "Nguyễn Minh Châu là nhà văn viết rất kỹ và khá nhanh. Trong số lượng tác phẩm để lại... đọc truyện nào của ông cũng thấy lóe lên một cái nhìn sắc sảo, một sự đầm ấm trong tâm hồn. Nhân vật của ông cũng không đơn giản, sơ lược. Trong hành trình cuộc đời họ dường như luôn luôn có một cuộc đấu tranh dai dẳng, phức tạp. Lối kết cấu tác phẩm và mô tả của Nguyễn Minh Châu cho thấy một sự vận động đổi mới trong nghệ thuật viết văn của ông, trong hướng đi sâu vào thể hiện và phân tích nội tâm nhân vật... Cùng với các tập truyện Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Mảnh đất tình yêu và đặc biệt là tập Cỏ lau... Nguyễn Minh Châu đã trở thành một trong những nhà văn đi đầu trong công cuộc đổi mới văn học ở ta."
(Nguyên An - Nhà văn của các em. Nxb. Văn học, 1996)
NÔNG MINH CHÂU
(1924-1979)
Họ và tên khai sinh: Nông Công Thủy. Sinh ngày 9 tháng 1 năm 1924, ở bản Lò Luồng, xã Thương Quan, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Mất ngày 4 tháng 3 năm 1979.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tham gia phong trào Việt Minh từ năm 1943, sau Cách mạng tháng Tám, tham gia Ban chấp hành huyện ủy Ngân Sơn, rồi Bí thư Ban chấp hành Hội thanh niên tỉnh Bắc Cạn, Trưởng ty Văn hóa tỉnh Bắc Cạn. Từ 1957 đến năm 1977 là uỷ viên thường vụ Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Bắc, Giám đốc nhà xuất bản Văn hóa dân tộc Việt Bắc.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Ché Mèn được đi họp (truyện ngắn, 1959); Tung còn và suối (thơ, 1963); Muối lên rừng (tiểu thuyết, 1964); Cưa khửn đông (thơ, 1967); Tiếng chim gô (truyện ký, 1979). Ngoài ra còn tham gia biên soạn Hợp tuyển văn học Việt Nam, tập IV (phần Văn học các dân tộc thiểu số).
PHẠM TÚ CHÂU
Bút danh khác: HOÀNG VŨ, HIẾU ANH, TRẦN THỊ MINH
Họ và tên khai sinh: Phạm Tú Châu. Sinh ngày 20 tháng 9 năm 1935. Quê quán: Thành phố Nam Định. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Nhà số 3 tổ 6, xóm Gia phường Phúc Đông, quận Long Biên, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2000.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1954: Học tại khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc. Tốt nghiệp ở lại trường công tác từ 1956 đến 1958. Từ năm 1959-1999: công tác tại Viện Văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam, nghiên cứu văn học cổ Việt Nam và mối quan hệ giữa văn học cổ Việt Nam với văn học cổ Trung Quốc. Phó giáo sư, Tiến sĩ Văn học.Những năm gần đây dồn sức cho việc dịch thuật văn học Trung- Việt.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Nghiên cứu: Hoàng Lê nhất thống chí: văn bản, tác giả và nhân vật (1979); Đi giữa đôi dòng (1999). Dịch: Bóng dáng sau lưng (1991); Gót sen ba tấc (1997); Ngọc vỡ (1998); Roi thần (1999); Tiễn đăng tân thoại (1999); Chuồng bò trong tháng mù sương (2002); Dòng sông thấm đẫm nước mưa (2003); Trời lạnh về đêm khuya (2004); Hồ điệp (2005); Biên thành (2006) v.v... Ngoài ra còn một số tác phẩm nghiên cứu, dịch thuật chung.
GIẢIT THƯỞNG VĂN HỌC: Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1998 cho tác phẩm dịch Gót sen ba tấc.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi sinh ra trong gia đình có truyền thống Hán học và văn chương, nhưng học Trung văn, Hán văn, yêu thích văn học Trung Quốc và Việt Nam để có thể nghiên cứu so sánh văn học cổ của hai nền văn học ấy và dịch được nhuần nhuyễn thơ văn của cả hai dòng văn học là điều ngẫu nhiên rồi trở thành tất nhiên khi công tác tại Viện Văn học đến 40 năm. Từ nghề rồi thành nghiệp, mà đã mang lấy nghiệp nghiên cứu và dịch thuật thì ngược lại, tôi thấy cần phải cảm ơn các thầy, các bạn đồng nghiệp, các bạn đọc đã chỉ bảo, giúp đỡ, động viên để tôi có can đảm và tình yêu đi tiếp con đường do “số phận” dẫn lối.
TẠ MINH CHÂU
Họ và tên khai sinh: Tạ Minh Châu. Sinh ngày 13 tháng 12 năm 1949. Quê quán: Thuỵ Vân, Việt Trì, Phú Thọ. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phó trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương Đảng. Hiện thường trú tại: phường Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1996.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1967 tốt nghiệp phổ thông, đi học tại Ba Lan. Tốt nghiệp khoa Văn trường Đại học Vacsava. Năm 1990 bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ tại Viện Khoa học xã hội Ba Lan. Từ năm 1974 làm việc tại Ban Đối ngoại Trung ương Đảng.
T TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Quả dâu rừng (tập truyện, dịch, 1986); Những đứa trẻ điên rồ (tập truyện, dịch, 1987); Tro tàn và kim cương (tiểu thuyết, dịch, 1988); Tiếng nấc trái tim (thơ, dịch, 1994); Đi ngược hoàng hôn (thơ, 1994).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải A cuộc thi thơ của tỉnh Phú Thọ, 1967. Tặng thưởng sách của Nhà xuất bản Hội Nhà văn 1997. Tặng thưởng cuộc thi thơ 1998-2000 của báo Văn nghệ. Huy chương Vì sự nghiệp văn hoá Ba Lan do nhà nước Ba Lan tặng.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi - đứa con của làng quê ngụ cư thành phố. Cậu học trò nghèo cho tới khi tốt nghiệp phổ thông vẫn đôi chân trần vằm trên con đường quê nhám sỏi. Đất nước đã cho tôi biết những chân trời. Hàng chục năm lặn lội học bơi trong những dòng sông xứ lạ vẫn thấy mình trôi trong lấp lánh phù sa hoà sắc tre làng. Tôi yêu thơ, yêu sự cưu mang với những khổ đau, nổi chìm số phận. Thơ là niềm vui thăng hoa, nỗi buồn kết tủa, là sự ám ảnh, thôi miên bởi sự nông cạn của con tim và chiều sâu trí tuệ, đuổi theo ta đến tận mép bờ.
Thơ tôi - hòn sỏi nhỏ nhoi, găm dưới những bàn chân trần trụi quê đồi.
THANH CHÂU
Họ và tên khai sinh: Ngô Hoan. Sinh ngày 17 tháng 9 năm 1912. Quê quán: huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: thành phố Hồ Chí Minh. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1957.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Trước Cách mạng tháng Tám, làm báo, viết văn ở Hà Nội (từ những năm 30 thế kỷ XX); Kháng chiến chống Pháp tham gia quân đội (Đại đoàn 304), báo Vệ quốc quân, và là thông tin viên báo Quân đội nhân dân. Sau hoà bình (1954) làm báo Văn nghệ, báo Văn.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Trong bóng tối (truyện ngắn, 1934); Hoa ti gôn (truyện ngắn, 1937); Người thầy thuốc (truyện ngắn, 1938); Tà áo lụa (tiểu thuyết, 1942); Cái ngõ tối (truyện vừa, 1943); Cún số 5 (truyện thiếu nhi, 1940); Vàng (truyện thiếu nhi, 1950); Những ngày trao trả tù binh (phóng sự, 1954); Không rời quê hương (phóng sự, 1955).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi là người viết ở thế hệ 1930-1945, cùng thời với Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tam Lang, Vũ Trọng Phụng (họ đều đã thành người thiên cổ). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội và Văn học, gần đây đã có in tuyển tập lớp 1930-1945, bạn đọc đã có thể đánh giá chúng tôi từ một số tác phẩm trong đó. Lớp sau chúng tôi (như Bùi Hiển, Tô Hoài, Kim Lân) cũng đã có nhận xét công bình qua sáng tác trên sách báo về tôi trước và sau Cách mạng tháng Tám. Lớp trẻ bây giờ viết thật hay. Họ có hạnh phúc hơn những người viết trước Cách mạng. Chắc chắn sẽ còn nhiều tác phẩm xứng đáng với Nhân dân, Tổ quốc ta. Ở tuổi 95 như hiện nay, tôi còn tâm huyết với nghề là điều may mắn.
TRIỆU LAM CHÂU
Họ và tên khai sinh: Triệu Thế Châu. Sinh ngày 27 tháng 6 năm 1952. Quê quán: Xã Đức Long, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Dân tộc: Tày. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Giảng viên Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà, Phú Yên. Hiện thường trú tại: Tuy Hoà, Phú Yên. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1997.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp Đại học Mỏ Lêningrát (Xanh Petecbua) Cộng hoà Liên bang Nga (1976), về nước công tác trong ngành địa chất, rồi về làm cán bộ giảng dạy trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà (Phú Yên) do Bộ Công nghiệp quản lý. Vừa làm chuyên môn, vừa sáng tác thơ, nhạc và dịch các tác phẩm văn học từ tiếng Nga.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Trăng sáng trên non (thơ, 1998); Ngọn lửa rừng (thơ, 1999); Giọt khèn (thơ, 2001); Thầm hát trên đồi (thơ, 2004); Nửa phần sự thật (thơ dịch, 2000); Đêm trắng (thơ dịch, 2002); Nàng dâu (tiểu thuyết dịch, 1987); Lửa tình đã cạn (tiểu thuyết dịch, 1988); Hoa nở muộn mằn (truyện dịch, 1988); Người đàn bà tôi thương (truyện dịch, 1989); Đi tìm hạnh phúc (tiểu thuyết dịch, 1994); Mối tình người goá phụ (tiểu thuyết dịch, 1996); Túp lều lá bên sông (tiểu thuyết dịch, 1997); Đĩa nhạc CD Cao Bằng yêu dấu (tuyển 10 ca khúc, 2003- do các nghệ sĩ ưu tú thể hiện ); Đĩa nhạc CD Gánh nước ban mai (tuyển 8 ca khúc, 2006 - do các nghệ sĩ thể hiện).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhất Cuộc thi dịch văn học Hội Nhà văn Việt Nam (1994); Giải nhất thơ Phú Yên (1991). Giải nhì (không có giải nhất) về thơ các năm 2000, 2001, Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Giải 25 năm thơ Phú Yên (1975-2000). Giải nhất Cuộc thi thơ về tình hữu nghị Việt-Nga năm 2000 của Trung ương Hội hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga. Giải 5 năm thơ Phú Yên (2001-2005).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Đối với tôi, làm thơ hay sáng tác nhạc, cũng đều là một nhịp trái tim, thở bằng làn điệu dân ca nồng nàn quê núi, thở bằng ánh sao lấp lánh hồn Tày soi lòng suối trong lành, bên ngọn núi Khau Mi-à hùng vĩ và sâu lắng tình người của quê hương.
NGUYỄN THÀNH CHÂU
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Thành Châu. Sinh ngày 17 tháng 9 năm 1945. Quê quán: Xuân Lũng, Lâm Thao, Phú Thọ. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: cán bộ Bộ Ngoại giao . Hiện thường trú tại: 21 Lê Văn Hưu, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2006.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Giảng viên Đại học Ngoại giao, Đại học Quốc gia Ôxtrâylia. Bí thư thứ 3 rồi Bí thư thứ 2 phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc Nữu ước. Thư ký thường trực Phó tổng thư ký Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam. Vụ trưởng Vụ các tổ chức Quốc tế Bộ Ngoại giao.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Sách dịch: - Truyện ngắn châu Á, (1989); Năm cô gái trường bay (1990, 1996); Bản tin chiều (2 tập, 1990,1995); Tình viễn xứ (2 tập, 1991, 1996); Người lạ trong gương ( 1991, 1997); Những mảnh đời riêng ( 1991, 1997); Vẫn chỉ là cô phù dâu (1991); Mối tình kỳ diệu (2 tập, 1995); Tình địch của Nữ hoàng (1998).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1996.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi không phải là người tác phẩm Mối tình kỳ diệu (2 tập) có tài để "sinh ư nghệ tử ư nghệ" sống bằng nghiệp văn chương. Có chăng tôi là người yêu thích văn chương. Tôi yêu văn chương vì nó làm phong phú thêm nhân bản trong mỗi con người, nó tô điểm cho cuộc sống đẹp hơn vì nó giúp hiểu sâu sắc thêm cuộc sống quanh ta.
ANH CHI
Các bút danh khác: LƯU THUẬT ANH, TÂN AN
Họ và tên khai sinh: Lê Văn Sen. Sinh ngày 20 tháng 9 năm 1947. Quê quán: xóm Tân An, phường Ngọc Trạo, TP Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam. Hiện thường trú tại: làng Mọc Giáp Nhất, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Vào Hội năm 1983.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Xuất thân từ gia đình làm nghề thủ công mỹ nghệ. Năm 1973, công tác tại Ban vận động thành lập Hội Văn nghệ Thanh Hoá. Từ đó trở đi chuyên tâm hoạt động báo chí, văn học. Từng làm biên tập viên xuất bản Công an nhân dân; biên tập báo Người Hà Nội, tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam. Từ 1991 đến nay công tác tại Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Thơ: Tôi yêu (1972); Điệu lý riêng riêng (thơ in chung 1979); Cây xương rồng khô khan (1995). Văn xuôi: Câu chuyện Buồm Nhỏ (truyện 1982); Nước mắt dành cho thiên nga (tiểu thuyết, 1989); Bể khổ (tiểu thuyết, 1990). Sưu tầm khảo cứu: Văn phẩm Quỳnh Dao (1998); Tiểu thuyết thứ Năm (tập I và Tập II, 2002); Bảy người hiền và ba việc cũ (nghiên cứu và tiểu luận, 2006).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng văn học của Tổng công đoàn Việt Nam và Hội Nhà văn 1972-1975. Giải C cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1980-1982. Giải thưởng văn học cho thiếu nhi 1980. Giải thưởng 1990-1995 của Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Nội. Giải thưởng văn học của Tổng Công đoàn Việt Nam và Hội Nhà văn, lần thứ IV, 1990-1995.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Càng theo đuổi làm thơ, tôi càng hay nghĩ rằng, đời sống thật vô biên, mà cuộc đời nhà thơ thật hữu hạn. Đời sống rộng và sâu thẳm vô cùng với hai cực tuyệt vọng và hy vọng. Các nhà thơ cứ kế theo nhau, mãi mãi làm cái việc là dấn thân vào bể đời ấy, để tìm cái đẹp, tìm những giá trị nhân bản, ở cực này hoặc ở cực kia..
NGUYỄN HUỆ CHI
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Huệ Chi. Sinh ngày 14 tháng 7 năm 1938. Quê quán: làng Đông Thượng, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: quận Ba Đình, Hà Nội. Vào Hội năm 1984.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1960 tốt nghiệp khoá I khoa Văn đại học Tổng hợp Hà Nội, tham gia hoạt động báo chí (1960-1961). Từ 1962 đến 2003: cán bộ nghiên cứu tại Viện Văn học. Giáo sư ngành Ngữ văn. Hiện nghỉ hưu.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: In riêng: Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam - Thời kỳ cổ-cận đại (tiểu luận, 1983); Hoàng Ngọc Phách - đường đời và đường văn (chuyên khảo, sưu tầm, tuyển chọn, 1996).
Viết chung: Kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du (nghiên cứu, 1967); Nhà yêu nước và nhà văn Phan Bội Châu (nghiên cứu, 1970); Nguyễn Đình Chiểu - tấm gương yêu nước và lao động nghệ thuật (nghiên cứu, 1973); Xã hội Việt Nam thời Lý-Trần (nghiên cứu, 1983); Từ điển Văn học (nghiên cứu và biên soạn, 2 tập, 1983- 1984, tái bản có sửa chữa, bổ sung thành 1 tập, 2004); Đường vào văn hoá Phần Lan (tuyển soạn, 1996);
Chủ biên: Nguyễn Trãi - khí phách và tinh hoa của dân tộc(nghiên cứu, 1981); Văn học Việt Nam trên những chặng đường chống phong kiến Trung quốc xâm lược (nghiên cứu, 1982); Thơ văn Lý-Trần (sưu tầm, nghiên cứu, nhiều tập, 1977 và 1989); Liêu trai chí dị (dịch, 1989); Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù (nghiên cứu, 1990-1993); Thi hào Nguyễn Khuyến - đời và thơ (chuyên khảo, 1992-1994).
KHÁNH CHI
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Khánh Chi. Sinh ngày 10 tháng 10 năm 1965. Quê quán: xã An Ninh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Biên tập viên, phóng viên. Hiện thường trú tại: Nhà A48 chung cư Bình Thới, phường 8, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh. Vào Hội năm 1996.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Học tại trường viết văn M.Goorki (Liên Xô) từ 1985. Biên tập viên báo Đại đoàn kết từ 1992 đến 2001. Năm 2002: biên tập viên tạp chí Thời trang trẻ, Doanh nhân Sài Gòn, Văn hoá Thông tin. Làm thơ in trên nhiều báo chí từ 1971.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Gửi gió về cho nội (thơ, 1978); Mảnh trăng côi cút (truyện ngắn, 1987); Cô đơn (truyện ngắn, 1995); Điểm tựa gia đình (ký, 1999); Những tình yêu và cát (thơ, 2001); Chút tâm tình (2002); Đêm hội đom đóm (2002).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng thơ báo Văn nghệ năm 1982 và năm 1995.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Bắt đầu làm thơ từ khi còn rất nhỏ, cho đến tận bây giờ đã là một người bước vào tuổi trung niên, tôi nhận thấy mỗi năm, mỗi giai đoạn của cuộc đời, tôi lại có cái nhìn, cách suy nghĩ khác nhau về nghề văn, nghiệp viết. Cái chữ nghề, chữ nghiệp ngày càng thấm. Có lúc nó là hạnh phúc thực sự, và cũng không phải không có lúc nó giống như một cây thập giá trong tâm hồn, tình cảm của người cầm bút.
TRÚC CHI
Các bút danh khác: SÔNG BA, NGUYÊN TRÚC, HÀN ANH, HÀN ANH TRÚC
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Trúc Chi. Sinh ngày 3 tháng 12 năm 1935. Quê quán: xã An Ninh, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 187/10 lầu 1 Lương Nhữ Học, thành phố Hồ Chí Minh. Vào Hội năm 1978.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ năm 1950 vào quân đội, chiến đấu trên chiến trường Liên khu V. Năm 1954 về công tác Đoàn Văn công quân đội Quân khu V. Năm 1955-1958 công tác ở Đoàn Văn công Sư đoàn 305, 324. Năm 1958-1960 học Đại học Sư phạm. 1960-1975 giảng dạy văn học các trường học sinh miền Nam, Trung Kiều, Phổ thông công nghiệp ở Hải Phòng. Năm 1968-1969 học Trường viết văn của Hội Nhà văn Việt Nam khoá 3. Từ 1975 giảng dạy văn học Trường Cao đẳng Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, chủ nhiệm bộ môn.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Các tập thơ: Cánh chim biển (1967), Dư âm sóng (1980), Chú dế đàn (1980), Thành phố hoa mặt trời (trường ca, 1986), Miền sóng trắng tôi yêu (1987), Thơ tình Trúc Chi (1999), Hoa nguyệt quế (2004), Trăng nửa sân chè bưởi (2006). Các tập truyện ngắn: Arú và con voi già (1987), Thị trấn đêm màu trắng (1989), Điều kỳ lạ trong vườn chim (1989), Câu chuyện từ lớp học này (1989), Con trai người săn cá mập (1997), Vỏ ốc màu ngọc trai (1998), Cổ tích trong tủ đồ chơi (1998), Bông trang đỏ (2001). Làng cọp râu trắng (1999). Truyện dài: Huyền thoại biển (2000); Các tập bút ký: Cuộc đời như một truyền thuyết (1992); Vị giám đốc hát rong (2001); Phóng sự: Tiếng kêu con chim gõ kiến (1989); Dăm đường cát bụi (1997); Tiểu luận phê bình: Ba mươi năm một nền thơ (1999), Thơ và tuổi thơ (2000), Hồ Chí Minh vẻ bên trong của viên ngọc (2000), Chuyện văn, lai lịch bài thơ (2002);
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng loại A chùm thơ Trúc Chi của tạp chí Văn nghệ Phú Khánh (1993). Giải thưởng tác phẩm truyện ký Gió hú bạch đàn tạp chí Văn hoá văn nghệ Công an (1998). Giải thưởng giải ba truyện ngắn Điều kỳ diệu của tuần báo Giác Ngộ và Hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh (1999). Giải thưởng văn xuôi Giải Tư với truyện Cô gái Olia của các Hội Liên hiệp Nga - Việt TP Hồ Chí Minh năm 2000. Giải thưởng giải ba bút ký Đất Mũi: của tạp chí Văn nghệ quân đội 2004).
LÊ CHÍ
Họ và tên khai sinh: Lê Chí Trường. Sinh năm 1940. Quê quán: Minh Hải. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: thành phố Cần Thơ. Đảng viên ĐCSVN. Vào Hội năm 1977.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp học viện Chính trị quốc gia. Trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ, trên mảnh đất quê hương, từng là uỷ viên tiểu ban văn nghệ thuộc Khu uỷ miền Tây Nam Bộ. Khi đất nước thống nhất, tại Đại hội đại biểu nhà văn Việt Nam khoá 3, được bầu vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam. Ủy viên Hội đồng thơ khoá IV và Phó chủ tịch Hội đồng thơ Khoá V của Hội Nhà văn. Từ 1983 đến 1988 là Giám đốc nhà xuất bản Mũi Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải. Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III và VI (2000-2005).
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Cô gái đánh xe bò (thơ, 1976); Mùa xuân đến sớm (thơ, 1976); Những con đường lặng im (thơ, 1986), Hoa Quỳnh (thơ, 1989), Ngẫm nghĩ cà phê (thơ, 1990), Khuya xa (thơ, 1990); Ngày ấy (thơ, 1996).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Văn học là tấm gương của hiện thực. Điều đó đòi hỏi người viết văn phải viết trung thực những gì mà mình ghi nhận được từ đời sống. Muốn có những tác phẩm nói được tiếng nói của đời sống thì bản thân nhà văn phải tổ chức cho chính bản thân mình một cách sống ít nhất như một người bình thường, một người chân chính.
HOÀNG TÍCH CHỈ
Họ và tên khai sinh: Hoàng Tích Chỉ. Sinh ngày 1 tháng 9 năm 1932. Quê quán: Thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Giám đốc Hãng phim truyện I - Cục Điện ảnh, Bộ Văn hóa thông tin. Hiện thường trú tại: Nhà số 10, 299/11 Thụy Khuê, Tây Hồ, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1980.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1946: trinh sát, biệt động Ty liêm phóng tỉnh Bắc Giang. 1956: trưởng phòng Văn nghệ Ty văn hóa Bắc Giang. 1959: học trường Đảng Nguyễn Ái Quốc. 1961: học lớp biên kịch trường điện ảnh Việt Nam. Từ 1964 tới nay: Trưởng phòng biên tập hãng phim truyện Việt Nam. Giám đốc Hãng phim truyện I - Cục Điện ảnh.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Biển gọi; Bão tuyến dựng thành phim Vĩ tuyến 17 ngày và đêm; Mắt bão (1972) dựng thành phim Tọa độ chết. Tiểu thuyết: Tướng cướp hoàn lương dựng thành phim truyện SBC; Tiểu thuyết Bóng ma rừng Sác dựng thành phim Bông hoa rừng Sác.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Cha tôi giỏi chữ Hán, tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục. Anh cả Hoàng Tích Chu nhà báo. Anh hai Hoàng Tích Chú nhà báo. Anh trẻ Hoàng Tích Linh viết kịch. Tôi là con út, mồ côi cha mẹ sớm, 13 tuổi làm trinh sát, 15 tuổi cầm súng đối mặt với các thế lực thù địch sừng sỏ như tướng phỉ, tình báo đặc nhiệm. Tôi được rèn luyện, sống trong cái nôi tình nghĩa của đồng đội, đồng bào. Và 43 năm cầm bút viết kịch bản văn học điện ảnh một nghệ thuật tổng hợp, công nghệ kỹ thuật cao. Và mối quan hệ quần chúng, quốc tế cực kỳ rộng lớn... Tôi may mắn được đến viết kịch bản làm phim ở các chiến trường: Vùng giới tuyến Vĩnh Linh - Quảng Trị, chiến dịch Điện Biên Phủ trên không 1972 - Hà Nội. Chiến dịch Hồ Chí Minh 1975. Tôi luôn mơ ước có được thời gian viết tác phẩm văn học. Đã ngoài 70, trên bàn viết vẫn còn hàng chục kịch bản văn học đang đợi tôi.
NGUYỄN VIỆT CHIẾN
Bút danh khác: NGUYỄN VĂN NGUYỄN, TỪ KIM VIỆT
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Việt Chiến. Sinh ngày 8 tháng 10 năm 1952. Quê quán: Chàng Sơn, Thạch Thất, Hà Tây. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phóng viên báo Thanh niên. Hiện thường trú tại: Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Hà Nội. Vào Hội năm 2000.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1970 đi bộ đội,1974 xuất ngũ về học đại học, ra trường công tác ở ngành khảo sát địa chất, năm 1990 chuyển sang viết báo, năm 1991 làm ở báo Văn nghệ, năm 1992 về công tác tại báo Thanh niên cho đến nay.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Mưa lúc không giờ (1992); Ngọn sóng thời gian (1998); Cỏ trên đất (2000); Những con ngựa đêm (2003).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhì Cuộc thi thơ báo Văn nghệ, Hội Nhà văn năm 1989-1990. Giải nhì Cuộc thi thơ hay về biển của Vũng Tàu năm 1992. Giải nhì Cuộc thi thơ tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1998-1999. Tặng thưởng Thơ hay của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 2000. Giải thưởng thơ Hội Nhà văn Hà Nội năm 2004. Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004 cho tập thơ Những con ngựa đêm.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Trên giá sách của tôi/ Có nhà thơ đi bộ/ Bước qua những nhà thơ nằm ngủ/ Tìm đến chiếc giường của mình/ Đặt bên cạnh những người kia/ Và bởi thế, lối thoát duy nhất của tôi/Là phải tự vạch một con đường đi qua chồng sách này/ Đi qua sự nghèo nàn của ngôn từ/ Để gặp một sợi chỉ ánh sáng nối hai bờ vực tối thẳm sâu.
QUANG CHIẾN
Bút danh khác: HƯƠNG THU
Họ và tên khai sinh: Ngô Quang Phục. Sinh ngày 1 tháng 5 năm 1941. Quê quán: Hoàng Vân, Hiệp Hòa, Bắc Giang. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Nhà số 8, ngõ 164 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội. Vào Hội năm 1987.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1970-1977: Tốt nghiệp Đại học, nhận công tác tại Tổng cục Thống kê. 1977-1983: Biên tập viên nhà xuất bản Tác phẩm mới. 1983-2001: Cán bộ nghiên cứu Viện Triết học thuộc Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Từ 1990 đến nay: Uỷ viên ban lãnh đạo Trung tâm giao lưu văn hóa và ngôn ngữ Việt - Đức. Giám đốc Trung tâm giao lưu Việt - Áo, giảng viên văn học Đức tại trường Đại học quốc gia Hà Nội và trường Đại học Dân lập Phương Đông. Uỷ viên Hội đồng văn học dịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa V, VI và VII.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Dịch: Ole Bienkop (tiểu thuyết của E.Strittmatơ, dịch chung, 1977); Họa mi xanh (dịch chung, 1979); Lisa mắt đen (kịch của H.Sakopxki, 1981); Nỗi đau của chàng Vécte (tiểu thuyết của J.W.Goethe, 1982, 1999); Con số bốn màu vàng (truyện vừa của E.Fiker, 1985); Lỗi lầm (tiểu thuyết của A.Samarakix, 1982, 2001); Nữ hoàng (truyện vừa của A.Pivovasik, 1985, 2001); Con rắn thần (truyện vừa của Gian Litan, 1987); Chiếc mũ này chụp đầu ai (kịch của P.Ensikat, V.Schaller, 1988); Ông Nôbe muốn lấy vợ (truyện ngắn của S.Weinhold, 1988); Cái mặt buồn của tôi (truyện ngắn của H.Boell, 1988); Truyện cổ tích Đức (2 tập, 1991); Truyện dân gian Áo (1994); H.Hainơ, tuyển thơ (dịch chung, 1998); Và Việt Nam và... (tuyển thơ E.Fried, 2000); Chân dung triết gia Đức (2000); Thơ trữ tình Hainơ (dịch chung, 2000); Faust (Bi kịch 2 tập của J.W.Goethe, 2001); Chiếc âu vàng (truyện vừa của E.A.Hoffmann, 2005); Thơ trữ tình B. Brecht (dịch chung, 2006) v.v...
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng quốc tế Grim của Chính phủ CHDC Đức về truyền bá ngôn ngữ và văn hóa Đức năm 1987. Tặng thưởng tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1988. Giải thưởng văn học năm 2002 của Hội Nhà văn Việt Nam cho bản dịch Faust của J.W.Goethe.
TÔ ĐỨC CHIÊU
Họ và tên khai sinh: Tô Đức Chiêu. Sinh ngày 25 tháng 9 năm 1940. Quê quán: Nhật Tân, Gia Lộc, Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: không. Hiện thường trú: Số 4B Lý Nam Đế, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1977.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1961-1963: giáo viên trường Trần Phú thị xã Hải Dương. 1963-1987: Bộ đội. 1979-1982: Học trường Viết văn Nguyễn Du khoá I. 1987-1990: biên tập viên Tạp chí Thanh tra, Uỷ ban Thanh tra Nhà nước. 1990 đến khi nghỉ hưu 2006: công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, từng là Chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Truyện ngắn: Ngày về; Những người săn tôm; Nhớ đàn chim vàng anh; Đàn vịt giời bay về đâu; Lá bàng xanh ngoài cửa sổ. Tiểu thuyết: Chân pháo; Chàng rể; Về trong mưa bão; Tháng năm dài lang bạt; Tháng ngày đằng đẵng chân trời; Đường về Thà khẹt; Thời để nhớ.
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhì ký (không có giải nhất) tạp chí Văn nghệ quân đội; Giải ba truyện ngắn (không có giải nhất) tạp chí Văn nghệ quân đội. Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết 1998-2000 của Hội Nhà văn Việt Nam. Giải thưởng Bộ quốc phòng 5 năm (1999-2004).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Viết văn là nghề khó và cũng gây ra khá nhiều phiền muộn, nhất là đối với ai ít tài năng hoặc giả không có tài năng như tôi. Giá năm nay chừng mới bốn mươi tuổi tôi nhất định sẽ chuyển sang nghề khác. Tiếc rằng gắng theo đuổi mãi cho tới bây giờ thì mọi sự đã an bài.
PHẠM NGỌC CHIỂU
Họ và tên khai sinh: Phạm Ngọc Chiểu. Sinh ngày 29 tháng 10 năm 1945. Quê quán: xã Trực Bình, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phó tổng biên tập thường trực tạp chí Văn nghệ Công nhân. Hiện thường trú tại: Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1990.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từng làm ruộng ở quê, tham gia thanh niên xung phong trong chống Mỹ cứu nước rồi công nhân mở đường ngành lâm nghiệp. Từ 10-1975 công tác tại Phòng sáng tác Sở VHTT tỉnh Hoà Bình và tỉnh Hà Sơn Bình. Đã tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du khoá 2 (1985), làm trưởng phòng sáng tác-xuất bản Sở Văn hoá-Thông tin Hoà Bình. Từ 1993 về Nxb Lao Động. Từ năm 2000 làm Phó tổng biên tập thường trực tạp chí Văn nghệ Công nhân.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Chiều hè oi ả (truyện ngắn, 1985); Những mảnh đời khác nhau (truyện ngắn, in chung với Hoàng Minh Tường); Dưới tán rừng lặng lẽ (tiểu thuyết); Hiệp sĩ giữa đời thường (tiểu thuyết); Vệt buồn trên má (tiểu thuyết); Chuyện tình dưới chân núi (tiểu thuyết); Bên ngoài vành móng ngựa (tiểu thuyết); Thung lũng đầy nắng bụi (tiểu thuyết); Nơi góc rừng xa vắng (tiểu thuyết); Trong cuộc (tiểu thuyết); Đừng vô tình chuyện đó (truyện ngắn); Gió ngược (truyện vừa).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhất truyện ngắn Nam Hà 1966. Giải nhất văn xuôi Hà Sơn Bình, 1978. Giải thưởng truyện ngắn Hà Nội, 1978. Tặng thưởng tiểu thuyết văn học công nhân (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và Hội Nhà văn Việt Nam) năm 2000.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Viết văn là bày tỏ sự nhìn nhận, nghĩ suy của người về con người và thời cuộc. Phải trung thực, có trách nhiệm và lương tâm trong sáng khi cầm bút mới mong viết được tác phẩm hay và có ích. Nghề văn có gì đó giống nghề leo núi, càng đi càng thấy khó. Vì vậy hãy cảnh giác, khi viết tác phẩm mà không còn thấy khó nhọc nữa thì đấy là dấu hiệu anh tụt dốc rồi!
VĂN CHINH
Họ và tên khai sinh: Đinh Văn Chinh. Sinh ngày 9 tháng 2 năm 1948. Quê quán: Đông Trà, Tiền Hải, Thái Bình. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phó trưởng ban biên tập báo Nông nghiệp Việt Nam. Hiện thường trú tại: Phường Long Biên, quận Long Biên, Hà Nội. Vào Hội năm 1990.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Dạy tiểu học ở Thanh Sơn, Phú Thọ, rồi làm công tác văn hoá Phòng văn hoá UBND huyện này. Năm 1983 đi học trường viết văn Nguyễn Du. Sau đó về công tác ở báo Nông nghiệp Việt Nam cho đến nay.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Đá mưa (tập truyện, 1984); Dòng sông mùa lũ qua (tập truyện, 1986); Lần đối thoại thứ hai (tiểu thuyết, 1987); Nửa đời tìm nhau (1990); Goá chồng một thế kỷ (tiểu thuyết, 1990); Hoa hồng cát (tập truỵên, 1998); Ký chọn lọc (2004).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhất văn xuôi cuộc thi năm 1967 của Sở Văn hoá Phú Thọ. Giải C cuộc thi viết về Lâm nghiệp do Bộ Lâm nghiệp phối hợp với Hội Nhà văn tổ chức 1984. Giải khuyến khích truyện ngắn báo Văn nghệ 1984. Giải nhì truyện ngắn, giải nhất bút ký cuộc vận động viết về nông thôn do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, báo Văn nghệ và Đài TNVN phối hợp tổ chức 1989. Giải nhất bút ký báo Lao động xã hội 1995. Giải nhì cuộc thi bút ký của báo Hà Nội mới năm 1996, báo Lao động 1996. Giải ba cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội 2006.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi học viết văn vào thời người ta dạy cho biết rằng văn học có thể can dự vào việc thế sự và vào việc hoàn thiện con người. Giờ tóc đã hoa râm, tôi thấy hiển nhiên là ngòi bút mình bất lực. Trong khi đó ngòi bút lại quen với can dự, tháo gỡ, đề xuất như một cố tật. Ngước nhìn lên, thấy cụ L.Tolstoi già nua khóc bảo ông M.Gorky hăm hở rằng: “Anh cứ sống đi rồi thấy rằng nó (con người) vẫn thế”. Lại toát mồ hôi mà nhủ rằng phát hiện thêm về con người là khó như tìm ra một hành tinh khác. Nhưng bổn phận của nhà văn là phát hiện con người.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Đình Chính. Sinh ngày 28 tháng 10 năm 1946. Quê quán: làng Vũ Thạch, Hà Nội. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Nghi Tàm, Hà Nội. Vào Hội năm 1979.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từng là kỹ sư cầu đường, chuyên viên nghệ thuật Bộ Văn hoá, Chánh văn phòng Hội giao lưu văn hoá Việt Nam - Nhật Bản, giám đốc hãng phim Chesvina (Tổng cục Thể dục - Thể thao). Từng là Phó tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Xưởng máy nhỏ của tôi (tiểu thuyết, 1976); Một mùa hè (tiểu thuyết, 1978); Đá xanh ở thung lũng cháy (ký sự, 1978); Khoảng trời cách biệt (truyện, 1980); Giếng chìm (tiểu thuyết, 1979); Con phù du (tiểu thuyết, 1981); Vụ áp phe Đông Dương (tiểu thuyết, 3 tập, 1986, 1993); Đêm thánh nhân (1999); Một thời để nhớ (2001); Nơi tận cùng gió hú (2003)... Ngoài sáng tác văn học còn nhiều kịch bản sân khấu, kịch bản phim, đáng chú ý là Rừng lạnh, Bãi biển đời người, Hồi chuông màu da cam...
+GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Tặng thưởng thơ báo Văn nghệ (1978).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Nghề văn cũng giống như mọi nghề khác (nếu coi đó là một nghề). Có làm, có ăn. Cần cù, chịu khó thì theo được nghề.
TRƯƠNG CHÍNH
(1916-2004)
Bút danh khác: NHẤT VĂN, NHẤT CHI MAI
Họ và tên khai sinh: Bùi Trương Chính. Sinh ngày 16 tháng 7 năm 1916. Quê quán: Can Lộc, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Vào Hội năm 1957. Mất ngày 7-10-2004 tại Hà Nội.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Chuyên gia về văn học Trung Quốc và văn học cổ Việt Nam, viết phê bình văn học Việt Nam từ 1939 đến nay. Nhiều năm dạy học ở trường phổ thông và đại học; Từng là tác giả của các bộ sách giáo khoa, giáo trình môn Văn ở phổ thông và đại học. Phó giáo sư, Nhà giáo ưu tú.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Dưới mắt tôi (phê bình văn học, 1939); Những bông hoa dại (nghiên cứu văn học dân gian, 1941); Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam (viết chung, 1955); Thơ văn chữ Hán Nguyễn Du (nghiên cứu, 1965); Thơ văn Nguyễn Công Trứ (nghiên cứu, 1979); Hương hoa đất nước (phê bình, tiểu luận, 1979); Tuyển tập Trương Chính (1997). Nhiều tác phẩm dịch văn học Trung Quốc: Gào thét, Bàng hoàng, Chuyện cũ viết lại, Tạp văn (3 tập) của Lỗ Tấn.
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Nhà nước về khoa học xã hội và nhân văn, đợt I, năm 2000 cho bộ sách Tuyển tập Trương Chính.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Không có gì đặc biệt. Chỉ là ham mê văn học, thích nói ý kiến riêng của mình về một tác giả, một tác phẩm đã đọc và mình yêu mến, rồi vừa viết, vừa học tập, trau dồi tư tưởng cho khỏi sai lầm và thích hợp với thời đại, rất chú ý đến cách hành văn.Là một nhà phê bình và nghiên cứu văn học, tôi chú ý nhất tính trung thực, nói thật những cảm nghĩ của mình, không phụ hoạ ai, không nói theo ai, không có ý kiến gì thì không viết. Tôi cho rằng sống hay viết đều phải có lý tưởng (lý tưởng của thế hệ mình và thời đại mình). Rất ghét thứ văn chương trống rỗng, văn chương xu thời, văn chương xu nịnh. Đơn giản chỉ có thế. Nhưng chính vì thế mà không được lòng ai, ít được ai chú ý, bị người ta lảng tránh hoặc e dè. Dù biết vậy, nhưng tôi không thể thay đổi hay ân hận, cũng không hề phàn nàn, chỉ ghi lại cho nhớ mà thôi.
LÊ THÀNH CHƠN
Bút danh khác: THANH TÔNG, LÊ NAM
Họ và tên khai sinh: Lê Thành Chơn. Sinh ngày 23 tháng 33năm 1938. Quê quán: xã Tân Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Giám đốc khách sạn Sài Gòn TP Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng CSVN năm 1958. Vào Hội năm 1997.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từng là bộ đội, binh chủng không quân suốt những năm tuổi trẻ. Năm 1983: chuyển ngành, công tác ở Ban Tổ chức Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Từ 1989 là Giám đốc khách sạn Sài Gòn. Viết truyện (bằng tiếng Hoa) in ở báo Quân Giải phóng Trung Quốc từ 1961.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Gồm 8 tập ký, 6 tập tiểu thuyết, 3 kịch bản phim truyện. Một số tiểu thuyết và ký đáng chú ý: Anh hùng trên chín từng mây (1997); Người anh hùng chưa được tuyên dương (1998); Canh năm (2000); Bầu trời ước vọng (2000); Tầm cao (2001); Huyền thoại đất phương Nam (2002); Bản án tản thất quân dụng (2002); Đọ cánh với pháo đài bay B52 (2002); Khối mây hình lưỡi búa (2006).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng cuộc thi viết tiểu thuyết do Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Công an tổ chức 1998-2000 (tiểu thuyết Bản án tản thất quân dụng). Tặng thưởng cuộc thi viết tiểu thuyết do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức 1998-2000 (tiểu thuyết Canh năm). Tặng thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam tập ký Anh hùng trên chín từng mây (1997). Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi viết phóng sự ký sự báo Sài gòn giải phòng (2005).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi viết văn từ mong muốn đền ơn những người đã hy sinh, mà vì nhiều lý do, người khác khó có điều kiện biết rõ như tôi. Tôi yêu họ, tôi thấy phải viết về họ, tôi viết còn để giải toả cá nhân. Viết, đối với tôi, vừa là niềm vui, vừa là nghĩa vụ. Tôi viết rất gian khổ, thời gian dành cho văn chương của tôi là ban đêm, một mình trước ngọn đèn, trang giấy, những con muỗi và cơn buồn ngủ hành hạ… Thời gian đối với tôi vô cùng quý giá. Vì vậy, viết gì? Viết cho ai đọc? Là một suy nghĩ nghiêm túc. Tôi quan niệm, viết để góp phần làm lành mạnh cho mình, không phản lại chính mình, không chống lại Tổ quốc, không xúc xiểm lịch sử, không bôi bác tổ tiên là mục đích cầm bút của tôi.
Đời người rất ngắn, sống và làm việc, yêu thích và sáng tạo. Tôi mong muốn có được sức khoẻ để viết về những người lính anh hùng trên thương trường và trên chiến trường. Tôi sẽ cố gắng….
ĐỖ CHU
Họ và tên khai sinh: Chu Bá Bình. Sinh ngày 5 tháng 2 năm 1944. Quê quán: xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Lớn lên ở Bắc Ninh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Lương. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1971.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Học xong trung học tại trường cấp 3 Hàn Thuyên tỉnh Bắc Ninh, nhập ngũ tháng 7 năm 1963, đã có 12 năm phục vụ tại Cục chính trị quân chủng Phòng không- Không quân. Từ 1975 chuyển về công tác ở Hội Nhà văn Việt Nam. Là học viên khoá II Trường đào tạo bồi dưỡng các cây bút trẻ Hội Nhà văn Việt Nam (1965-1966). Học viên Khoa sáng tác học Viện văn học Goorki, Mátxcơva, năm 1987. Là Trưởng ban Nhà văn Trẻ Hội Nhà văn Việt Nam khoá 6.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Hương cỏ mật (tập truyện ngắn, 1963); Phù sa (tập truyện ngắn, 1967); Vòm trời quen thuộc (bút ký, 1969); Gió qua thung lũng (truyện ngắn, 1971); Tháng Hai (tập truyện ngắn, 1979); Những chân trời của các anh (tuỳ bút, 1980); Trung du (truyện ngắn 1985); Mảnh vườn xưa hoang vắng (truyện ngắn, 1989); Một loài chim trên sóng (2002); Đỗ Chu - Truyện ngắn tuyển tập (2003); Tản mạn trước đèn (2004).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1963. Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2002. Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật, đợt I, 2001. Giải thưởng ASEAN 2004.
VŨ THÀNH CHUNG
Họ và tên khai sinh: Vũ Thành Chung. Sinh ngày 3-3-1948 tại Lập Lễ, Thuỷ Nguyên, Hải Phòng. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo : Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Cán bộ. Hiện thường trú tại số 14 ngõ 19 phố Đông Tác, Kim Liên, Đống Đa, Hà Nội. Vào Hội năm 2006.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1967 đi bộ đội. 1975 đi học đại học tại Liên Xô. 1982-1987: công tác tại Cục Hợp tác quốc tế Bộ Lao động. 1988 về công tác tại Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Tiến sĩ Luật.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤTT BẢN: Miền quê thao thức (thơ, 2004); Biển nhớ (thơ, 2005); Thơ xanh bóng núi (thơ, 2005); Lục bát giao duyên (thơ, 2005).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Thơ là sự cộng hưởng của Thiên bẩm với cảm xúc trái tim. Nếu trái tim bất thiện thì không có thơ hay. Nhiều khi cứ như trời hay ai xui ta cầm bút, vừa viết vừa khóc từ chữ đầu cho đến chữ cuối cùng.
Dù có đổi mới thơ đến đâu, đổi mới để thành thơ mới hơn - Thơ vẫn phải mang tính nhân văn, dễ cảm nhận, được độc giả hiện tại và mai sau mãi lưu truyền.
Trách nhiệm người cầm bút thuộc về nhân dân, vì nhân dân mà viết sẽ có tác phẩm thơ lớn và hay.
KIM CHUÔNG
Bút danh khác: KIM PHỦ VĨNH, VĨNH KIM
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Kim Chuông. Sinh ngày 9 tháng 11 năm 1947. Quê quán: Làng Thắng, Giang Biên, Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Phó tổng biên tập tạp chí Nghề báo -Thái Bình. Hiện thường trú tại: phường Đề Thám, Thành phố Thái Bình. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1990
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1965 đi bộ đội; phóng viên báo Quân khu Tả Ngạn. Năm 1972 chuyển ngành về Hội VHNT Thái Bình. Là Phó chủ tịch Hội VHNT Thái Bình, Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Thái Bình. Hiện là Phó Tổng biên tập thường trực tạp chí Nghề báo - Thái Bình.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Tình yêu mùa gặt (thơ, 1975); Hoa nở ngày em đến (thơ, 1986); Mặt trăng em (thơ, 1988); Trăng cửa rừng (thơ, 1989); Mặt trời ba cửa sông (thơ, 1989); Câu hát người đang yêu (1990); Một phương trời gió (thơ, 1994); Nhện đi đò (thơ, 1995); Thơ lục bát (1996); Một khoảng xanh (1996); Phương trời ngôi sao thức (thơ, 2002); Thơ những ngày xa (thơ, in chung, 2003); Nửa khuất mặt người (tiểu thuyết, 2005); Nhìn từ áng văn chương (tiểu luận). Đã viết, in chung 6 tập bút ký tư liệu.
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải A thơ - Giải thưởng văn học Lê Quý Đôn, tỉnh Thái Bình, 1980. Giải A Trường ca Độc thoại về chùm số thống kê trên một vùng quê lúa-Tổng cục Thống kê và Hội Nhà văn, 1981. Giải thơ hay tuần báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, 1978. Giải truyện ngắn hay tuần báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 1996. Giải B Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, 2002.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Có câu thơ mở miệng để ngân nga /Tôi thích đọc những câu thơ để cho mình mở mắt/ Là biển cứ gào thét/ Là mặt ao thu con sóng cứ lặng tờ/ Và, Hành trình với biển xa sâu /Con thuyền tôi đấy, bắt đầu từ tôi/ Đi trong ngàn dặm đất trời/ Tôi tìm cho được chính tôi - là gì ?
HỒNG CHƯƠNG
(1921-1989)
Họ và tên khai sinh: Trần Hồng Chương. Sinh ngày 1 tháng 5 năm 1921. Quê: Phương Sơn, Triệu Hải, Quảng Trị. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Mất ngày 18-3- 1989.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tham gia phong trào Dân chủ từ 1937 ở Huế. Phụ trách báo Cứu quốc của Tỉnh uỷ Quảng Trị năm 1940. Hai lần bị Pháp bắt giam ở Huế (1939), và Buôn Ma Thuột (1941). Thoát tù, tham gia Tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 ở Quảng Trị. Suốt hai cuộc kháng chiến chuyên làm công tác tuyên huấn, từng là Tổng biên tập tạp chí Học tập, Tổng Thư ký Hội Nhà báo Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Máu lửa đồng quê (thơ, 1948), Ngược đường số 9 (truyện, 1958), Một luồng gió mới (tiểu thuyết, 1959), Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật (lí luận, 1962), Văn nghệ cách mạng và cách mạng không ngừng (lí luận- phê bình, 1959), Mấy vấn đề lí luận và phê bình văn nghệ (lí luận- phê bình, 1965), Mãi mãi đi theo đường lối văn nghệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh (lí luận- phê bình, 1971).
LỘNG CHƯƠNG
(1918-2003)
Họ và tên khai sinh: Phạm Văn Hiền. Sinh ngày 5 tháng 2 năm 1918. Quê quán: Châu Khê, Bình Giang, Hải Dương. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Mất ngày 26-6 -2003.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Trước năm 1945: làm nhân viên phòng thí nghiệm ở Sở Tổng thanh tra Nông Lâm, bắt đầu làm báo, viết văn. Từ kháng chiến chống Pháp chuyển sang hoạt động sân khấu. Từng là uỷ viên thường vụ Ban chấp hành Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Hầu Thánh (tiểu thuyết, 1942); Quẫn (kịch, 1960); A Nàng (kịch thơ, 1961); Cửa mở hé (kịch, 1969); Quẫn (kịch, 1984); Tình sử Loa thành (kịch)... và Kịch Lộng Chương (tuyển tập, 1997).
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật, đợt II - 2000.
NGUYỄN VĂN CHƯƠNG
Bút danh khác: THỤC CHƯƠNG, THÔN TRANG, NGHĨA HÀ, NGỌC HẢI, DAO INOX
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Văn Chương. Sinh ngày 12 tháng 12 năm 1945. Quê quán: thôn Ngọ, xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Tây. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: số 650 Nguyễn Thái Học, TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1997.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Phục vụ quân đội từ 1963 đến 1977. Tham gia chiến dịch Khe Sanh 1968, Đường 9 Nam Lào 1971. Học trường Quân chính Khu Ba 1972 rồi làm phóng viên báo Quân Khu Ba. 11-1977 chuyển về Sở Văn hoá- Thông tin Nghĩa Bình, làm phó phòng Văn nghệ, đi học Trường Viết văn Nguyễn Du 1982-1985. Về tiếp tục làm phó phòng, Thư ký toà soạn tập san Văn hoá, Quyền hiệu trưởng trường Trung học VHNT Bình Định (1990-1993). Tháng 5-1993 nghỉ hưu.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Ngôi sao Tam Ngãi (truyện thơ thiếu nhi, 1974); Ánh sao xanh (truyện thơ, 1982); Cây chăm làm (thơ thiếu nhi, 1982); Nơi ta có mặt (thơ in chung, 1985); Chú mầm măng (truyện đồng thoại, 1986); Đêm huyền diệu ( thơ, 1988); Mùa thu trong trẻo (tập truyện, 1988); Bông mai đỏ thắm (truyện lịch sử, 1988); Cỏ biếc (thơ, 1991); Đoản khúc (thơ, 1995); Viết giữa ngày thường (thơ, 1989); Hoa cúc quỳ (thơ thiếu nhi, 1999, 2000, 2003, 2004); Lắng nghe nhịp sống (thơ, 1996); Kiến nâu và hạt gạo (thơ đồng thoại, 1997); Cõi người (thơ 1999); Lớp học xây nhà (thơ đồng thoại, 1996, 2002, 2003); Sự tích hoa ngọc lan (truyện tranh, 1998, 1999, 2000); Cây chăm làm (thơ, 1998, 1999, 2005); Tiếng gọi vịt (thơ thiếu nhi, 2000, 2001); Hoa mai đỏ (truyện lịch sử, 1988, 2003); Quà của bà (truyện thiếu nhi, 2003); Lục bát yêu (thơ, 2003); Làng (trường ca, 2003); Cảm nhận dọc hành trình (tiểu luận, 2003); Chuyện làng văn (biên soạn, 2005); Đánh thức ban mai (thơ, 2006); Tai dài tai bé (tập truyện đồng thoại, 2006).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Đã nhận giải thưởng thơ ở các tỉnh Hà Đông, 1962; Vĩnh Phú, 1967; Nghĩa Bình, 1978; Hà Bắc, 1985; ngành Hải Quan và báo Thiếu niên tiền phong. Giải Xuân Diệu - Đào Tấn lần thứ nhất (1991-1995) và lần thứ hai (1996-2000) của UBND tỉnh Bình Định.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Với tôi, thơ là sự giãi bày, một chút tâm tình, tâm sự. Thơ không nên cầu kỳ rắc rối, vì như thế làm sao có được sự đồng cảm, đồng điệu ? Làm thơ hiện đại đừng nên thoát ly cái vốn của dân tộc. Thơ Nguyễn Trãi hơn 600 năm, thơ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương hơn 200 năm vẫn rất hiện đại .
NGUYỄN TRÍ CÔNG
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Trí Công. Sinh ngày 7 tháng 2 năm 1954. Quê quán: An Giang. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Trưởng ban biên tập sách tham khảo Nhà xuất bản Trẻ. Hiện thường trú tại: 16/2 Trần Quang Cơ, phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1997.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từng là giáo viên Sinh, Hoá từ 1976-1981. Làm công việc biên tập sách từ 1981 (Nxb Măng non, nay là Nxb Trẻ).
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Các tập truyện: Cô giáo Thủy (1986); Cô bé khéo tay (1986); Sự tích lông nhím (1988); Bí mật khu rừng cấm (1989); Nhật ký buồn cho Hải Âu (1990); Dũng Sài Gòn (1991); Như truyện cổ tích (1993); Xóm lò heo (1995); Quà tặng của Hà Bá (1995); Chiếc túi hạnh phúc (1996); Ván cờ đầu xuân (2000)…
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải B (không có giải A) do Hội Nhà văn Việt Nam trao tặng năm 1991 (cho truyện dài Dũng Sài Gòn).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Đối với tôi, viết cho thiếu nhi là một yêu cầu tự thân. Ngay từ truyện ngắn đầu tay là tôi đã viết cho thiếu nhi. Viết cho các em, bay bổng cùng các em qua từng trang viết thật sự là một hạnh phúc. Và tôi luôn mơ ước...
VĂN CÔNG
Bút danh khác: HẠC LĨNH
Họ và tên khai sinh: Cao Xuân Thiêm. Sinh ngày 12 tháng 5 năm 1928. Quê quán: Xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 303A Trường Chinh, thị xã Tuy Hoà, Phú Yên. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1984.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từ thiếu thời đã phải đi làm thuê kiếm sống. Sau Cách mạng theo kháng chiến Nam tiến vào Khu V, Tây Nguyên, chiến đấu công tác suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ (không tập kết ra Bắc, 1954). Từng là Phó Bí thư Tỉnh uỷ Phú Yên, thành viên Hội Văn nghệ Giải phóng Trung Trung Bộ. Sau 1975 là quyền Chủ tịch UBND tỉnh Phú Khánh, Chủ tịch Hội Văn nghệ Phú Yên. Làm thơ từ thời kháng chiến chống Pháp.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Bất khuất (thơ, 1965); Miền đất yêu thương (thơ, 1978); Khúc hát miền quê (thơ, 1985); Miền đất huyền thoại (ký, 1990); Vùng đất lửa (ký sự, 1992); Hương đêm (thơ, 1996); Trước chiều gió (thơ, 1996); Hậu cần nhân dân (ký, 1997); Người Bana Phú Yên (công trình nghiên cứu); Ký ức về một miền đất (ký, 2001); Tuyển tập thơ văn (2003); Sống và viết ở chiến trường (bút ký, 2005).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng văn học Nguyễn Đình Chiểu (1965), Giải thưởng loại A Văn học Nghệ thuật tỉnh Phú Yên lần thứ nhất (1975-2000). Giải thưởng báo Thống Nhất (1960).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Dân Việt Nam nhiều người biết làm thơ, nhưng thơ hay rất hiếm. Để trở thành nhà thơ thực sự và có những tác phẩm hay, theo tôi lập trường phải kiên định, quan điểm vững vàng, đúng đắn, kiến thức sâu rộng, phong cách cởi mở, thái độ khiêm tốn luôn luôn bám sát thực tế để tạo vốn sống, không ngừng đấu tranh bảo vệ cái đúng, lưu giữ và bảo tồn truyền thống và bản sắc, tinh hoa văn hoá dân tộc, kiên quyết chống lại cái sai, cái phi văn hoá, phi văn học.
MINH CHUYÊN
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Minh Chuyên. Sinh ngày 10 tháng 12 năm 1948. Quê quán: Minh Khai,Vũ Thư, Thái Bình. Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Biên tập viên chính, đạo diễn phim tài liệu - Đài truyền hình Việt Nam. Trưởng ban nghiên cứu khoa học và phát triển điện ảnh Trung tâm UNESCO văn hoá dòng họ và gia đình Việt Nam. Hiện thường trú tại: tổ 2, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1993.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp Tổng hợp văn Hà Nội. Năm 1967 vào bộ đội, chiến đấu tại chiến trường miền Đông Nam Bộ. Năm 1974-1975 tham gia trại sáng tác văn học: Kỷ niệm sâu sắc chống Mỹ cứu nước của Tổng cục Chính trị quân đội. Năm 1976 chuyển ngành làm phóng viên báo Thái Bình. Từ năm 1979-1984 là uỷ viên BCH Hội VHNT Thái Bình. Năm 1985-1996 là uỷ viên thường vụ Hội VHNT Thái Bình, uỷ viên Đảng đoàn Hội VN Thái Bình. Từ 1997 đến nay công tác tại Đài truyền hình Việt Nam. Làm đạo diễn phim.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Miền quê anh đến (tập truyện ngắn, 1985); Làm tiếp Surenco (tập truyện ngắn, 1986); Người gặp trong mơ (tập truyện ngắn, 1990); Người lang thang không cô đơn (tập ký, 19932; Thử thách (tập ký, 1994); Người lạc về đâu (tiểu thuyết, 1995); Người không Cô đơn (tập truyện ký, 1995); Bút ký Minh Chuyên (tuyển tập, 1996); Điểm tựa cuộc đời (tập truyện ký, 1997); Di họa chiến tranh (tập bút ký, 1998); Nỗi kinh hoàng (tập ký, 2004); Hậu chiến Việt Nam (tập ký, 2004, 2005); Cha con người lính (tập kịch bản, 2006); Mátxcơva không xa (tập kịch, 2006) và 105 kịch bản sân khấu, điện ảnh, truyền hình đã dàn dựng, công diễn, phát sóng truyền hình 1990 - 2006.
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Đã được tặng 32 giải thưởng quốc gia và quốc tế về văn học, điện ảnh, truyền hình. Trong đó có: Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, tập bút ký Di hoạ chiến tranh 1998. Giải nhất báo Văn nghệ, bút ký Người không cô đơn năm 1992. Giải nhất quốc tế (giải cúp vàng) biên kịch đạo diễn phim tài liệu "Cha con người lính" liên hoan phim quốc tế lần thứ 10 tại Triều Tiên 9/2006. Bẩy huy chương vàng biên kịch, đạo diễn các phim tài liệu tại liên hoan điện ảnh và truyền hình. Hai giải thưởng văn học Lê Quý Đôn UBND tỉnh Thái Bình tặng.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Nghề văn cũng như bất kể làm một nghề gì đều cần hai điều: Hiệu quả và chất lượng. Ngòi bút bênh vực những số phận bất hạnh, đem đến những giá trị tinh thần, cổ suý con người vượt lên chính số phận đau thương của mình đấy là hiệu quả. Ngòi bút tác động tới xã hội, tác phẩm được công chúng xã hội nồng nhiệt đón nhận hoặc ngược lại. Có thể coi đấy là sự thành công hay thất bại. Còn tự diễn rồi mường tưởng văn minh cao sang đó là sự giả dối.
QUANG CHUYỀN
Các bút danh khác: VIỆT NGUYÊN, QUANG THANH
Họ và tên khai sinh: Trần Quang Chuyền. Sinh ngày 2 tháng 8 năm 1945. Quê quán: xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: 42 Hoàng Hoa Thám, phường 12, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2003.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từng làm báo từ 1966 ở Văn nghệ Việt Bắc. Nguyên là trung tá, Phó tổng biên tập tạp chí Thông tin (Bộ Tư lệnh Thông tin liên lạc). Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, Đại học Tổng hợp Văn. Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Khoảng cuối mùa thu (thơ, 1999); Hạt giống chim gieo (thơ, 2000); Lặng thầm (thơ, 2002); Mắt đêm (thơ, 2003); Khát (thơ, 2005); Trở lại cánh rừng (thơ, 2006)...
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Với tôi, thơ là khoảnh khắc của tâm trạng bị ám ảnh.
NGÔ THỊ KIM CÚC
Bút danh khác: VÔ ƯU (trước năm 1975)
Họ và tên khai sinh: Ngô Thị Kim Cúc. Sinh ngày 17 tháng 4 năm 1951. Quê quán: Quảng Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: thành phố Hồ Chí Minh. Vào Hội năm 1983.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Xuất thân học sinh, từ 1970-1975 học Đại học Khoa học Sài Gòn, tham gia phong trào sinh viên đô thị, là Phó Tổng thư ký Hội Ái hữu sinh viên Quảng Đà tại Sài Gòn (1971-1975). Sau giải phóng miền Nam, là cán bộ Hội Văn nghệ giải phóng khu Trung Trung bộ, từ 1979-1982, học khoá I Trường Viết văn Nguyễn Du, sau đó về công tác tại Hội Văn nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng. Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh, Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng. Từ 1991, làm báo. Hiện công tác tại báo Thanh niên.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Vị ngọt hoà bình (tập truyện, 1981); Sắc biển (tập truyện, 1984); Tam Giang thứ ba (truyện ký, 1984); Vết cháy (tập truyện, 1985); Dòng sông buổi chiều (tập truyện, 1988); Những người uống trà (tập truyện, 1994); Những biển dâu sống lại (tập ký, 1995); Thảm cỏ trên trời (tập truyện, 1996).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Văn chương có thể là cứu cánh hay khát vọng, là nghiệp dĩ hay "nghiệp chướng", là bầu bạn hay sự giải toả... tuỳ quan niệm của từng người viết. Và tôi thật lòng không muốn tin rằng, trong một số trường hợp, văn chương lại có thể bị sử dụng như phương tiện để lừa dối. Nếu văn chương không giúp cho sự thực sáng rõ, không giúp vén các bức màn vô minh thì quả thật đáng sợ. Thời buổi càng nhiều nhương, văn chương càng cần cái tâm trong sáng của người viết. Văn chương là một sức mạnh tâm linh mà không phải ai cũng có khả năng huy động và làm chủ. Sức mạnh ấy giúp cho người ta nhận diện được nhau và nhận diện chính mình, yêu thương con người và căm ghét những gì chống lại con người. Văn chương như chiếc cầu nối từ người này sang người khác nhưng không phải nối được tất cả. Vì văn chương là công việc được tiến hành bởi một con người cá nhân để chuyển dến cho từng con người cá nhân khác. Nó chỉ gây ra phản ứng bên trong, làm thay đổi từng con người một, và do đó, là một tác động tịnh tiến đòi hỏi sự thử thách và gạn lọc.
ĐỖ KIM CUÔNG
Họ và tên khai sinh: Đỗ Kim Cuông. Sinh ngày 25 tháng 4 năm 1951. Quê quán: TP. Thái Bình. Dân tộc: Kinh. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Vụ trưởng Vụ Văn nghệ, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương. Hiện thường trú tại: 260 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1990.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Năm 1968: nhập ngũ, vào chiến trường Trị- Thiên Huế tham gia chiến đấu trong chiến dịch Xuân 1968, Xuân 1972 và chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Năm 1976, chuyển ngành, học Đại học Sư phạm Huế, là cán bộ giảng dạy khoa Ngữ văn trường Cao đẳng Sư phạm Nha Trang; nguyên Bí thư Đảng đoàn, Phó Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Khánh Hòa, Tổng biên tập tạp chí Nha Trang, trưởng Ban đại diện báo Văn nghệ tại Nam Trung Bộ. Uỷ viên Đoàn Chủ tịch UBTQ Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Uỷ viên thường trực Hội đồng Lý luận -Phê bình VHNT Trung ương.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Các tập tiểu thuyết: Người đàn bà đi trong mưa (1986); Một nửa đại đội (1987); Hai người còn lại (1988); Giáp ranh (1989); Miền hoang dã (1990); Thung lũng tử thần (1990); Mảnh sân sau u ám (1991); Vùng trời mộng ảo (1991); Người dị hình (1995). Và các tập truyện ngắn: Tự thú của người gác rừng (1996); Đêm ngâu (1997); Một mảnh hồn quê (1998); Chuyện tình ở biển (2001); Người kéo vó bè (2002); Đá trắng (2006).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1984. Giải thưởng Văn nghệ Khánh Hòa năm 1975-2000. Giải Cây bút vàng của Hội Nhà văn và tạp chí Văn nghệ công an năm 1998. Giải thưởng truyện vừa - Hội Nhà văn Việt Nam 1998, Giải thưởng truyện ngắn của Hội Nhà văn- Nxb Giáo dục 2004.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Những trang viết về chiến tranh cách mạng, về cuộc sống ngày hôm nay, phải khác với ngày hôm qua. Một độ lùi 30 năm đủ để cho nhà văn suy ngẫm một cách nghiêm túc nhất về hiện thực của đời sống, về chiến tranh cách mạng. Có những giá trị, chuẩn mực xã hội đã đổi thay, Nhà văn cần có một cái nhìn mới, cách nghĩ mới về cuộc sống, con người để làm sao đưa đến cho bạn đọc những trang viết chân thực nhất, về cuộc tranh giữ nước vĩ đại của dân tộc, về cuộc sống và con người Việt Nam với bao niềm vui, nỗi buồn, hy vọng trong biến thiên của lịch sử. Chúng ta không có quyền “thi vị hóa” cuộc sống nhưng cũng không được “bạc bẽo” với nó.
NGUYỄN NGỌC CUNG
Nhà viết kịch Nguyễn Ngọc Cung hoạt động văn học nghệ thuật từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, chuyên ngành kịch bản sân khấu, là thành viên tham dự Đại hội thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Sau năm 1954, ông sống và sáng tác tại Hà Nội.
ĐOÀN VĂN CỪ
(1913-2004)
Bút danh khác: KẺ SĨ, CƯ SĨ NAM HÀ
Họ và tên khai sinh: Đoàn Văn Cừ. Sinh ngày 25 tháng 11 năm 1913. Quê quán: xã Nam Lợi, huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Định. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957). Mất năm 2004.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Trước Cách mạng Tháng Tám 1945 dạy học, đã tham gia phong trào công nhân Nhà máy sợi Nam Định (1936). Năm 1948 tòng quân, tham gia kháng chiến chống Pháp làm công tác văn nghệ, phiên dịch, công tác địch vận Liên khu III. Từ 1959, biên tập tại Nhà xuất bản Phổ thông. Năm 1974 công tác tại Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc huyện Nam Ninh (Hà Nam Ninh). Từ năm 1971 là uỷ viên Ban chấp hành Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Thôn ca I (thơ, 1944); Thơ lửa (thơ, in chung, 1947); Việt Nam huy hoàng (thơ, 1948); Quân dân Nam Định anh dũng chiến đấu (phóng sự, 1953); Trần Hưng Đạo, anh hùng dân tộc (thơ, 1958); Thôn ca II (thơ, 1960); Dọc đường xuân (thơ, 1979); Đường về quê mẹ (thơ, 1987); Tuyển tập Đoàn Văn Cừ (1992).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng văn học Nguyễn Khuyến hạng B (không có hạng A) của Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh (1985). Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt I, năm 2001.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Ngót 60 năm cầm bút, tôi chỉ có một ước mơ khiêm tốn: Trong thơ góp một đường cày / Nước non gieo hạt mong ngày nở hoa.
HOÀNG TRẦN CƯƠNG
Họ và tên khai sinh: Hoàng Trần Cương. Sinh ngày 30 tháng 7 năm 1948. Quê quán: xã Đặng Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Tổng biên tập Thời báo Tài chính Việt Nam. Hiện thường trú tại: phường Thành Công, Ba Đình, Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1994.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tháng 8-1970 sau khi tốt nghiệp đại học, nhập ngũ, tham gia phục vụ chiến đấu ở chiến trường miền Nam, Lào và Tây Nam. Từ 1975 chuyển ngành, là chuyên viên ngành kế toán kinh doanh, Bộ Tài chính.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Hạnh phúc hôm nay (tập ký sự, 1971); Bầu trời Quảng Trị (truyện ký, 1972); Nguyên vẹn (tập truyện ngắn, 1973); Chớp xanh (truyện ngắn, 1973); Dư âm (tập truyện ngắn, 1976); Đường chân trời (thơ, in chung,1989); Dấu vết tháng ngày (thơ, 1991); Trầm tích (trường ca, 1996); Trầm tích (1999); Quà tặng hành tinh (1999); Trầm tích và dư luận (2005).
GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải A cuộc vậnT động viết về lực lượng vũ trang (1970-1972) của tạp chí Văn nghệ quân đội (ký sự Hạnh phúc hôm nay). Giải nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ 1989-1990 (trường ca Trầm tích và chùm thơ).Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng 1994-1999 về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng cho trường ca Trầm tích. Giải thưởng văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2000 cho trường ca Trầm tích. Giải đặc biệt Giải thưởng VHNT Hồ Xuân Hương năm 1997-2002 của Nghệ An.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Thơ có ở mọi nơi kể cả trong những con số. Đằng sau mỗi con số là những cuộc đời, nhiều cuộc đời. Khi nào nhân loại loại trừ những con số, khi đó thơ cũng có thể bị phế bỏ (mà không chỉ một mình thơ).
Với tôi, thơ là tất cả và cũng không là gì cả, nếu đó là những bài thơ... không có thơ.
LÝ BIÊN CƯƠNG
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Sỹ Hộ. Sinh ngày 24 tháng 1 năm 1941. Quê quán: Nam Sách, Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: thành phố Hạ Long, Quảng Ninh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1974.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Sau khi đi thanh niên xung phong 12B Tây Bắc về Hà Nội, là phóng viên báo Tiền phong năm 1960. Năm 1961: Tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Nhân dân, chuyển về khu Đông Bắc, là phóng viên báo Vùng mỏ, sau đổi tên là báo Quảng Ninh (1961-1987). Từ 1988 chuyển sang Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ninh, là Phó Chủ tịch Hội, Phó Tổng biên tập báo Hạ Long. Liên tục từ 1995-2005 là ủy viên Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam. Từ 1997 đến 2006: Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Ninh. Năm 2001: nghỉ hưu.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Đã xuất bản gần 40 tác phẩm văn xuôi và thơ: Người đãi vàng (1972); Người tôi yêu mến (1974); Bây giờ ta lại nói về nhau (1976); Tháng giêng (1979); Gắn bó (1982); Quả trong lòng tay (1984); Bây giờ trăng khuyết (1990); Thi hứng (thơ, 1991); Thu cảm (1994); Phù du (1991, tái bản nhiều lần); Dã quỳ (2000); Nẻo trời Vô Tích tôi qua (2003); Con người kể cũng hay hay (2003); Riêng thơ (thơ, 2005); Quả chát giữa hai bờ xôi mật (2006); Lý Biên Cương, truyện ngắn chọn lọc (1996); Lý Biên Cương tuyển tập truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết (2003); Lý Biên Cương, tuyển tập tiểu thuyết (2006)...
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải chính thức văn học công nhân lần thứ nhất năm 1972. Giải ba báo Văn nghệ năm 1972. Giải nhì báo Văn nghệ năm 1975. Bốn lần được Giải thưởng của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (1992, 1994, 1998, 2003). Sáu lần được giải thưởng Văn nghệ Hạ Long của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh (1981, 1986, 1991, 1996, 2001, 2006); Giải chính thức truyện vừa tạp chí Nhà văn 1998.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi yêu văn chương từ lúc bé, từng bị ăn đòn nhiều lần vì mải đọc sách không trông được các em. Văn chương như ngọn lửa, một ngày không cầm sách đọc hoặc không viết thì cuộc đời cảm thấy lạnh lắm. Đi với văn chương nhiều lúc cũng quá buồn, thấy trang viết sao mà nghiệt ngã, sao mà cô đơn, sao mà thăm thẳm. Chẳng biết những dòng chữ này liệu có ích đến đâu, hay lại rơi tõm vào cái mà loài người đang bù đầu lo cho sinh kế hằng ngày, mỗi lúc một xa vời, không mấy đoái hoài đến.
THẠCH CƯƠNG
Họ và tên khai sinh: Đặng Đức Thưởng. Sinh ngày 3 tháng 7 năm 1938 tại thị xã Thái Nguyên. Quê quán: xã Trung Lập, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: thành phố Hồ Chí Minh. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1976.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp đại học Sư phạm Hà Nội, vào chiến trường miền Nam; từng là giáo viên cấp 3, phóng viên báo, Trưởng ban Văn báo Văn nghệ Giải phóng, Trưởng phòng báo chí xuất bản TP Hồ Chí Minh.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Những ngôi sao trên bầu trời ven đô (tập truyện, 1968); Bão táp (tập truyện, 1969); Tấn công (tập truyện, 1969); Vành đai sân dù (tập truyện, 1971); Vượt dốc (tập truyện, 1975); Xóm Bàu (tập truyện, 1976); Đường vào chiến khu Đ (tiểu thuyết).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Truyện ngắn Ông già giữ đất được Cục Chính trị Quân giải phóng miền và tạp chí Văn nghệ quân giải phóng trao giải thưởng năm 1973.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: ... Tôi là người gắn bó với chiến trường miền Nam trong nhiều năm kháng chiến chống Mỹ, đặc biệt là vùng đất thép Củ Chi. Cảm hứng sáng tác của tôi thường bắt nguồn từ mảnh đất đó. Giờ đây cuộc sống trong xây dựng hòa bình đã khác. Dẫu ở bối cảnh nào, chiến tranh hoặc hòa bình, cuộc sống vẫn đòi hỏi con người lòng chân thành và tính trung thực. Văn học càng phải chân thành và trung thực hơn. Văn học không chấp nhận mọi sự lươn lẹo, giả dối, cơ hội. Văn học phải lành mạnh và có ích cho con người...
TRÚC CƯƠNG
(1936-2005)
Bút danh khác: HOÀNG CƯƠNG, LƯỠNG HÀ, DUY KỲ, AMA CHI
Họ và tên khai sinh: Phạm Trúc Cương. Sinh ngày 3 tháng 2 năm 1936. Quê quán: xã Chung Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Vào Hội năm 1979. Mất năm 2005.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Học trường Đại học nhân dân 1954-1955. Từ 1956-1976: cán bộ Đoàn ca múa Tây Nguyên, Đoàn ca múa nhân dân miền Nam, Trường múa Việt Nam. Từ 1976-1986: Trưởng ban biên tập sách văn hoá dân tộc - Nxb Văn hoá dân tộc. 1986-1996: chuyên viên biên tập - Nxb Văn hoá thông tin (Bộ Văn hoá -Thông tin).
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Sức mới (thơ in chung, 1964); Ca bình minh (thơ in chung, 1964); Dũng sỹ đeo vòng đá (truyện, 1978); Thị trấn biên giới (thơ, 1979); Cách địa cầu 2 mét (thơ, 1995); Vầng trăng lặng lẽ (thơ, 1998).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Văn học không phải là trò giải trí mà là lẽ sống. Càng ngày tôi càng cảm thấy thật rõ: Vượt lên được chính mình là một điều vô cùng gian khó.
VƯƠNG TÙNG CƯƠNG
Họ và tên khai sinh: Vương Tùng Cương. Sinh ngày 21 tháng 1 năm 1949. Theo gia đình : sinh ngày 25-10-1947. Quê quán: Quảng Minh, Việt Yên, Bắc Giang. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: cán bộ Hội Nhà văn Việt Nam. Hiện thường trú tại: Phường Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội. Vào Hội năm 2001.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Từng là bộ đội, sinh viên đại học, cán bộ ngành văn hóa thông tin. Từ 1995: chuyển về công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Bàn tay năm tháng (thơ, 1982); Lửa tầm xuân (thơ, 1997); Hoa lối sau chùa (thơ, 1999); Mùa xưa (thơ, 2001); Phía gió sương (thơ, 2005).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải nhì thơ (không có giải nhất) do Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí Minh và tạp chí Kiến thức ngày nay trao tặng năm 1998-1999.
SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN:T Thơ là phần hương khói hồn tôi.
VÕ BÁ CƯỜNG
Họ và tên khai sinh: Võ Bá Cường. Sinh ngày 2 tháng 4 năm 1940. Quê quán: làng Phương Đài, xã Đông Dương, huyện Đông Hưng, Thái Bình. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Số 912 đường Lý Bôn, tổ 27, phường Trần Lãm, Thành phố Thái Bình. Vào Hội năm 1997.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1957-1960: dạy học ở đảo Vân Hải, huyện đảo Vân Đồn, Quảng Ninh. 1960-1964: làm công tác văn hoá huyện đảo. 1964-1971: làm trưởng phòng thông tin văn hoá huyện đảo. 1971-1988: về Hội Văn nghệ Thái Bình làm Chánh văn phòng, uỷ viên BCH Hội Văn nghệ Thái Bình khoá IV.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Thơ: Nỗi nhớ mùa thu (1989); Khi chúng mình yêu nhau (1990); Miền gió thức (1991); Trăng lại mọc (1993); Nỗi buồn con gái (1992); Dưới bóng tre xanh (1996); Hồn quê (2000); Khát gió (trường ca, 1999); Mấy ngọn cỏ non (2004). Văn: Thừa kế (tập truyện, 2000); Phố phường cát bụi (tập truyện. 1996). Ở làng lắm chuyện (tiểu thuyết, 2001); Trở mặt (tiểu thuyết, 2002); Người đánh thức cánh đồng (tiểu thuyết); Chuyện tình ông cố vấn (ký); Bạn văn (ký).
+ GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải C Giải văn học Lê Quý Đôn lần thứ nhất 1986-1990 tập Nỗi nhớ mùa thu. Giải A Giải văn học Lê Quý Đôn lần thứ hai 1997-2001 cho tập Hồn quê. Giải B Giải thưởng UB các HLHVHNT 1996 cho tập Dưới bóng tre xanh.
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Thơ vốn thanh cao quá nên có người làm thơ thường cầu kỳ về câu chữ. Thơ cần giản dị, gần gũi, thuần hậu với chính mình, vươn tới cái hay cái đẹp. Chỉ khi nào lòng mình thực xúc động, mới viết được những câu thơ diệu nghệ.
HÀ CỪ
Bút danh khác: HÀ KHÁNH NGUYÊN
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Hà Cừ. Sinh ngày 14-6-1949. Quê quán: Thượng Cốc, Gia Khánh, Gia Lộc, Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Tổng biên tập báo Hải Dương. Hiện thường trú tại: 86 Trương Mỹ, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2006.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 1966-1968, bộ đội địa phương. 1972-1976 học tại trường Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, sau đó học Đại học Pháp lý tại chức. Làm nghề báo từ 1976. Năm 1993 Phó tổng biên tập báo Hải Dương. Năm 1998, Tổng biên tập báo Hải Dương tới nay.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Gió chân mây (thơ, 1998); Dòng sông năm tháng (thơ, 2005).
+ SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi sinh ra ở làng quê, trong một gia đình lương y và nho học. Từ nhỏ, tôi đã nghe bố tôi thường ngâm ngợi những câu thơ "bất đắc chí" như "Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo". Lớn lên, chiến tranh như cơn lốc cuốn mọi người ra mặt trận. Học hành lỡ dở. Cả ba anh em tôi đều cầm súng đi xa. Nhà tôi bị bom Mỹ tàn phá hết năm 1972; chiến tranh đã lắng dịu, tôi được về Hà Nội. Bốn năm ở Trường Mỹ thuật Công nghiệp đã cho tôi nhiều điều và duyên nợ hay ngẫu nhiên tôi đến nghề báo? Hơn ba mươi năm, làm đủ việc cùng với vẽ tranh, viết báo, tôi lặng lẽ làm thơ. Càng ngày, thơ vừa ám ảnh tôi, vừa thôi thúc tôi. Bao kỷ niệm đã qua và những bộn bề đang sống là nguồn cảm hứng thơ tôi. Có được bài nào, gửi gắm được điều gì, tôi thấy lòng thanh thản vì được giãi bày, chia sẻ. Tôi biết, nghiệp thơ không bao giờ dễ dãi. Có được câu thơ neo giữ trong lòng bạn đọc thật khó vô cùng. Nhưng có được, nó thực sự là niềm hạnh phúc của người làm thơ. Tôi luôn khao khát có được câu thơ như thế.
ĐẶNG THƯ CƯU
(1951-1991)
Bút danh: ƯU THỨC
Họ và tên khai sinh: Lê Công Tâm. Sinh ngày 21 tháng 5 năm 1951 tại Thành Lợi, thành phố Cần Thơ. Quê quán: xã Phú Hữu, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ. Vào Hội năm 1990. Mất ngày 2 tháng 5 năm 1991.
+ VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Sau khi tốt nghiệp đại học bị nguỵ quyền Sài Gòn động viên vào lính từ năm 1972 đến năm 1975. Thời học sinh, đã viết truyện ngắn, tiểu luận với bút danh Ưu Thức trên các báo Văn học, Khởi hành, Thời tập, Tiểu thuyết thứ Năm... Từ năm 1980 sáng tác trở lại và công tác tại Hội Văn nghệ Kiên Giang.
+ TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Sóng bủa ngoài vàm (truyện ngắn, 1986); Cuộc phiêu lưu của chú bé Đước (truyện thiếu nhi, 1987); Con mắt thời gian (tiểu thuyết, 1988); Đợt sóng mong manh (tiểu thuyết, 1989); Rừng ái ân (tiểu thuyết, 1989); Đò trăng (tiểu thuyết, 1989); Hạnh phúc đến cho mọi người (tiểu thuyết, 1990); Một thời để nhớ để quên (tiểu thuyết, 1990); Ngàn thu áo tím (tiểu thuyết, 1990); Dắt tay nhau rời vườn địa đàng (tiểu thuyết, 1990).