VanVN.Net - Làng Vũ Lăng (Tiền Hải, Thái Bình) nghe Khu Gang thép Thái Nguyên cần công nhân gửi chàng trai trẻ Trần Văn Thước lên đó; khi Thước bị tai nạn lao động, làng lại đón đứa con của mình về để chạy chữa chăm sóc. Gần 30 năm qua Thước ngồi một chỗ, lấy thùng hàng xếp cao làm bàn và đứng viết, tình cảnh tưởng không thể thê thảm hơn. Nhưng văn Thước lại hồn nhiên, phồn thực với rất nhiều minh triết dân gian nó làm nên vẻ đặc sắc và đưa anh lên hàng đầu những nhà văn viết về nông thôn. Đọc mỗi truyện ngắn của Thước đều thấp thoáng làng Vũ Lăng, có cảm giác anh cứ ngồi một xó còn người làng thì cứ đi qua, kháo nhau chuyện này chuyện khác diễn ra ở làng hay ở đâu đó, tiện thể ném qua cửa sổ cho anh những ngôn ngữ bình dân thời hiện đại…
Nhà văn Trần Văn Thước
TRẠM XÁ LÀNG
Tôi biết ơn bà chủ quán mến khách với lời dặn chu đáo: “Cô cứ đi hết sáu khúc ngõ, bước qua cầu thấy cái biển gỗ có hai vệt đỏ đè lên nhau là trạm xá làng”.
Đi hết hành lang ngôi nhà lớn nhất tôi dừng bước trước cửa phòng có treo biểu “Thường trực”. Trong phòng một người đàn ông và năm cô con gái đang trò chuyện vui vẻ. Tôi rụt rè cất tiếng chào và nhận ra đủ “sức chiến” của sáu đôi mắt tròn xoe. Bất thần người đàn ông vỗ tay đánh đốp, xởi lởi:
Cô Ngân đấy à? Vào đây! Vừa nhận được thông báo hôm qua chiều nay thực tập sinh có mặt. Kỷ luật cực cao. Đón bạn đi, các cô!
Cả năm người ào ra. Người đón nón. Người đón túi. Hai người cầm tay tôi đón dắt vào tận ghế “Hắn thật kèng” –một người nhận xét.Tôi nóng ran người. Lại một người vỗ eo tôi mạnh như thụi, tay kia khoát rộng:
-Hắn là Kim Ngân, họ Phí trung cấp y, chúng tớ biết từ hôm qua, trên giấy. Tớ đây là Hà –dược. Cạnh hắn là Hà –sản. Hắn kia là Mai,hai hắn kia là Lan và Thủy. Người đeo kính chễm chệ bên bàn là trưởng trạm Toản, ngũ tuần đấy nhưng không thèm ngồi lên ngôi chú bác. Anh, anh tuốt tuồn tuột…
Cả trạm cười tưởng bay cả ngói. Các cuộc đón tiếp vui vẻ, vồn vã cả xuồng xã nữa, đã dánh tan trong tôi những ngần ngại ban đầu. Chợt anh Toản gỡ kính gõ gõ lên mặt bàn:
- Rồi chuyện mệt. Giờ thế này nhé! Cac cô chưa đủ sức bao cái kim Phí Kim Ngân đâu. Cho việc ăn uống cửa noánh sẽ lo. Còn ngủ, các cô lạ gì, con gái nằm đâu vui đấy. Cai Ngân như em út trạm xẽ lần lượt ngủ với bà xã anh, các cô, cả cụ Lãn bà nữa. Coi như xong thủ tục công tác. Gời hai cô ù về bảo chị làm cơm cả trạm. Ngon vào!
Bữa cơm chiều nay thật vui. Cả trạm quây quần quanh bàn ăn như tiệc. Tiệc gà, cá chép, cơm gạo quê tráng ngần…Hà –được đề nghị cụm ly “vì sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân”. Tôi mời vào bữa chưa hết lượt, Hà –sản lắc đầu, đặt bạt xuống mâm nghe đánh ‘cạc”
-Hỏng !
--Món nào mặn hả cháu? –Viện trưởng hỏi. Lãn bà và viện trưởng đông y là biệt hiệu của cụ . Hồi –người trông coi vườn thuốc nam kiêm hộ lý trạm xá làng .
Không ạ- Hà- sản lắc đầu –Đã có thông báo mà Kim Ngân cứ quên hoài. Xưng hô anh chị em, hắn, tớ, cho bình đẳng người ta đi.
Cả mâm buông bát cười. Quả thật vợ chồng trưởng trạm năm mươi nhưng vẫn còn tươi trẻ như mới trạc tứ tuần. “Nhàn cư dư thực lại phi nông din thì mẹ đốp chẳng thua Kiều” –sau này trong lúc vui truyện Hà –sản nho nhe văn học thế .
Ngày thực tập đầu tiên cho tôi theo cách nói của anh Toản là “đưa sinh viên đi vãn cảnh trạm xá làng”.
Ngôi nhà chính bốn gian. Có lẽ là “bộ mặt” nên được lợp ngói xi măng. Hai gian đầu là phòng hỗ hợp “trực – khám – họp”. Hai gian tiệp là quầy dược. Goị là quầy những nội thất chỉ có chiếc bàn, cái ghế, cái tủ gỗ. Trong tủ có mấy cái lọ thủy tinh rỗng, dăm chai rượi đông y sủi bọt chắc vì để lâu. Trên nóc tủ có vài bao tải bốc ra mùi lá cây ẩm mốc lưu cữu.
- Nó thế đấy- Anh Toản giải thích- Cũ rồi cái công thức bác sĩ khám kê đơn, dược tá bán thuốc, y tá tiêm. Bây giờ đời mới y bác sĩ kiêm tốn luôn viêc của y dược tá và ngược lại. Bán thuốc, tiêm chọc trở thành khâu liên hoàn thuận tiện cả đôi bên. Nhưng cái chính là theo cơ chế mới “quầy dược ở trong buồng nhưng ai có tiền, có thuốc. Trong tủ con buôn…”
Ngôi nhà dành cho người bệnh ba gian khá rộng. Có mười hai giương đều không chiếu. Một nửa số giường không có giát và bốn chiếc chân được thay bằng gạch kê. Cả ba phòng đều lạnh lẽo hôi ẩm chứng tỏ đã rất lâu không có ngượi đặt chân vào. Phòng nội chú mà không có người bén mảng thì lạy trời…đó là điều lý tưởng của ngành y. Nhưng anh Toản nhìn xói vào tôi
- Đáng lên báo, mục phê bình hay vui cười?
- Dạ…-Tôi ấp úng:
- Cô thì dạ dạ…Còn anh thì thế này: Bệnh nặng thì lên tuyến trên, cơ sởkhông có điều kiện. Ở trạm xá làng thuốc men đâu? Ai phục vụ? Rách việc lắm! Với lại động ốm là nằm trạm xá thì lấy cái gifcung phụng dạ dày. Rồi bệnh viên tuyến trên, đám bác sĩ tại gia vặt ai mà sống. Trạm xá bây giờ chỉ là hình thức cơ cấu. Nó trở thành xưởng phụ cô ạ. Xưởng phụ của bác sĩ làng.
Khu nhà ba gian lụp xụp hơn cả vẻ ấm áp, nhộn nhịp hơn. Gian đầu chắc là bếp vì có dãy kiềng gạch. Gian giữa, phòng khám phụ khoa độc nhất chiếc bàn sắt mạ, một chân tạp gỗ, trên mặt bàn chỏng trơ đôi mỏ vịt. Phòng đẻ, gian chót, ngoài bàn sản phụ có thêm đôi xô, chiếc cân quang treo. Nền nhà còn láng nước chứng tở ít lâu có đúa trẻ chào đời: Cả ba gian đều trổ cửa hậu nhưng không còn song, được che bằng chiếu và phên cót. Đứng trong nhà nhìn rõ cái ao lớn phía sau, cỏ rả um tùm lút chân tường:
Khép cửa phòng đẻ, anh Toản cười nụ:
- Gía phụ nữ đẻ đừng có nước non thì trạm ta được nơi lý tưởng.
- Sao thế ạ?
- Mấy năm trước trạm ta ở ngã ba làng, gần khu dân cư, tiện trục đường cho cấp cứu. Những đoàn quy hoạch nông thôn năm Hai Nghìn xơi hết hai tạ thịt quy ra lợn rồi ném lại một mớ bản vẽ. Tìm được chỗ thuận lợi vừa san nền xong thì huyện lại bảo không được. Chỗ ấy gần chùa, khu văn chỉ, trạm xá bao nhiêu thứ bẩn thỉu ô uế, mất cảnh quan v.v… Nơi ấy bổ sung quy hoạch Hai Nghìn là khu văn hóa giải trí của nhân dân. Văn – giải cóc khô gì! Nó là tư điền của Bí thư huyện rồi. Trạm ở chỗ tứ bề nắng gió, đồng không mông quạnh. Nhưng có cái tiện là bao thứ bẩn thỉu có lối xuống ao. Ao ra ngòi. Ngòi chẩy ra sông…cứ thế,sạch tuốt môi trường. Cô nghĩ sao?
Rõ ràng trạm xá không y tế chút nào. Tôi nói thẳng với anh Toản những nhận xét của mình. Anh Toản gật đầu
- Cô có tinh thần cao đấy. Dựa vào sức người, tình người để làm cái trạm xá ra cái trạm xá. Nhưng cô ơi, lãnh đạo còn lo việc quền binh. Dân tình phải lo cái dạ dày. Mọi phong trào quần thực dĩ là vô làm. Ngân sách đầu tư chỉ là chuyện trong mơ và tự thu tự chi. Lương bác sĩ quy ra thóc giỏi lắm được sáu lạng. Ăn gì để dốc tâm vào sự nghiệp bảo vệ sức khỏe? Họ phải hành nghề tại gia là lẽ đương nhiên. Về làng thực tạp ắt cô hiểu vì sao trạm xá thời nay là xưởng phụ. Trạm xá đích thực ở tại gia những ai võ vẽ kiến thức tiêm chọc, có tiền, có thuốc
Trở lại phòng hỗn hợp, tôi giúp anh Toản căng lại tấm ri đô màu cháo lòng chi chít vết vẩy mực, thuốc đỏ. Tôi toan dọn nền nhà vương đầy mẩu bông, mẩu thuốc lá…thì trước cửa suất hiện ba chị trung niên bế ba cháu bé. Cả mẹ và con đều lếch thếch tã tàng. Có lẽ vì tôi là người lạ nên các chị xét nét bước vào ghế dành cho bệnh nhân. Ba đứa bé lả đầu vào vai mẹ, bàn tay khẳng khiu bấu chặt tay áo như sợ ai giằng ra. Mồ hôi lưu cữu, có mùi gì đó tanh tanh như ẩn đâu đó chợt cốn lên.
- Làm sao nào?- Anh Toản hỏi.
- Cháu nhà em khóc suốt đêm như bị ma ám.
- Con bé vừa nôn vừa ỉa anh ạ
- Thằng cu nhà em…- Người thứ ba mạnh bạo hơn
- Anh xem nó vẫn ho ra rả như cuốc hé lại ỉa tổng tổng như tháo cống.
- Được rồi! Anh Toản gật đầu và mở túi thuốc đưa cho người người đầu tiên và thứ ba viên thuốc, anh lắc đầu nhìn người thứ hai – Con bé nhà cô ba đợt liều cao thế vẫn không chuyển phải đưa nó lên tuyến trên vậy thôi.
Người phụ nữ ôm đứa con vào lòng. Gương mặt chị đờ đẫn, đôi mắt mở to như đứng công việc cực kỳ khẩn thiết nhưng vượt quá khả năng của mình. Anh Toản vừa mở cặp giấy tờ. Chị bế đứa con lao lại thì thào:
- Nhà em và cháu còn nợ anh mấy lần tiêm nhưng quả thực nhà em phải trận ốm vì di te đêm để kiếm cho các cháu thúng gạo nên chưa thanh toán được. Anh đã thương xin thương cho chót. Anh ghi sổ… mùa sau thế nào em cũng xin vâng. Chứ anh cho cháu đi viên huyện alij như hôm nào con nhà Ban không có tiền nộp viện phí ngay lại bế con dọc đường thì…
Anh Toản thản nhiên cười như gặp vấn đề đơn giản quen thuộc. Anh ấy gấp cặp, mở túi hộp bơm tiêm núp trong bàn tay múp trắng của anh; Tôi vẫn thấy lượng thuốc quá ít cho căn bệnh và tầm tuổi đứa trẻ. Its ngày sau tôi phát hiện cả trạm điều trị kiểu nhỏ giọt, tôi nói thẳng điều ấy với Hà-sản- Hà thản nhiên ; “ Một liều thật cao, cao thì tiền cao bảo bác sĩ chém đắt. Một liều vừa nhỏ vừa dễ tính tiền lại được tiếng chữa rẻ. Nông dân quen tinh tiền theo phat tiêm hắn ạ. Bác sĩ đảng viên hay không đảng viên đều thế cả”.
Buổi chiều trở về, vừa qua rãnh nước anh Toản sực nhớ nhủ tôi cùng quay lại: “Để lấy cho chị cô mấy củ riềng kho cá mè. Nhân thể mời sinh viên thăm vườn đông y”.
Vườn đông y khá rộng dễ đến bốn sào Băc Bộ nhưng nếu không có mấy gốc dành dành, riềng, luống ngải cứu …thì dễ tưởng đấy kaf khu vườn hoang hoặc bãi đá bóng trẻ. Như biết tôi thắc mắc, anh Toản đón trước
- lãng phí đất quá hả? Mấy năm trước nó lá vườn đông y màu mỡ cũa huyện đấy. Mười năm cụ Lãn ông, Lãn bà phần lớn là phụ thân của cán bộ xã mỗi năm thưởng ngót chục tấn thóc để sản xuất ra vài tạ sâm hành, nhân trần… Bán chác chả sao. Còn kê đơn, nông dân ốm ưa xài tây y cho mau khỏe để đy kiếm cái ăn ai hơi đau ngồi chờ sao-sấy-sắc. Thật thu một chi mười, đại lạm phát…
Anh Toản bỏ lời, nhìn xói vào mấy luống húng. Rồi anh lớn tiếng:
- Ba viện trưởng đâu rồi?
Đang lúi húi quét lá ngoài vườn , cụ Hồi buông chổi chạy lại. Anh Toản chỉ vặt húng:
- Ai hái như trâu vặt thế này, cụ?
- Tối qua nhà Chí hái về nấu cơm đêm cho đảng ủy họp ăn.
Anh Toản gật đầu bước lại khóm riềng. Bất thần anh lấy bàn chân hất đổ mấy cây riềng bị bứt củ thân còn tươi nguyên dụa vào khóm.
- Lại cả khóm riềng này nữa. Lấy củ sao cụ không đưa cuốc cho họ bới mà lấy tay giật cả khóm thế này. Lấy một phá mười. Chết thật!
Cụ hồi vội nhổ bã trầu:
- Âý, con vợ phó chủ tịch đấy! Cha tổ nó! Trưa nãy nó đến lấy tôi bảo chờ để tôi chêm cán quốc thì mùng thất họ mới được nâng cuốc à? Cha tổ nó! Mồn nói tay giật, quá cánh vợ phó tổng thời tây. Cha tổ nó…
Đến chết cười với cụ Lãn bà. Ra khỏi vườn, anh Toản buồn buồn giọng:
- Không moi đâu ra cái vốn cho cái vườn, anh muốn phá béng, giao đất cho nhân viên tăng gia, nhưng lãnh đạo xã quyết để. Cô biết vì sao không?
- Để tìm vốn đầu tư lấy lại tầm vóc điển hình.- Tôi thật thà.
Anh Toản cười phá lên;
- Cô ngố lắm. Cái vườn để hoang là do luồng gió đổi mới đấy. Trước đây, cán xã, cán huyện đánh chén tì tì.
Đám phục vụ bạ nhà ai cũng bổ vào xin rau thơm. Giờ thời đổi mới họ vẫn ăn tết quanh năm nhưng kín đáo hơn. Ngày nào, bạ nhà ai cũng vào xin gia vị khác nào bày cỗ giữa ngã ba. Dân họ biết bỏ mẹ cả lũ. Vườn thuốc đông y trở thành nơi cung cấp gia vị. Đám phục vụ, vợ con cán bộ cứ việc đến lấy. Có gặp ai dễ thoái thác: “Đi hái lá thuốc, lá xông”.
Một chiều, trong lúc anh Toản đi bắn chim, bưu tá xã đến đưa giấy mời họp. Anh về đọc qua rồi bảo tôi:
- Mai đến phiên cái Thủy đi họp. Lát nữa cô tạt qua nhắc nó hộ anh
Giấy mời ghi rõ tên trưởng trạm. Chắc anh Toản ở ngoài nắng vào lóa mắt đọc nhầm, tôi nhắc lại. Anh cười:
- Ở làng họp triền miên. Cuộc họp nào anh cũng đi với tư cách trưởng nghành thì lấy ai trực trạm. Vì thế anh quy định giấy mời của đảng ủy, mặt trận: trưởng trạm đi. Họp hợp tác, thanh niên, phụ nữ… Các trạm viên chia đều lần đi họp. Đi họp cốt cho đủ mặt ngành giới chứ vấn đề y tế mấy khi có vinh hạnh là một đề mục thảo luận. Với lại ở làng họp là có chén, có quà, chí ít cũng phải biết chia nhau.
Cuối tuần thực tập thứ ba của tôi, Hà – sản trúng quả “bóng bay ca pốt”, Lan vào cầu lô “coóc-ti-dôn” quá hạn, chung nhau đãi cả chạm kẹo dừa, lạc rang. Gần tàn tiệc ngọt, có một vị trung niên bước vào. Tôi nhận ra ngay ông phó bí thư đảng ủy thường đến tiêm ở nhà Lan và cười tít khi lan gọi đùa “ông phó đầu đảng vâng dạ ạ ơi” .
- Ông xem sao đau ngực quá –“ Phó đầu đảng” nói và ngồi cạnh Lan, như vô tình huých người vào vai cô.
- Chuyện vặt – Anh Toản nói và ra hiệu cho tôi mời nước rồi xoay mở tủ thuốc. Tiêm xong anh ấy bao thuốc đầu lọc về phía phó bí thư – Cầm cả mà hút. Ổn rồi! Phó bí thư đút bao thuốc vào túi, ngồi một lát rồi cáo lui. Lạ quá! Trừ tôi với anh Toản tiễn bằng lời, còn lại tiễn chào bằng những cái bĩu môi, lừ mắt. Lan xì công khai:
- Trông thế mà quỵt của em mấy lọ bi.
Như chờ mãi mới có người khơi mào, Thủy lên tiếng:
- Vợ lão cũng nợ em ba đợt tiêm từ năm ngoái.
Hà – sản thở hắt ra:
- Em mới chạy được tí vốn làm ăn mà vợ chủ nhiệm, rồi tay phó chủ nhiệm chơi mấy đợt tiêm chịu, cạn cả rồi. Tay phó không cho khám cứ nằng nặc đòi “ăm-pi” liều cao. Nhìn mặt, em dám chắc hắn bị nổ. Không nể anh thì em vặt cho biết mặt.
- Họ cũng tha gì anh – Anh Toản khoát tay – Nhưng các em khỏi lo. Trạm ta dù sao cũng phải cống tý chút vì cái mục chuyên doanh khám tai gia. Cán bộ và gia đình họ ai nợ? bao nhiêu ? Các em kê biên ra giấy hôm nào kiểm kê anh sẽ ấn vào mục đóng góp ngân sách xã.
Tất cả cười nhẹ nhõm. Lan tỏ ý không vui:
- Anh gắn lọ “cooc” với ngàn ga-ma “mười hai” hắn khỏi ngay thì bon em vặt vào đâu nữa.
- Lần này phải thế. Sắp tới đại hội đảng bộ ông phó cần có sức khỏe để đấu đá kẻo rồi lại trách y tế không chăm nom sức khỏe cán bộ chủ chốt. Dịp này xem ra ông phó khỏe mạnh mà năng tới trạm. Chắc phòng trước việc đổ là do sức khỏe, nếu trúng lại vỗ ngực: tôi yếu đau nhưng dân giao việc thì phải cố gánh.
Ngừng một lát như để nhớ, anh Toản nói tiếp – Toàn quốc giảm biên, quyền lực sẽ tập trung vào số ít người, cái tốt cái xấu đều vào cuộc đại chiến. Làng ta kỳ này đấu đá chắc nảy lửa. Họ Trần đang lên chân nhờ có dân hưu trí hộ vệ. Nhưng xem ra cánh họ Đặng cũng không vì thế mà xuống chân. Nhờ việc xây hội trường, nhà trẻ, họ đã kéo được cánh họ Đào về phe mình. Nhưng tình hình trận mạc lại căng vì lâu nay cỗ bàn, cán các cấp hay ăn ở nhà tay chủ tịch họ Phạm.
- Thế anh ủng hộ họ nào? – Tôi buột miệng.
Anh Toản vỗ tay đánh đốp:
- Câu hỏi rất khá. Anh ủng hộ tất cả các họ.
Cả bọn trố mắt ngạc nhiên. Anh Toản ôn tồn giải thích:
- Trạm ta được như hôm nay, các em làm ăn được như thế là lúc nhờ họ Phạm, khi nhờ họ Trần, người được lòng họ Đào, kẻ dựa thế họ Đặng, làng ta phe cánh có nhiều nhưng xem ra họ Trần và họ Phạm mạnh hơn cả. Cho nên anh tính cả rồi. Bây giờ đổi mới, đại hội toàn thể trạm ta có hai đảng viên đều được đi dự. Như thế anh sẽ bỏ phiếu cho họ Phạm. Cô Hà – sản bỏ cho họ Trần. Hai họ ấy đều có tài vận động, gài người vào ban kiểm phiếu. Qua việc bầu cử hội đồng nhân dân, ban quản lý… các em còn lạ gì. Đại hội ngã ngũ, họ nào thắng trạm ta cũng có phần đóng góp, anh em mình yên ổn làm ăn. Nhân đây anh nhắc cô Hà điều ấy.
Hà – sản dạ ngon ơ. Anh Toản uống một hỏi cạn cốc chè nóng. Một lát anh mở sổ:
- Các em này! Thực hiện chỉ thị của cấp trên và lập thành tích chào mừng đại bộ đảng bộ cơ sở, trạm ta mở chiến dịch đặt vòng trách thai. Ngày mai bắt đầu triển khai. Anh em ta lo việc chuyên môn. Việc mời chị em trong độ tuổi đến trạm là trách nhiệm của ủy ban, cờ đỏ và ban thông tin.
Đêm ấy tôi ngủ ở nhà Lan. Vừa thức dậy đã nghe tiếng loa truyền thanh dóng dả xướng tên chị em trong danh sách đặt vòng tránh thai. Hai đứa ăn cơm nguội rồi ù đi.Tới trạm đã thấy anh Toản và một tốp đàn ông đang trà lá rôm rả.
- Chào “chánh phó lý và các trương tuần đinh viên” – Lan đùa, kéo tôi lướt qua mặt mọi người vào phía trong phòng hỗn hợp.
Đùa tán một lúc, các đội viên kéo nhau đi thực thi công vụ. Hai Hà và cụ Lãn bà đến cùng một lúc. Anh Toản phân công công việc rồi nói vời cụ Hồi:
Cụ ù ra đài xã bảo thằng phát thanh viên nhấn mạnh câu phát thuốc không mất tiền và hai mươi nhăm viên chứ không phải một chục như sáng sớm. Cụ nhắc nó nhấn mạnh mục thóc thưởng, miễn nghĩa vụ… chứ cứ ông ổng phạt với trừ thì có ma nó đi đặt vòng cho. Rồi cụ về phụ việc cơm nước.
Năm chị trung niên xuất hiện trước cửa phòng, sau họ là hai đội viên cờ đỏ tay đeo băng, vai khoác súng trường Mát. Một chị tầm ba mươi khá xinh ào vào phòng dẩu môi nguýt anh Toản:
- Ai khiến ông bắt tôi?
- Bắt cô là chí phải.
- Anh đùa hay thật đấy?
- Đâu có đùa! Cô ba nhóc rồi. Xuống nhà các em nó cho cái vòng để xinh trai. Xuống đi. – Anh Toản xua tay.
- Anh chưa to đâu – Người phụ nữ gằn giọng quay sang ông chủ tịch – Anh… hôm qua em nói với anh thế nào?
Chủ tịch xã vội vàng mở sổ, đeo kính, chăm chú đọc:
- A chết! Tôi quên! Cô ấy có đơn li dị gửi chính quyền. Ông Toản hoãn cho cô ấy đến khi có chồng mới nhé!
- Bắt nhầm! – Anh Toản cười xí xóa. Người ta dẫn một tốp khá đông anh em về trạm. Chắc là bắt tại đồng nên chị nào quần áo cũng vấy bùn. Có chị lủng lẳng giỏ cua bên hông.
Xong bốn ca, tôi lên gặp anh Toản:
- Anh cho người hướng dẫn chị em trước khi đặt vòng. Chứ thế này thì…- Tôi không dám nói hết câu.
- Cứ làm tới đi – Chủ tịch xã phất tay – Nông thôn ý mà. Các bà ấy lẩn như chạch, quây mãi mới rong về đây được. Giơ cho đi rửa ráy khác nào xui các bà ấy biến.
- Để anh làm – Anh Toản nói và băm bổ bước xuống nhà sản. Một lát đã nghe anh quát: “Lên đi… tụt ra… thế… thế…”. Một lát nữa lại nghe anh oang oang: “Đeo cả giỏ cua lên bàn thế à?... Ngửa ra, dạng ra… tốt… tốt…!”.
Được ba ca anh Toản phải lên tiếp bí thư đảng ủy đến kiểm tra. Tôi và Hà phối hợp. Một ca tôi chuẩn bị đưa dụng cụ tránh thai vào vị trí thì có tiếng đập cửa rầm rầm. Hà – dược lao vào: “Ca này có ý kiến của lãnh đạo…”. Người phụ nữ bật lên toan vớ lấy quần. Hà gạt lại: “Cứ nằm đấy… nhưng… hiểu chưa?”. Và Hà ghé tai tôi:
- Bà này bốn gái rồi. Ông chồng cố chết muốn tí thằng cu hương khói, lại là cán bộ thuộc phe phạm nên chủ tịch cho phép đặt lệch đi. Vợ chồng cò chửa là do sự cố kỹ thuật, ông chồng không bị kiểm điểm. Nông thôn nó thế, hắn ạ.
Xong ca “lãnh đạo cho phép”, một người đàn bà sấn sổ bước vào. Chị vừa khóc, vừa leo lên bàn, thổn thức:
- Cha tổ nó! Nó nhốt chị trong buồng, phải gọi cờ đỏ phá khóa các em ạ! Cha tiên nhân nó chứ! Các em cứ đặt cho chị hai ba cái càng tốt. Cốt sao nó ấy vào rồi nó phải ấy ra. Cha tổ nó! Cứ đi mà lấy vợ hai. Chị đủ sức nuôi năm con bé. Chị cần đ. gì cái chức trưởng họ. Chỉ tổ mệt bã người ra…
Gần trưa chị em đứng chật hành lang chờ lĩnh thuốc. Bí thế anh Toản nói đại: “Vô trùng tuốt” tội gì phải nuốt kháng sinh cho thêm mệt người với lại danh sách phát thuốc gửi cả bên “hội phụ nữ”. Thuốc đâu ra! Tôi chợt nhớ tuần trước anh Toản xuống phòng y tế về nắm oạch cái túi lên mặt bàn, ấm ức: “Chui đủ các cửa, giở đủ ngón mà cửa nào cũng trợn mắt lên: “Chủ động tự lo tự cứu…”. Mất cả ngày trời, hai bao Zét mới được chục nghìn bạc thuốc. Để lại hai nghìn anh phát, bán cho đám hay kêu ca, còn lại các em chia nhau…”
Bữa trưa tám mâm bày chật nhà anh Toản. Cán bộ chủ chốt đủ mặt ngồi mâm trên. Như biết tôi sẽ đặt câu hỏi sau nỗi ngạc nhiên, Lan ghé tai: “Ở làng thời nay ăn uống tinh vi hơn. Các ngành giới tiếp khách, liên hoan tại gia sau đó lên phiếu chi”. Cuối bữa, chủ tịch chỉ mặt đội trưởng cờ đỏ, như say:
- Bắt được vợ chồng “lục bướm” tao thưởng hai mâm ngũ món.
Người ta hứa quyết tâm. Sao lại “lục bướm”? Tôi hỏi. Lan, Hà cười phá lên. Té ra là “lục bướm” là thày u của sáu cô gái cách nhau năm một. “Cũng vì- Lan giải thích – trong làng có ông bác sĩ về hưu chuyên tháo vòng chui. Nhờ thế mụ “lục bướm’ được đà xoen xoét: “Tại các chị đặt nó hay lệch sao ấy”. Lần sinh cô thứ sáu, anh Toản vặc cho, mụ thút thít: “Các bác đặt chắc thế thì đúng tại cái lão nhà em. Nó cứ như giặc ấy… Các bác thắt cha nó lại hộ em..”
Ngay đầu giờ chiều người ta đã tóm được vợ chồng “lục bướm”. Bà vợ to như hộ pháp, còn ông chồng còm nhom, xanh bủng như môn đồ của thuốc phiện. Bà vợ xoen xoét: “Em đang có ấy”. Anh Toản nhìn ông chồng và chỉ tôi:
- Cô ấy là chuyên gia sinh đẻ kế hoạch, ông ạ. Mấy lần trước bà trục trặc vì ông mạnh quá. Giờ chúng tôi phải thắt của ông lại.
Nghe thế ông chồng ù chạy để mặc bà vợ bị hai cờ đỏ rong xuống nhà sản.
Thứ hai tuần thực tập thứ tư, tôi và cụ Hồi trực trạm, anh Toản đi họp huyện. Gần trưa anh Toản về trạm. Lúc đi anh nói họp cả ngày mà về giữa chừng hẳn có việc hệ trọng. Quả thế, ngày mai có đoàn kiểm tra tỉnh về trạm. Thông báo rồi anh Toản bảo cụ Hồi:
- Cụ đi tìm mấy đứa đến ngay.
Cụ Hồi lắc đầu:
- Chả có đứa nào ở nhà đâu. Hai cái Hà rủ nhau đi xem bói lá tre từ sáng sớm. Cái Lan đi làm cỏ. Còn cái Thủy đi chợ sắm lễ giải hạn cho anh trai.
- Thì cụ cứ đi nào.
Trưa, các nhân viên đến đủ anh Toản phân công:
- Viện trưởng lo cái vườn đông y. Mượn mấy cái cuốc và xin đâu bó sả, ngải cứu… về đặt ở tư thế sẵn sàng lên luống. Hai cô vệ sinh phòng bệnh nhân. Ba cô lo quầy dược, nhà sản. Tất cả cá co cho mượn giát giường, chiếu một. Rồi anh sẽ tính công…
Chỉ tôi, anh Toản nói:
- Cô Ngân, tối về phụ với chị cắt súc vải hoa Tiệp may ba tấm ri đô. Rồi đi với cái Thủy mượn mấy cái nong to phơi thuốc đông y…
Cả trạm hộc tốc tấn công đón đoàn kiểm tra. Anh Toản lôi trong tủ ra một bó bảng, biểu, phác đồ… Tôi giúp anh phủi bụi, cắt con số mới, dán đè lên số cũ. Cụ Hồi thế mà khỏe, loáng cái đã lôi đâu về hai bó sả, ngải, lại cuốc được luống đất dài.
Buổi sáng ngày đoàn đến, anh Toản mở tủ phát áo blu. Chiếc nào cũng mới cứng, thơm nức mùi hồ vải. Thiếu hai chiếc, anh Toản bảo Lan:
- Cô vù xe máy sang làng Vũ bảo tay trưởng trạm cho anh mượn hai chiếc. Mới vào.
- Lão ấy khó tính lắm – Lan ngúng nguẩy – Lấn trước mượn cái biểu dồ tiêm chủng bẩn một tí mà lão cứ cằn nhằn mãi.
- Cứ đi! Bảo lão tháng trước mượn ta cái bàn để đón đoàn huyện, lúc trả gẫy cái chân anh chưa hỏi đến đâu.
Lan đi rồi, anh Toản giục cụ Hồi:
- Đã bảo từ hôm qua mà cụ cứ đóng bộ tã tàng này thì hỏng ráo! Cụ về thay bộ quần áo khác đi. Nhanh lên.
- Có mỗi bộ lành, tôi cuốc đất bẩn, giặt chưa nỏ.
- Thì cụ cứ về mượn tam ai một bộ. Lúc làm vườn cụ nhớ ngồi ghế chứ ngồi bệt như mọi ngày là mất điểm như chơi.
Cả đoàn áo trắng rồng rắn ra tận ngã ba đón đoàn. Phần cho long trọng, phần vì đường hẹp, nhiều rãnh, cây cối um tùm xe con khó đi. Tôi đảo mắt tìm ngôi hàng hôm nào ngồi nghỉ hỏi đường và… giật thót mình! Như có bàn tay thần thánh, ngôi hàng hôm nào đã biến thành trạm “hồng thập tự” có giường, màn, tủ thuốc… y như thật. Xế cửa một quãng, một tốp thanh niên đeo bình phun, gang tay, khẩu trang tươm tất. Trên đầu mỗi người nổi bật cái mũ có băng giấy trắng, chữ đỏ: “Ruồi – muỗi là kẻ thù phải diệt!”. Đứng chờ một lát, anh Toản sực nhớ, hốt hoảng bảo tôi và Hà – sản:
- Anh quên mất điểm quan trọng. Hai cô ù về phơi mấy bao thuốc đông y cho anh. Sau đó pha mấy chai rượu bổ. Nhớ tăng cồn vào để anh mời khách nếm thử đông y của ta.
Hai đứa tất tả về trạm. Cửa quầy dược vừa mở, hai con chuột cống lao ra làm tôi hết hồn. Lũ chuột con rinh rích chạy trốn. Hà lôi trên nóc tủ, ba bao tải đầy căng. Bao ý dĩ, nhân trần mốc xanh. Bao sâm hành còn tệ hơn, động vào là nát vụn.
- Chẳn sao! Còn đón được mươi đoàn nữa mới chịu vào chuồng lợn - Hà nói và dốc miệng bao vào cái nong lớn.
Phơi xong – mà phơi trên giàn cao để khách ngửi thấy mùi thuốc chứ muốn ngó phải công kênh – Hà phân công:
- Hằn khênh thuyền với cối ra lau sạch, ném vào đấy nắm ý dĩ. Khi nào đoàn đến tớ với hắn sẽ hoàn tán. Tớ ù đi mua vài lít rượu trắng, kẹo đắng về pha rượu đông y. Ngần kia cồn anh Toản bắt pha mười hai chai làm sao được.
Chúng tôi vừa pha xong “kẹo đắng đông y” có ba cụ bà đến xin thuốc tra mắt. Cụ nào cũng che mắt bằng khăn khô đen xỉn.Hà nửa đùa nửa thật:
- Hôm qua sao các cụ không đến? Hoặc để mai có được không? Vừa báo cáo thành tích dứt điểm mắt hột, mắt quặm mà đoàn kiểm tra thấy một lúc ba cụ “cặp là té” thế này thì chết cả nút!
- Nhưng nó đau quá cô ơi! – Một cụ thì thào.
- Cứ phát cho các cụ - Tôi bảo Hà và vội vàng rửa tay khám mắt cho các cụ. Cả ba đôi mắt đều ướt nhèm, mọng đỏ, hậu quả của vệ sinh kém và thiếu sự chăm sóc y tế.
Hà mở tủ lấy ra ba ống sun phát kẽm nhưng không phát ngay mà ghé tai cụ thì thầm. “Ừ… ừ… đoàn đến tôi sẽ nói y lời cô dặn”. Một cụ nói. Một cụ gật đầu. Một cụ cười phô cặp lợi không còn một chiếc răng: “Lạy trời cho ngày nào cũng có đoàn kiểm tra…”.
Một tối, làng có vi-đê-ô, anh Toản chiêu đãi cả trạm. Trước lúc đi Lan đưa cho tôi một lưỡi dao cạo râu. Tôi ngớ ra, Thủy vỗ vai:
- Hắn ngố thấy mồ! Bọn con trai bây giờ hơn cả quỷ sứ. Chúng nó lợi dụng đông người bóp trước chọc sau. Thằng nào đểu hắn cứ cứa cho biết đời. Tớ thủ cả hai lưỡi đây này. Tối nay tớ quyết trừng trị cái thằng khốn nạn đã làm bẩn quần cái Mai.
Xem được một lúc thì loa gọi cấp cứu. Anh Toản, tôi, Hà dược lao về. Người bệnh là cô gái tầm tuổi tôi, rất xinh, mốt đến tận răng. Cô chợt mắc bệnh phụ tình và tự chữa bằng thuốc chuột. Anh Toản nới dải vải cô thít bụng dấu thai, giục tôi đi pha thuốc. May cho cô gặp được bác sĩ giỏi nghề chứ không hậu quả sẽ khó lường nổi.
Nửa đêm cô gái tỉnh táo hẳn. Anh Toản thủ thỉ:
- Hoàn cảnh mày tao không lạ. Tao sẽ kín nhẹm chuyện này. Lần sau rút kinh nghiệm. Nó lo sắm sanh quần áo, son phấn cho thì mày cũng phải thủ mấy cái ca-pốt phòng lúc sinh sự chứ…
- Nhưng nó hứa lấy em…
- Thằng ôn ấy bố nó thế có hứa cái con khỉ. Cố ngủ lấy một lúc. Tao dặn chị mày nấu cả ba bốn suất rồi.
Cô gái bật dậy khỏe khoắn không ngờ:
- Anh cho em về ngay bây giờ. Đã đến nỗi này bố con nó chức to đến mấy em cũng không kinh.Chết em cũng viết đơn tố cáo bố nó hay ăn nằm với bà… Còn nó, ngay sau tối lễ kết nạp đảng nó ăn nằm với con Hòa suốt đêm ngoài bãi…
- Thôi ngay đi – Anh Toản gắt – Con kia nó nằm thì mày đứng à? Với lại ai xin cho em mày đi tây? Hồi nọ bố mày làm nổi nhà máy bằng là trúng xổ số hay thánh giúp?
Cô gái đờ ra rồi ngã vật xuống giường. Chiếc giường và tấm thân đẹp của cô rung lên theo những tiếng nức nở.
Trở lên phòng trực, tôi và Hà trần trọc không sao chợp mắt nổi. Đếm dỗ ngủ đến hai nghìn Hà kéo tôi ngồi dậy, kể chuyện linh tinh. Thoạt đầu là chuyện tình của cô gái uống thuốc chuột. Rồi lan man đến chuyện phe, họ cán bộ ở làng. Phe nào ngoài chuyện lem nhem kinh tế cũng không ít vụ bê bối tình ái. Mấy năm trước vì mối bất hòa nào đó anh Toản công khai cái thai của cô thủ quỹ với ông anh họ kế toán. Từ đấy cán bộ xã, một số cán bộ huyện dù thuộc phe họ nào cũng phải kiêng nể trưởng trạm xá làng. Nhờ nắm trong tay cái “tròng tạm tha” nên anh Toản và các nhân viên dễ bề làm ăn lắm…
- Một con người khôn ngoan – Hà nhận xét về anh Toản như thế rồi lan man – Anh là bác sĩ giỏi có tiếng đã khám chữa cho ai thì hết lòng. Anh chị Toản sống tình nghĩa, hào phóng: Quả thế, các bạn, bà con tôi quen biết đều dành cho anh chị Toản những lời tốt đẹp. Nhiều lần huyện có quyết định điều lên làm cán bộ phong trào nhưng anh đều từ chối. Vua làng hơn quan huyện – Đó là lời bình của cụ Hồi về việc ấy. Lan thì nói: “Ông ấy mà lên huyện thì cánh tớ bị đánh bật khỏi trạm ngay”.
- “Thời cũ khua khoắng ních đầy két rồi. Nay đổi mới làm người cưỡi ngựa xem hoa, lúc im như hến, lúc phán như trời. Một mạnh thường quân có tính toán”.- Hà kết luận. Tôi hiểu nhận xét ấy Hà muốn giành cho trưởng trạm. Có thiếu chính xác và khắt khe quá không? Hà – dược là cô gái hiểu biết sâu sắc nhưng hay dùng lời lẽ cay độc. Nhớ một buổi tối bí thư đảng ủy và anh Toản tranh luận về những đổi mới ở làng. Hà chêm một câu thẳng thừng: “Cái mới ở làng ta là y nguyên như cũ. Đổi mới là cái cũ tinh vi hơn, xảo quyệt hơn”. Qua thực tế ở làng và tình cảm mọi nguwoif đối vơi Hà, tôi tin câu nói ấy là xác thực.
Anh Toản về nhà trở ra với xoong xôi ăng gô thịt gà. Chúng tôi ép bằng dược cô tự tử cùng ăn. Đang ăn, Hà chống đũa nhìn anh Toản:
- Một tuần nữa Kim Ngân hết đợt thực tập mà tận bây giờ anh mới nghĩ ra một việc cần cho nó, cả anh chị nữa.
- Việc gì thế? – Anh Toản hỏi dồn.
- Chúng em bắt nó xưng hô “anh chị” với anh là dở hết chỗ nói. Trong khi đó cả làng này chưa thấy có cô nào xứng đôi với cậu cả nhà anh bằng Kim Ngân đâu.
Anh Toản đờ đẫn một lát rồi mới gượng cười được. Chính điều ấy khiến tôi đỏ mặt hơn. Anh chị Toản có hai người con. Người anh là sĩ quan quân đội, người em du học bên Tiệp. Chỉ nhìn anh cũng biết họ là người trong mơ của phái yếu đuối tuổi yêu đương.
Tảng sáng có ca đẻ. Sản phụ ở xa trạm lại thiếu hướng dẫn y tế nên nước ối sũng lòng võng cáng. Tôi bảo Hà đừng đánh thức anh Toản. Hai đứa dìu sản phụ lên bàn. Hà líu ríu:
- Chị được dùng xô bàn mới, sướng nhé. Cảm ơn cái Ngân đi. Nhớ mời nó ăn cỗ mụ nhé…
Lời Hà khiến tôi nóng ran người. Từ ngày về thực tập tôi và các bạn cùng trưởng trạm làm được một số việc. Bộ mặt và phong cách làm việc của trạm có những thay đổi, tiến bộ đáng kể. Chả hiểu các bạn tôi nói sao mà nhiều bà con hễ gặp là cầm tay tha thiết: “Có biết thương làng thì về làng nhé”, “Về cho chúng tao nhờ vả lúc ốm đau nhé...”.
Một ca mẹ tròn con vuông. Đứa trẻ bụ bẫm đẹp như tranh. Ôi! Sẽ chẳng bao giờ tôi quên được giây phút lần đầu tiên tự mình đón đứa trẻ ra đời. Tiếng khóc chào đời của cu cậu mới tuyệt vời hạnh phúc làm sao! Oa…oa nhé. Lại tóp tép miệng đòi ti ngay nữa chứ!
Lại một tuần trôi qua với biết bao công việc đã khép kín sáu tuần thực tập của tôi bao cơ là bao cơ chuyện trong năm tuần và một cuối cùng ấy. Nhưng… bạn thân mến ơi! Dịp khác nhé. Xin chờ dịp khác nhé.
MỘT MIỀN KHẮC KHOẢI
Câu truyện này xin bắt đầu từ một đêm trăng. Trăng lên. Cả nhà tôi ngồi quanh đống lúa chọn giống cho mùa sau. Bà tôi cầm len nẹn lúa, quay qua thầy tôi:
- Thầy u con Na này. Mai cho tao ra đồng cắm cái niềm, ăn bữa cơm đầu bờ lần nữa. Chứ tao nghe ra khó được trông thấy mùa sau.
- U…chỉ nói gở - Thầy tôi gạt đi.
U tôi nhẹ nhàng:
- Chúng con xin khất u buổi khác. Chứ mai gặt chân trũng, lúa đổ mệt lắm.
U tôi nói rối nhưng biết làm sao khác. Vì lòng thương, lòng kính trọng người già. Tôi vào hùa với u:
Cánh vục Ấu lầy lụt, lắm đỉa lắm. Để hôm nào gặt đồng cao bà nấu cơm gánh ra đồng như mùa trước ấy.
Cha tổ cháu bà – Bà chửi yêu, cầm lên nẹn lúa thích lại với chị em tôi thủng thẳng:
- Tháng trước lên đền Mẫu Lễ khai hạ, bà nhờ cụ từ đảo xem bát hương bản mệnh các cụ bốc cho thời con gái. Đồng trinh thất bảo xỉn mục. Lại mấy hôm bà mơ thấy cụ Tú Trâm. Cụ về nói chuyện ngày xưa rồi bảo;“có việc cần làm sao chưa làm? Làm đi rồi ta cho đi hội đền Cha”. Bà gặng hỏi việc gì. Cụ lắc đâu chỉ tay ra phía bờ sông. Nhờ lời cụ đêm qua, tháng Tuất này bà đi hầu các cụ.
Chị em tôi cười khúc khích. Tháng Tuất là tháng sau. Bà đã ngoài tám mươi nhưng còn mau lẹ đủ việc, lời bà đích thị là thoáng lẩm cẩm của tuổi già. Vĩ nhân về già lắm khi còn quá lẩm cẩm nói chi người thường. Tôi buột miệng:
- Mộng mị buồn cười lắm. Bà tin làm gì cho thêm mệt.
Bà tôi như không nghe thấy.
- Đêm nay thế nào cụ cũng về. Bà sẽ giữ cụ hỏi bằng được xem việc ấy là việc gì. U tôi bật cười. Thì ra u chỉ dành nửa tâm cho cuộc thì thầm với thầy tôi.
Hôm sau, hôm sau nữa… cho đến buổi gặt cuối cùng vẫn không thấy bà nhắc đến việc đi gặt. Mới hay người già mau nhớ mau quên. Hôm rửa liềm cất mùa sau, cậu út huơ cái liềm xén trêu bà:
- Bà ơi, mai bà cháu mình đi gặt đồng cao bà nhá.
- Cha tổ mày chứ - Bà mắng yêu út, xách xô ra vườn tưới rau.
Không ngờ giấc mơ linh nghiệm. Sau lễ xá tội vong nhân bà tôi ngã bệnh. Triệu chứng ban đầu là cơn chóng mặt, sốt nhẹ. Cậu ruột tôi bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng, khám bệnh cho bà xong kéo thầy tôi ra ngoài.
- Không nên đưa bà đi bệnh viện.Vừa tốn kém lại không giải quyết được gì.Tốt nhất bà thích ăn gì thì mua .
Chiều muộn, cụ lang Mạc sang thăm bệnh cho bà, cụ xem mạch, thở dài lo âu hằn rõ trên gương mặt người bạn già của bà.
Không khí trong nhà tôi trầm hẳn xuống. Mỗi người già lên mấy tuổi. Bữa cơm nào cũng thừa.
Tháng Tuất đang ở những ngày cuối. Bà tôi như cành núc nắc mùa đong rơi xuống đống chăn dầy. Thuốc thang bao nhiêu cũng không đủ sứcđẩy lui con bệnh tuổi già. Duy thần sắc, giọng nói của bà vẫn như thường. Tàn lực vị thần. Đấy là niềm hi vọng của gia đình xóm láng.
Một buổi sáng, tôi ngồi bóp chân cho bà.Hai chân bà ấm,nhẹ nhõm hơn mọi ngày.
- Bà thấy dễ chịu rồi. Bà tôi nói, co co hai chân.
- Ngồi lên bà bảo cái này.
Tôi kê lại bao trấu bà dựa lưng, dỗ dành:
- Cháu lấy cháo bà ăn cho nóng bà nhé.
Để lát nữa, bà tôi nhìn lên trần màn, bâng khuâng – Đêm qua cụ Tú Trâm về chơi. Cụ nói bà mới nhớ ra. Còn sống đến giờ thì cái Tâm nhà ông Chí, cô Nở bằng tuổi bà. Tuổi Tuất, Bính Tuất.
Trời đất, nếu bà không đang ốm tôi sẽ ôm bà cười ra nước mắt. Ai lại đem mình ra vận vào hai kẻ ấy.Tự dưng tôi gợn một thoáng trách bà đã khiến tôi phải nhớ cái chuyện không muốn nhớ.
Làng tôi, đích danh làng Vũ Đại. Chí Phèo, Thị Nở là người hàng xóm tôi. Chuyện cũ đã có người người chép thời mới, tên làng, dù đã có hàng chồng đơn xin đổi, trên không duyệt, đành chịu. Dân làng tôi bằng đủ mọi cách triệt nọc “di tích” mà cụ Nam Cao đem vào văn học hiện đại nước nhà. Khu nhà cha con Bá Kiến được cải tạo thành trụ sở Đảng bộ. Vạt vườn chuối có túp lều cô cháu Thị Nở, giữa những năm sáu mươi được san ủi xây ngôi nhà trẻ mẫu. Cũng những năm ấy khu lò gạch cũ được đoàn thanh nieencair tạo thành vườn ươm tặng hội phụ lão. Đến thế mà vẫn không thoát tiếng tăm. Hồi còn trường cấp hai liên xã trò Vũ Đại khổ sở vì các làng “Ê, dân Vũ Đại kia kìa…”, “Này! Bác Chí nhà đằng ấy độ này còn bợm chứ!”, “A lúi! Thị Nở có họ với hắn à?”… Đại để thế.
Cuối cùng tôi cũng gạt đi được những điều không muốn nhớ! Tôi cầm tay bà lắc nhẹ:
- Cháu hâm nóng cháo bà ăn nhé.
- Bà không thấy đói – Bà tôi lắc đầu, mắt không rời ô cửa sổ hé mở. Hình như bà chờ đợi cái gì đó ngoài kia. Một lát bà thở ra nhẹ nhõm – Làng này khối người biết, nhớ chuyện ấy. Nhưng chả ai muốn nhớ. Bố thế, mẹ thế nhưng trời thương phật độ cho đứa con kháu khỉnh đáo để. Trời bỏ sống thì năm nay trạc tuổi u cháu.
Gắng lắm mới kìm được tiếng thốt kinh ngạc. Chí Phèo, Thị Nở có con. Bà tôi đãng trí đến nỗi này ư. Tôi đã lầm. Bà vẫn nhớ nhiều chuyện thời còn là cô Tảo nết na xinh đẹp có tiếng của làng Vũ Đại. Nhưng mãi đến năm tám mươi bảy tuổi bà mới đủ sức gồng lên vượt qua nhiều ngáng trở để thổ lộ nỗ day dứt nhất đời với đứa cháu bà tin yêu.
Để khỏi mất thì giờ tôi xin tóm lược chuyện của bà thời là cô Tảo chưa chồng.
“…Sáng ấy, trời xui đất khiến thế nào cô Tảo lần ra khu lò gạch hoang cắt cỏ. Quang gánh đến khóm ruối thì cô hết hồn vì tiếng rên rỉ từ trong lò gạch.Hồi lâu trấn tĩnh cô vén lau lách nhìn vào. Thì ra Thị Nở. Thị trần truồng quằn quại trong vòm cửa lò gạch. Chốc chốc Thị quằn sấp, lật ngửa, đập tay lên bụng. Không đành bỏ đi cô Tảo vào với Thị. Cô rùng mình lóa mồ hôi hột. Thị Nở như tắm trong vũng nước ối. Cái đầu đen nhu nhú đang chờ bàn tay đón. Cô Tảo vội xắn tay áo. Chiếc khăn vuông làm tã. Lưỡi liềm cắt rốn.Bé gái bụ bẫm choài choài trên vạt cỏ, khóc toang toáng. Thị Nở lịm đi, mãn nguyện. Cô Tảo úp nón che mặt cho Thị, bế đứa trẻ về vườn chuối trao cho bà cô Thị. Cô tắt đòng trở ra lò gạch. Thị Nở ngủ say như chết. Bị đánh thức, Thị chồm dậy cười hô hố. Thị bước thình thịch như không hề vừa qua cơn vượt cạn.
Làng Vũ Đại xôn xao. Thị Nở đẻ ra con gái đứa bé không giống cha cũng chẳng giống mẹ. Bé gái ăm ắp lời năng là cô gái đẹp. Nó ra đời đúng hôm cúng bách nhật lão Chí. Người dang tay đón, rửa liềm cắt cuống, chôn nhau là cô gái từng phát lời thề thà chết chứ không cam làm dâu con nhà Bá Kiến.
Đúng ba tháng sau. Tinh mơ đi chợ bán rau, đến cuối xóm cô Tảo gặp cụ Tú. Hình như cụ Tú vừa mãn đêm cô đầu xóm bãi. Cô hạ gánh chào cụ. Cụ gật đầu: “Ta đoán không sai’. Cô Tảo nghĩ cụ đón đường nói chuyện mối manh. Nhưng cô nhầm, cụ Tú ngậm ngùi.
- Đã thương thì thương cho trót. Thế mới phải đạo làm người. Cháu không ngại bẩn thỉu, dang tay đón nó ra đời. Cớ chi không đặt cho nó cái tên. Sơ sinh sắp đầy cữ mà chưa có tên là có tội với trời đất. Mà nó tội tình gì!
Cô Tảo cúi mặt. Cụ Tú nhìn trước nhìn sau, vén áo the lấy lấy ra năm đồng bạc dúi vào tay cô.
- Đưa cho mẹ con nó. Bảo đặt tên là Tâm. Người ấy phải xứng với tên ấy. Ta bấm ngày giờ sinh, xem tử vi, biết hài nhi phải một thời phiêu bạt quê hương. Nhưng có phúc, có phần. Con bé rồi là người quyền quý, sang trọng và đức độ lắm. Chuyện này chớ lộ với ai. Cháu đi đi. Các cụ sắp hết chầu hát sáng rồi.
Cô Tảo run bắn cả người. Phần ngạc nhiên trước thái độ của bậc nho sinh tiên chỉ làng. Phần nữa tiếng là con nhà khá giả nhưng chưa bao giờ cô cầm trong tay món tiền to đến thế. Năm đồng bạc là ngót mẫu ruộng, là hai suất sưu. Cô run rẩy nhấc gánh. Cụ Tú phải giục hai, ba lần cô mới cất bước nổi.
Cô Tảo gánh cả gánh rau vào vườn chuối. Trong túp nều vườn vóng tiếng vóng rống tiếng khóc Thị Nở. Cũng may túp nều khuất nẻo chứ xom riềng khổ sở vì cô cháu Thị. Tối nay Thị với bà cô dở người s hết cãi chửi nhau quay ra khóc than. Cô chửi cháu khóc. Cháu cãi cô khóc. Cứ thế!
Cô Tảo vén mành chiếu che cửa. Thị Nở vật vã giữa nều. Thị ở trần, hai vành vú căng rức, sữa chảy ròng ròng. Ổ lá góc lều có lưng thúng gạo, nắm tiền lẻ. Nhận ra cô Tảo thị chồm lên. Thị gào. Thị đấm hai giành vú. Sữa bắn đầy mặt cô Tảo. Cô níu Thị ngồi xuống dỗ hỏi. thụ chỉ thúng gạo, chỉ mớ tiền. Cô Tảo bàng hoàng. Ai bảo bà cô Thị dở người! Độ gà gáy canh ba mụ dẫn về tốp người buôn chuyến miền ngược. Mụ bán đứa trẻ giá nửa thúng gạo, đồng hai bạc. Mụ bán mình, đi theo tốp buôn người với giá hai cóc rượu ty. Cô Tảo dỗ dành thị và đi hái lá thuốc nhức sữa. Gánh rau muống bị nắng héo quắt đành đổ xuống sông. Trước lúc về cô Tảo đưa cho thị món tiền của cụ Tú. Thị đờ người ra. Thị nức nở.
- Ơn cụ. Ơn cô. Con đứt ruột còn chả giữ được cầm tiền mua gỗ chôn à.
Cô Tảo gạt nước mắt về. Ai bảo Thị dở hơi. Cô thuật lại sự việc sự tình với cụ Tú Trâm , cụ Tú thở dài, bấm đốt ngón tay, lắc đầu.
Phiền cháu giữ giúp ta món tiền ấy. Qua mùa gặt, ắt có việc dùng. Chớ lộ với ai.
Mùa gặt qua đi. Một buổi sáng, người mõ thấy xác Thị Nở nổi bềnh giữa giếng Tiên trước cửa đình. Lý trưởng lệnh cho đám tuần đinh vớt xác buông sông. Cụ phó hội bàn thêm- Phải thay nước riếng thiêng. Cụ Tú Trâm cất lời thu xếp. Thị Nở cởi áo quan, vải liệm và nắm đất góc nghĩa địa làng.
Đang dịp đói kém nhưng đám tang Thị Nở khá đông. Người đưa đám lỉnh kỉnh bị gậy. Mãn họ tản tác đi kiếm ăn. Dân làng Vũ Đại có dăm ba người nhớ, bấm đôt ngón tay tính ra ngày Thị Nở chết đúng hôm giỗ đầu lão Chí.
“- Sau đó đến nay có tin tức gì về cô Tâm ấy không bà”. – Đó là câu hỏi vội vàng và dầy phất phỏng của tôi ngay khi bà ngừng kể.
Bà tôi lắc đầu:
- Tịnh không ai biết mảy may. Ngay cả đường nét mặt giờ gặp bà cũng không nhận ra nổi. Bà chỉ nhớ nét mặt nó đẹp lắm. Bà bế ẵm bao nhiêu đứa nhưng không có đứa nào được như nó. Đẻ ra có tràng hoa cuốn cổ. Có vết chàm đỏ ở lòng bàn tay và nốt ruồi đôi ở của mình. Các cụ bảo đấy là tướng cao sang…
Tôi đứng lên đỡ bao chấu bị nghiêng bởi cơn ho. Mấy hôm nay bà ho nhiều hơn. Dứt cơn bà nhìn tôi khẽ khàng:
- Bình sinh cụ Tú có dặn người con cả, vào các năm Ngọ, năm Mùi tìm cách tìm kiếm con bé về biết quê hương bản quán. “ Thìn, Tị ly thân thích; Ngọ Mùi quy cố hương”. Nhưng anh con cụ gạt đi. Phần anh ta là cán bộ to. Phần không muốn dây vào chuyện không hay, người xấu. Bà cả đời chả được ra khỏi cổng làng, lo nuôi chồng con , quán xuyến việc nhà. Có muốn cất công tìm kiếm cũng không được. Mà cũng không dám nhờ vả ai. Có lần nói với thầy cháu việc này, thầy cháu gạt đi: “việc gì đến u. Bao nhiêu công của vẫn chưa xóa hết tiếng sấu. Tìm rước của ấy về nó chửa cả làng à…”
Tôi đỡ bà nằm xuống và đi hâm cháo. Bưng cháo lên, đã thấy bà ngồi dậy nhìn trần qua ô cửa hé mở. Bà ăn cháo cho nóng – Tôi đặt bát cháo vào tay bà. Được vài thìa bà đặt bát cháo xuống, thở dài: - Bao nhiêu năm cứ nghĩ đến chuyện ấy bà nuốt không xuôi, ăn gì cũng thấy đắng ngắt. Đêm rồi gặp cụ tú, bà ngẫm lời cụ thật chí lý chí tình. Nay mai về đưới ấy biết đâu chả hỏi han về con bé. Thì bà biết ăn nói sao. Thà rằng chẳng biết cho xong.
Bà cầm bát cháo lên, xúc vài thìa lại đặt xuống. Muống bà ngon miệng tôi nói:
- Bà cứ yên tâm. Nay mai cháu nhờ đài nhắn tin. Còn sống thể nào cô Tâm ấy chả về thăm quê, thăm bà cháu mình. Việc ấy khó gì ạ.
Đôi mắt mờ của bà tôi sáng lên, tin cậy. Bà bưng bát cháo ăn ngon lành.
Năm ngày sau. Tinh mơ tôi đã ra đồng làm cỏ. Quãng nửa buổi sáng, Đứa em hàng xóm chạy ra đứng đầu bờ, cuống cuồng “Về… chị về…, bà mệt lắm…”. Tôi nhào lên, ngã sấp giữa ruộng. Đường về tôi bám vai đứa em, gắng lắm mới khỏi gục ngã.
Trong nhà tôi khá đông người. Tôi nhào vào giường bà. Tôi lay. Tôi gọi hồi lâu bà tôi khẽ hé mắt. Anhs mawys chiếu vào tôi. Bà gật đầu. Chỉ mình tôi hiểu ánh mắt ngắn ngủi, cái gật đầu yếu ớt của bà. “… Việc ấy đến đâu rồi?…”. Cũng chỉ mình tôi hiểu việc ấy là việc gì! Hỡi ôi! Để bà ăn ngon miệng tôi hứa làm việc nhắn tìm và không chỉ một lần tôi hứa. Và hơn một lần tôi nghĩ đấy chỉ là chuyện bà kể lại cho mà biết. Nào ngờ cả khi sự sống chỉ còn giây phút bà vẫn hi vong, chờ đợi sự giải thoát một niềm khắc khoải. Bà cần một sự thật mang sang thế giới bên kia an ủi hai con người khốn khổ nhất lịch sử làng Vũ Đại. Thế mà tôi. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi lao ra nhà ngoài.
Tôi giật bung cánh tủ lấy ra chiếc đài cát sét ấn nút ghi. Tôi ghé sát cửa máy, cố đánh lạc giọng mình. Tiếng băng chạy rè rè.
- Bà sắp mất… mà mày làm trò gì thế Na? Ai đó quát.
Tôi làm như không nghe thấy. Tôi ấn sẵn nút phát, xách cát sét vào trong buồng. Tôi để máy trên đầu giường, lay gọi bà. Bà hé mắt nhìn tôi. Tôi mở máy. Tiếng băng rè rè. Tiếng người vọng ra:
“Cháu là Tâm… cháu đã nhận được tin nhắn tìm của bà… xin bà yên lòng. Cháu và gia đình đang thu xếp để về với bà, với làng…”
Máy tự động tắt. Đôi mắt bà tắt dần ánh nhìn. Môi bà tắt dần mấp máy. Hỡi ôi. Vào tích tắc cuối đời bà mới được nhẹ nhõm nỗi khắc khoải bám riết cuộc đời từ thời con gái bằng trò giả mạo của đứa cháu bà tin yêu nhất. Biết làm sao được!
Có ai nghe thấy không? Ngày… tháng… năm trong mục nhắn tin của đài phát thanh có lời nhắn: “Cháu gái Tâm, có đặc điểm… Xa quê trong hoàn cảnh… Bây giờ ở đâu? Báo tin cho bà… địa chỉ làng Vũ Đại…”. Hôm ấy là lần phát thứ năm, trùng với bách nhật của bà tôi. Trước đó tôi đã nhờ người bạn làm báo giúp việc nhắn tìm trên mặt báo.
Nếu câu chuyện trên may mắn đến được với các bạn thì đó là niềm an ủi tuyệt vời cho người con gái nhà quê. Xin coi đó là chi tiết sơ cư cho lời nhắn tìm: “Cô Tâm có đặc điểm vết chàm đỏ… nốt ruồi đôi… bị bán cho… Ở đâu xin báo tin cho… địa chỉ làng Vũ Đại…”.
LÃO TRƯỞNG XÓM
- Xóm Vũ họp. Kẻng báo bảy giờ tối. Đài “tút tút” một lúc người đã ngồi trật sân đình. Mấy mươi năm… Cũng may xóm còn giữ được ba gian đình bẹp, miếng sân chó giãy làm nơi hội họp. Cũng mấy mươi năm, xóm mới có cuộc họp mau đông đúc đến thế. Này! Xóm họp để thành lập xóm mới đấy. Ơ! Ăn nói rõ dớ dẩn. Hầy! Việc đời vốn lắm éo le.
Thì nói tuột cái sự “lé eo” ra nhớ!
Hơn hai chục năm trước, Đại Lăng xã được chọn thí điểm đường lối làm ăn lớn. Cơ giới hóa. Điện khí hóa. Gà lợn hóa… Viễn cảnh hóa đầy ắp các cặp tài liệu. Rừng rực những cuộc họp thâu canh gà.
Nông nghiệp lớn khong thể chấp nhận kiểu xóm, đội cò con. Làng xóm nháo nhác vào cuộc sát nhập. Xóm Vũ gốc gác ngụ cư, quần tụ kiểu trại ấp, cách làng “nội địa” vạt đồng lớn, con sông rộng vầy vậy. Tin sáy nhập bay ra. Bảy mươi bảy hộ đồng thanh sát với bảy mươi hộ “nội địa” thành đội Tiền Phong. Dân làng xanh mắt. Cái xóm ba ngang có tiếng là cách mạng quá ta. Vũ say viễn cảnh hóa? Hay Vũ hốt bánh xe lịch sử nghiền nát làm tương? …? Té ra các bô lão thúc con cháu cách mạng nhằm mục đích kéo sân kho, trụ sở quân đội qua sông. Như thế tiếng là lớn đội mà vẫn tiện lợi như thời xóm cò con. Nhưng ý xã ủy lại khác. Xóm như đảo. Đường gang tay.Cầu khỉ thế… Lãnh đạo, đường lối, nghị quyết đi lối nào? Tiểu phải lụy đa! Dân xóm giở thói phá ngang. Để an dân, xã ủy hứa lập kế hoạch xây cầu, đắp đường. Xe trọng tải lớn sẽ “bim… bim…” dọc xóm. Dân Vũ chỉ thiếu nước rập đầu lạy tạ ơn trên.Được vài năm, đường vẫn thế. Cầu vẫn khỉ. Lại có lệnh di xóm theo quy hoạch dân cư Hai Nghìn. Vài nhà dư dật chạy trước. Đa số dân xóm ăn chưa đủ chả lẽ vặt răng bán chạy nhà. Hơn bốn mươi vụ gặt cười, khóc trôi qua xứ mạng Tiền Phong. Kế hoạch cầu đường và quy hoạch “Hai Nghìn” vẫn là kỳ phùng địch thủ. Chỉ khổ cái dân Vũ.
Cơ chế mới lên sân tung chưởng quyết đo ván lề lối cũ. Trong cuộc nhị vị yêng hùng tỉ thí ở Đại Lăng có pha tái lập xóm. Hỡi ôi! Tiền Phong tầm cỡ rũ cánh. Con cò Vũ đến cơ vận hồi sinh. Hạ hồi chưa biết “mèo-mỉu” thế nào. Nhưng nguồn tin “Vũ hoàn Vũ” vừa qua cầu khỉ mấy tay ba trợn đã phanh ngực hết xin tử thủ với “kiếp cò con xóm” lại vỗ tay vạn tuế “cò con Vũ”.
Có tay ba trợn sành nho nhe lý giải: Vũ tức là lông. Đã bé tí teo lại ở tít cuối làng ắt phải là xóm “Lông… Dưới”. Ha… ha… dân Vũ ưng mới kỳ. Cần một trưởng xóm mới ra trò. Biết thế! Nhưng chọn ai?
Quyết định lập xóm được công bố. Tiếng vỗ tay tưởng bay mái đình. Đến mục giới thiệu chức ứng cử viên chức trưởng xóm. Ồn ào. Thật ồn ào. Giới thiệu. Rút gọn nhân sự… Danh sách ứng cử viên còn tròn hai. Đối thủ tranh cử là lão Đổng. Lão ấy to như hộ pháp. Ngữ ấy chỉ giỏi vào cày dong trâu.
- Kính thưa các bậc cao niên, trung niên và bạn trẻ - Chuyên gia chủ tọa oang oang – Chúng ta đã thực sự dân chủ trong việc lựa chọn ứng cử viên chức trưởng xóm. Căn cứ vào hiến pháp. Chiểu theo luật bầu cử. Chấp hành nghị quyết của tỉnh, huyện đảng bộ và nghị quyết của xã, chi ủy. Bà con ta đã bầu trưởng xóm bằng phiếu kín. Như luật định, trước khi bầu, đề nghị bà con cử ban kiểm phiếu.
- Tôi có ý kiến. Bà trung niên đứng cái phắt. Bà nhổ quết trầu đánh toẹt – Các ông cứ bày bày phiếu phiếu làm gì cho mất thì giờ, tốn giấy, phí mực…
- Ta chiểu theo luật. Sống và làm việc theo luật, thưa bà… - Chuyên gia ôn tồn.
- Vâng, thưa ông. Tôi cũng biết luật.Nhưng tôi còn thấy bao nhiêu cuộc cử bầu người tôi ưng đều không trúng. Cái tên tôi gạch rõ đậm sợ kiểm phiếu kém mắt thì lại đứng đầu bảng. Đời tôi đủ biết mùi phiếu kín rồi. Cho nên tôi có ý kiến như vầy. Ta nên bầu bằng cách giơ tay. Trên có ông giăng, đất có ánh đèn. Hai vị ấy, ưng ai thì chúng tôi giơ tay. Chẳng có phiếu nào kín bằng bàn tay cày cấy.
Sân đình thoắt chung chiêng trong tiếng vỗ tay, những lời hưởng ứng.
- “Hoan hô mẹ cái tĩn… Đêm nay thế nào bố cu cũng tặng cho cái chân giò”.
“Hoan hô… bàn tay… phiếu bàn tay”.
Lão Đổng trúng chức trưởng xóm với số phiếu áp đảo. Tin ấy chẳng mấy chốc lan khắp Đại Lăng, trở thành chủ vị những cuộc bàn luận.
Vì sao lão Đổng trúng chức trưởng xóm? Câu hỏi ấy có rất nhiều câu trả lời. Ví dụ: Để thưởng công lao bậc lão nông tri điền. Cái xóm đàn bà cũng say bầu lão hay rượu để say cho khỏe. Hoặc thời dân chủ dân ưng người dám đội cả chồng đơn… Rất nhiều câu trả lời bị phủ nhận. Xin hãy nghe đoạn trích cuối băng bức vách tình cờ người đi te đêm thâu được.
- “Ông mình ơi! Ông làm trưởng xóm thật ư?” – Giọng nói trong ngọt như đàn. Giọng bà vợ lão Đổng đấy. Thời con gái bà nết, bà xinh có tiếng. Việc đồng nó tống xuân đi. Bà kém đi những xinh giòn nhưng giọng nói vẫn nguyên thời son trẻ. Nói trộm vía! Bà đứng trong bóng tối nói ra, lọt tai, thì nghìn tay trai tơ chết mệt cả ngàn”. Ta nghe tiếp:
- “Chậc! Thì bà bảo, bà con họ bầu, chả lẽ - Lão Đổng đủng đỉnh.
- “Thì họ bầu. Nhưng làm hay không làm là quyền ông mình chứ. Ông mình cứ ngẫm mà xem. Thời trước chỉ chân ban đội, dao thớt quản trị vợ con cũng được mát mặt. Cứ từ chân đội trưởng trở lên là mưa không đến mặt, nắng không bén đầu. Chẳng những vợ con đình huỳnh mà hàng họ cũng được nhờ. Giờ chính sách mới. Ruộng công được thời tư điền. Sai sót cả họ nửa làng là không xong. Ăn nhằm gì…
- “Ơ! Thế có ăn nhằm thì tôi mới lên làm hở bà!”
- “Tôi không nghĩ thế. Có điều ông mình cứ nghĩ mà xem. Rượu chè, cờ bạc, trai gái, ngoa nguề… Cái xóm như bàn tay mà xấu xa tội lỗi chất cao như núi, đổ đầy góc biển. Người tử tế ra đường cấm dám ngẩng đầu…
- “Ấy đấy bà mình ơi! Tôi nhậm chức là để bà mình đàng hoàng ngẩng đầu đối mặt với thiên hạ.
- “Gớm! Tôi nói chung chung. Chứ thân tôi mà phải cúi đầu à”.
- “Thì bà mình vẫn ngẩng cao đầu. Bà mình chặc… còn sạch sẽ. Tôi cũng đâu phải cúi đầu. Rồi bà mình xem. Chặc! Cuốc ruộng cả ngày, tối họp thâu. Xương cốt nhão cả ra. Bà bê cái hũ ra cho tôi làm cốc nào”.
- “Này! Hôm nay ông mình hai cốc nhé. Mà này! Tôi nghĩ hay ông mình chỉ nhận quyền thôi. Mới chỉ là quyền, có sơ sẩy gì cũng nhẹ án…”.
- “Ừ! Thì quyền trưởng xóm. Bà mình nghĩ đến là hay. Chà… chà! Tiên sư cái anh tam xà. Nhấp vào là cứng ra ngay…”
- “Gớm chết cái… ông mình”.
Giữa tuần trăng xóm Vũ lại họp. Để trưởng xóm ra mắt. Và bà con bàn việc xóm láng, làm ăn. Cũng là lần đầu tiên chủ tọa là người do chính họ bầu lên.
Trăng vằng vặc. Chiếu trải kín sân. Nước chè xanh đặc sánh. Điếu cày roanh roách. Tân trưởng xóm có khác. Lão ta không cần bàn ghế. Lão ta ngồi góc sân với đám lão ông. Chà chà thuốc nước. Chuyện như mổ bò.
Tám giờ, rít vội điếu thuốc, trao ống điếu cho người bên cạnh, Lão Đổng bước ra giữa sân đình. Lão nhìn khắp, cúi nhẹ đầu:
- Thưa bà con, ta họp thôi ạ. Loa xã đã loa, xin miễn đọc quyết định của cấp trên công nhận trưởng xóm Vũ ta. Chỉ dám hỏi bà con có thực lòng bầu tôi?
- “Chứ lại không à” – Nhiều tiếng đồng thanh.
Lão Đổng lùi vào góc sân. Lão khum hai tay giữa lòng, giọng sang sảng:
- Xin đa tạ bà con. Trước khi bàn việc chung, tôi xin phép các bậc cao niên, toàn thể bà con đặng có mấy lời. Những lời tôi sắp nói có thể bất nhã. Thậm chí lếu láo. Nghe được, bà con xin có ý kiến. Không lọt tai, các vị bãi ngay chức trưởng xóm của tôi.
Sân đình im phắc. Cổ kim chưa thấy ai vừa nhận chức đã ăn nói như vậy. Lão Đổng vẫn sang sảng:
- Thưa bà con! Tôi đây, bà con ta ngồi đây, cũng như ai vắng mặt, con cháu ở nhà… Tất cả chúng ta một thời là lũ bợm người.
Sân đình vẫn im phắc. Sự im lặng đông cứng.
- Chúng ta là một lũ bợm người. Lão Đổng nhấn lại, giọng rắn đanh. Đi làm ăn cắp giờ công. Đi gặt ăn cắp thóc. Vãi đạm ngầm đút thứ cứt hóa học vào túi, đổi rượu. Nộp thuế đút thóc lép, gạch đá vào giữa bao. Dám đội bão gió ra ỉa đầy mộ cha thằng ức hiếp, ăn chặn nhưng với kẻ sờ sờ thì run rẩy, cúi luồn… Xóm làng nhăm nhe vặt của nhau từ con gà chíp đến quả chuối xanh. Đọt măng bên này nhú sang bên kia là ngầm chém tận gốc. Trái ý nhau một tí là dọa đốt nhà, đào ao sát móng tường. Xóm ngõ không mấy khi ngớt tiếng chửi rủa. Tóc bạc, đầu xanh, trên dưới như cá mè ranh đồng rứa. Trai tráng động một tí là nói chuyện với nhau bằng con dao. Ra đường trẻ con chửi đ. mẹ con già, thằng lão. Bắt con em bỏ học vì không có tiền sách bút, nhưng một tiếng bán nhà cửa vườn tược đi ngồi vào quán… Đấy! Sơ sơ thói bợm như vậy.
Lão Đổng ngừng lời nhìn bao quát. Lão nói tiếp, giọng lắng xuống:
- Cái phần người trong ta cũng không được ra hồn người. Đui mù, câm điếc, điên khùng. Nhìn con gà cõng cả tấn thóc vào cót nhà ai; lòng lợn dẫn được điện cao thế; rượu bia chưng cất bằng sắt thép, xi măng; gạch ngói nấu ra rựa mận, dồi chó. Văn phòng đêm có gái trần truồng. Ta có biết, có nhìn, có nghe thấy không? Biết hết. Nghe rõ. Nhìn tỏ. Nhưng ta như không có mắt, không có tai, bị ai cắt lưỡi mất rồi. Cái phần người không ra hồn người ấy phải vắt mồ hôi ra để sắm máy móc. Phải còng lưng xây sân kho lớn triệu viên. Mồ hôi lao lực một thời giờ, là đống sắt vụn, là hòn gạch non. Lại có những khi bỏ bố già nằm xó đi đắp đường đón ông to bụng. Động viên con cháu đi lính tráng để ở làng kẻ đảo ngũ cưỡi lên đầu cha mẹ người hứng hòn tên mũi đạn. Lại nữa, bao nhiêu năm tảo tần dốc lòng, phần người vẫn ra vào mái gianh nát… Thưa bà con! Nếu cái phần người còn lại ra hồn người, cường tráng… thì đâu có những cảnh đời thật như đùa, thực ngỡ mơ, như ác mộng. Âý là việc hôm nay phải bàn.
Bài tuyên thệ nhậm chức kết thúc. Lão Đổng run rẩy lùi vào gốc hiên đình. Khối người trên sân vẫn lặng phắc. Những ánh mắt chớp chớp gặp nhau. Chợt đâu đó có tiếng sụt sùi. Có người kéo vạt áo lau mắt. Giuwax sân, một cụ già chống gậy đứng lên. Cụ nhìn khắp:
- Xem ra ông trưởng xóm nói có lý đấy bà con ạ. Vì sao đến nỗi này? Nay gặp vận hội cho làng ra làng, xóm ra xóm, thì nói nhiều chi bằng bàn cách làm ăn, khu xử. Đặng phần ngợm phải chết. Phần người khỏe lên, sáng rạng ra…
Lời cụ già đã khởi động không khí ồn ã truyền thống ở làng.
Cái ông giời giở chứng khóc dai. Đêm nay nữa là bảy đêm tầm tã. Lão Đổng khoác áo bạt dò dẫm trên đường trục xóm. Ruột gan lão nôn nao quá vãng. Cuộc đời lão gắn bó với con đường này. Thơ bé lê la, té nước, vấy bùn, đuổi chuồn, chạy diều. Lớn lên gánh lúa, gánh phân… Cô gái má hồng, mắt dao cau lúng liếng, nón quai thao, yếm đào… bước trên con đường này về làm vợ lão… Nhiều lớp người bạc tóc mà con đường vẫn như thuở sơ khai. Không! Tồi tệ hơn mới đúng. Chỗ sạc lở. Chỗ phên dậu lấn ra. Từ đầu đến cuối xóm vừa chẵn ba mươi hai rãnh xẻ ngang. Tạnh ráo đi lại đã thấy khổ. Ngày mưa gió, vạn bất đắc dĩ mới phải ra đường. Rác rưởi hai bên tràn ra. Cứt trâu, cứt người lềnh bềnh. Mặt đường như ruộng trũng rải phân tươi, bừa ngấu. Trẻ con, người lớn khối lần phải vác cái chân sưng to như ống trít vào trạm xá làng.
Của đáng tội! Mươi năm trước cũng có kế hoạch tu bổ con đường. Đến lúc ra tay thì mất mặt. Cái dân vác cuốc ra chân dậu. Nhà nọ nhìn nhà kia… cùng nhìn vào bờ tre cán Đảng. Ơ hơ! Cán bộ chưa đụng cuốc thì ta tội gì! Thế là huề cả xóm.
Sau ngày nhậm chức, lão Đổng đã nghĩ đến con đường. Khổ nỗi xóm có bao nhiêu việc cần làm ngay. Điều hòa ruộng đất. Dân công đê điều. Thanh niên nhập ngũ. ồi chuyện rượu chè, đâm chém. Tối ngày, đầu thôn động một tí là “Ơ ông trưởng xóm… Này! Xóm trưởng…”. Cái xóm tí hin như bàn tay mà công việc cứ rối tung canh hẹ. Thành thử mãi tháng ba ta lão mới có cơ đụng đến con đường. Dân xóm bàn sửa tạm để ngày mùa dễ đi lại. Muốn làm lớn phải chờ cơ vận. Nhưng… mẹ kiếp! Đến lúc đụng tay mới rõ mặt cái dân Vũ. Lão Đổng thân chinh đi gọi cổng từng nhà. Nhà thì: “xin khất bác hôm sau. Giờ em phải đi kiếm cho các cháu lưng cơm”. Nhà thì: “cháu nó thúc học phí, em phải làm buổi te…”. Hôm khởi công chỉ được dúm người. Mấy bố đảng viên, mấy ông hưu trí ngồi đầu xóm bi bô hết tâm-tim-tả luy… đến ki lô mếch, đếch xì phân khối… Nghe thật “câu đường tiến sĩ”. Khi vào việc như mấy gái tỉnh vào bếp nhà quê. Điên tiết, lão Đổng bãi việc. Mấy đêm liền, lão mất ngủ, xót xa chiêm nghiệm thất bại đầu tiên trong nhiệm kỳ trưởng xóm. Lão cay đắng nuốt cái chí lý lời chửi vỗ mặt: “Tiên sư ông! Đường lầy thì lội mà đi!hứ đang thời kỳ giáp hạt lấy hơi đâu đắp đường với ngõ”.
Bây giờ mùa màng đã gọn. Ơn trời thóc lúa rủng rỉnh. Lão Đổng lại nghĩ đến con đường. Lân la nghe ngóng binh tình, lão biết hai chữ đồng tâm còn mờ nét lắm. Được! Lão cũng đã tính đến nước ấy. Phen này khắc biết thế nào là quyền trưởng xóm.
Lão Đổng dừng bước ở chỗ giáp mối đường trục xóm với đường độc đạo vắt qua cánh đồng nối xóm với làng “nội địa”. Mưa vẫn tầm tã. Đêm nhờ nhờ trông rõ con đường như con rắn đen khổng lồ. Khúc dduoi là đường trục xóm. Khúc giữa trườn qua cánh đồng. Cái đầu chúc vào mố cầu khỉ. Con rắn đã chết, đang thối rữa.
Đến chân cầu khỉ nghe tiếng mưa, biết đêm đã khuya, lão Đổng trở về. Lão dò dẫm. Chốc chốc con rắn đen lại bắt lão vồ ếch. Đường ngõ thế này… Ngày mai lũ trẻ… Lão Đổng đưa tay dụi mắt.
Lũ trẻ xóm Vũ nghịch phá có tiếng. Nhưng chúng trội hơn trẻ xóm khác ở nết ham học và tinh thần đoàn kết. Chỉ trừ có bão chết cò chúng mới nghỉ học. Mưa như mấy ngày qua với chúng chả là cái đinh gì. Cũng nói qua một chút về tinh thần tập thể của trẻ Vũ. Trẻ trong làng vênh váo ỷ thế dân gốc bắt nạt trẻ xóm bãi, ngụ cư.Chúng gây sự bắt vạ, trấn lột sách, bút… đủ trò. Nhiều vụ xô xát xảy ra. Đòn đau đã kết trẻ Vũ thành một khối. Cái thước kẻ cũng được chuốt nhọn đầu làm vũ khí. Dần dà chúng trở lên chai dạn lầm lỳ. Tính liều và tinh thần đoàn kết đã tâng trẻ Vũ lên ngôi. Hãy dè chừng nếu động vào trẻ Vũ. Một đứa bị bắt nạt, cả hội có nghĩa vụ trả thù. Chơi thân với dân “nội địa” bị coi là phản bội. Chúng có bộ luật nghiêm ra phết.
Sáng chưa rõ mặt người, Lão Đổng đã có mặt ở đầu xóm. Đấy là điểm hẹn của lũ trẻ trước khi “hành quân” đến trường. Đã có mấy đứa trẻ đang đùa nghịch. Lũ trẻ lục tục kéo nhau đến. Chúng phớt lờ trưởng xóm té bùn, chọc nhau chí chóe. Lão Đổng không nạt nộ hoặc tỉ tê như mỗi lần may mắn gặp lũ trẻ. Lão đứng nép vào bụi tre dõi mắt về phía làng. Chỉ có người tinh nhạy mới phát hiện ra vẻ phấp phỏng, chờ đợi cái gì đó lặn sâu trong đôi mắt lão trưởng xóm.
“Tùng… ùng…tùng…”. Tiếng trống trường dóng dả bay qua cánh đồng dội vào xóm nhỏ. Lũ trẻ nhớn nhác. “Ơ! Đài nhà tớ vừa tút tút mà…”. “Ừ!Đài nhà tớ tút chuẩn lắm. Hay đồng hồ thầy chạy sai…”. Lão Đổng nhớn nhác còn hơn lũ trẻ: “Lạ nhẩy! Chắc đài tút sớm. Chứ đồng hồ thầy mấy khi chạy sai”. Chợt lão vỗ đầu:
- Các cháu ơi! Chết thật thôi. Hôm qua tao có việc vào trường. Thầy hiệu trưởng nói có đoàn tỉnh về thăm. Hình như có cả vợ ông Tây trắng đi cùng. Thầy dặn các trò đến sớm chỉnh dốnđội ngũ đón Tây thăm. ao cũng có việc vào trường. Phải đến sớm kẻo Tây đến trước ta thì bỏ mẹ. Nào. Hai… ba… chạy!
Lũ trẻ nhất loạt tung giò. Lạch… bạch… Bùn bắn tứ tung. Hệt như đàn vịt chạy trên đồng trũng. Con đầu đàn là lão Đổng. Được mươi bước lão ngã oạch. Lũ trẻ cười ré lên. Sáu, bảy đứa ngã vì cười. Lão Đổng lại vung tay “hai… ba… hầy”. Bảy tám đứa ngã vì “…sau Tây thì bỏ mẹ”. Lão Đổng lại ngã. Một lũ ngã theo.
Rốt cuộc “đàn vịt” cũng đến được chân cầu khỉ. Lão Đổng lướt mắt tính sơ. Ba mươi trong số ba bảy đứa bị ngã. Nhiều đứa vồ hai, ba ếch. Số không ngã quần áo, cặp sách cũng bẩn bết không kém.
- Thế này các cháu ạ - Lão Đổng vuốt bùn bắn đầy mặt chỉ cầu khỉ - Đường đã thế! Cầu còn nguy hiểm hơn. Bác sang trước thăm dò.Rồi cứ đôi một qua cầu.
Lão Đổng bước lên cầu. Lão run rẩy. Lão úi giời ơi. Đến giữa sông lão vung tay: “Anh vẫn hành quân đi qua cầu…”. Tòm… Lão Đổng chìm lỉm. Lũ trẻ rú lên. Chỉ có dòng sông mới nhìn thấy lão khẽ ẩy mũi bàn chân vào cây tre quá giang. Cây tre theo dòng nước vút đi. Lũ trẻ chỉ còn thiếu nước òa khóc. Lão Đổng bước lên bờ run rẩy:
- Chà! Rét quá! Các cháu trở lại đi. Quần áo mặt mũi thế kia đến trường ta cũng cho “dê rô” điểm thi đua. Nói gì Tây. Về đi. Bác sẽ lấy quyền trưởng xóm thưa với thầy hiệu trưởng. Không đứa nào bì phạt đâu.
Lũ trẻ lũi cũi trở về. Lão Đổng ngậm ngùi nhìn theo lũ trẻ và nghĩ lan man. Lão nghĩ đến cụ cựu lý trưởng. Ngày mưa có việc đi đường tình cờ gặp cụ có việc đi đâu về.Này anh trưởng xóm – Cụ cựu lý trưởng giật giọng, chúc đầu cán ô xuống mặt đường – “Nội trực ngoại”, anh nhớ chứ. Ngày tôi làm việc làng tôi chơi sách ấy. Ai lơ mơ tuần đinh nó xóc xác ra”. Tối ấy lão sang nhà cụ. Thâu đêm chuyện con đường. Rồi cụ ghé tai lão: “Như thế… như thế…”. Lão chỉ còn thiếu nước lạy tạ. Người cũ có khác! Thật cao kiến! Lão nhớ đến thầy hiệu trưởng. Lúc này đây, sau khi dóng hồi trống chắc phải quay đi giấu những giọt nước mắt. Hôm qua lão vào trường thưa với thầy việc học phí của mấy đứa trẻ nghèo. Xóm làng đã bàn của ít lòng nhiều, mỗi người một tí cốt sao chúng khỏi lỡ sự học. Nhân thể lão thưa với thầy sự đi lại của lũ trẻ. Thầy hiệu trưởng thở dài: “Bao nhiêu lứa học trò cơ cực vì con đường ấy. Chúng tôi đã kiến nghị nhưng lực bất tòng tâm…”. “Thầy giúp tôi phen này nhé – Lão nói và ghé vào tai thầy – Như thế… phải như thế…”. Thầy hiệu trưởng cười ngất.
Ước đoàn lũ trẻ đã về đến nhà, lão Đổng tắt đồng về xóm. Lão cứ đóng nguyên quần áo lấm lem vào từng nhà. Có nhà lão oang oang từ đầu ngõ. Có nhà lão kéo phụ huynh ra góc hè thì thầm: “Này! Tôi vừa vào trường về. Thầy cô phàn nàn cháu nhà ta hôm nay vắng mặt”. Các phụ huynh rầu rĩ: “Ông nhìn mà xem. Cháu đi rồi cháu lại về. Quần áo, đầu tóc… cứ như từ dưới lỗ ngòi lên. Thật khổ đường với ngõ”. Lão Đổng vuốt bùn trên mặt: “Tôi cũng như ma lem đây này. Tiên sư đường với lối. Chả lẽ để mãi thế. Thôi thì vì con vì cháu. Mai ta họp xóm bàn xem thế nào…”. Cả chục nóc nhà đều có cuộc đối thoại na ná như thế.
Trong số những đứa lấm lem nhất có cậu bé lớp hai nhà ở cuối xóm. Lão Đổng dành nhà này làm cuộc gặp gỡ sau cùng. Cái đàn bà nhà ấy như con mèo hen. Nguyên do chị ta cố rặn bằng được thằng người có chuôi dao ở háng. Chị ta là đảng viên trưởng thành từ phong trào trực chiến, từng là chỉ huy mười hai cô với sáu khẩu trường “mát” và hệ thống ụ súng ở cuối làng. Lão Đổng oang oang từ đầu ngõ:
- Ông đâu? Bà đâu? Ái chà! Ôm nhau hú hí quên nấu cơm sáng để thằng bé đói phải nghỉ học hả. Tôi vừa vào trường về. Thầy cô phàn nàn.
Con mèo ngồi trong bếp ló đầu ra. Chắc mụ đang đun nước tắm cho “chuôi dao”. Mụ the thé:
- Phàn nàn cái nỗi gì. Nó đi nó ngã nó về. Như từ dưới hố lôi lên kia kìa. Sao cô với thầy không ra đường mà phàn nàn.
Lão Đổng lắc đầu, nhắt gừng:
- Cả xóm dễ mỗi nó ngã. Bỏ học bỏ lớp là mất điểm thi đua.
Con mèo hen nhổ bọt đánh tét, nhảy bổ ra khỏi bếp vung tay xỉa xói:
- Tiên sư lớp. Tiên sư thi đua. Đường ngõ thế! Ông tổ cũng bò ra bùn chứ nói gì trẻ mỏ.
Nghe có lời lớn tiếng to, hàng xóm rẽ dậu nhìn sang. Dăm người đi đường tạt vào. Lão Đổng liếc xéo chém chả:
- Bà ăn nói cho tử tế nhé. Chẳng gì tôi cũng là trưởng xóm.
Con mèo hen đay nghiến:
- Trưởng xóm hả! Chưa to đâu. Chưa là cái đ. gì.
- A. Bà chửi tôi hả. Vì sự đi lại, học hành của các cháu, tôi đến hỏi han tử tế. Dễ mỗi cục thịt thừa toòng teng của bà ngã lấm lem đấy hử. Bà đi khắp xóm xem. Chớ có quen mồm chửi láo, nói càn. Ra họp xóm, tôi thách bà chửi đấy.
- Sợ đéo gì mà không dám chửi – Con mèo hen chồm lên – Ngữ ông là cái gì! Mà có là gì, to đến đâu, chỉ nỏ mồm, tôi cũng chửi. Chửi có bài có bản hẳn hoi. A! Ông cười tôi hả! Tiên sư bố đường… Tiên sư bố…
“Thật may cho lão Đổng. Bài chửi sắp đến mục vạn bát thì cụ cựu lý trưởng đi đâu thấy có sự tạt vào. Cụ phân giải đôi bên. Con mèo hen nghe ra. Lão Đổng cũng nghe ra. Những người có mặt cũng nghe ra.
Hình như trời cũng nghe ra đặng phù lão trưởng xóm. Hôm sau trời tạnh ráo. Dân xóm tay mai tay cuốc đổ ra đường.
- Việc lớn “xô” đường mới không phải là lãnh đạo vi hành. Cũng không phải xe tải “bin… bin…”. Mà là chiếc cáng võng như chiếu kín mít. Lão Đổng và một cậu trai khênh cáng chạy huỳnh huỵch.
Hãng thông tấn xã loan tin – Một con rượu ngộ nạn rượu. Dân Vũ dẩu môi – A! Ai chứ tay ấy thì phải thế cho biết đời. Chưa thấy mặt người đã sặc mùi rượu. Ngồi đâu mở miệng ra là xoen xoét “năm mươi với một trăm phần trăm”, “Em nhiệt liệt tán thành nghị quyết bảy mươi lăm mi- ni-lít…”. Với những trời đất gì nữa. Chết! Quy ước xóm như thế mà vẫn vi phạm. Phạm đến mức trưởng xóm phải cáng bờm đi viện. Cứ đợi đấy. Chiều nay trưởng xóm về.
Thật “lầm cái tò”. Sáng hôm sau, lão Đổng mới về. Lão kè kè bên nách tấm giấy đên xì to tướng, y học gọi là phim X. quang. Nhằm vào những nhà hay ầm ĩ vì chuyện rượu chè lão thò ra tấm giấy đen.
- Rõ khổ? Đến viện huyện họ giới thiệu ngay lên viện tỉnh. Xe chũ thập đỏ phải chạy thần tốc. Đấy! bà với các cô nhìn xem! Mớ ruột , buồng gan. Cả mớ phèo, cái cổ hũ… Nó phình lên. Kinh chưa? Ông kính trắng bảo còn may. Chứ chậm tí nữa thì nó nổ tung ra vào nhà xác.
Các bà các cô liếc xéo các đấng mày râu thương mến. Bây giờ lão Đổng mới rủ rỉ:
- Chậc! Nó sâu bợm. Nhưng nó nghèo quá, lại lâm bệnh trọng. Thôi thì bà con ta của ít lòng nhiều, giúp nó một ít.
Mấy mươi nóc nhà lão Đổng đều cho xem “tấm giấy đen” và rủ rỉ như thế. Gần trưa, lão gặp chủ các lò, chủ quán rượi. Các vị chủ quán run rẩy, lịa lịa: “Thề có trời cao đất dày. Em pha bồ kết với phân đạm, thuốc sâu, thì trời vật em ra hộc máu tươi ngay trước mặt bác…”.
- Tôi không bảo các bà pha phách – Lão Đổng êm ấm chìa ra tấm giấy đen – Nhưng các bà nấu, bán cho nó uống đến nông nỗi này. Đúng luật, phải phạt nặng, bắt rỡ quán, đập nò. Nhưng cái sự làm ăn, các bà nên nhớ chớ tái phạm. Giờ các bà nghĩ sao cho đẹp tình xóm làng. Nó hư, ta trị dần. Lúc nó hoạn nạn, ta đùng nên thít chặt hầu bao. Sáng mai phải nộp lệ phí rửa ruột cho nó.
Tinh mơ hôm sau, lão Đổng khăn gói lên…bệnh viện tỉnh. Đến cuối xóm, ngó trước ngó sau, lão rẽ vào… viện. Đấy là ngôi nhà ranh vách, chỉ ba người hây hô là kềnh. Nhìn cơ ngơi đủ biết chủ nhân là tay “ăn giỏi hơn làm”. Lão Đổng xộc thẳng vào nhà. Bảo ba cô gái còn trẻ, khá xinh khóa cửa.
- Mày đâu?
- Dạ! Cháu đây.
- Đêm qua mày về có đụng ai không?
- Dạ không. Cháu đi nối tắt như bác dặn.
- Tốt! Giời tao nói phiên phiến. Còn phải vào làng tạ ơn ông đốc tờ. Người ta học thời Tây, cao kiến thế, tốt thế mình phải đối xử cho đẹp. Mày đã hết lòng giúp tao nhiệm vụ cấp cứu. Với tư cách trưởng xóm, tao hứa kín nhẹm chuyện gà qué cho mày. Tiên xư anh! Mấy mươi năm nhờ thiên hạ nuôi gà, chó nhiều đến thế cũng có tay cao thủ đấy. Chiến công lồng gà thuộc về lũ trẻ. Sơ tính mỗi gà ba tháng thì mọt gông con ạ. Mày mà giở trò bẩn với các “đặc tình” của tao thì cứ gọi là…
- Thưa…lạy bác. Bác sử đẹp thế lẽ nào cháu dám.
- Nghĩ được thế là tốt. Nghe đây, vợ chồng mày ăn ở như thế nhưng cái tình bà con đối lại vẫn rộng mở, khoan dung. Tao quyên được món tiền.
- Ấy chết…Cháu có say… ốm… thật đâu mà.
- Im! Đói cùng túng quẫn. Thì đấy là món bà con giúp mày làm ăn phục thiện. Mua lấy đôi lợn gây giống. Rồi sắm vài tay lưới. Sức mày kiếm ngày dăm ba nghìn không khó. Khoản rượu chè thì như tao đã nói, phải giảm mạnh. Có uống thì trước bữa làm chén cho dãn gân cốt, ngon cơm nghe chưa! Kiếm cái hũ, hôm nào tao kiếm cho bộ tam xà. Thứ ấy uống vào vợ nó cũng thích. Lại có vẻ dân phong lưu.
Lão Đổng đứng lên. Ra đến nhà ngoài, sực nhớ, lão nhảo lại:
- Suýt bỏ mẹ cả bác lẫn cháu. Này, cố ngồi trong buồng dăm hôm cho nước da nó mai mái đi. Chứ cấp cứu nằm viện mà da dẻ như gà chọi thế thì ma nó tin. Nghe rõ chửa. Tao tin được mày rồi đấy.
Các bạn! Không lấy gì làm khó hiểu khi tôi phải lân la ghi chép những chuyện trên trước khi tiếp cận lão trưởng xóm. Với vị “nguyên thủ xóm” như lão Đổng, sự lân la vòng ngoài như thế là ít. Rất ít nữa là khác. Nhưng các bạn thử rơi vào hoàn cảnh tôi xem.
Không ai muốn chia tay với giấc mơ đẹp. Nhưng đang mơ mà có kẻ túm tóc, ghé miệng sấm vào tai: “Dậy. Ngủ gì kỳ vậy…” thì biết làm sao!
Té ra kẻ túm gáy tôi là sếp. Ông đi dự hội nghị nông thôn về. Chắc có quà gì phần nhau đây. Tôi lồm cồm ngồi lên. Sếp gieo người xuống cái giường bùng nhùng chăn màn:
- Tiếc cho chú mày quá. Cái hội nghị nông thôn hay quá trời! Tuyệt nhất là cuộc đối thoại giữa dân báo chí với lão trưởng xóm ở Đại Lăng. Trời ơi! Đến giờ tao vẫn còn điên. Vào cuộc được vài phút thì cái máy mang theo giở chứng. Điên quá. Tao phải đi bài “bờ-tê-xê” (bia thịt chó) cánh trung ương mới để lại hộp băng. Nghe nhé! – Sếp dướn người ấn cuộn băng vào cát-sét nhỏ trên bàn.
- “Thưa ông trưởng xóm.Nông thôn, cụ thể là xóm nhỏ của ông đang thay da đổi thịt,khởi sắc, hồng hào lên. Theo ông có vấn đè nào tồn tại nổi cộm?”.
- “Tồn tại tức là… À! Còn nhiều lắm, nhiều như rơm rạ ngày mùa. Còn nổi cộm. Chà. Tôi ngán nhất đám trai tơ với lũ gái già”.
- “Thưa… Xin ông nói rõ…”.
- “Trai tơ là trai chưa vợ. Gái già là gái quá thì chưa chồng và không chồng. Vô phép, các bác thư thả về làng khắc rõ’.
- “Vâng. Nhất định chúng tôi sẽ về làng, về xóm nhỏ của ông. Nhưng lúc này, chúng tôi, các đại biểu thấy có điều khó hiểu…”.
- “Ờ… ờ… Chung quy là do đẻ đái nhiều các bác ạ. Thuốc men, bác sĩ sẵn. Cái ăn cái uống không quá khổ nên trẻ mỏ bây giờ lớn nhanh như lợn. Đa số được học hành chu đáo. Nhưng phần nhiều học xong về bám đít trâu. Rồi bộ đội giải ngũ. Công trường xí nghiệp dãn nhân công. Thành thử nông thôn hôm nay là cái bồ đựng người. Người nhiều, ruộng ít, nghề phụ teo tàn. Đấy! Nhàn cư vi bất thiện. Các cụ dạy rồi. Lũ con gái hiền lành hơn nhưng xem ra chúng nhiều khổ sở hơn. Lũ đàn ông bây giờ lấy vợ chọn của hồi môn hơn là nhìn người xem nết. Nhiều đứa vì thế, vì nghèo mà hóa gái già. Lại không ít đứa già vì bố mẹ khỏe đẻ, kém nuôi nên chúng vừa nghèo lại không sạch nước cản. Rồi số bà cô gái già vì thời chiến tranh bom đạn. Rồi đám vợ liệt sĩ tuổi ba bốn mươi. Xóm tôi, một đám gái già gầy quắt, cáu bẳn, giở chứng bà cô vì thèm khát làm vợ, làm mẹ…
Đến đây sếp tắt máy, vỗ vai tôi:
- Đấy! Vấn đề xem ra mới lạ lắm. Cánh trung ương còn mải bám mông mấy cô dâu tằm. Ta phải vồ ngay chuyện ở Vũ. Cậu về Vũ ngay cho tớ! Đi xe đạp bất quá nửa ngày đường. Ta phải làm cái gì đó cho ra hồn. Chứ đài tỉnh cứ sài bài ngoại thì có ngày sập đại. Một bài viết. Mười phút phỏng vấn. Tớ cho chú mày bốn mươi tám giờ. Đi đi.
Các bạn! Tôi đang ngồi với lão trưởng xóm. Lúc tôi vào ngõ, lão đang cuốc vườn. Lão tiếp tôi không lạnh nhạt cũng không vồn vã. Mời tôi ngồi chõng tre kê dưới gốc mít, đặt trước mặt tôi bát nước chè xanh, lão chỉ cái máy ghi âm tôi mang theo: “Anh về quay phim phải không?”. Tôi chưa kịp trả lời lão đã dồn: “Có cần chất rơm, rạ lên thuyền lên xe rồi rải khoai, phủ thóc cho đầy để quay không?”. Chà! Trưởng xóm là tay hóm hỉnh đây. Tôi giả tảng thờ ơ xem lão hóm đến đâu. Tức thì lão Đổng tung ra một lô câu hỏi: “Có cần chọn cửa cao nhà rộng? Có cần bảo bà con tắm lợn? Có cần bà con vác cày, dong trâu xếp hàng. Trâu bò béo đi ngoài. Người mặc rách hàng trong không? Tôi lắc tuốt. “Thế có cần mấy đứa xinh xắn, mông nở, vú to gánh thóc quẩy mạ không?”. Đến bụt cũng phải phì cười nói gì tôi người trần mắt thịt lại có tật hay cười. Để chứng minh không phải nhà quay phim, tôi ấn nút máy ghi âm và nói.
- Cháu theo những lời này về gặp bác đấy.
Lão Đổng chau mày khi bắt gặp giọng nói của chính mình. Lão nhìn ra vườn, ấp úng:
- Chà… Không ngờ…
Lâu lắm tôi mới gặp cảnh đường làng đêm trăng. Các cô, các cậu trẻ từng tốp đi lại cười nói inh ả. Dưới gốc bàng cổ thụ, một tốp trai ra bình luận cho điểm gái. Cách đó một quãng, mấy cậu choai khoe nhau côn gỗ, xanh tuya rông. Rõ rành họ phất lờ lão trưởng xóm. Lão Đổng cũng phớt tỉnh kéo tôi nhanh bước. Bất ngờ, đoàn cả chục xe đạp ngược chiều ép chúng tôi sát dậu tre. Lão Đổng vỗ vai tôi:
- Anh thấy chưa! Trai tráng bây giờ lạ lắm. Động một tí là vung côn, huơ dao. Con gái xóm tôi người xinh, nết đẹp có tiếng. Trai thiên hạ đến nườm nượp, xô xáy xảy ra luôn. Phạt nặng mấy chúng cũng không ngán, cốt sao trả được đòn. Tôi ớn bọn chúng lắm rồi. Nhưng lúc này mình nản lòng, thờ ơ với chúng thì cái sự hỏng của chúng thật khó lường. Với chúng phải từ từ từng bước. Anh về thật đúng dịp. Lát nữa anh sẽ thấy nước cờ tôi chơi với bọn trẻ.
Gần đến cuối xóm, lão Đổng kéo tôi vào một ngõ nhỏ. Chúng tôi dừng bước trước ngôi miếu cổ. Trong miếu, đèn, nến sáng trưng. Hương hoa nồng ngạt. Mảnh sân nhỏ trước cửa miếu chật ních người. Sự im lặng của con người như tôn thêm cái huyền hoặc, linh thiêng cổ kính. Không phân công, không mệnh lệnh, tuần tự người nọ tiếp người kia tiến lại gần trước ban thờ rập đầu dâng lễ, khấn vái. Sự xuất hiện của lão Đổng không mảy may tác động.
- Bác tán thành việc cả xóm rập đầu trước bát sứ mẻ? – Tôi ướm hỏi lão Đổng khi trở ra đường.
- Chuyện dài lắm – Lão trưởng xóm thở dài - Ở làng, nhất là xóm nhỏ, nẻo xa, người già cả, đám thợ cày thợ cấy ngoài công việc đồng áng, vui thú gia đình còn biết còn biết khuây khỏa vào đâu? Chả lẽ ra đường, ra bãi nhìn con cháu gây gổ, bóp vú, sờ mông.
Đến chết cười với lão trưởng xóm. Lão Đổng nói tiếp:
- Cũng là sự lạ đời. Trước cái bát sứ có mấy chân hương con người ta đổi khác nhiều lắm. Bao nhiêu kín đáo, oan trái, cả những xấu xa… Không ai khảo mà xưng ra hết. Tôi đã lập mưu thi kế chứ không còn lắm trò nữa.
- Mưu kế thế nào? – Tôi như vồ lấy bàn tay lão Đổng.
- Phải bí mật. Lộ ra họ biết thì lại tối ngày lên đồng múa may. Đột ngột, lão Đổng dừng bước. Lão đập tay lên vai tôi, lại đập tay lên ngực mình: - - Nói vô phép anh! Giá tôi với anh, với những ai đó nữa …chiếm được lòng dân bằng nửa cái miếu kia,chỉ cần thế thôi, thì tốt bao nhiêu.
Tôi giật mình suýt vập đầu vào vai lão Đổng.
Đi tiếp quãng đường, tôi và lão Đổng sững người lại vì tiếng hét: “Cháy…Làng ôi…cháy…’. Tức tiếng kẻng báo hỏa dồn dập. Tôi toan lao về phía ngọn lửa. Nhưng…lạ thay! Lão Đổng mỉm cười kéo tôi lại khóm tre gần đó. Lão hoàn toàn bình chân như vại nhìn những tốp người rầm rập chạy đi cứu hỏa.
Khi ngọn lửa sắp tàn, lão Đổng kéo tôi chạy về nơi xảy ra hỏa hoạn. Rất đông người, phần lớn là cánh trẻ vây quanh đống rơm cháy dở. Lão xô lại đám thanh niên, rối rít vỗ tay, cầm tay.
- Trời đất! Cảm ơn các cháu. Làm ăn thế đấy. Lửa thế. Gió thế. Không có các cháu thì đống rơm này thừa sức hóa tro cả xóm. Khao! Trưởng xóm phải khao đáp cái ơn này. Mấy đứa con gái đâu. Ù ra quán mua cho tao tút thuốc thơm. Nhanh lên!
Mấy cô gái ào đi. Lão Đổng bước lại đám trung niên phẩy tay như làm hiệu. Lão ngắt về với tốp thanh niên khác.
- Úi giời! Toàn các cậu làng bên! Cảm ơn! Cám ơn các cháu không quản ngại cứu hỏa. Kìa! Các trai xóm ta lại đây cả nào.
Mấy cô đi mua thuốc đã về. Lão Đổng vớ cả tút bóc ấn cả bao vào tay các trai.
- Hút đại đi các cháu. Chợt lão vỗ vai một cậu, cậu nữa, reo lên – A! Mấy anh vung côn huơ dao hôm nọ đây hả! Bố sư các anh! Thằng bị chém đi gánh phân khỏe rồi. Chặc! Anh tưởng tôi không biết hả. Trong khi phụ huynh trích lương hưu, vay nợ cho con nộp phạt hành chính, thì các anh hội tửu quán rút kinh nghiệm, sửa côn, học võ chờ cơ hội phục thù. Này! Hôm nọ tôi sang nhà gặp các cụ nhà ta, lúc ấy các tướng đi đâu hả?
Vừa nói lão Đổng vừa gạt, lôi, kéo các trai lại gần nhau. Qủa họ có tụm lại nhưng quen – lạ vẫn phân tốp. Lão Đổng nhích vào đứng giữa hai tốp, nhẹ nhàng:
- Chẳng mấy khi may mắn gặp các cháu chủ - khách đông đủ thế này. Nói gần nói xa chi bằng nói thẳng. Đất lành thì chim đậu. Nhưng trai chủ thật chưa đáng mặt chủ. Cậy thế thổ công, sinh sự bắt nạt, vòi vĩnh trai khách. Các cháu làng bên nghe tiếng trai thơm tìm đến. Nhưng đi thiên hạ mà lách cách côn, dao, coi đất bạn như bãi làng mình thì quả là cạn nghĩ nông suy. Bao nhiêu va chạm chỉ còn thiếu nước đào hào, kê súng bắn nhau. Hậu quả đau đớn nhỡn tiền. Các bậc phụ huynh nghĩ đến con cháu phải cắn răng chết từng khúc ruotj. Nhưng thôi! Ddaam chém là chuyện hôm qua. Trước hiểm nguy, ví như đám cháy vừa rồi, các cháu biết chung lòng hợp sức. Lẽ nào thường nhật các cháu nỡ xử nhau như thù địch…
Đám đông đứng lặng phắc. Lão Đổng nháy tôi đi. Được một quãng, tôi và lão cùng ngoái lại. Các trai vẫn chia tốp. Nhưng đã nghe loáng thoáng tiếng cười nói. Lão Đổng không dấu nổi đắc ý.
- Không có đám cháy đúng tuần trăng thì còn khướt chúng mới chịu đứng với nhau như thế. Hết nước thí quân là cờ vào thế! Bước đầu như vậy là được. Chắc rồi yên ấm.
Chúng tôi bắt vào đường trục đồng. Đang đi, lão Đổng sững lại. Lão khoát tay về phía bờ đê mờ ảo xa xa.
- Ngoài ấy có mỏ cát xây dựng. Trai tráng trong xóm thì vô công rỗi nghề. Trong khi đó xe thuyền tứ phương đến lấy cát bán khắp nơi. Mười nghìn một khối cát chứ rẻ đâu. Dân Vũ nhìn thấy đống tiền mà vêu mõm. Nhưng tôi không chịu đâu.
- Bác định thế nào?
- Còn thế nào? Giao thông và vốn. Con đường như anh thấy đấy, ổn rồi. Nay mai, tôi sẽ chọc tức bọn chủ thuyền cho nó chửi toáng lên rằng dân Vũ ngu. Nằm trong đống của mà chịu đói rách. Chọc trúng “tia máu” dân Vũ việc này chắc xong.
Lội qua con ngòi hẹp, lần theo bờ đạc lở lói, chúng tôi dừng bước trước ngôi nhà nhỏ. Gọi là lều thì đúng hơn. Rất tự nhiên lão Đổng cạy phên liếp:
- Mẹ thằng chim ngủ chưa? Có muốn đánh dậm con bướm cho đủ nếp tẻ thì sáng đèn mở rộng cửa ra nào. A! Đèn sáng sẵn thì dễ chơi lắm rồi.
- Gớm chết! Ai như bác trưởng xóm. Em xin đủ khoản ấy rồi. Mời bác vào chơi.
Sự xuất hiện của tôi khiến nữ chủ nhân đỏ mặt. Cô vội kéo coóc-xê che bầu vú căng sữa. Nhà không có bàn ghế. Đồ gỗ độc một chiếc giường đôi. Lão Đổng tót lên giữa giường và chỉ chỗ tôi ngồi mép. Mùi nước hoa thoang thoảng. Muỗi đàn vo ve. Bên ngoài, đồng bãi râm ran tiếng côn trùng.
- Ông anh đây muốn nghe chuyện chị em. Có gì cứ kể ra. Đừng ngại – Lão Đổng nói, hai bàn tay chai sạn xua xua đám muỗi vo ve trên mặt cậu bé.Trong lòng mẹ, cậu bé ngủ rất đẹp. Gương mặt bụ bẫm, sởn sơ, ăm ắp lời hứa hẹn làm một chàng trai đẹp trong tương lai không xa.
- Chẳng nói thì dấu diếm được ai nữa. Cuối cùng thiếu phụ cũng chịu chuyện. Em chờ đợi suốt một thời bom đạn rồi. Làm vợ, làm mẹ là quyền là khát vọng của phụ nữ. Là danh dự nữa. Riêng em chờ đợi, cả săn đón điều ấy đến nát lòng. Thế rồi thế đấy. Kiếp gái già. Thế gian không có nỗi buồn khổ nào sánh nổi phận đàn bà chịu nỗi gái già, đơn độc, bà cô. Nên em liều. Phải tốn khối tiền xem phim kịch. Lại phải đi làng khác mới dám… Rồi tôi có mang. Gia đình, xóm làng chỉ còn thiếu cách cạo đầu bôi vôi. Có lúc, em toan phỉ phui giọt máu liều thân. Nhưng rồi em cố cắn răng. Trước tháng sinh, em xin xóm vạt đất này. Đám bạn gái lỡ thì người cây tre, người bó mạ giúp mẹ con em có nơi trú mưa nắng. Ơn trời! Mẹ con em vuông tròn. Nhà em lúc nào cũng đông khách. Toàn gái già, gái lỡ trót với nhau. Đứa nào cũng khen em tốt số! Cầu cho người đời cứ xinh trẻ mãi.
- Chẳng niềm vui nào sánh nổi hạnh phúc của người mẹ đâu – Tôi an ủi thiếu phụ và động viên – Ta đã có luật con ngoài dã thú.
- Vâng! – Thiếu phụ nhỏ nhẹ - Nhưng ở làng mấy ai hiểu, cảm thông phận gái già. Đành nhắm mắt thôi. Em gắng nuôi thằng bé ngoan, khỏe, giỏi giang. Nhất định thế! Khối cặp vợ chồng quyền bính, của nả như núi mà con cái có ra gì.
Tôi xin phép thơm cậu bé và chia tay người mẹ. Đường về, lão Đổng trở nên lầm lỳ.Dường như thiếu phụ đã đánh cắp ở lão tính năng nổ và bản chất lão điền hóm hỉnh. Tự lúc nào tôi cũng nhạt mất hứng thú công việc. Thế vào những háo hức là một nỗi buồn rất cụ thể thật khó xoa dịu.
Đêm dần vào khuya khoắt. Cốc tam xà đã kích lão Đổng thường lại. Lão chỉ cái máy ghi âm của tôi, gật gù:
- Thời khoa học lắm cái thú ra phết. Tháng trước tôi phải vào làng mượn cái máy như của anh đặng trị các bà ngoa ngoắt.
Trời ơi! Tôi suýt sặc rượu! Ở làng các bà sẵn sàng bỏ buổi làm để chửi chộm nải chuối, mớ rau… chủi chồng con và chửi chồng con. Có bà cứ nhè lúc vợ chồng con trai khép cửa buồng mới cất giọng. Nhè một đêm bà kia đang “hát” lão Đổng xách đài chạy đến, ôn tồn: “Bà không ngủ để chửi, tốt thôi! Nhưng chửi từ tối đến giờ mệt rồi! Giờ bà chửi khẽ tôi ghi vào máy. Mai họp xóm tôi mở băng đài. Như thế bà đỡ mệt, dâu con chắc ngoan lên…”. Bà kia sợ xanh mắt. Đám chua ngoa nháy nhau: “Liều liệu cái mồm từ nay…”. Ai chứ lão Đổng xắn tay thì không phải chuyện đùa.
Hôm sau, trước khi tạm biệt lão Đổng, tôi phải làm cuộc phỏng vấn chốt chuyến về Vũ. Lão Đổng giãy lảy:
- Phỏng với phiếc làm gì cho rách việc ra. Tôi là cái dân ý mà.
- Nhưng còn xếp của cháu. Lão khó tính lắm – Tôi nài nỉ:
Ngẫm nghĩ một lát, lão Đổng gật đầu:
- Thì vấn. Cậu chuẩn bị máy trước đi.
Cái máy đã sẵn sàng từ lâu cho những phút này. Tôi ấn công tắc máy và đặt câu hỏi:
- Xóm Vũ có những chuyển động đáng mừng. Xin trưởng xóm cho biết động cơ thúc đẩy xóm nhỏ chuyển mình đi lên?
- Chặc! Bợm già mắc bẫy cò kè thôi mà.
- Xin trưởng xóm giải thích cụ thể:
- Chà… chà… Bà nó ơi. Xong chưa…
Tôi vội cắt máy, không để đâu hết ngơ ngác. Lão Đổng cười. Lão ão xuống bếp và trở lên với mâm cơm sáng. Như thế là tôi hết cơ hội yêu cầu giải thích. Vả lại, tôi hiểu, với lão trưởng xóm, khôn khéo nhất là “stốp” ở đây.
Sếp của tôi là một người rất chịu chơi. Ông rửa điếu cày, mua cả lạng thuốc lào Vĩnh Bảo tông chờ tôi trở về. Thưởng thức món ruột đâu đấy, tôi báo cáo chi tiết chuyến đi và trao cho ông hộp băng. Ông mở máy đúng ba lần. Ông kinh ngạc, đập tay lên trán.
- Lạ quá! Lạ quá! Cổ, kim. Á, Âu, Phi, Mỹ-la tinh, cả Úc-đại-lợi. Chưa từng có ai trả lời báo chí công luận như lão trưởng xóm nhỏ này. Sếp thì thầm. Và đột nhiên ông gắt lên- Còn cậu! Cậu đã mục sở thị xóm nhỏ. Cậu giải thích tôi nghe.
- Thưa sếp – Tôi từ tốn – Bợm già là tay cao thủ, lọc lõi các mánh lừa bịp, trấn cướp. Cò ke là loại bẫy rất đơn giản chỉ lừa nổi lũ chim bé nhỏ, khờ khạo, đám gà tồ, chó ngố! – Với trường hợp xóm Vũ ta có thể hiểu đại ý: những tay cao thủ, sừng sỏ bị sa sập bởi cái bẫy đơn giản thô sơ. Cái lớn lao thua cái bé nhỏ. Đau lắm. Đây là một chiều ý nghĩa, một cách hiểu. Nhiều việc lớn lao, những thói hư tật xấu ghê gớm boong ke trong đời sống xóm làng… Rốt cuộc được giải quyết thông đồng bén giọt bằng những biện pháp bình thường, tối đơn giản…
Sếp lắc đầu, hổn hảo:
- Chưa ổn. Phải hội nhập xóm nhỏ. Phải nghiên cứu kỹ câu trả lời phỏng vấn của lão Đổng. Không thể xem thường.
Các bạn! Có lẽ sếp của tôi quyết định đúng. Nên chăng chúng ta cùng suy ngẫm câu trả lời của lão Đổng. Trong khi chờ đợi tìm kiếm lời giải thích thỏa đáng, tôi xin trình các bạn đôi ba chuyện về lão trưởng xóm.
THÁNG BA THƯƠNG MẾN
Cuối tháng hai âm lịch, tôi được xuất ngũ về quê. Tôi gặp cây đa cổ thụ sừng sững đầu làng khi ngày đã ngả sang chiều. Nắng chiều xuân nhàn nhạt. Vòm trời chiều xuân cao cao. Những vầng mây phớt xanh, mây nhờ nhờ trắng đan vào nhau làm âm ấm không gian, âm ấm mắt nhìn.
Lệ quê tôi, những ai trước buổi đi xa hoặc trở về, dân làng vui rủ nhau đến chúc mừng, thăm hỏi. Với những người lính, khách đến càng đông hơn. Buổi tối đầu tiên tôi trở về cũng giống như đêm trước ngày tôi đi lính. Khách ngồi chật trong nhà, ngoài thềm, cả phần bán mái của ngôi nhà ba gian hỗn hợp ‘‘tre-đất” vốn là nơi đặt cối xay thóc. Tôi xăng xái trong nhà, ngoài thềm, ra trái mời bà con hút thuốc cuốn Lạng Sơn tôi mang về và uống nước chè xanh các em hái vội vườn nhà. Bà con, bạn bè ai cũng muốn tôi ngồi lâu với họ để trả lời những câu hỏi về cuộc sống vùng biên, người lính. Nhưng tôi không ngồi lâu được với ai, cũng chẳng trả lời trọn vẹn câu hỏi nào. Giữa lúc tôi mời thuốc lá một ông cụ, nhà ở giữa xóm thì một bác ở cuối xóm vỗ vai tôi, bỏm bẻm miệng trầu: “Năm nay trầu cau tốt, cưới vợ đi cho mẹ mày nhờ, cu ạ”. Tôi nóng ran cả người. Lời khuyên khởi dậy những nỗi niềm, long tôi hướng về Nụ - người vợ chưa cưới của tôi. Đã biết trước Nụ hay tin tôi về sẽ sang cùng mẹ và các em lo việc nước nôi, nhưng lúc này tôi cứ lo lo em chưa biết hoặc đã biết nhưng vì ngại ngùng, vì bận công việc họp hành gi đó…nên chưa sang. Thật lạ lung! Mối băn khoăn đang quẫy thì Nụ từ ngoài thềm bước vào, hai tay em xách hai bình nước. Ánh đèn dầu đủ cho tôi nhìn rõ đôi mắt em long lanh mãn nguyện. Tôi nhìn rõ mái tóc dài óng mượt cảu em và lưng suối tóc lấp lánh ánh kim loại của chiếc cặp hình con bướm. Con bướm ấy tôi làm từ chiếc ca nhôm bẹp, trong suốt một tuần mưa mịt mùng điểm tựa. Mắt tôi bị hút vào mái tóc em. Người xưa nói: phụ nữ tóc dài sẽ thư nhàn hay vất vả nhỉ? Hình như Nụ nhận ra ánh mắt tôi dõi nhìn nên luống cuống đặt bình nước vào tay một bác và bước nhanh ra ngoài. “Nụ… Nụ…”. Tôi nghe rõ ràng tiếng long tôi bật lên run rẩy. Tôi muốn đứng lên chạy theo em, cầm tay em, vuốt mái tóc em… và cùng em xách bình nước nóng, thơm đi khắp trong nhà, ngoài sân để mời, để chào bà con bè bạn. Nhưng tôi ghìm được cảm xúc, ước ao của mình nhờ một điều chợt nhớ đơn giản: Tôi là chàng trai quê, em là cô gái quê, đâu dám vượt “đất lề quê thói”.
“Nụ… Nụ…”. Tiếng lòng tôi run rẩy bật lên. Năm trước tôi được nghỉ phép nửa tháng để sau đó tại ngũ thêm một năm theo yêu cầu của cấp trên. Trong dịp ấy, theo lệ làng, mẹ tôi sắp cơi trầu sang chạm ngõ người tôi yêu thương. Cặp bánh gai đặt lên bàn thờ. Xấp bánh đa vừng bẻ chia cho trẻ. Đấy là kết quả độ chin tình yêu trai làng ta, gái làng ta. Đấy cũng là kết quả của sức ép của họ hang, của việc mẹ Nụ “bật đèn” trước hiện tượng trai tráng quanh vùng dạp dìu vào ngõ… người tôi yêu. Thế là em như ván sắp nên thuyền, tôi như cây chèo đang rõ hình từ phiến gỗ.
Dưới bếp chợt rộ lên những tiếng cười trẻ trung giòn giã. Trong vui vẻ ấy, tôi nhận ra tiếng cười của người tôi yêu thương. Tôi lắng nghe. Chợt có bàn tay ai vỗ lên vai tôi:
- Chú xuất ngũ có được đong gạo không?
- Có ạ - Tôi đáp và nhận ra người vỗ vai là bác ở xóm bên.
- Thế thì tốt chứ không thì…
Tôi không được nghe tiếp “chứ không thì” là sao bởi phía cửa buồng ai đó đã ới gọi. Tôi lách qua khe chiếu để đến chào người dì họ. Dì sờ nắn tay tôi, vuốt lưng, vuốt tóc như vỗ về đứa trẻ. Dì thì tháo:
Mày không đến nỗi phù thũng như mấy đứa về hồi trong năm. Nhưng sao mày gầy thê, lại ghẻ nữa.
Dì thì… dì thì… Tôi ấp úng và lặng đi trong bàn tay vuốt ve của dì. Dì cười mà đôi mắt ngân ngấn nước. Tôi hiểu nước mắt và nụ cười kia nửa dành cho người lính trở về, nửa còn lại dành nhớ thương hai người con đã gửi nhịp đập con tim vào lòng đất miền Trung.
Thức vui với dân làng rồi lại thức rất khuya với Nụ, vừa đặt mình xuống giường, tôi nghĩ sẽ phải ngủ đến chớm trưa mai. Vậy mà lúc thức dậy trời vẫn còn tối đậm, trên bàn thờ vẫn còn le lói ánh đèn dầu bao giờ cùng được mẹ tôi thắp từ lúc tắt mặt trời đến khi sang hẳn. Cùng lúc nhận ra ánh đèn, tôi nghe trong buồng vọng ra tiếng mẹ tôi thì thào với ai đó. Ngay đó, một giọng nói the thé, rin rít đã giúp tôi nhận ra người khách sớm mai. Đấy là vợ chú Thấn, Bí thư đảng ủy, nhà ở xóm bên. Đúng là thím Thấn rồi. Tôi ép mình sát vách, dỏng tai hóng chuyện. Lạy chúa! Cảm ơn linh giác đã mách cho tôi biết thím Thấn sang sớm không phải để hỏi thăm thằng lính hồi hương.
Mẹ tôi thì thào:
- Miệng dân song bể thím còn lạ gi! Cháu nó về đến đồng kẹo cho trẻ tôi cũng phải lo chứ làm gi có hàng biên giới mới chả đồ tâm lý. Chả giấu thím , đến quà sang ông thong gia cháu nó cũng cậy tôi.
Thím Thấn chem chép miệng:
- Vậy mà em cứ tưởng thằng ấy ở biên, làm ăn được, thế nào chả mua ít hàng kiếm đồng lời đỡ bá…
Tai tôi thoắt ù ù như có ai kề cối xay bên cạnh. Rồi vẫn tiếng qua kẽ răng khít khịt trồi ra:
Tưởng có hàng thì bá đưa em rồi quy ra tiền khấu vào món bá khất hồi trong năm và mòn lãi đận rồi. Thật không có cũng đành vậy. Chỗ chị em, em nói thật, anh ấy cứ đay đớn món bá khất, thúc em xin cả bá để lo việc cưới cái út Len. Nể bá, em đành vay ngõ khác đập vào. Người em vay, họ đòi “năm mươi phân”, thóc đến mùa một trả đôi chứ không mềm như em đưa bá đâu…
Cảm ơn thím – Mẹ tôi cất lời nghe run run.
Thằng cả nó về bất quá được bốn chục ký gạo chứ mấy. May thì đử trả ngõ vay nóng chứ bõ bèn gi, bá nhỉ! Nếu thiếu ăn bá cứ sang em, mà sang ngay chứ không tuần tới nhà em nó họp huyện về. Em đỡ không bá nhưng bá đỡ cho em cái ngõ em vay đập vào món bá khất em nhé!
- Thím… thím xơi trầu đi.
- Thằng cả qua tuổi kim lâu rồi thì bá xin cưới ngay đi. Chứ để vậy trai gái gần kề bố ai răn ai lường nổi. Bá cứ lo đi, em đỡ cho một món. Bất quá dăm tạ thóc, dăm chục ngàn là thừa cưới chứ mấy nả…
Thím Thấn kết chuyện bằng tiếng cười the thé rồi cáo về. Mẹ tôi theo tiễn thím ra ngõ. Bao mệt mỏi hành trình mã hồi, rồi đêm vui ào về quật tôi xuống giường ngủ tiếp. Tôi cố gượng đứng lên gấp chăn màn, vừa lúc mẹ tôi trở vào. Tôi hỏi ngay:
- Thím Thấn sang hỏi nợ hả mẹ?
- Mày thì… Mẹ tôi chỉ nói thế rồi bước vào trong buồng đánh thức lũ em vẫn đều tiếng ngủ.
“Mày thì…” – Đấy là lời của mẹ. Bao giờ cũng thế khi đứa con muốn tham dự vào những lo toan của người mẹ đều được mẹ chối từ, gạt đi bằng: “Ối dào… ối dào… mày thì…”. Như thế là mẹ quyết dành hết về mình những gánh nặng. Muôn lo từ nhỏ tới lớn,từ ăn đến mặc, lấy vợ, lấy chồng… muôn lo mẹ chất được cả lên vai, vào lòng.
Tôi cầm khăn mặt ra bờ ao. Mưa phùn bay bay. Từ lúc tôi chia tay Nụ trong đêm, giờ mưa vẫn bay bay, vẫn giăng màn hư ảo. Bên kia bờ ao thấp thoáng bóng cây. Lưng bóng cây thấp thoáng chái bếp nhà Nụ. Tôi vục tay xuống ao vốc nước vào mặt. Màu nước ao quê xanh xanh, mùi nước ao quê ngai ngái. Những mệt mỏi, cả những buồn lo nữa bỗng tan loãng, mất hút trong cái màu, cái mùi nước ao quê đã hơn một năm nay tôi mới được vỗ lên da mặt mình. Từng vốc… từng vốc nhé… A! Nhà bên Nụ đã dậy từ lúc nào. Tiếng em nẹt con lợn đòi ăn nghe sao mà oai thế! Bên ấy là cầu ao nhà em, có cây lộc vừng cổ thụ. Từng vốc…từng vốc nước ao quê ngai ngái, xanh xanh.Buồn cười thật đấy! Ngày ấy làng chưa có nhà hộ sinh, bà Nụ đón Nụ ra đời rồi rẽ giậu, băng qua vườn sang đón tôi. Hai đứa chung quả chanh tưa miệng. Hai đứa chung lưỡi hái cắt rốn. Đến ngày hết ngén, tôi và Nụ lại “ti” chung bầu vú mẹ Nụ, vì mẹ tôi lại mang thai, lại bị ốm. Tôi bú nhờ mè Nụ đến khi đầy tuổi mới thôi.Chúng tôi như củ khoai trầy trật lớn trong luồng đất cằn. Chúng tôi than nhau, đánh nhau, cãi nhau… lại than nhau như hai đứa trẻ sinh đôi. Học hết lớp bảy, tôi và Nụ phải thôi học vì hoàn cảnh éo le. Bố tôi ngộ cảm sau đêm đi riu tép. Mẹ Nụ sinh cô gái thứ bảy lại mắc thêm chứng hậu sản. Chúng tôi cứ vô tư đùa nghịch cho đến khi trái tim tôi đổ nhịp lạ lùng theo ánh mắt chợt nhận ra người “tic hung” đã là cô gái lộng lẫy trong bộ quần áo quê. Hết vô tư sao? Dầu sao cũng chẳng ai thơ trẻ, vô tư mãi được… từng vốc… từng vốc … ao quê.
Các em tôi đi học được một lát thì Nụ sang nhà. Gương mặt em bừng đỏ sau nụ cười gượng thay cho lời chào “trống”, tôi đang ngây người vê thuốc sợi. May mà mẹ từ dưới bếp đi lên chứ không đôi bên chưa cưới khó mà “ngồi được” với nhau.Tôi đã làm vỡ điếu thuốc, còn em đang lùi lại góc nhà.
Mẹ tôi vừa bước qua bậc cửa, Nụ sà lại. thì thào:
Mẹ, con sắp đĩa xôi sng thắp hương thầy để lát nữa bố con… đi ngược…
Mẹ tôi run rẩy đón đĩa xôi đặt lên ban thờ.Nụ rút ba nén hương đưa cho mẹ tôi rồi mạnh bạo bước ra bàn:
Em mua mấy gói kẹo để anh làm quà…
Em thì… tôi chỉ nói được thế! Nụ lặng lẽ xếp mấy gói kẹo lên mặt bàn. Hương trầm đã tỏa ngan ngát. Mẹ tôi chắp tay trước ngực, miệng lầm rầm: “… độ trì… đi ngược… làm ăn…”.
Đi ngược tức là hành trình từ vùng xuôi lên lên vùng đồi núi. Tôi đã quen với tổ hợp từ “đi ngược, lên đoàn” từ thủa lên ba. Làng tôi nghèo lắm. Thiên hạ năm, mười tấn một héc-ta; cơ giới tới bốn, năm mười phần trăm việc đồng mà làng tôi vẫn cứ nghèo. Ngày ba tháng tám khi đồng ngơi việc cũng là trong nahf cạn cái ăn, dân làng tản tứ phương tìm cái ăn đợi mùa. Người sang Nam Đinh, Ninh Bình đóng gạch, nung vôi khoán. Người lên rừng gặp việc gì làm việc ấy, cốt sao có bát cơm, đồng công. Cũng có người đi ngược không cốt tìm việc mà đi mót sắn, mót chè đưa về xuôi đổi thóc gạo. Những nhà khá giả thì ngồi nhà cũng kiếm gấp nhiều lần đám xuôi ngược tứ tán. Họ xuất tiền, xuất thóc, lãi một trả một rưỡi, gấp đôi và lấy mốc là mùa gặt tới. Kẻ khó cần cái ăn, cần đồng vốn, tiền tàu xe thì lãi mấy cũng phải gật, phải ngậm bồ hòn. Tôi đi lính mấy năm, năm nào cũng được hưởng phép. Dịp nghỉ nào về cũng nghe nói làng Hạ (tên làng tôi) quyết tâm phá thế độc canh cây lúa bằng nghề này nghề nọ; nâng cao đời sống bằng kế bày, sách kia; triển khai nghị quyết, chỉ thị này khác… Nhưng rồi làng tôi cũng như năm nào, vẫn nguyên thế độc canh, vạn sự chi dung hợp lý, phi lý chồng lên hạt lúa; vẫn mỗi mùa gặt cờ đỏ, dân quân vác sung, kéo xe đi thu sản; vẫn tháng tám ngày ba người giàu xuất tiền, thóc cho vay lãi, người nghèo tứ tán làm ăn, cả hành khất nữa…
Nụ về rồi, mẹ bảo tôi:
- Con sang bên nhà đưa ông xuống bến xe. Đừng để cái Nụ nó đi. Nó đi thì bỏ mất gánh cỏ bán cho đám xe bò bến than. Bỏ rẻ gánh cỏ đầy cũng được lưng bở gạo.
- Vâng ạ - Tôi đáp và thấy đầu óc chông chênh, giống như ngày nào mưa tắc đường vận chuyển, cả tiểu đội “ăn” nước lã tròn nửa tuần lễ.
Nụ đồng ý để tôi quảy gánh đưa bố xuống bến xe huyện. Hành trang đi ngược của ông gồm vài bộ quần áo, hai ký thuốc lào, ba ký tép khô và năm lý mắm tôm đặc. Trên đường xuống bến xe, bố con trò chuyện rôm rả. Ông không giấu tôi cả việc phải đi vay ai, lãi bao nhiêu phân để có vốn đi ngược. Đến bến đã thấy mấy người làng cũng chờ xe đi làm ăn. Ông không cho tôi xếp hàng chờ mua vé mà giục về và dặn: “Bảo các em làm đất trồng cà. Nếu khan việc sẽ đi mót sắn, mót chè đủ gánh rồi xuôi…”.
Từ bến xe, tôi về thẳng nhà Nụ. Nhà im vắng. Tôi đứng một lát mới thấy Nụ từ vườn rau về. Nụ bảo mẹ đi cắt cỏ, mấy đứa em, đứa đi chăn trâu, đứa đi đánh dậm. Tôi hiểu mẹ đã giành lấy việc đi cắt cỏ để Nụ ở nhà chờ tôi ve
Vào trong nhà, tôi mạnh bạo hẳn lên. Ngồi đối diện với Nụ, tôi hết nói luyên thuyên laij lấy xe điếu chọc đùa vào trán, vào tóc em. Nụ chỉ cười. Hết quay mặt đi lại gục mặt xuống bàn để cười. Một lần Nụ ngẩng lên, mặt đỏ bừng, đôi mắt sáng lạ lùng. Tôi nôn nao bật khổi ghế sang bên Nụ. Em vội đứng lên lách qua người tôi để mất hút sau cửa buồng. Tôi lao theo em. Điều chợt nhớ ngày xưa bé bỏng đuổi nhau chốn nấp gậm giường, niềm âu yếm cả ham muốn nữa vừa dậy lên đã lắng xuống khi tôi nhìn thấy, đúng hơn là ập vào mắt tôi, dáng đứng như bết vào góc tường của Nụ, đôi mắt em mở to, ngấn nước và đầy ắp sợ hãi. Sợ hãi kia có giống ngày xưa tôi dọa em trong đêm đi học nhóm? Có giống như đêm nào bên gốc lộc vừng cạnh cầu ao mùi nước ao quê ngai ngái, màu nước ao quê lấp lánh dưới trăng… Toàn thân tôi thoắt tròng trành. Tôi đảo mắt khắp gian buồng tìm nơi bấu víu. Không thể vịm vào vai em đang nép chặt vào góc tường. Không thể.. Góc trong cùng một lá cót cuộn trong bên cạnh cái lải không đậy nắp. Cái lải chắc dùng đựng gạo nhưng không cần đậy nắp nữa. Vách áp gian ngoài có hàng vấu tre để vắt quần áo. Vài bộ quần áo trên mắc. Dưới chân vách, một rổ khoai củ to nhất cỡ ngón chân cái…
Tôi run rẩy bước ra khỏi gian buồng mà thời thơ ấu đã thuộc từng xó xỉnh, từng chui xuống gậm giường chốn nấp. Tôi không đến bên bàn ngồi xuống chiếc ghế ghép bằng than tre để chờ Nụ mà đi thẳng ra vườn rau. Trên mặt luống đất vằm nhỏ, những cây cà tím đang chờ vào hốc. Tôi cầm lên tay những cây cà, ngắm bộ rễ non tơ và nhớ đến món cà bung tra tỏi, lá lốt ăn thay cơm tối.
Từ nhà Nụ về, tôi thấy mẹ ngồi bên thúng thóc đặt cạnh cối xay. Tôi sà vào với mẹ và đặt tay vào thúng thóc. Những hạt thóc lạo xạo bốc lên mùi hôi ẩm. Tôi nghiền mấy hạt thóc trong lòng bàn tay bằng ngón tay cái. Vỏ trấu và hạt gạo vụn nát. Chắc chắn là thóc lưu cữu từ vài ba năm trước, ngữ này tỉ lệ gạo không thể hơn bốn nhăm phần trăm.
- Mẹ vay ai thế? – Tôi hỏi và nhớ đến thím Thấn.
- Của cô Liên mẫu giáo đấy. Cũng lãi nhưng nhẹ hơn – Mẹ tôi nói.
Sao mẹ lại vay? Con sẽ đong gạo chế độ cơ mà.
Mẹ tôi như bừng tỉnh, vỗ tay lên cạp thúng.
Con không nhắc đến đong gạo thì mẹ quên chuyện. Con xuống bến một lúc thì chú xã đội lại chơi. Chú ấy bảo chế độ gạo xuất ngũ bây giờ trả bằng tiền, giá trăm tám một cân. Cứ như chú ấy tính thì ba tháng Chính phủ trả bằng tiền chỉ đong được nửa tháng giá chợ.
Ngừng một lát, mẹ tôi nói tiếp, giọng trầm xuống:
- Mẹ đã tính nếu được đong gạo thì san cho bên nhà một nửa, đỡ ngày nào hay ngày ấy. Nhưng nếu thật phải lĩnh tiền thì chẳng được mấy nả. Bên ấy ngày càng neo bấn. Vụ chiêm rồi lúa tốt đấy nhưng ruộng ít lại đông miệng ăn. Gặt xong buông liềm coi như trắng tay vì phần cờ đỏ thu tại ruộng, phần chủ nợ thu tươi ngay trên sân.
- Tôi nhớ đến gian buồng trống không, lá cót cuộn tròn, cái lải sành không nắp. Tôi nhớ đến khuôn mặt nhợt nhạt, cái dáng đứng như bết vào góc tường và vầng trán vã mồ hôi khi vung cuốc trên luống cà.
Con xay ù hộ mẹ nhé. Mẹ sang bảo cái Nụ xuống nhà thím Thấn mà lấy thóc. Thím ấy gạt một tạ đến màu thành một tạ sáu bảy cân. Như thế cũng còn nhẹ hơn nhiều ngõ khác. Phải bảo nó xuống lấy ngay không xóm dưới họ lấy cả, ngày mai thím ấy lại lo cưới con gái – Mẹ tôi nói thế rồi sải bước ra ngõ.
Tôi bưng thúng thóc đổ vào lòng cối và mắc chàng xay vào tay cối. Cối xay quay tít. Tiếng cối xay “ù… ù” đan vào tiếng ngỗng kêu “ken ket…”, “ù… ken…két…”.
Ngày tháng ba thật dài. Nhưng dù có dài bao nhiêu rồi cũng phải tối. Tối đậm, tôi và Nụ ra ủy ban xã để trình giấy tờ xuất ngũ của tôi. Đường làng vắng ngắt. Hai bên đường khá dài mái nhà nhưng thoảng mới có ánh đèn hắt ra đường. Có lẽ tôi và Nụ là hai con người duy nhất có mắt trên đường làng trong đêm tháng ba.
Ngày mai hoặc ngày kia trình giấy cũng được – Tôi bảo Nụ và quyết định rủ em đi dọc đường làng. Đi thế, để thỏa mãn cái chớt đến ngồ ngộ: tận hưởng vẻ tĩnh lặng của đêm quê giữa kì giáp hạt, sau đó là vì lâu tôi mới được đi bên em trên đường làng. Cuối đường làng có lối rẽ lên bờ đê. Trên bờ đê có nơi khuất gió, ngày xưa, cả bây giờ nữa, trẻ chăn trâu thường tụ tập.
Nhưng còn các em ở nhà. Chúng nó sẽ đùa nghịch, đánh cãi nhau thay vì học – Nụ nói. Tôi trá lời bằng cách cầm tay em. Sắp đến cổng ủy ban, tôi kéo Nụ bước nhanh hơn. Hai đứa lướt qua cánh cổng mở rộng. Vào đây sẽ giải quyết được gi nào? Cái thiết thực là con dấu để mua gạo thì đã trả bằng tiền. Chế độ: chắc chắn sẽ được nhận một sào khoán sản. Chứ việc ưu tiên ở đây xin đừng có mơ nếu không có “chân rết” vây cánh ở làng.
Chúng tôi dừng bước bên một gốc phi lao. Trước mặt hai đứa là bãi ngô. Sau bãi ngô là dòng song. Con song Trà khá rộng chảy qua làng tôi màu hanh hao êm ái như dải lụa uốn lượn, uốn lượn… Vậy mà chỉ chớm mùa mưa bão,sông thoắt biến hình cuồn cuộn, cuồng nộ như con thủy long lao đi chinh chiến với biển cả.
- Đầu tháng tới là có ngô ăn rồi – Tôi nói để có chuyện vì hai đứa im lặng đã lâu lâu.
- Vâng – Nụ đáp và nói lảng – Ngày kia đám cưới cái Len đấy.
- Anh biết rồi. Cái Len con thím Thấn sắp “chống cười”.
Nụ trở lên sôi nổi:
- Đám cưới con gái Bí thư lấy con trai chủ tịch xã sẽ to nhất làng cho mà xem. Chú Thấn chuẩn bị hơn tạ lợn. Nhà trai chắc phải gấp đôi. Trong món đồ dẫn cưới có ba chỉ vàng, trong hôn lễ có dàn nhạc sống, chụp ảnh.
- Thế còn chúng mình? – Tôi buột miệng hỏi đùa.
- Thế anh đã chuẩn bị được gi nào?
Nụ hỏi thế, giọng điệu rất chi là vui nhộn, vậy mà tôi chết lặng.
Chuẩn bị được gi nào? Gian buồng của mẹ trống không, lá cót cuộn tròn, không có mùi thóc gạo, lũ chuột rúc lên cắn mái rạ. Chăn, màn, giường, gối, thuốc lá, pháo, cơm cỗ… trông vào đâu? Hay là trông, là chờ vào cô mẫu giáo, vợ chú Bí thư?... Chiếu nay, mấy mẹ con đã bưng lên tay bát cơm của thúng thóc vay theo lãi suất “tình cảm”, một tạ đến mùa thành một tạ sáu mươi kí. Chiều nay mẹ tôi và mẹ vợ chưa cưới rủ nhau đi cắt cỏ bán kiếm mấy trăm bạc phòng thím Thấn nài ép thì có đồng đặt đĩa bữa cỗ cưới…
“Lung tung… nghĩ lung tung… Vợ chưa cưới hỏi về việc cưới mà nghĩ lung tung… ê… ê… xấu xấu…” - Tôi nghe hình như dòng sông trước mặt nói thế. Tôi đành chốn tránh sự thật bằng hài hước, vui nhộn giống như hôm nào lình đói bàn chuyện cãi nhau về cỗ bàn, món này, món kia, ngon, dở; giống như trên sạp trong hầm chốt toàn con trai luận chuyện tán gái, đùa trò ôm yêu…
- Anh chuẩn bị đủ ráo cả rồi. Anh sẽ cưới em ngay bằng… bằng… - Tôi nói thế và ôm ghì Nụ vào lòng mình. Đôi môi, cả toàn thân em nóng bừng run rẩy.
- Thoắt thôi, vẫn trong lòng tôi, toàn thân Nụ lạnh toát, run rẩy nhiều hơn. Hai bàn tay và cả khuôn mặt em vã mồ hôi.
- Cưới nhau nhé? – Tôi lại đùa khi trên đường về Nụ đã vui lại.
- Ừ! Thì anh cưới đi. Chúng mình cưới nhau tức là góp thêm vào cuộc sống làng xã một sự kiện tuyệt vời.
Những sự kiện nào nữa? Có thế người vợ chưa cưới của tôi nhận định chưa chuẩn lắm nhưng đang vui và em vội chữa “làng xã” thành “tháng ba” nên tôi đồng ý với Nụ rằng: vài tạ thịt dùng trong cỗ cưới “ chạy bung” con gái Bí thư xã là một sự kiện; tờ lịch treo tường báo ngày tháng của những năm cuối thế kỉ hai mươi nhưng đa số dân làng phải sống, phải lo như đồng bào mình những năm đầu thế kỉ cũng là một sự kiện.
Một chiếc lá to bay qua mặt tôi rồi đậu xuống mắt đường. Cái lá bay đậu vô tình khiến hai chúng tôi cùng hướng mắt lên khoảng không trước mặt. Nhanh thế! Mới ở trên đê bây giờ đã gặp cây gạo cổ thụ giữa làng. Trên vòm cây, những bong gạo lặng lẽ chờ nắng đầu hạ để nở bung, để bay bay. Hoa gạo nở độ tháng ba. Tháng ba dân làng tôi tứ tán tìm cái ăn, tìm đến đám địa chủ mới đợi mùa…
Anh này! – Nụ kéo tay tôi đi tiếp – Sáng nay tụi em tổ chức dựng rạp giúp nhà gái. Rạp rộng kín nửa vào sân gạch nhá. Trong lúc làm, thằng con thím Thấn nghỉ phép cưới em gái cứ bô bô kể rằng xuống ga phía Nam nó gặp người làng mình đi ăn xin. Nó xấu hổ quá vội lỉnh đi, bỏ dở bát phở bò tái. Mấy ông bà cán bộ xã, huyện, chờ ăn cỗ dựng rạp, nghe kể vậy ai cũng cười tít. Nếu không nghĩ đến tình bạn và hoàn cảnh cái Len thì bọn em bỏ về ngay.
Tôi im lặng từ lúc ấy đến khi chia tay vợ chưa cưới, tôi cứ tự hỏi mình: chuyện con trai Bí thư xã ủy kể trong buổi dựng rạp cộng với những người nghe cười tít phải chăng là một sự kiện nữa?
Hôm sau, trong lúc cuốc vườn, mẹ tôi kể thím Thấn chưa gạt thóc cho nhà Nụ vay vì còn phải đi canh đám thợ kim hoàn đánh dây chuyền vàng cho con gái. Cũng đã có người đỡ cho vài thúng thóc, nhưng buổi chiều, mẹ Nụ sẽ xuống xóm dưới để vay thêm với tỷ suất một gấp đôi, tính mốc là mùa gặt tới.
Những ngày sau đó, cả hai nhà có sự chuyển hướng làm ăn. Mẹ tôi, mẹ vợ và vợ chưa cưới của tôi đi xúc tép, mấy đứa lớn đi cắt cỏ bán cho đám xe bò bến than. Đứa em út của Nụ hơn năm tuổi bị nhốt trong nhà hết gào khóc lại bi bô: “ữ… i… à… cái chống cối, ữ… o… à… cái… ung… ồi… khoai”. Có lần nó hát “Xuyền xan ại ậu ến xan, thấy em dất dả ơ hàn anh ương”. Lời hát ấy chắc là đám xe bò dạy lũ trẻ cắt cỏ, lũ cắt cỏ dậy thằng bé bị nhốt trong nhà.
Hơn bốn mươi tám giờ trôi qua, trong suy nghĩ và bàn tay tôi ráo riết hoàn tất một kế hoạch làm ăn. Khi cái riu tép, “con vịt” tre, sang đãi – tất cả là dụng cụ kiếm ăn buổi sinh thời bố tôi – đã sửa chữa chắn chắn bảo đảm cho việc hành nghề, tôi băng qua vườn sang nhà Nụ. Đấy là buổi trưa trời trong, nắng đẹp.
- Tôi và Nụ ngồi trên bậc cửa hướng ra sân. Trên sân lô xô mấy đụn cỏ phơi khô thay rạ đun bếp.
- Nụ này – Tôi vào chuyện, giọng điệu rất “ông chồng” – Anh đã tính kỹ và thấy rằng hai bên nhà không thể trông vào nợ lãi đợi mùa. Hoàn cảnh giống như con voi sa lầy càng giẫy càng lún.
- Ối người tính, nghĩ như anh mà vẫn phải mang nợ chồng chất – Nụ nói, mắt nheo nheo cho như tôi bàn đùa.
- Anh bàn việc nghiêm chỉnh đấy. Em hẳn biết anh sửa cái riu tép…
- Thì em chả giúp anh đưa nó xuống từ gác bếp còn gi.
- Một bơ tép quy ra gạo là nửa bơ. Một buổi đun riu bắt đầu từ mười giờ đêm trước đến năm giờ sáng hôm sau, anh đun em đãi, vừa rui vừa tán cũng cũng được ít nhất ba bơ. Ba bơ tép là hơn ký gạo chưa kể ban ngày làm việc gì đó ví như cắt cỏ bán cũng chắc nửa bơ…
Nụ nhìn đăm đăm về phía trước. Như thế là em đang suy ngĩ về kế hoạch của tôi. Tôi lặng im để em đi đến quyết định cuối cùng. Giây phút ấy tôi lại nhớ đến bố tôi. Sinh thời đêm nào bố tôi cũng đi riu. Người đội riu đi trước, mẹ tôi xách đén “ló” đội sàng theo sau. Con tép đồng bé tẹo vậy mà đỡ được phần nào gánh nặng của gia đình tôi. Trước khi ngộ bệnh, bố tôi còn đun riu trên đồng làng… Tôi hình dung ra cảnh tôi gò lưng đẩy riu trong lòng sông, trên bờ, Nụ đặt sàng sát đèn “ló”, căng mắt nhặt vấn rác ra khỏi mớ tép trong lòng sàng đãi…
- Em không ngại đêm hôm vất vả, nhưng em… sợ… - Nụ ấp úng.
Tôi dồn:
- Sợ gì nào?
- Sợ… sợ… giữa đồng vắng khuya khoắt…
Những tiếng bước chân chạy vội đã khiến Nụ ngừng lời. Em đứng bật lên cùng lúc ngoài ngõ dội vào tiếng reo: “Bố về… A… Bố về…”.Tôi theo sau Nụ đi ra ngõ. Bố vợ tôi đang đi vào, đằng sau, đằng trước là mấy đứa em. Dáng đi của người nặng nề, tấm lưng còng xuống vì gánh nặng trên vai. Một bên vai là gánh nặng, một bên là chiếc khăn vải đã xỉn màu, ươn ướt mồ hôi.
Tôi đỡ gánh nặng đặt xuống thềm. Nụ đã từ trong bếp cầm chiếc rá đi ra ngõ. Bố vợ tôi giật giọng”
- Không phải nấu nướng gì cả. Bố ăn trên đường rồi. Con nấu nước anh uống rồi luộc sắn chia cho các em.
Lát sau, lũ trẻ đã bóc đầy một rá sắn. Những cặp mắt hau háu nhìn rá sắn có củ trắng phau, có củ lốm đốm vàng. Những củ đốm vàng là sắn lưu niên. Năm kia cả tiểu đội tôi say mềm người vì ăn phải sắn lưu niên chứa độc tố.
- Em phải cho vào nắm muối trước khi luộc và nhớ đun thật kỹ - Tôi dặn Nụ thế và xách ấm nước lên nhà.
“Bố vợ hom hem như ngã nước” – tôi vừa đi vừa nhận xét trong đầu như thế. Ông noi:
- Tôi lên Bắc Cạn, chỗ làm năm ngoái anh ạ. Đến nơi may được người quen chỉ nơi khoán đào giếng, đào ao. Ba giếng thơi, một ao thả đều ở sườn đồi đá ong nhưng được cái cơm nuôi, công sá cũng khá. Nhận chỗ rồi tôi đảo về ngay tìm người chứ việc đất đa, thổ mộc một mình khó kham.
- Vâng ạ - Tôi đỡ lời bố.
- Đến ga tàu xuôi, gặp vài người làng mình hành khất, tôi mời họ ăn cơm nắm. Tôi cũng có ý rủ họ đi làm nhưng xem ra sức họ đuối lắm mà mình lại nhận đấu làm khoán
- Vâng ạ.
- Suốt đường về, tôi cứ nghĩ nên rủ anh đi được không. Xem ra bên nhà cũng túng, quanh cùng lại ít việc khả dĩ có bát gạo, đồng công chờ mùa. Đến tối, tôi sẽ sang thưa chuyện với bà. Theo tôi, anh nên đi.
- Thầy cho con nghĩ – Tôi đáp và sực nhớ chưa chế nước ra cốc.
Hai hôm sau, tôi đi ngược cùng bố vợ. Lẽ ra là ba người, nhưng trước hôm đi, người được bố tôi rủ đi – chú ấy cũng là bộ đội phục viên – xin kiếu vì vợ chuyển bụng đẻ. Hành trang của chúng tôi gọn gàng trong ba lô cóc và chiếc khâu từ bao tải loại xác rắn. Vẫn đem theo mấy ký thuốc lào, cá khô, mắm tôm đặc phần làm quà, phần bán đỡ tiền tàu xe, tiêu vặt.
Nơi chúng tôi nhận khoán đào giếng, đào ao cách điểm tự toiowr gần ba năm chừng bảy mươi cây số đường chim bay.
Hoàn thành xong ba cái giếng, tôi ra bưu điện huyện gửi tiền về quê. Phòng trước việc Nụ dành cho mẹ tôi phần hơn, tôi chia món tiền kha khá ra làm ba, hai phần của Nụ, phần còn lại của mẹ. Cô bưu điện ngạc nhiên trước việc hai người nhận tiền có chung một địa chỉ.
Ra khỏi bưu điện, đi được một quãng, tôi gặp hai bác người cùng xóm. Đôi bện mừng đến chảy nước mắt. Tôi kéo hai bác vào quán nước gần đó. Lát sau tôi được biết hai bác cùng lên Na Rì. Một người đến với đứa cháu làm thợ sơn tràng; một người lên chuyển sắn mót phơi khô gửi người quen từ tháng trước. Nhờ gặp hai bác, tôi được yên tâm về nhà tôi, nhà Nụ vẫn bình thường. Như thế là hai mẹ và Nụ vẫn đi xúc tép, bòn đồng. Lũ em lớn vẫn một chiều đi học, một chiều cắt cỏ bán cho đám xe bò bến than. Cậu út vẫn hết gào khóc lại trệu trạo: “I chống cối, o vung nồi…”. Cà tím vườn quê đã cho lứa quả đầu. Lúa cũng khá. Đại diện đầu ngành của xã đang họp phân gạo cứu tế và bàn kế hoạch thu sản vụ tới. Ngày hai bác cất gánh ra đi, việc họp vẫn chưa xong. Nhà thím Thấn cưới chồng cho con gái, mời hơn trăm mâm khách. Đấy là những tin quê quan trọng trong hai mươi ngày qua.
Đưa hai bác ra bến xe rồi tôi trở về với cái ao đang đào dở. Trên đường đi, tôi nhẩm tính thời gian. Như thế là chúng tôi xa quê đã tròn hai mươi ngày. Trong những ngày ấy, chúng tôi đã đào khoán xong ba cái giếng và một cái ao khá rộng đang ở những chục mét khối cuối cùng. Hai mươi ngày đã trôi qua… Như thế tháng Ba chỉ còn hai ngày nữa.
Còn hai ngày nữa là hết tháng Ba. Tháng Ba thương mến ơi! Biết nhắn gì? Biết gửi gì cho tháng
NHỮNG CON RẮN
Lưng chiều. Tư vác dậm đi như lướt trên ngõ. Anh đang vui – Gặp chiều nước cạn dậm một chập đã chấm hom giỏ. Lại nữa, đến đầu ngõ anh đã nghe tiếng dao băm bèo bôm bốp. Như thế là “mẹ nó”đã đầy gánh cỏ đồng xa về nhà. Điều đó báo trước giỏ cá lên chợ con tươi rói, dễ chào.
Nhác thấy bóng chồng vào sân, Na buông dao nhảo về. Chị đỡ cái dậm trên vai anh, đon đả:
- Thầy mình nhanh tý nữa thì gặp cậu với u.
- Cậu Nhãn về phép à? Sao không giữ u với cậu ở lại chơi? – Tư hỏi dồn hàm ý trách cứ.
Na cười phô hàm răng đẹp:
- Rõ chán với thầy mình. Cậu Cẩng chứ cậu Nhãn nào…
- Ừm. Hừm… Tư hừm giọng chặn lời vợ. Anh bực ra mặt. Chưa một lần sở thị nhưng từ lâu anh được nghe nhiều lời đồn đại về cậu Cẩng làng Cọi. Tay thợ đào ếch trong giấc ngủ trên đê. Được thánh báo mộng cho ăn lộc. Giấc tiên đã tâng tay bợm rượu lên hàng Cô – Cậu. Cậu Cẩng đợi lệnh đức Thánh Trần làm việc phúc đức, độ thế cứu dân, trừ ma diệt quỷ… Tiếng tăm cậu Cẩng lừng lẫy khắp vùng.
Na không nói thêm nửa lời. Ngót chục năm chồng vợ, chị hiểu anh hơn ai hết. Thường nhật Tư lành như cây lúa nhưng gặp điều ngang trái anh có họ với Trương Phi.
Na cúi đầu tránh ánh mắt của chồng. Nhưng chị không bỏ lỡ cơ hội được tạo lập bởi kinh nghiệm. Bàn tay chị chậm chạp chọn cá như làm nhịp cho lời nói vừa như kể lể, phân bua:
- Bao nhiêu lời mời mọc, lạy van cậu chỉ lắc. Đến u nói với cậu Cậu xem tướng mặt tôi rồi mới tạt vào vãng cảnh nhà ta. Cậu bảo thế đất nhà ta đẹp. Thầy mình có quý nhân phù trợ. Nhưng động long mạch hướng đông, có tà ám nên làm ăn lúi xúi. Cậu bảo cứ thành tâm rồi cậu kêu Thánh độ trì.
Tư nhấp nhổm ra ý không bằng lòng. Na đón trước tiếng “hừm…” bực dọc bằng cách nhặt lên con cá trên nhỡ.
- Để lại thêm con này nữa. Chứ vài con rô nướng. Thầy mình gỡ nạc cho trẻ thì lại nhắm suông…
Bất thần Na cúi gằm mặt sát đầu gối. Mặt chị vụt đỏ rựng, giọng nói lý nhí:
- Kìa… chỗ cửa.. quần thầy mình. Gớm chết khiếp.
Tư giật nhột nhìn xuống. Anh đứng bật lên trong nỗi ngượng vì sự vô ý của mình.
Mươi hôm sau. Một chiều Tư đi làm về đến đầu ngõ đã thấy chiếc mipha buộc catáp đen dựa bên gốc mít. Nhà anh chưa bao giờ có khách sang đến thế. Tư đang băn khoăn thì Na trong nhà chạy ra. Chị nhìn chồng bằng ánh mắt tươi rói:
- Cậu với u trong nhà. U với tôi van mãi cậu mới nán lại chờ thầy mình.
Tư miễn cưỡng vào nhà. Anh chưa tìm được lời thích hợp chào vị đại diện thánh thần. Cậu Cẩng đã đứng lên cúi người nho nhã.
- Anh Tư đi làm về.
- Vâng. Tư đáp và ngồi xuống ghế cạnh mẹ vợ. Thoáng chốc Tư hoài nghi với mặc cảm bấy nay về những người hành nghề mê tín. Con người đang ngồi trước mặt anh là một đấng thiên sứ có tài tiên tri, giao tiếp âm dương, điều ma cử quỷ. Con người ấy được cả vùng tôn kính là cậu, là Thánh. Dến bà lão chín mươi cũng phải rập đầu một điều cậu hai điều con. Con người ấy không hề giống sự miêu tả của sách báo, phim ảnh. Không râu cằm, ria mép. Không nách tráp, tay ô. Không áo chùng, khăn xếp… Con người ấy – Cậu thánh Cẩng làng Cọi kia mới lịch lãm làm sao. Đồng phục sơ vin.n Tóc chải đầu. Kính trí thức. Nước da khỏe khoắn no đủ… không được giới thiệu trước ắt toàn quốc chắc mẩm cậu là viên chức bậc trung nơi đô thị. Lời ăn tiếng nói tất nhien bội phần hơn nước xuýt đậm mì chính cánh. Con người cậu lồ lộ vẻ mãn nguyện tự tin của kẻ biết thời cuộc đang thuộc về mình, bị mình chi phối. Muốn yên được yên, thích sóng gió khắc có sóng gió.
- Ông Tư này – Cậu Cẩng xưng hô tự nhiên. Trước đó, trong lúc Tư hút thuốc lào cậu đã ném sang anh cái nhìn kẻ cả hàm ý cảnh cáo anh nhà quê quen thói mượn cái điếu thăm dò người lạ - nể lời cụ, cảm tiếng sống của anh chị mà tôi ghé vào chứ công việc chả mấy lúc được thư rỗi.
Bà mẹ vợ cung kính:
- Dạ. Đa tạ cậu…
Cậu Cẩng mủm mỉm, nói ra vẻ không cần ai nghe.
- Chuyện tôi đã nói với cụ và chị. Giờ sẽ nói với anh. Tin hay không tùy tâm. Nhà ta tứ đời vắt mũi không đủ nuôi miệng. Anh chị có tướng đa tài bách nghệ. Nhưng anh chị có tính nghề nào cũng sớm mở chiều dẹp. Của cải lắm phen ngỡ trong lòng bàn tay mà thoắt nhiên tay trắng. Tâm thần cả trong giấc ngủ cũng không yên. Vài lời trót dại, anh nghĩ tôi nói đúng sai?
Tư thần người ra. Rõ ràng cậu thánh đoán mò mà đúng. Đời ông bà, bố mẹ là chuyện hôm qua không nói. Thời hôm nay, ngoài cây lúa, tập thể mở nghề nào vợ chồng anh dốc lòng theo nghề ấy. Rốt cuộc, nghề thì chết vì đủ vòi bạch tuộc tiêu cực, nhũng nhiễ. Có nghề bát cả bát mồ hôi cũng không đủ lửng diều gà. Có nghề, trên kêu gọi làm ngay, làm nhiều. Châu Âu đặt hàng đơn như núi. Ngoại tệ mạnh. Đùng một cái sản phẩm đồ nghề xếp xó như thức ăn dần cho mối mọt. Vợ anh cũng sắm quang gánh chạy chợ. Nhưng chuyens thứ nhất dân phố lừa mất cả sọt. Chuyến tiếp, tiền thuế, tiền chợ gấp đôi tiền lãi. Vợ anh lại hoàn nghề khi đi mò, lúc cắt cỏ bán cho đám xe ngựa bến than. Anh lầm lũi với đánh dậm từ thời cụ tổ làng. Sông xa, ngòi gần. Con cá, con tép. Âu cũng có thu nhập. Của đáng tội bấy nay ở làng có những sang sáng nông nổi. Nhuwnghx chính sách, chủ trương, đường hướng làm ăn… chí lý lắm. Nhưng làm sao vẫn cứ hàng lũ hình nhân ăn trắng mặc trơn, cu thiên xích đế, nhảy nhót múa may trên lưng tấm áo nâu sờn bạc dãi dầu.
Thoáng hồi tưởng làm bật trên môi Tư nụ cười chua xót, mỉa mai. Phận áo nâu khổ từ trong bụng mẹ. Điều ấy đứa đứa trẻ con cũng biết, nói gì thánh. Tư vê mồi thuốc lào dụng ý cho chín thêm những lời khiến cậu thánh bẽ mặt.
Dường như biết điều ấy, cậu Cẩng đặt điếu thuốc đầu lọc xuống bàn. Cùng với ánh mắt bề trên cậu thánh ra giọng mật:
- Biết người có hạn không cứu thì người biết mang tội. Thấy người có lộc không báo người thấy ắt tán tài. Cứ vào tướng mặt anh và đường vân tay chị. Ứng với thẻ quẻ chịu xin hôm qua, nhà ta đây sắp mở nghề phát tài hái lộc.
- Nghề gì vậy? – Tư thốt lên. Trong nỗi kinh ngạc anh thoáng giận vợ. Thì ra hai ngày liền Na bỏ buổi mò đi đến tối mịt mới về. Hỏi thì ậm ừ: “sang làm cỏ giúp dì”.
- Nghề gì à? – Cậu Cẩng mủm mỉm – Như tôi dã nói với cụ và chị sau buổi lễ điện hôm kia.Đang thời âm thịnh dương suy. Âm thịnh thì đồ cúng lễ phải nhiều. Chỉ một cái lễ đã hội đủ tứ nghề. Nghề vàng hương, nghề xáo nếp, hàng gà, hàng mã. Trong tứ nghề phụng âm kính thiên có nghề hàng mà là mau phát, bền lộc hơn cả. Các vị có biết hàng mã Tốc, mã Lủng phố huyện không?
Na và mẹ gần như đồng thanh:
- Dạ. Thưa cậu có ạ.
Cậu thánh Cẩng gật đầu đắc ý:
- Hai nhà ấy cha truyền con nối nghề hàng mã. Cơ ngơi cỡ nhất phố huyện. Phu, thê, đệ tứ một bước là vè vè kích, cúp. Nhưng quân ấy hái lá lộc mà không biết vun gốc tín lễ. Chúng cậy thế độc quyền bắt chẹt dân lành. Chúng dư giả chu du đó đây mà không nửa bước vào cửa cô điện cậu. Chúng tiên tiền như rác nà không đồng bạc, nén hương tiến cửa chùa cung miếu. Tháng trước đi lễ tôi có tạt vào hai nhà ấy. Nhà thì chôn cột an-ten cản phương tài lộc. Nhà thì đôi xà quá có đá hóa tinh. Hai nhà ấy sắp đến ngày mạt vận. Ứng với quẻ thẻ, anh chị nên chớp cơ hội mở nghề hái lộc.
Tư buột miệng:
- Nhưng nghề ấy phạm pháp.
Cậu thánh cả cười:
- Hẳn anh biết lai lịch hai nhà ấy. Nào đã luật nào đụng đến họ.
Ba người chủ nhà đớ ra. Họ im lặng ngầm thừa nhận sự đúng đắn của lời thánh. Mã Tốc vốn là phó phòng văn hóa huyện về hưu.Hàng của ông ở cạnh hiệu sách nhân dân. Mã Lủng là em ông Treo đương chức Bí thư huyện. Ngôi hàng của ông liền vách trạm cảnh sát, bề thế giữa phố huyện không mấy khi vắng khách.
Ba ngày sau. Na đội mưa đi đâu từ sáng sớm. Giữa trưa chị mới trở về. Tựa bó nan nứa, cuộn giấy ngũ sắc vào góc nhà. Chị quay ra với chồng ngồi bó gối hút thuốc lào vặt:
- Cậu dặn hôm nay tốt ngày mở hàng được. Khách xô vía cậu đã xin thánh tìm cho. Giờ thìn mình làm cho tôi đôi ngựa hồng, đôi long đao. Ngựa thế này… Long đao thế này… - Giảng giải một hồi Na te tái xuống bếp quấy hồ.
Ngày mưa, nước lớn cái dậm gác xó. Tư miễn cưỡng mượn việc giải buồn. Anh khéo tay, từng tham gia ban thông tin xã, chuyên kẻ vẽ… Nên việc ấy đối với anh không khó.Tư hì hụi dựng khung, cắt, dán.Đến chiều, ngựa ra ngựa, long đao ra long đao. Na mừng như bắt được vàng. Hai đứa con đi học về thấy lạ mắt cứ quấn quýt quanh món hàng. Xem chán chúng hết đòi cưỡi ngựa lại vác long đao dọa nhau Na phải đe roi chúng mới chịu thôi.
Xẩm tối có tiếng xe máy vào ngõ. Tư thất tán thất hồn. Biết đâu làng xóm thấy láng giềng hành việc phi pháp mật báo công an. Tư toan vơ ngựa nghẽo, long đao nhét vào gầm giường đã nghe tiếng vợ đon đả:
- Hàng của chú xng rồi. Tôi lo lo là. Chỉ sợ chú trễ giờ cậu bấm.
Vợ chồng Tư giúp khách xếp hàng vào bao tải, buộc sau xe máy. Khách vù đi ngay.
Na vặn to hơn ngọn đèn dầu. Chị đặt lên mặt bàn xếp tiền, giọng nói run run:
- Mười tám nghìn thầy mình ạ. Kách khen hàng đẹp, giá mềm thưởng thêm hai nghìn nữa.
Tư lặng người đi. Anh nghe trống ngực dồn như vồ đập đất. Đời anh trong mơ cũng chưa thấy công lao động nào cao giá đến thế. Mà lại nhàn nhã. Không phải lội đồng đến rạc cẳng. Không phải ngâm mình trong nước đến bã bợt da thịt. Không có đàn lũ các loại đỉa bu bấu bòn rút giọt máu loãng… Tư khẽ rùng mình vì một nỗi cảm phục không quá mơ hồ.
Mã đẹp, giá mềm, gia chủ hiền lành… Những tiếng lành đồn xa. Tư – dậm trở thành Tư – mã. Na – mò dần nhường chỗ cho Na – mã. Ở làng quê có thói quen gọi tên người kèm tên nghề như vậy.
Cậu thánh Cẩng phán: “Đang thời âm thịnh dương suy”. Sai đúng ra sao cần phải nhìn đời để mà bàn nghị. Riêng vợ chồng Tư – Na mã bận tối mắt mũi. Những ngày tuần tiết, lễ hội, tết mã tháng bảy, nguyên tiêu, phải nghỉ học phụ giúp. Có khi vợ chồng anh phải mướn nhân công.
Chặp đầu khách hàng chỉ là các con nhang đệ tử trong xóm ngoài làng. Dần dà khách là những bà chuyên nghiệp buôn hàng mã. Họ đặt cọc hẹn ngày đến lấy hàng. Mỗi chuyến vài ba xe thồ. Có khi khách phải thuê xe ngựa mới chở hết hàng. Từ ngày có khách mua buôn nhà Tư – Na mã như một xí nghiệp gia đình chuyên sản xuất hàng âm phủ. Vợ chồng anh không phải tháng đôi ba lần đi chợ mua giang, nứa, giấy màu… Có người hàng xóm xin làm chân cung ứng vật tư. Từ ấy nếu cần vật tư chỉ ới một câu. Mấy tiếng sau xe bò chở hàng về phanh kít tận hiên nhà.
Sau một thời gian lên ngôi chủ xưởng đời sống gia đình Tư - mã được cải thiện rõ rệt. Giầu lên thì chưa hẳn. Nhưng bữa bữa người ngồi đầu nồi đã dịu bớt cơn đau thắt tê tái từng xêu cơm. Mâm cơm thưa dần đĩa cá nát kho tương. Thỉnh thoảng ba ông đồ rau bếp có dịp toe toét dội niêu thịt bụng kho mặn, nồi cá khúc kho riềng. Tháng đôi, ba có khi bốn, năm lần bố con Tư - mã được thụ lộc phật lộc thánh. Na - mã càng năng lên chùa, vào điện quả lộc càng to. Thoạt đầu chỉ là lát oản, quả chuối. Dần dà trong làn Na - mã đi lễ về đã có khi đĩa xôi, miếng thủ, cái cổ gà; khi cả đùi gà, chân giò… Rượu Tư không nghiện. Nhưng rượu lộc anh được thụ luôn. Một điều vợ chồng Tư ngỡ “không bao giờ” đã thoát nổi đến như mơ. Chủ nợ thưa dần rồi vắng hẳn. Món nợ sản lưu cữu trả đánh phắt một tiếng. Đi đâu, ngồi đâu vợ chồng Tư – Na mã đã có được cái đàng hoàng của người không nợ nần.Vợ chồng anh dần có tiếng nói trọng lượng của kẻ đến thời vận.
Bấy nay thời gian đối với Tư - mã là dòng chảy êm đềm qua khung cảnh làm ăn tấn tới.
Cậu thánh Cẩng trở thành khách quý của vợ chồng chủ xưởng hàng âm phủ. Cậu được cả vùng trọng vọng. Cậu đối nhân xử thế bằng phong thái tự tin của người lãnh trọng trách thánh thần ủy nhiệm. Nhưng với vợ chồng Tư, cậu đối xử tự nhiên, bằng vai phải lứa, người trần mắt thịt với nhau. Phải chăng đó là một đặc ân. Đúng quá! Tỉ như việc cậu hết mực lo toan sự làm ăn của họ.
- Ông thấy tôi nói có đúng không? – Cậu Cẩng hỏi. Đấy là buổi tối sau lễ trấn long mạch, trừ tà ám.
Tư – mã chỉ còn biết đáp lại bằng sự im lặng. Tất nhiên sau đó anh luôn lấy câu hỏi ấy làm “điểm khởi xuất những chiêm nghiệm”.
Tư – mã thật lòng biết ơn cậu thánh Cẩng! Cậu đã lướt qua bao nhiêu khẩn cầu, mâm cao cỗ đầy để chui vào mái gianh nát, uống với vợ chồng anh bát nước vối loãng. Đời ông bà, bố mẹ cho chí nửa đời vợ chồng anh một lòng đi theo đủ loại đường hướng làm ăn, chỉ thị, nghị quyết… Vậy mà đói khổ hoàn đói khổ. Ngờ đâu chỉ một lời của cậu thánh cuộc sống gia đình anh biến đổi mau lẹ. Như vạt lúa cằn được bón thúc u rê. Như cơn mưa rào đúng ngày con nước trơ đáy.
Tình ơn, tài phục chưa đủ sức biến Tư – mã thành con nhang đệ tử của cậu thánh Cẩng. Anh vẫn chưa nhìn thấy bằng cứ cậu là vị đại diện cho các thế lực huyền bí. Nhưng vô hình chung nó vỡ đất gieo mầm một thứ tình cảm dầy ma lực buộc Tư – mã nhất nhất y lời cậu thánh.
- Anh nên chạy cái bếp. Cả gian chuồng lợn. Để như thế hại phương tài lộc. Cậu thánh phán như thế trong dịp lễ đoan ngọ năm ngoái. Tư – mã đình việc xuống đi mượn người chuyển bếp. Cái bếp chỉn chu thì bọc hạt đay giống thối rữa.
- Cái giếng chạm long mạch, phải lấp! Để thế tán tài hại thê – Cậu Cẩng quả quyết.
Tư – mã bỏ buổi cày hô vợ con bưng đất lấp giếng.
Vợ chồng Tư – mã lo sắm lễ như pháo thủ lo đạn cho loạt bắn cấp rập.
Sau lễ động mộ đến lễ trấn long mạch.Sau lễ giải hạn là lễ gọi hồn tổ cô. Rồi lễ sao. Lễ bốc bát hương. Tư – mã hì hụi đóng một lúc bảy cái giá để vợ đặt mười ba bát hương xin cốt cửa điện cậu thánh Cẩng.
Một đêm đã khuya lắm Na – mã mới đi lễ về, Tư – mã bị vợ gọi dựng dậy:
- Cậu bảo phải bán ba con bé vào cửa điện. Chúng đẻ giờ ấy, ngày ấy mình sao số nặng lắm. Phi cửa phật điện thánh không ai trông nom nổi.
- Thì bán – Tư gật đầu trong cơn ngái ngủ.
Hôm sau sang điện cậu Tư mã đớ người ra. Nhà Lẹp sắm một lúc bảy cái lễ bán cả bảy đứa con cho các ngài. Anh em nhà Mai, Cuốc nợ nút đầu cũng sắm lễ bán con. (Sau này Tư – mã rất áy náy về việc này. Đã laf con thánh cháu thần mà việc dạy dỗ chúng vẫn bội phần vất vả. Chúng vẫn học dốt, lưu ban. Chúng vẫn mắt toét, thối tai, cam sài, bụng ỏng… hệt như đám con thánh thần không ai dòm ngó đến.)
Sau lễ… đến lễ… Tư mã vã mồ hôi vì lo vì sợ. Cái hòn đá cạnh gốc đa cuối xóm bấy nay là nơi trẻ buộc trâu bỗng dưng hóa hòn đá thần linh. Cây đa cụt ngọn bây giờ là nơi trú ngụ của tiên cô, tiên cậu. Phải xây phải điện cho các ngài. Người dứng chủ việc này, như quẻ thánh đã chỉ đích danh: Bùi Thị Na, tuổi tỵ, xóm Vũ.
- Để tôi nói cho anh nghe – Bà mẹ phủ đầu người con đang băn khoăn – Một người nói thì anh không tin, gàn việc ấy là phải. Nhưng cậu Đút chùa Hang. Cô vào đền Banh. Rồi lời thầy Tông dưới Ba Bướn. Mấy nơi đều y một lời. Cửa nào cũng bảo vợ anh hồng phúc có quý nhân phù trợ. Gốc đa, hòn đá thần cho ai đứng chủ lễ phải theo. Không các ngài phạt cho khuynh gia bị sản chả chơi.
Na – mã dúi vào tay chồng tờ giấy:
- Thầy mình đừng lo. Thầy tính cả rồi. Việc xây cất mình không thạo. Nên gửi cái giấy này để thầy mình lo mua vật liệu.
Tư – mã lướt qua tờ giấy. Anh thất kinh. Bấy nay dốc sức đảm ngôi chủ xưởng và mấy sào ruộng khoán anh mù tịt tình hình. Cứ vào danh sách hằng sản xóm Vũ có tới tám chục phần trăm số hộ là con nhang của ậu thánh Cẩng.Các xóm khác tỷ lệ cũng sít sao. Anh lẩm nhẩm cộng trừ. Vôi, gạch, trang trí, bát hương, đồ thờ… giá tối đa. Vẫn có lãi. Lãi to là khác.
- Thầy mình nghĩ gì mà thần ra thế? Na – mã thì thầm – Hôm sắm lễ, cậu dặn mình cứ mạnh tay vào. Các tín chủ phải đóng chứ. Không thiệt mình đâu.
Ngày đinh thìn tháng quý ngọ hạ móng điện gốc đa cụt. Cậu thánh Cẩng khấn vái đặt viên gạch đầu tiên. Bỗng trưởng công an xã vù xe đạp đến. Tư – mã hết hồn lỉnh vào bụi cây. Bất thần bà chủ nhiệm trong đám phu hồ nhảy cầng cẫng, xỉa tay vào mặt trưởng công an:
- Này này… trần sao âm vậy. Ông chớ có hàm hồ làm việc thất lễ. Các ngài giận thì cái mái bằng nhà ông cũng bốc hỏa. Chớ có nói chơi.
Bà vợ trưởng xóm dịu dàng hơn. Bà kéo trưởng công an ra một chỗ. Cậu thánh Cẩng cũng tiến lại. Ba bên rì râmf đối thoại. Lát sau trưởng công an vù xe đi. Ngờ đâu, buổi trưa ông đến thăm xưởng hàng âm phủ. Ông đặt mua đôi ngựa tía, đôi long đao, đôi súng ngắn. Nhân thể đặt cho ông chủ tịch đôi cúp đời chóp, đôi ca táp. Đều để góp phần dâng lễ mở cửa điện cây đa.Tất nhiên, y lời cậu Cẩng dặn trước, Tư – mã chỉ lấy tiền cho có khước. Dịp lễ điện Tư - mã kiếm được món kha khá.
Sự làm ăn phát đạt của mình nhiều khi khiến Tư – mã chạnh lòng nghĩ đến cảnh mạt vận của đám đồng nghiệp phố huyện. Lòng trắc ẩn xui anh làm một hành trình. Vả lại, dễ năm dài anh không có dịp xuống phố huyện.
Thoáng qua hai gian hàng Tư – mã bàng hoàng nghi ngờ cả đôi mắt vốn tinh anh của mình. Sau vài giây định thần thì thật sự là không thể chối cãi được. Té ra xưởng Tư – mã chỉ đứng hạng bét chuyên sản xuất đồ tầm tầm, bình dân. Trong hàng mã Tốc, mã Lủng, bên cạnh mặt hàng truyền thống bày la liệt của nền công nghiệp hiện đại. Ô tô von ga, La đa, Tô ky ô ta cho đến xe tải cỡ lớn. Kích cúp đủ loại xếp hàng cùng máy bay, súng lớn. Cuối phố huyện, bên cạnh nhà văn hóa, mọc thêm xưởng mã mới. Hỏi ra Tư – mã biết chủ xưởng là ông Rụ, viên chức cấp tỉnh hồi hưu. Háng mã Rụ không bề thế rực rỡ nhưng cực kỳ tinh sảo chứng tỏ sự điêu luyện tay nghề. Com lê, quân phục, phù hiệu, hộp con dấu, sách báo, nghiên bút… Thứ nào cũng tuyệt xảo.Người kém mắt thoáng qua khó thể tin đấy là sản phẩm chế tạo bằng tre nứa, giấy màu, hồ bột. Sự ăn nên làm ra của đối thủ không làm Tư – mã buồn lo. Trái lại anh phấn khởi ra mặt. Đó là dấu hiệu “cung” cõn xa mới đáp ứng được “cầu”. Nền công nghiệp hàng mã có một tương lai cực kỳ sáng sủa.
Hỡi ơi! Đó cũng là biểu đồ một thứ lòng tin nơi thôn dã.
Đời sống gia đình Tư – Na mã được cải thiện rõ rệt. Hẳn rồi.
Na – mã là người khởi xướng những thay đổi trong mái gianh nát. Cho nên con người chị có những biến chuyển đậm nét, sâu sắc hơn cả. Na – mã không còn “biểu diễn” những cơn cáu gắt, hò hét, tay choi chân dậm trước những sự trái mắt mặc dầu vô lý hay hợp lý. Sau ngày mở xướng (như quý bạn đọc đã biết). Chị đoạn tuyệt với nghề mò gia truyền. Đường quê vắng đi đôi chân te tái chợ sớm, chợ chiều, mớ tép, xóc cua đồng.
Khi con người ta được vợi bớt tảo tần, không canh cánh nỗi lo từ hạt gạo, củ khoai; khi sau bữa ăn không phải thít dây quần, bát cơm thi thoảng có hơi thịt ,mùi mỡ… Thì ai trẻ xinh sẽ bền lâu xinh trẻ. Ai đã qua thời trẻ xinh cũng cơ may vãn hồi chút đỉnh. Na – mã dần trọn cơ may ấy.Nước da chị bớt dần màu đen đúa, trăng trắng hồng hồng trở lại. Cặp mông mây mẩy lại như mông bò cái bóc bê gặp mùa cỏ mật. Đôi vú căng căng trồi trồi như hai cái hom vịt te tép. Đôi mắt dần hết lử nhoét lúng liếng sắc giòn trở lại. Sau ngót chục năm quên mất bóng mình Na – mã đi chợ mua chiếc gương to về treo góc buồng. Vào tuổi hồi xuân Na – mã hây hẩy như con sề bóc con đến thì thả nước.
Tài lộc đến với mái gianh càng thôi thúc Na – mã năng đi chùa chiền lễ bái. Điện cậu Cẩng tháng đôi ba lần Na – mã sắm lễ bươn bả xuất hành từ trưa. Chùa chiền, điện miếu quanh vùng dần dần nơi nào cũng có Na – mã thành tâm “nhang-đăng-tửu-quả-thực - cốc” dâng tiến cầu phúc, xin lộc. Có chuyến đi lễ xa nhà vài ngày, có chuyến cả tuần, mươi ngày.
“Phải là việc tối hệ trọng thế nào người đàn bà mới đành xa chồng, xa con như thế”. Tư – mã nghĩ vậy nhưng không sao bứt nổi lo âu. Những thông tin đài báo, những lời đồn đại về tư cách các thầy, các cậu thánh khiến Tư– mã lắm đêm mất ngủ. Nhưng đó chỉ là những lo âu ban đầu. Và nó dần biến mất nhờ những chiêm nghiệm rất đàn ông.
Hơn mười năm chung sống, có với nhau ba mặt con gái, Na – mã vẫn còn là Na – cỏ, Na – mò của Tư – dậm ngày xưa. Sau mỗi lần lên chùa sang điện về đôi mắt Na – mã hừng hực một niềm tin thành kính. Tư chợt nhớ hôm nào.
Buổi tối các bà, các cô tập trung bàn sắm lễ dâng điện cậu Lỗ bên Ba Bướn. Tình cờ đài phát câu chuyện: “Ôi! Lạy thánh…”. Đại ý lễ lạt sơ suất thế nào mà thánh phạt cậu lôi nữ tín chủ vào gầm bàn thờ… Thế là các bà nổi đóa lên. Bà nhảy cầng cẫng. Bà vung tay xỉa xói cái đài.
“- Tôi mà biết mặt thằng con nào chế tạo cái chuyện ấy thì tôi kẹp cho vỡ đầu”.
“- Cha tổ quân thất lễ! Cha tổ lũ báng bổ. Sao cũng có ngày các ngài vật chết tươi đành đạch…”
Nhanh tay lắm Tư – mã mới chặn đứng được hành động “ném tổ nó ra sân”. Cái đài lắp cũ mèng cũng phải tiền nghìn. Phải có niềm tin cổ vũ thế nào “đám các mẹ nó chi ly từng hào bạc, mớ rau” mới dũng cảm đến thế.
Dần dà Tư – mã quen với cảnh “vắng đàn bà quạnh bếp”. Thỉnh thoảng Tư – mã ngồi bó gối mủm mỉm chiêm nghiệm khám phá của một đấng mày râu. Sự quen được kia là nhờ có “sự ấy”. Sau mỗi chuyến đi hành lễ xa về Na như trẻ lại, xinh hơn, gì…gì…hơn. Một cảm giác tuy chưa xưa cũ nhưng đang chai nhàm trong anh bỗng râm ran mơi mới đến lạ.
“Cứ như ý tứ mà suy…”. Cái gì đã manh nha ắt dần rõ hình hài. Các thánh có thánh bao nhiêu, con nhang tín chủ thành tâm đến mấy cũng bị chi phối bởi quy luật cuộc đời. Thoạt đầu là những lời xì xào, cái nhìn khang khác của dân làng. Tiếp đến là lũ trẻ nghêu ngao hát vè: “Lẳng lặng mà nghe… Cái vè thánh Cẩng. Tiếp nữa là nước da, cặp mày, những tiếng ọ ọe của Na – mã. Sau rốt đến Tư –mã. Anh cắn răng, rắp tâm.
Ngày rằm Na – mã đi lễ điện cậu Cẩng khuya lắm mới về đến nhà. Thấy chồng vẫn ngồi bó gối ngoài hiên Na – mã giòn giã:
- Thầy mình chưa ngủ à. Qua giờ tý rồi còn gì. Cửa cậu hôm nay đông ơi là đông. Lộc thánh của thầy…
- Này thì lộc thánh – Tư–mã rít qua kẽ răng. Cái tính “Trương Phi” thoắt đập tan kế hoạch kiên trì đến nhẫn nhục. Tư – mã bật lên. Một tay anh vớ làn lộc thánh anh ném ra sân, tay kia quấn tóc vợ lôi vào bếp. Dù đang cơn lôi đình Tư – mã vẫn con chút tỉnh táo. Anh co chân đá sập cửa bếp “cách âm” tiếng lu loa phá giấc xóm giềng.
- Cô bôi tro trát trấu lên mặt bố con tôi. Tư gằn giọng đẩy vợ suýt đập đầu vào tường.
Sau giây phút kinh hoàng Na – mã định thần được. Chị chắp tay lẩm bẩm:
- Nam mô a di đà. Xin cho tín chủ con là… nhập bất kỳ…
- Câm mồm! Bố thánh cũng không nhập đồng nổi thằng này – Tư gầm lên. Anh lao lại góc bếp vớ cái chày giã cua vung lên – Mày nhìn cái bụng. Mày nghe dân làng…
Nhanh chân Na – mã nhảy vào ô bếp chứa rạ. Cái chày trong tay Tư – mã hụt đích đập vào chạn bát. Bát đĩa vỡ loảng xoảng. Lút trong rạ Na – mã không dậm châm được nên sức lực dồn cả cho tay xỉa, miệng gào:
- Rượu lộc nốc cho đẫy vào rồi hành hạ con này. Anh nghe ai cứ bảo tôi xé xác nó ra. Tôi bảo cậu làm sớ nộp cho thánh phạt quân điêu toa ghen ăn tức ở chết hộc máu tươi, hạn ba đời cha tội, ba đời con…
- Câm mồm.
- Anh im đi thì có. Anh nghe ai xúc xiểm? Không có cậu với thánh thì đói rã họng cả nút. Anh nghi ngờ? Thế ai xui tôi đi tháo vòng chui? Ai bắt con này đi xoa đầu đá cô, đá cậu? Ai xin cậu bốc bát hương cầu con trai.Hả… Na – mã gục mặt xuống đống rạ, bật khóc hu hu.
Tư – mã đập cửa lao ra sân. Anh như tên bắn vào nhà. Ngựa xe, mũ áo, hài hán, phướn cờ, ngai kiệu, kích, cúp… cho chí đồ nghề, bát bột… Tất tật Tư – mã vơ ném vào sân. Đang cơn “Trương Phi” anh vớ cái đèn ném theo.
Giấy, nứa bén lửa cháy phừng phừng. Thuận gió lửa bén vào đống rơm. Lửa rơm ngùn ngụt. Kẻng báo hỏa dồn dập.
Vài ngày sau đêm hỏa hoạn Tư – mã sắm cái dậm mới. Anh đi nghề từ tinh mơ đến tối sẫm Tư không ngó ngàng gì đến vợ. Đêm đêm anh bó gối làm bạn với cái điếu, cút rượu, trái ớt, quả sung.
Cho đến một đêm. Khuya lắm Tư vẫn ngồi góc hè với cút rượu, chùm sung. Trong bếp, Na đi ra phủ phục trước mặt chồng:
- Tôi chót.. Xin thầy mình tha…
Tư vẫn ngồi như hóa đá.
Na bưng mặt hầng hậc. Nước mắt chị ướt đầm gối quần thâm đất tã tàng, ròng rơi xuống mặt hè nứt nẻ. Đã bao đêm vật vã, đã bao nhiêu nước mắt Na vẫn không sao thoát khỏi sức ám ảnh đêm lễ điện rắn thần.
“Mười hai giờ đêm mới xong lễ bốc bát hương. Các con nhang ra về. Chỉ còn Na – mã nán lại giúp cậu dọn dẹp. Cậu thánh hạ mâm lễ mời tín chủ thụ lộc. Hai chén… Bốn chén. Cậu thánh Cẩng hạ chén thắp thêm tuần hương. Bó hương vô ý làm tắt ngọn đèn. Na – mã đang quờ tìm bật lửa thì cậu vấp ngã đè lên. Trong chếnh choáng hơi men Na – mã gắng sức ngồi lên. Nữ tín chủ thành tâm đành bất lực trong cảm giác có con rắn lông lá đang xâu chặt hai khối thịt ngùn ngụt hơi men… Đó là lần đầu tiên nhưng không phải là duy nhất cuối cùng…’
Cuối cùng Na cũng kìm được nước mắt. Chị nhìn chồng đau đớn:
- Thầy nó cho tôi về với u. Ngày mai các dì đưa… đi viện…
- Thôi đi! – Tư quát chặn lời vợ. Giọng anh đanh vút nhưng không chói chát – Đừng có nói đến việc thất đức. Các con, việc nhà bỏ cho ai?
Na òa khóc. Trong nhà, lũ con giật mình, thức giấc. Con chị bế con em đi ra.
Sau buổi đi mò Na trở dạ. Tư hớt hải lấy võng cáng vợ xuống trạm xá làng. Lúc ấy trời sắp tối mưa lâm thâm. Gió hây hẩy.
Mười giờ đêm. Sau mấy tiếng đồng hồ xoay xở bà bác sĩ mới lập được giây phút tuyệt vời cho cơn vượt cạn của người đàn bà. Trong cảm giác đau đớn đầy nhẹ nhõm Na ngây ngất chờ tiếng khóc chào đời. Nỗi nhục nhã ê chề không dễ gì gột rửa. Nhưng bản chất người mẹ, chín tháng mang nặng đẻ đau giúp người đàn bà vượt lên hết thảy cho bình an giây phút hài nhi cất tiếng “oa…oa” chào đón cuộc đời. Cùng lúc với cảm giác hụt hẫng nhẹ lâng, Na nhổm người, căng mắt nhìn xuống phía bác sĩ. Chị rú lên kinh rợn, ngã vật xuống nền nhà loang máu cơn vượt cạn.
Ngoài hiên, nghe tiếng hét Tư xô cửa lao vào. Thoáng nhìn bàn sản phụ Tư hộc lên một tiếng đau đớn. Anh nghiến răng, cầm cập cúi xuống cùng bác sĩ vực Na lên bàn.
Cô hộ lý gói ghém xong cái hình nhân quái dị bằng tấm vải xô. Chụp cái nón lên đầu cô run rẩy đi ra.
Ngoài trời mưa nặng hạt hơn, gió mạnh hơn. Đêm đang vào khuya khoắt.
Vài tuần trước khi câu chuyện trên có may mắn đến với các bạn Na phải chuyển viện. Thể trạng, tinh thần phụ sản có những biểu hiện không bình thường vượt quá khả năng trạm xá làng. Bây giờ Tư – dậm gạo bị củi bó phục vụ vợ nằm bệnh viện huyện. Ngoài đồng lúa nhà anh có thửa chín rục gặp mưa lác đác bật mầm. Ruộng giống như chưa cày vỡ.
Hình như dân làng coi chuyện nhà Tư – Na xảy ra đâu đó ngoài hành tinh này. Ngày rằm, mồng một các con nhang, tín chủ vẫn nườm nượp đi lễ. Cậu thánh Cẩng vẫn bình an vô sự, thong dong mi pha, ca táp, chuông mõ, sớ trạng… đi hành lễ cho bàn dân thiên hạ. Đâu vài ngày trước cậu thánh giải hạn cho nhà Cuốc-te, láng giềng của Tư – Na. Đàn lễ bày giữa sân. Cậu thánh ngồi thiền, tay chuông, miệng sớ oang hết cỡ giọng:
“Việt Nam quốc. Thái Bình tỉnh. Tiền Hải huyện. Lăng Vu tổng.
Hợp đồng gia đẳng. Cẩn dĩ phò an. Cảo chiêu cáo vu… Kim tiền tín chủ Mai Như Cuốc. Thê Thân Thị Trê…”
Cheng…eng…cheng…
Đấy! Không có thánh thần bảo trợ, không có điểm tựa niềm tin như bàn thạch thì ma nào bảo lãnh cho tay thợ đào ếch đàng hoàng hành nghề như vậy.
MỘT NĂM LÀM VỢ
Vào một đêm trăng sáng trên bờ đê bên bụi tre chắn sóng, tôi trở thành đàn bà. Tôi vật vã trên lằn ranh cảm giác bị cưỡng bức và dâng hiến. Hôm ấy tính theo dương lịch tôi tròn mười chín tuổi. Bây giờ người ta gọi là ngày sinh nhật. Tôi khóc. Toản gạt lá tre bày bọc kẹo như làm lễ, dỗ dành.
Trong việc tôi và Toản yêu nhau, gia đình tôi chia làm hai phe. Mẹ tôi, vợ chồng anh cả cho rằng tôi lấy Toản khác nào chuột sa chĩnh gạo. Nội cái tiếng dâu trưởng dòng họ Ðào Ðức đã là mơ ước của bao nhiêu gái làng. Nhà người ta như thế, về làm dâu chỉ việc ăn với đẻ! Chị dâu tôi chua thêm: "Bây giờ đẻ cũng phải theo luật, ít con càng sướng em ạ". Bố tôi đơn phương một phe. Ông vận dụng phép xem tướng và thiên về phê phán. Ðàn ông mỏng môi, dẻo lưỡi, con mắt chảo chớp là mưu xảo lắm! ở tuổi hai nhăm Toản thiếu chất sôi nổi thanh niên nhưng thừa cung cách kẻ phú gia lọc lõi. Xem ra phe nào cũng có cái đúng. Tôi thực sự hoang mang. Ðúng lúc ấy anh hai có thư riêng cho tôi. Anh phân tích, góp ý đúng chín cái gạch đầu dòng. Rồi anh kết luận: "Anh tin út không mù. Hơn người hay không ở chỗ cầm cương con tuấn mã bất kham". Ông anh sĩ quan hải quân thế mà hóm. Toản cầm tinh con ngựa mà.
Ðám cưới ấn định ngày mùng sáu, rước dâu lúc một giờ.
Ðêm mùng năm bạn bè tôi đông đủ. Anh chàng Hưởng chỉ hai hào rượu là say cả chấy bị ép trăm phần trăm cốc tàu. "Hưởng ơi! Na! đi lấy chồng, người vui nhất là cậu. ". "ừ! Vui nhất.". "Này! Cạn cốc này vì hạnh phúc bạn bè.". "Nào! Vì hạnh phúc bạn bè.". "Na đi lấy chồng thì cậu say. Bao giờ cậu lấy vợ thì Na say". "ờ! Say đi! Bao giờ Na bỏ chồng thì tớ lấy vợ. Thề đấy". Không có hơi men trong những lời bạn bè. Tôi cạn cốc vì nỗi buồn khác. Ngày mai tôi đi lấy chồng. Biết bao giờ được đông đủ bạn bè, được vui buồn như đêm nay?!
Mùng sáu là ngày hoàng đạo. Một giờ "con sáo sang sông".
"Cười như anh khóa hỏng thi. Khóc như cô gái sắp đi..." Biết thế mà tôi không cầm nổi nước mắt. Phấn son nhòa vào nước mắt loang lổ khăn mùi soa. Ði qua người đón vía thợ ảnh bắt tôi phải trang điểm lại. "Ðêm tân hôn". Mười một giờ kém Toản vẫn ở dưới nhà. Tôi đoán có việc quan trọng tôi chưa được phép tham gia. Không lẽ ngủ biến như gái chưa chồng. Tôi chống được cơn buồn ngủ nhưng không tránh được những ý nghĩ vẩn vơ. Tôi nhớ đến ánh mắt cô út nhà chồng. Tối muộn tôi đang tắm thì Cúc xộc vào. Cúc ngang nhiên trút hết quần áo: "Nuy đi chị. Ðàn bà với nhau ngại cóc gì". Tôi chỉ dám cởi áo lót. Cúc nhìn như nuốt lấy tôi, thở dài: "Chị thế ông anh em chết mệt là phải". Tôi nhớ đến lời chị dâu: "Em phải nhớ đêm tân hôn là...là...". Thôi rồi chị ơi! Là đã qua rồi trên bờ đê đêm trăng sáng. Giả như lúc này Toản lên giường "chiều và đòi" tôi sẽ dành như một nghĩa vụ để được nhanh chóng ngủ thiếp.
Cảm giác lành lạnh khiến tôi choàng tỉnh. Bàn tay Toản đang day ngực tôi và khuy áo cuối cùng đang bị gỡ. Tôi co người lại. Toản cười đập tay lên tập phong bì:
- Anh phải "giở vở" ông bà già mới chia cho một phần phong bì. Mai chúng mình đếm, vào sổ.
Tôi hoàn toàn tỉnh ngủ. Toản dúi tập phong bì xuống dưới gối, quay ra. Mùi bia mùi thuốc lá quyện mùi mồ hôi, nước hoa. Tôi buồn nôn. Toản hùng hục như gã lực điền cày xới mảnh vườn hoang.
"Có lẽ tôi sướng thật". Nhà chồng tôi có tám sào ruộng nhưng cho cấy rẽ. Thành thử nhà nông mà không phải làm ruộng. Bố chồng tôi là sĩ quan cấp tá về hưu. Lương một tháng của ông đủ cho cô út đang học đại học hai tháng đóng góp, ăn tiêu thỏa thích. Mẹ chồng tôi là cán bộ trưởng thành từ phong trào "phân xanh, lò thúc mầm". Bà đầu thai nhầm xứ nên tên tuổi chỉ gắn với chữ "phó". Ðội phó, trung đội phó, phó cửa hàng trưởng, phó chủ nhiệm... Bà về làm dân sau hai nhiệm kỳ phó chủ tịch xã. Người thân trong họ ghé tai tôi: "Bà dân ấy có trong tay bốn sổ tiết kiệm. Chỉ một sổ cũng thừa mua ba cơ ngơi cỡ nhà đẻ cô". Một lần Toản bảo: "Lãi tháng đủ cho cả nhà chẳng phải làm gì".
Chủ nhật Cúc về trường. Sinh hoạt gia đình trở lại bình thường. Tôi không phải trở dậy sớm nấu cơm sáng, bèo cám. Bữa sáng nhà chồng tôi đổi món luôn. Bánh cuốn, bún chả, cháo lòng... Mẹ chồng tôi biết uống rượu, nhâm nhi như đàn ông. Bà có thói quen ngồi hàng ăn sáng. Vài lần buộc phải đi theo bà tôi được biết hàng ăn sáng là nơi gặp gỡ của những người khá giả, đám chức sắc làng xã. Họ đến để khao đãi nhau, gặp gỡ bàn đủ thứ chuyện. Bố chồng tôi nhận xét đại ý đấy là trạm thu phát những thông tin rất giá trị: "Với những người như mẹ con đó là nhu cầu thiết yếu đấy".
Công bằng mà nói phép xem tướng của bố tôi không hoàn toàn sai. "Ðêm tân hôn" là một ví dụ. Tàn cuộc, Toản lật đi lật lại tấm vải lót, con mắt đầy nghi ngờ xói vào ngực tôi. Tôi hiểu. Tôi nói với Toản rằng dấu vết lần đầu ở trên bờ đê và giọt máu tình yêu đã năm mươi ngày tuổi. Toản nhếch mép: "Thế à". Gần sáng tôi bị phá giấc. Toản dụi đầu vào ngực tôi: "Anh xin lỗi. Phỉ phui những trò tối qua đi". Ðang xoay xở Toản ngồi lên với lấy tập phong bì. Nét mặt Toản vụt sa sầm: "Sao lại thiếu ba phong bì của bạn anh. Không thể thế này được". Toản lao xuống nhà dưới gõ cửa ầm ầm.
Ít lâu sau ngày cưới hầu như tối nào chồng tôi cũng đi đâu đó. Chưa có gì phải nghi ngờ nhưng tôi tưng tức thế nào ấy. Một hôm rất khuya Toản mới về. Tôi để mặc anh gõ cửa. Cũng là đùa chồng một chút. Không ngờ Toản nổi đóa lên.
- Cô làm trò khỉ gì thế!
Vừa lúc mẹ chồng tôi dưới nhà đi ra sân. Bà ngước lên, mát mẻ:
- Trời nóng, lên sân thượng nằm cho mát con ạ.
- Vào buồng Toản đá ghế nhót lên giường kéo màn gió đánh soạt.
- Tắt điện đi!
Tôi tắt điện, lên giường. Toản làm lành ngay được. Bàn tay Toản làm tôi giật nhột buồn cười. Nằm ngửa rồi nằm nghiêng Toản nói:
- Bố em bố anh cực đúng!
- Ðúng gì em không hiểu.
- Lại còn không hiểu! Anh được sướng mà không biết sướng chứ sao. Thời bố mẹ còn "tỏa bóng" thì anh chơi bời phá phách. Bây giờ hiểu ra thì thua xa chúng bạn. Xấu hổ cả với em.
Toản nhìn lên trần màn vẻ mặt đau khổ như con chiên đang xưng tội. Anh đã thú nhận điều tôi nghe thấy bấy nay. "Bố thế, mẹ thế được mỗi người con trai thì...". Mà kể ra Toản cũng lận đận. Hai lần thi trượt đại học. Lần thứ ba có người hứa chắc như đinh đóng cột: "Yên trí! Cứ yên trí. Dăm bảy điểm đại học với tôi là chuyện vặt". Người ấy ôm bọc tiền rồi "yên trí" mất hút. Toản chán đời ăn chơi quậy phá. Ông bố đành ép con trai vào bộ đội. Ông hy vọng đứa con được rèn luyện lập chí vươn lên. Nước cờ đã tính sai. ở đơn vị thủ trưởng là lính của bố. Toản không bỏ được thói "con nhà". Ðược vài năm vui bạn ở công ty liên doanh Toản xin ra quân. Nhờ quen biết, Toản chuyển ngành. Ðầu năm "chín sáu" liên doanh phá sản. Toản lêu lổng ăn chơi. Dịp ấy anh hai tôi về phép. Anh bổ đi tìm bạn. Toản ăn ở nhà tôi cả tháng... Nhớ đến khúc nhôi ấy tôi bảo Toản:
- Anh buồn thì em vui nỗi gì. Ðâu đã hết cơ hội để anh phấn đấu. Cốt nhất vợ chồng mình hạnh phúc.
- Bố em cũng nói thế. Từ mai đừng cài cửa anh nữa nhé. Anh đi chơi vì sự nghiệp đấy.
- Anh thì... - Tôi oằn người tránh cử chỉ thái quá của Toản.
Hôm sau Toản ngồi với bố cả buổi sáng. Bố chồng tôi có vẻ không vui. Cớ sao người bố không vui trước những ân hận, quyết tâm "làm lại" của đứa con? Tôi nói điều ấy với mẹ chồng. Bà cười hàm ý:
- Ối dào! Bố con chỉ giỏi chuyện giặc giã thôi. Chuyện chính trường làng xã thì ông ấy mít tịt. Mọi việc mẹ khắc lo. Cốt ông ấy đừng phá ngang là được.
Có lẽ mẹ chồng tôi đúng? ! Bà muốn con trai khởi nghiệp từ việc nhỏ. Giống như con đường bà đã đi từ "xuất sắc bèo - phân" lên các "ghế" tiếp theo. Bạn bè của bà còn nhiều người đương chức đương quyền. Từ ngày chồng về hưu, tiếng nói của bà có thêm trọng lượng. Tính quảng giao có thêm động lực. Những ngày này bà vắng nhà luôn. Lắm hôm bà đi từ sáng đến khuya. Mẹ chồng tôi buồn vui thất thường. Tôi lựa lời hỏi chồng. Toản có vẻ nản: "Công việc đang vào dây thì có tin tách xóm. Không phải tin vịt đâu. Mẹ phải làm lại từ đầu. Dây mới hoàn toàn..." Tình cờ một hôm tôi nghe được chuyện giữa bố mẹ chồng. Thoạt đầu hai người bàn luận về việc tách xóm. Như thế là trở lại như ngày xưa. Rồi mẹ chồng tôi nói:
- Tách ra, xóm Thường Kiệt này chỉ có thằng Toản nhà mình là đảng viên trẻ nhất, văn hóa cao nhất. Lãnh đạo dự kiến con trai mình vào chi ủy kiêm trưởng xóm.
- Thật ý lãnh đạo, hay ý mình?
- Mình muốn con mãi làm dân thường thua bạn kém bè suốt đời ư!
- Bố mẹ nào lại không mong con cái tiến bộ bằng anh bằng em. Mình thử nhìn lại, nghĩ lại xem nào. Con mình đã làm được những gì mà nảy sinh tham vọng, toan tính cơ hội? Mình đã không khuyên bảo lại ra tay sắp đặt, tiếp sức. Rồi sẽ đi đến đâu? Nhân đây tôi lưu ý mình: Con dâu chúng ta trẻ quá, vô tư quá chưa hiểu hết ngóc ngách cuộc đời. Mình đang vô tình gieo mầm xấu vào đứa con ngoan...
***
... Bữa sáng chỉ có hai bố con. Vài tuần nay thường như thế. Bố chồng tôi chỉ ăn lấy lệ. Sau đó ông uống trà và đi ra vườn. Ban ngày ông làm vườn, đêm thức viết hồi ký. Tôi biết ông lấy công việc khỏa lấp những nỗi niềm. Bố chồng tôi ít nói, sống giản dị. Tiếp xúc với ông không ai tin được đó là người chiến binh dày dạn từng lập nhiều chiến công. Về hưu ông vẫn giữ tác phong quân nhân. Giường cá nhân kê bên cửa sổ. Ba lô, mũ cối treo trên tường. Ông nói đùa: "Chỉ nửa hồi còi là bố đã đứng đầu hàng quân". Ông làm việc, sinh hoạt rất duýt thời gian biểu. Người ngoài không ai biết ông là "thế giới riêng" trong ngôi nhà chung. Mọi việc trong nhà đều do mẹ chồng tôi tính toán, quyết định. Ông sẵn sàng, vui vẻ nghe những lời "thông qua, báo cáo". Có lần bạn lính căn vặn: "Cái gì buộc anh đứng trên cao nhìn xuống dòng đời thường bằng con mắt thờ ơ kẻ cả mãi vậy". Bố chồng tôi chỉ cười.
Chiều muộn mẹ chồng về. Tôi đang quét dọn từ đường. Ngày mai rằm, như lệ, các cụ dâng hương tổ tiên. Bà cầm tay tôi kéo ra góc hiên, nói nhỏ:
- Các con vô tâm đã đành. Mà mẹ cũng sơ ý quá. Hôm nay mẹ đi lễ cửa "cậu" với các bác. Chồng con là đảng viên đã đăng ký kế hoạch hóa gia đình. Con chưa đến tuổi mà đã thế kia. Các bác ấy bảo...
- Các bác bảo sao ạ. - Tôi rùng mình, líu cả lưỡi. Tôi hiểu các bác này là những ai.
- Chồng con sẽ là cán bộ. Sẽ tiến xa. Cán bộ không gương mẫu, lãnh đạo ai? Ðã trót thế thì phải tìm cách chữa cháy. Hai tuần nữa đại hội chi bộ. Con thít bụng lại, ít ra ngoài thôi. Không sao đâu.
Tôi làm theo lời mẹ chồng. Ðúng là không sao thật. Vài hôm sau Toản mới phát hiện ra. Anh áp tai lên bụng tôi nghe ngóng.
- Em thấy khó chịu không?
Tôi buột miệng:
- Em chịu được.
Cuộc họp đúng tối thứ bảy ngày cuối tháng. Cũng là ngày tôi hết hạn "thít bụng". Toản đứng trước gương sửa mái tóc mới sang mốt ba phân. Anh vận "xơ vin", ca vát trông nghiêm chỉnh, khỏe khoắn. Bố chồng tôi trang nghiêm quân phục. Mẹ chồng mặc đồ lụa tơ tằm. Tôi đứng trên gác nhìn theo tổ đảng gia đình. Xóm mới tách chưa có trụ sở, họp hành nhờ nhà trẻ. Nơi ấy, vài tiếng đồng hồ nữa con đường sự nghiệp của chồng tôi sẽ được khai thông. Tôi hồi hộp đứng ngồi không yên. Mười một giờ đêm. Tiếng bước chân như nện vồ trên cầu thang. Tôi mở toang cánh cửa. Toản lao vào nằm vật xuống giường. Mùi rượu nồng nặc.
- Có chuyện gì thế anh?
- Hỏng hết. Ông ấy phá anh.
- Ông ấy là ai?
- Còn ai vào đấy nữa! Anh chỉ kém người trúng cử bốn phiếu. Bố ở trong số bốn người gạch tên anh.
Tôi rùng mình vì cơn gai sốt đau đau bụng dưới từ mấy hôm nay. Hình như Toản uống quá chén, không làm chủ được hành động. Tôi đẩy Toản ra nép vào sát tường. Toản chồm lên vục đầu vào ngực tôi xiết mạnh cánh tay. Tôi oằn người lên. Có cái gì đó chuồi ra nóng nhớp hai bên đùi, dưới mông. Tôi gào lên.
Tôi không nhớ mình ngất đi từ lúc nào, trong bao lâu. Khi tỉnh dậy tôi thấy bụng dưới hết đau, nhẹ bẫng. Mùi cồn, mùi thuốc tây nồng nặc. Toản ngồi ủ rũ cuối giường. Tôi chồm về phía Toản.
- Con đâu?
- Kìa em... nằm xuống.
Tôi xô Toản ngã ngửa, lao ra sân. Con tôi đâu? Vì sao? Vì sao? Tiếng kêu trồi ra đến cổ họng bị đẩy thuốt vào lồng ngực. Tôi ngã vật xuống hiên. Vũng nước nong nóng nhơm nhớp. Ai đó bế tôi lên. Ai đó gọi bác sĩ.
Suốt ba tuần Toản không đi đâu quá hai tiếng. Tôi nhanh chóng bình phục nhưng Toản già đi trông thấy. Chồng tôi đau khổ kém gì tôi đâu. Tôi khóc.
- Tha lỗi cho em... những ngày qua...
Toản lau nước mắt cho tôi.
- Em không có lỗi. Số chúng mình phải thế. Anh từng phút mong em mau khỏe. Em vui khỏe cho anh yên tâm làm lại từ đầu.
- Không! Dứt khoát em không để anh đi con đường ấy. Em chỉ mong có con, vợ chồng hạnh phúc.
- Anh còn mong hơn em ấy. Việc đã qua cho qua luôn? Anh đã chọn cho mình hướng đi khác.
Tôi không thể tin nổi. Toản ngoắt một trăm tám mươi độ chuyển ngay sang thương trường. Anh quyết tâm trở thành thương gia nông thôn. Không! Dứt khoát tôi không để chồng tôi tiếp tục phiêu lưu.
- Em xin anh từ bỏ ngay quyết tâm ấy đi. Chuyện buôn bán phức tạp lắm. Nhà mình không nghèo nên muốn giầu hơn không khó. Sao anh không làm theo lời khuyên của bố! Vườn đất kia, ao kia. Vợ chồng mình quán xuyến, sẽ không vất vả mà thu không ít tiền đâu. Lại chẳng phải ganh ghé với ai.
- Em đúng là phiên bản của bố! Xin em yêu hãy nghe cho rõ. Bố mẹ hai bên cùng nhất trí cao. Các bô lão trong họ gật đầu sái cổ nhé.
Ðến lượt tôi bị thuyết phục. Mảnh đất chái từ đường liền đường liên huyện. Ðất cằn, cây cối oặt èo, hoa lợi cả năm không đủ mua hương nến tuần tiết. Mấy lần trâu bò húc đổ tường bao. Mấy lần "tự vệ" chộp trai gái xé dậu làm trò bậy bạ. Ðất hương hỏa cho thuê sẽ sinh lợi cho cả họ. Tiền thu được đập vào việc tu bổ giỗ chạp... Tránh được việc bổ bán nhiêu khê. Toản nói thêm:
- Tránh tiếng trưởng họ lợi dụng, mẹ đã nhờ người ngoài phát giá. Chiều mai các cụ họp làm văn bản.
Thì ra mẹ chồng tôi đã ngầm chuẩn bị "con đường mới" cho con trai. Chiều hôm trước xong thủ tục thuê đất. Sáng mai bà mời thầy làm lễ động thổ. Gần trưa xe đầu ngang chở vật liệu đổ đống.
Ðúng là "mạnh vì gạo bạo vì tiền". Mười ngày sau cửa hàng khai trương. Kiểu kiến trúc cửa hàng khá độc đáo, hài hòa với ngôi từ đường cổ kính, vườn cây lưu niên.
Tôi rất bỡ ngỡ với công việc mới. Nhà đẻ tôi mấy đời không có ai làm nghề buôn bán. Trái lại Toản có duyên và am hiểu thị trường, anh như sinh ra để làm thương gia vậy. Làng rục rịch cải tạo đường điện. Toản chở về cả xe dây dẫn, phụ tùng điện. Chỉ bằng một mẹo nhỏ anh kéo được mấy vị sếp xã tham gia hợp đồng đường điện. Vào vụ, kho hợp tác còn trống không thì Toản đã có trong tay hàng tấn phân bón. Một lần Toản tung vốn mua phụ tùng giếng khoan. Cả tháng không ai hỏi đến mặt hàng này. Mẹ chồng tôi lo mất ăn mất ngủ. Chồng tôi vẫn bình chân như vại. ít hôm sau đài xã thông báo chương trình nước sạch. Toản có ngay hợp đồng cung cấp vật tư.
Dần dà tôi cũng quen với công việc. Toản bàn mở quầy bia rượu. Quán nhậu bên cạnh cửa hàng vật liệu. Cái lợi rõ mười mươi nhưng có điều phải nghĩ. Tôi nói thẳng ý mình:
- Theo em, việc này không nên. Quanh đây đã mấy người bán như thế rồi. Cụ Hảo với đứa cháu mồ côi thím Bao lòa, chú Rụ thương binh nặng... Toàn những người trong họ mình cả. Vợ chồng mình trẻ khỏe nỡ nào cạnh tranh với họ.
Toản lắc đầu:
- Em mới nghĩ một chiều thôi. Thử đi dọc làng xem! Mới có mấy tháng mà hàng loạt đại lý mọc lên. Họ giở đủ mánh hòng đè bẹp chúng mình đấy thôi.
- Em biết. Nhưng đấy là chuyện người giầu với nhau. Ðằng này họ là những người nghèo, tội nghiệp họ.
- Em ơi. Thị trường là chiến trường. Chiến thắng thuộc về kẻ mạnh. Anh muốn chứng tỏ năng lực của mình.
Mẹ chồng tôi góp vốn chín triệu mua tủ lạnh, dàn video. Ðiều dự báo của chồng tôi rất đúng. Hàng vật liệu chững lại, hàng bia rượu "vào cầu". Ðồng vốn có sức mạnh kỳ diệu. Quán bia rượu của chồng tôi tấp nập đến khuya. Thiếu chỗ, khách tràn cả sang sân từ đường. Rồi thành quen. Khoảng sân lát gạch cổ rợp bóng cây cổ thụ trở thành sân sau của quán nhậu... Nơi thờ cúng tôn nghiêm nhuốm mầu trần tục bê tha. Họ mạc đã có lời ra tiếng vào. Bố chồng tôi rất không hài lòng. Tôi nói với chồng điều này. Toản thản nhiên: "Ðất đã cho thuê. Người trả tiền toàn quyền sử dụng".
Tháng ba âm lịch. Liên doanh thăm dò khoáng sản đóng trụ sở ở làng tôi. Dịch vụ các kiểu mọc lên như nấm. Chồng tôi chấp nhận điều kiện xây tường bao để được thuê thêm đất hương hỏa. Anh có dự định nâng cấp "quầy" lên thành nhà hàng to nhất làng.
Tôi đã có thai được hai tháng. Việc có thai vội, những cơn ốm nghén hành tôi khổ sở. Những việc nhẹ nhàng cũng trở nên nặng nề quá sức. Toản "ăn ké" được hợp đồng vật liệu công trình cống Lân, đi suốt ngày. Tôi luôn phải gắng. Mẹ chồng tôi khó chịu ra mặt, bâng quơ.
- Ðến phải thuê người làm.
Tôi thật thà:
- Việc này phải chờ bố con về.
- Dào ôi! Vẽ! Ông ấy biết gì mà bàn. Có bàn lại chỉ giỏi phá ngang.
Có khách. Vẫn là ông chủ đại lý phố huyện và chiếc dim đỏ. Mẹ chồng tôi tươi ngay nét mặt.
- Ơ... ô anh.
- Chào bà bạn. Ði ba chục cây số để đỡ nhớ bia bà bạn đấy.
Tôi giúp mẹ chồng bày bia, đồ ăn rồi rút vào sau quầy. Tiếng nắp bia nổ bôm bốp. Mẹ chồng tôi làm duyên giọng nói:
- Hôm nay em khao.
- Hôm nay đến lượt anh. Hiểu chưa.
Tiếng cười. Tiếng cụng ly. Những lời mời ép nhau. Hai người có tuổi mới quen nhau mà cứ như đôi bạn thân, quá thân nữa là khác. Tôi nhìn trộm mẹ chồng. Men bia, những câu chuyện làm đẹp thêm gương mặt vốn xinh đẹp của bà. Không hiểu vì uống nhiều hay quá vui mà bà đem chuyện nhà ra đãi bạn. Ðang xây mới cửa hàng bố chồng tôi có giấy mời đi dự lễ truyền thống binh chủng. Xe hẹn ngày đón. Mẹ chồng tôi cười nhạt: "Công việc ùn ùn thế kia. Mình tính sao?". "Tôi phải đi mình ạ. Lâu lâu mới có dịp gặp anh em đồng đội". "Vâng! Lễ hội, chiến hữu ra tiền thì mình cứ đi". Trước ngày hẹn đón bố chồng tôi có thư về. Ông vào Quảng Bình thăm thủ trưởng cũ bị ốm. Sau đó ông đi Tây Nguyên tìm hài cốt người bạn. Ông không hẹn trước ngày về.
Hình như việc thuê người mẹ chồng tôi trù tính từ lâu. Lý là con gái bạn mẹ chồng tôi. Nhà Lý trên phố huyện, có cửa hàng đồ điện. Vì sao cô rời phố về làng phụ việc? Tôi lấy làm khó hiểu nhưng không muốn hỏi. Toản rất hài lòng với việc "tuyển" người. Lý đẹp người, thành thạo công việc, có duyên ngồi hàng, khéo chiều khách.
Từ hôm Lý đến hầu như tôi không phải trông hàng. Hết ốm nghén tôi lại mắc chứng khó ngủ. Hễ chợp mắt là chìm vào những giấc mơ kinh dị. Vỡ giấc là thức đến sáng. Một đêm tôi mơ thấy trần nhà nhỏ nước như mưa. Nước lênh láng khắp nhà. Tôi bị vùi trong màn nước mầu đỏ, mằn mặn. Sáng ra vui chuyện tôi kể với Lý. Lý gạt đi "Mơ mộng vớ vẩn lắm". Tôi cũng nghĩ thế.
Buổi trưa, giấc mơ đêm tái hiện. Tôi sợ vã mồ hôi chạy xuống nhà hàng. Tôi đẩy cửa gian trong. Mẹ chồng tôi và ông chủ đại lý ngồi uống bia. Tôi ra gian ngoài. Lý hỏi đón:
- Lại mơ hả!
- Ừ. Vẫn giấc mơ đêm rồi.
Lý ngẫm nghĩ một lát.
- Tớ vẫn cho rằng mơ mộng là chuyện vớ vẩn. Còn như đêm nay cậu vẫn mơ tương tự thì tớ sẽ đưa cậu đi xem bói lá trầu. Cậu Học làng Trình giỏi cực nhé.
Tối muộn. Mẹ chồng tôi đứng giữa sân ới lên:
- Cô Na xuống tôi có câu chuyện.
Tiếng "cô" tiếng "tôi" phát ra từ cửa miệng mẹ chồng thường báo trước chuyện không êm. Tôi vội đi xuống. Mẹ chồng tôi chao chát phủ đầu:
- Cô ăn chơi thế chưa đủ sướng hay sao mà còn lắm chuyện.
- Chuyện gì ạ?
- Cô còn không biết hả! Nhà này được như thế này là nhờ công lao người đánh giặc, người công tác cống hiến. Cô mơ mộng vớ vẩn rồi đem chuyện nhà đi kháo. Chẳng hóa ra nhà này bóc lột mồ hôi nước mắt thiên hạ.
- Mẹ cứ nghe ai mách lẻo suy diễn lung tung.
- A! Mất tiền cưới xin, nuôi cô ăn sung mặc sướng để được "ní nuận" thế đấy! Cô dỏng tai lên mà nghe đây. Người ta mách lẻo ra tiền ra bạc, giỏi giang bằng vạn nhà cô. Ngữ cô thì làm ăn cái gì.
- Con đã thưa với bố mẹ rồi. Con không hợp với việc buôn bán. Vụ tới mẹ lấy ruộng về cho con làm.
- Cô giỏi rồi. Nhưng nhà này chưa đến nỗi phải bám vào sào ruộng mới sống nổi.
Tôi đi lên gác. Có tiếng xe máy vào sân. Lại ông bạn chủ đại lý của mẹ chồng tôi. Họ chào mời líu ríu. Tôi uống liền hai bát nước sắc lá vông, cao lạc tiên. Bài thuốc của đẻ tôi, cả trò đếm dỗ ngủ đều vô tác dụng. Chuông đồng hồ điểm mười giờ. Tôi đi ra sân thượng. Nhà dưới vẫn sáng đèn. Cửa hàng sáng đèn, mở cửa sổ phía vườn. Chắc chồng tôi đang nhập hàng hoặc tính sổ. Phải giúp anh một tay! Tôi đi xuống. Nhà dưới khóa cửa ngoài! Mẹ chồng tôi vẫn chưa về. Ngay bố chồng tôi cũng đã quen với việc bà vắng mặt đêm hôm. Từ nửa tháng nay vài ba hôm ông đại lý lại đến đón bà đi đâu đó. Trong nhà hàng vẳng ra tiếng cười. Tôi sang vườn vòng lại phía cửa sổ. Trời ơi! Trên nền nhà Toản đang cùng Lý nhồng nhỗng làm tình. Tôi ngoắt về. Lời đồn đại của dân làng đã có bằng chứng. Dấu hiệu Lý có thai không còn là "hình như" nữa. Tôi đi không vững. Ðến giữa cầu thang tôi vấp ngã sấp mặt. Bụng dưới quặn lên, hẫng nhẹ. Trời ơi! Con tôi chuồi ra, vỡ bục, lênh láng. Tôi khóc.
Bố chồng tôi về. Tôi đã xuất viện được ba tuần, ba tuần qua tôi thay bố chồng giữ một vùng riêng trong ngôi nhà to đẹp nhất làng. Thời gian tạm đủ cho tôi nhìn lại chính mình, những ngày tháng qua và đi đến quyết định. Mẹ chồng tôi thản nhiên: "Cô cứ nghĩ cho kỹ..." Toản độc một câu: "Tùy cô."
Ba ngày thôi mà bố chồng tôi già sọm đi, tóc bạc thêm, con mắt đờ đẫn mất hồn. Tôi nói với ông việc chỉ có tôi và bà bác sĩ biết. Hai lần sẩy thai đã để lại di chứng nặng nề. ít nhất dăm bảy năm nữa tôi mới được phép mang thai.
- Lời bác sĩ con phải nhớ. Còn việc vợ chồng con không còn cách nào ư?
- Không bố ạ. Chính con đặt vấn đề trước. Mẹ con, anh Toản nhất trí đó là lối thoát tốt nhất cho cả hai bên.
- Bố có lỗi với con... với ông bà bên nhà... - Bố chồng tôi nấc lên, tắt lịm giữa lời. Ông khóc. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nước mắt người lính già. Những giọt nước mắt đặc quánh lại, hằn vết trên gương mặt. Tôi khóc.
Giấy tòa hẹn ngày đầu tuần. Tôi thu xếp về nhà đẻ. Tư trang gọn gàng túi xách nhỏ. Tôi không quên bóc lịch treo tường. Mảnh thời gian bay bay nặng trĩu cánh tay. Ngày mười hai tháng bảy. Tức ngày mùng tám tháng năm theo lịch can chi. Tôi cất tờ lịch vào túi xách.
Ðường về vơ vẩn tôi nhẩm tính thời gian. Tính theo âm lịch tôi đã có mười ba tháng hai ngày làm vợ. Thời gian vừa đủ cho tôi qua tuổi hai mươi. Rồi sẽ có lúc tôi ngồi một mình "tính sổ" mười ba tháng hai ngày ấy có bao nhiêu ngày hạnh phúc bao nhiêu ngày đau khổ. Bạn cho là khó ư! Không đâu! Tôi tính được mà. Chờ nhé!.
VanVN.Net - Làng Vũ Lăng (Tiền Hải, Thái Bình) nghe Khu Gang thép Thái Nguyên cần công nhân gửi chàng trai trẻ Trần Văn Thước lên đó; khi Thước bị tai nạn lao động, làng lại đón đứa con của mình về để chạy chữa chăm sóc. Gần 30 năm qua Thước ngồi một chỗ, lấy thùng hàng xếp cao làm bàn và đứng viết, tình cảnh tưởng không thể thê thảm hơn. Nhưng văn Thước lại hồn nhiên, phồn thực với rất nhiều minh triết dân gian nó làm nên vẻ đặc sắc và đưa anh lên hàng đầu những nhà văn viết về nông thôn. Đọc mỗi truyện ngắn của Thước đều thấp thoáng làng Vũ Lăng, có cảm giác anh cứ ngồi một xó còn người làng thì cứ đi qua, kháo nhau chuyện này chuyện khác diễn ra ở làng hay ở đâu đó, tiện thể ném qua cửa sổ cho anh những ngôn ngữ bình dân thời hiện đại…
Nhà văn Trần Văn Thước
TRẠM XÁ LÀNG
Tôi biết ơn bà chủ quán mến khách với lời dặn chu đáo: “Cô cứ đi hết sáu khúc ngõ, bước qua cầu thấy cái biển gỗ có hai vệt đỏ đè lên nhau là trạm xá làng”.
Đi hết hành lang ngôi nhà lớn nhất tôi dừng bước trước cửa phòng có treo biểu “Thường trực”. Trong phòng một người đàn ông và năm cô con gái đang trò chuyện vui vẻ. Tôi rụt rè cất tiếng chào và nhận ra đủ “sức chiến” của sáu đôi mắt tròn xoe. Bất thần người đàn ông vỗ tay đánh đốp, xởi lởi:
Cô Ngân đấy à? Vào đây! Vừa nhận được thông báo hôm qua chiều nay thực tập sinh có mặt. Kỷ luật cực cao. Đón bạn đi, các cô!
Cả năm người ào ra. Người đón nón. Người đón túi. Hai người cầm tay tôi đón dắt vào tận ghế “Hắn thật kèng” –một người nhận xét.Tôi nóng ran người. Lại một người vỗ eo tôi mạnh như thụi, tay kia khoát rộng:
-Hắn là Kim Ngân, họ Phí trung cấp y, chúng tớ biết từ hôm qua, trên giấy. Tớ đây là Hà –dược. Cạnh hắn là Hà –sản. Hắn kia là Mai,hai hắn kia là Lan và Thủy. Người đeo kính chễm chệ bên bàn là trưởng trạm Toản, ngũ tuần đấy nhưng không thèm ngồi lên ngôi chú bác. Anh, anh tuốt tuồn tuột…
Cả trạm cười tưởng bay cả ngói. Các cuộc đón tiếp vui vẻ, vồn vã cả xuồng xã nữa, đã dánh tan trong tôi những ngần ngại ban đầu. Chợt anh Toản gỡ kính gõ gõ lên mặt bàn:
- Rồi chuyện mệt. Giờ thế này nhé! Cac cô chưa đủ sức bao cái kim Phí Kim Ngân đâu. Cho việc ăn uống cửa noánh sẽ lo. Còn ngủ, các cô lạ gì, con gái nằm đâu vui đấy. Cai Ngân như em út trạm xẽ lần lượt ngủ với bà xã anh, các cô, cả cụ Lãn bà nữa. Coi như xong thủ tục công tác. Gời hai cô ù về bảo chị làm cơm cả trạm. Ngon vào!
Bữa cơm chiều nay thật vui. Cả trạm quây quần quanh bàn ăn như tiệc. Tiệc gà, cá chép, cơm gạo quê tráng ngần…Hà –được đề nghị cụm ly “vì sự nghiệp bảo vệ sức khỏe nhân dân”. Tôi mời vào bữa chưa hết lượt, Hà –sản lắc đầu, đặt bạt xuống mâm nghe đánh ‘cạc”
-Hỏng !
--Món nào mặn hả cháu? –Viện trưởng hỏi. Lãn bà và viện trưởng đông y là biệt hiệu của cụ . Hồi –người trông coi vườn thuốc nam kiêm hộ lý trạm xá làng .
Không ạ- Hà- sản lắc đầu –Đã có thông báo mà Kim Ngân cứ quên hoài. Xưng hô anh chị em, hắn, tớ, cho bình đẳng người ta đi.
Cả mâm buông bát cười. Quả thật vợ chồng trưởng trạm năm mươi nhưng vẫn còn tươi trẻ như mới trạc tứ tuần. “Nhàn cư dư thực lại phi nông din thì mẹ đốp chẳng thua Kiều” –sau này trong lúc vui truyện Hà –sản nho nhe văn học thế .
Ngày thực tập đầu tiên cho tôi theo cách nói của anh Toản là “đưa sinh viên đi vãn cảnh trạm xá làng”.
Ngôi nhà chính bốn gian. Có lẽ là “bộ mặt” nên được lợp ngói xi măng. Hai gian đầu là phòng hỗ hợp “trực – khám – họp”. Hai gian tiệp là quầy dược. Goị là quầy những nội thất chỉ có chiếc bàn, cái ghế, cái tủ gỗ. Trong tủ có mấy cái lọ thủy tinh rỗng, dăm chai rượi đông y sủi bọt chắc vì để lâu. Trên nóc tủ có vài bao tải bốc ra mùi lá cây ẩm mốc lưu cữu.
- Nó thế đấy- Anh Toản giải thích- Cũ rồi cái công thức bác sĩ khám kê đơn, dược tá bán thuốc, y tá tiêm. Bây giờ đời mới y bác sĩ kiêm tốn luôn viêc của y dược tá và ngược lại. Bán thuốc, tiêm chọc trở thành khâu liên hoàn thuận tiện cả đôi bên. Nhưng cái chính là theo cơ chế mới “quầy dược ở trong buồng nhưng ai có tiền, có thuốc. Trong tủ con buôn…”
Ngôi nhà dành cho người bệnh ba gian khá rộng. Có mười hai giương đều không chiếu. Một nửa số giường không có giát và bốn chiếc chân được thay bằng gạch kê. Cả ba phòng đều lạnh lẽo hôi ẩm chứng tỏ đã rất lâu không có ngượi đặt chân vào. Phòng nội chú mà không có người bén mảng thì lạy trời…đó là điều lý tưởng của ngành y. Nhưng anh Toản nhìn xói vào tôi
- Đáng lên báo, mục phê bình hay vui cười?
- Dạ…-Tôi ấp úng:
- Cô thì dạ dạ…Còn anh thì thế này: Bệnh nặng thì lên tuyến trên, cơ sởkhông có điều kiện. Ở trạm xá làng thuốc men đâu? Ai phục vụ? Rách việc lắm! Với lại động ốm là nằm trạm xá thì lấy cái gifcung phụng dạ dày. Rồi bệnh viên tuyến trên, đám bác sĩ tại gia vặt ai mà sống. Trạm xá bây giờ chỉ là hình thức cơ cấu. Nó trở thành xưởng phụ cô ạ. Xưởng phụ của bác sĩ làng.
Khu nhà ba gian lụp xụp hơn cả vẻ ấm áp, nhộn nhịp hơn. Gian đầu chắc là bếp vì có dãy kiềng gạch. Gian giữa, phòng khám phụ khoa độc nhất chiếc bàn sắt mạ, một chân tạp gỗ, trên mặt bàn chỏng trơ đôi mỏ vịt. Phòng đẻ, gian chót, ngoài bàn sản phụ có thêm đôi xô, chiếc cân quang treo. Nền nhà còn láng nước chứng tở ít lâu có đúa trẻ chào đời: Cả ba gian đều trổ cửa hậu nhưng không còn song, được che bằng chiếu và phên cót. Đứng trong nhà nhìn rõ cái ao lớn phía sau, cỏ rả um tùm lút chân tường:
Khép cửa phòng đẻ, anh Toản cười nụ:
- Gía phụ nữ đẻ đừng có nước non thì trạm ta được nơi lý tưởng.
- Sao thế ạ?
- Mấy năm trước trạm ta ở ngã ba làng, gần khu dân cư, tiện trục đường cho cấp cứu. Những đoàn quy hoạch nông thôn năm Hai Nghìn xơi hết hai tạ thịt quy ra lợn rồi ném lại một mớ bản vẽ. Tìm được chỗ thuận lợi vừa san nền xong thì huyện lại bảo không được. Chỗ ấy gần chùa, khu văn chỉ, trạm xá bao nhiêu thứ bẩn thỉu ô uế, mất cảnh quan v.v… Nơi ấy bổ sung quy hoạch Hai Nghìn là khu văn hóa giải trí của nhân dân. Văn – giải cóc khô gì! Nó là tư điền của Bí thư huyện rồi. Trạm ở chỗ tứ bề nắng gió, đồng không mông quạnh. Nhưng có cái tiện là bao thứ bẩn thỉu có lối xuống ao. Ao ra ngòi. Ngòi chẩy ra sông…cứ thế,sạch tuốt môi trường. Cô nghĩ sao?
Rõ ràng trạm xá không y tế chút nào. Tôi nói thẳng với anh Toản những nhận xét của mình. Anh Toản gật đầu
- Cô có tinh thần cao đấy. Dựa vào sức người, tình người để làm cái trạm xá ra cái trạm xá. Nhưng cô ơi, lãnh đạo còn lo việc quền binh. Dân tình phải lo cái dạ dày. Mọi phong trào quần thực dĩ là vô làm. Ngân sách đầu tư chỉ là chuyện trong mơ và tự thu tự chi. Lương bác sĩ quy ra thóc giỏi lắm được sáu lạng. Ăn gì để dốc tâm vào sự nghiệp bảo vệ sức khỏe? Họ phải hành nghề tại gia là lẽ đương nhiên. Về làng thực tạp ắt cô hiểu vì sao trạm xá thời nay là xưởng phụ. Trạm xá đích thực ở tại gia những ai võ vẽ kiến thức tiêm chọc, có tiền, có thuốc
Trở lại phòng hỗn hợp, tôi giúp anh Toản căng lại tấm ri đô màu cháo lòng chi chít vết vẩy mực, thuốc đỏ. Tôi toan dọn nền nhà vương đầy mẩu bông, mẩu thuốc lá…thì trước cửa suất hiện ba chị trung niên bế ba cháu bé. Cả mẹ và con đều lếch thếch tã tàng. Có lẽ vì tôi là người lạ nên các chị xét nét bước vào ghế dành cho bệnh nhân. Ba đứa bé lả đầu vào vai mẹ, bàn tay khẳng khiu bấu chặt tay áo như sợ ai giằng ra. Mồ hôi lưu cữu, có mùi gì đó tanh tanh như ẩn đâu đó chợt cốn lên.
- Làm sao nào?- Anh Toản hỏi.
- Cháu nhà em khóc suốt đêm như bị ma ám.
- Con bé vừa nôn vừa ỉa anh ạ
- Thằng cu nhà em…- Người thứ ba mạnh bạo hơn
- Anh xem nó vẫn ho ra rả như cuốc hé lại ỉa tổng tổng như tháo cống.
- Được rồi! Anh Toản gật đầu và mở túi thuốc đưa cho người người đầu tiên và thứ ba viên thuốc, anh lắc đầu nhìn người thứ hai – Con bé nhà cô ba đợt liều cao thế vẫn không chuyển phải đưa nó lên tuyến trên vậy thôi.
Người phụ nữ ôm đứa con vào lòng. Gương mặt chị đờ đẫn, đôi mắt mở to như đứng công việc cực kỳ khẩn thiết nhưng vượt quá khả năng của mình. Anh Toản vừa mở cặp giấy tờ. Chị bế đứa con lao lại thì thào:
- Nhà em và cháu còn nợ anh mấy lần tiêm nhưng quả thực nhà em phải trận ốm vì di te đêm để kiếm cho các cháu thúng gạo nên chưa thanh toán được. Anh đã thương xin thương cho chót. Anh ghi sổ… mùa sau thế nào em cũng xin vâng. Chứ anh cho cháu đi viên huyện alij như hôm nào con nhà Ban không có tiền nộp viện phí ngay lại bế con dọc đường thì…
Anh Toản thản nhiên cười như gặp vấn đề đơn giản quen thuộc. Anh ấy gấp cặp, mở túi hộp bơm tiêm núp trong bàn tay múp trắng của anh; Tôi vẫn thấy lượng thuốc quá ít cho căn bệnh và tầm tuổi đứa trẻ. Its ngày sau tôi phát hiện cả trạm điều trị kiểu nhỏ giọt, tôi nói thẳng điều ấy với Hà-sản- Hà thản nhiên ; “ Một liều thật cao, cao thì tiền cao bảo bác sĩ chém đắt. Một liều vừa nhỏ vừa dễ tính tiền lại được tiếng chữa rẻ. Nông dân quen tinh tiền theo phat tiêm hắn ạ. Bác sĩ đảng viên hay không đảng viên đều thế cả”.
Buổi chiều trở về, vừa qua rãnh nước anh Toản sực nhớ nhủ tôi cùng quay lại: “Để lấy cho chị cô mấy củ riềng kho cá mè. Nhân thể mời sinh viên thăm vườn đông y”.
Vườn đông y khá rộng dễ đến bốn sào Băc Bộ nhưng nếu không có mấy gốc dành dành, riềng, luống ngải cứu …thì dễ tưởng đấy kaf khu vườn hoang hoặc bãi đá bóng trẻ. Như biết tôi thắc mắc, anh Toản đón trước
- lãng phí đất quá hả? Mấy năm trước nó lá vườn đông y màu mỡ cũa huyện đấy. Mười năm cụ Lãn ông, Lãn bà phần lớn là phụ thân của cán bộ xã mỗi năm thưởng ngót chục tấn thóc để sản xuất ra vài tạ sâm hành, nhân trần… Bán chác chả sao. Còn kê đơn, nông dân ốm ưa xài tây y cho mau khỏe để đy kiếm cái ăn ai hơi đau ngồi chờ sao-sấy-sắc. Thật thu một chi mười, đại lạm phát…
Anh Toản bỏ lời, nhìn xói vào mấy luống húng. Rồi anh lớn tiếng:
- Ba viện trưởng đâu rồi?
Đang lúi húi quét lá ngoài vườn , cụ Hồi buông chổi chạy lại. Anh Toản chỉ vặt húng:
- Ai hái như trâu vặt thế này, cụ?
- Tối qua nhà Chí hái về nấu cơm đêm cho đảng ủy họp ăn.
Anh Toản gật đầu bước lại khóm riềng. Bất thần anh lấy bàn chân hất đổ mấy cây riềng bị bứt củ thân còn tươi nguyên dụa vào khóm.
- Lại cả khóm riềng này nữa. Lấy củ sao cụ không đưa cuốc cho họ bới mà lấy tay giật cả khóm thế này. Lấy một phá mười. Chết thật!
Cụ hồi vội nhổ bã trầu:
- Âý, con vợ phó chủ tịch đấy! Cha tổ nó! Trưa nãy nó đến lấy tôi bảo chờ để tôi chêm cán quốc thì mùng thất họ mới được nâng cuốc à? Cha tổ nó! Mồn nói tay giật, quá cánh vợ phó tổng thời tây. Cha tổ nó…
Đến chết cười với cụ Lãn bà. Ra khỏi vườn, anh Toản buồn buồn giọng:
- Không moi đâu ra cái vốn cho cái vườn, anh muốn phá béng, giao đất cho nhân viên tăng gia, nhưng lãnh đạo xã quyết để. Cô biết vì sao không?
- Để tìm vốn đầu tư lấy lại tầm vóc điển hình.- Tôi thật thà.
Anh Toản cười phá lên;
- Cô ngố lắm. Cái vườn để hoang là do luồng gió đổi mới đấy. Trước đây, cán xã, cán huyện đánh chén tì tì.
Đám phục vụ bạ nhà ai cũng bổ vào xin rau thơm. Giờ thời đổi mới họ vẫn ăn tết quanh năm nhưng kín đáo hơn. Ngày nào, bạ nhà ai cũng vào xin gia vị khác nào bày cỗ giữa ngã ba. Dân họ biết bỏ mẹ cả lũ. Vườn thuốc đông y trở thành nơi cung cấp gia vị. Đám phục vụ, vợ con cán bộ cứ việc đến lấy. Có gặp ai dễ thoái thác: “Đi hái lá thuốc, lá xông”.
Một chiều, trong lúc anh Toản đi bắn chim, bưu tá xã đến đưa giấy mời họp. Anh về đọc qua rồi bảo tôi:
- Mai đến phiên cái Thủy đi họp. Lát nữa cô tạt qua nhắc nó hộ anh
Giấy mời ghi rõ tên trưởng trạm. Chắc anh Toản ở ngoài nắng vào lóa mắt đọc nhầm, tôi nhắc lại. Anh cười:
- Ở làng họp triền miên. Cuộc họp nào anh cũng đi với tư cách trưởng nghành thì lấy ai trực trạm. Vì thế anh quy định giấy mời của đảng ủy, mặt trận: trưởng trạm đi. Họp hợp tác, thanh niên, phụ nữ… Các trạm viên chia đều lần đi họp. Đi họp cốt cho đủ mặt ngành giới chứ vấn đề y tế mấy khi có vinh hạnh là một đề mục thảo luận. Với lại ở làng họp là có chén, có quà, chí ít cũng phải biết chia nhau.
Cuối tuần thực tập thứ ba của tôi, Hà – sản trúng quả “bóng bay ca pốt”, Lan vào cầu lô “coóc-ti-dôn” quá hạn, chung nhau đãi cả chạm kẹo dừa, lạc rang. Gần tàn tiệc ngọt, có một vị trung niên bước vào. Tôi nhận ra ngay ông phó bí thư đảng ủy thường đến tiêm ở nhà Lan và cười tít khi lan gọi đùa “ông phó đầu đảng vâng dạ ạ ơi” .
- Ông xem sao đau ngực quá –“ Phó đầu đảng” nói và ngồi cạnh Lan, như vô tình huých người vào vai cô.
- Chuyện vặt – Anh Toản nói và ra hiệu cho tôi mời nước rồi xoay mở tủ thuốc. Tiêm xong anh ấy bao thuốc đầu lọc về phía phó bí thư – Cầm cả mà hút. Ổn rồi! Phó bí thư đút bao thuốc vào túi, ngồi một lát rồi cáo lui. Lạ quá! Trừ tôi với anh Toản tiễn bằng lời, còn lại tiễn chào bằng những cái bĩu môi, lừ mắt. Lan xì công khai:
- Trông thế mà quỵt của em mấy lọ bi.
Như chờ mãi mới có người khơi mào, Thủy lên tiếng:
- Vợ lão cũng nợ em ba đợt tiêm từ năm ngoái.
Hà – sản thở hắt ra:
- Em mới chạy được tí vốn làm ăn mà vợ chủ nhiệm, rồi tay phó chủ nhiệm chơi mấy đợt tiêm chịu, cạn cả rồi. Tay phó không cho khám cứ nằng nặc đòi “ăm-pi” liều cao. Nhìn mặt, em dám chắc hắn bị nổ. Không nể anh thì em vặt cho biết mặt.
- Họ cũng tha gì anh – Anh Toản khoát tay – Nhưng các em khỏi lo. Trạm ta dù sao cũng phải cống tý chút vì cái mục chuyên doanh khám tai gia. Cán bộ và gia đình họ ai nợ? bao nhiêu ? Các em kê biên ra giấy hôm nào kiểm kê anh sẽ ấn vào mục đóng góp ngân sách xã.
Tất cả cười nhẹ nhõm. Lan tỏ ý không vui:
- Anh gắn lọ “cooc” với ngàn ga-ma “mười hai” hắn khỏi ngay thì bon em vặt vào đâu nữa.
- Lần này phải thế. Sắp tới đại hội đảng bộ ông phó cần có sức khỏe để đấu đá kẻo rồi lại trách y tế không chăm nom sức khỏe cán bộ chủ chốt. Dịp này xem ra ông phó khỏe mạnh mà năng tới trạm. Chắc phòng trước việc đổ là do sức khỏe, nếu trúng lại vỗ ngực: tôi yếu đau nhưng dân giao việc thì phải cố gánh.
Ngừng một lát như để nhớ, anh Toản nói tiếp – Toàn quốc giảm biên, quyền lực sẽ tập trung vào số ít người, cái tốt cái xấu đều vào cuộc đại chiến. Làng ta kỳ này đấu đá chắc nảy lửa. Họ Trần đang lên chân nhờ có dân hưu trí hộ vệ. Nhưng xem ra cánh họ Đặng cũng không vì thế mà xuống chân. Nhờ việc xây hội trường, nhà trẻ, họ đã kéo được cánh họ Đào về phe mình. Nhưng tình hình trận mạc lại căng vì lâu nay cỗ bàn, cán các cấp hay ăn ở nhà tay chủ tịch họ Phạm.
- Thế anh ủng hộ họ nào? – Tôi buột miệng.
Anh Toản vỗ tay đánh đốp:
- Câu hỏi rất khá. Anh ủng hộ tất cả các họ.
Cả bọn trố mắt ngạc nhiên. Anh Toản ôn tồn giải thích:
- Trạm ta được như hôm nay, các em làm ăn được như thế là lúc nhờ họ Phạm, khi nhờ họ Trần, người được lòng họ Đào, kẻ dựa thế họ Đặng, làng ta phe cánh có nhiều nhưng xem ra họ Trần và họ Phạm mạnh hơn cả. Cho nên anh tính cả rồi. Bây giờ đổi mới, đại hội toàn thể trạm ta có hai đảng viên đều được đi dự. Như thế anh sẽ bỏ phiếu cho họ Phạm. Cô Hà – sản bỏ cho họ Trần. Hai họ ấy đều có tài vận động, gài người vào ban kiểm phiếu. Qua việc bầu cử hội đồng nhân dân, ban quản lý… các em còn lạ gì. Đại hội ngã ngũ, họ nào thắng trạm ta cũng có phần đóng góp, anh em mình yên ổn làm ăn. Nhân đây anh nhắc cô Hà điều ấy.
Hà – sản dạ ngon ơ. Anh Toản uống một hỏi cạn cốc chè nóng. Một lát anh mở sổ:
- Các em này! Thực hiện chỉ thị của cấp trên và lập thành tích chào mừng đại bộ đảng bộ cơ sở, trạm ta mở chiến dịch đặt vòng trách thai. Ngày mai bắt đầu triển khai. Anh em ta lo việc chuyên môn. Việc mời chị em trong độ tuổi đến trạm là trách nhiệm của ủy ban, cờ đỏ và ban thông tin.
Đêm ấy tôi ngủ ở nhà Lan. Vừa thức dậy đã nghe tiếng loa truyền thanh dóng dả xướng tên chị em trong danh sách đặt vòng tránh thai. Hai đứa ăn cơm nguội rồi ù đi.Tới trạm đã thấy anh Toản và một tốp đàn ông đang trà lá rôm rả.
- Chào “chánh phó lý và các trương tuần đinh viên” – Lan đùa, kéo tôi lướt qua mặt mọi người vào phía trong phòng hỗn hợp.
Đùa tán một lúc, các đội viên kéo nhau đi thực thi công vụ. Hai Hà và cụ Lãn bà đến cùng một lúc. Anh Toản phân công công việc rồi nói vời cụ Hồi:
Cụ ù ra đài xã bảo thằng phát thanh viên nhấn mạnh câu phát thuốc không mất tiền và hai mươi nhăm viên chứ không phải một chục như sáng sớm. Cụ nhắc nó nhấn mạnh mục thóc thưởng, miễn nghĩa vụ… chứ cứ ông ổng phạt với trừ thì có ma nó đi đặt vòng cho. Rồi cụ về phụ việc cơm nước.
Năm chị trung niên xuất hiện trước cửa phòng, sau họ là hai đội viên cờ đỏ tay đeo băng, vai khoác súng trường Mát. Một chị tầm ba mươi khá xinh ào vào phòng dẩu môi nguýt anh Toản:
- Ai khiến ông bắt tôi?
- Bắt cô là chí phải.
- Anh đùa hay thật đấy?
- Đâu có đùa! Cô ba nhóc rồi. Xuống nhà các em nó cho cái vòng để xinh trai. Xuống đi. – Anh Toản xua tay.
- Anh chưa to đâu – Người phụ nữ gằn giọng quay sang ông chủ tịch – Anh… hôm qua em nói với anh thế nào?
Chủ tịch xã vội vàng mở sổ, đeo kính, chăm chú đọc:
- A chết! Tôi quên! Cô ấy có đơn li dị gửi chính quyền. Ông Toản hoãn cho cô ấy đến khi có chồng mới nhé!
- Bắt nhầm! – Anh Toản cười xí xóa. Người ta dẫn một tốp khá đông anh em về trạm. Chắc là bắt tại đồng nên chị nào quần áo cũng vấy bùn. Có chị lủng lẳng giỏ cua bên hông.
Xong bốn ca, tôi lên gặp anh Toản:
- Anh cho người hướng dẫn chị em trước khi đặt vòng. Chứ thế này thì…- Tôi không dám nói hết câu.
- Cứ làm tới đi – Chủ tịch xã phất tay – Nông thôn ý mà. Các bà ấy lẩn như chạch, quây mãi mới rong về đây được. Giơ cho đi rửa ráy khác nào xui các bà ấy biến.
- Để anh làm – Anh Toản nói và băm bổ bước xuống nhà sản. Một lát đã nghe anh quát: “Lên đi… tụt ra… thế… thế…”. Một lát nữa lại nghe anh oang oang: “Đeo cả giỏ cua lên bàn thế à?... Ngửa ra, dạng ra… tốt… tốt…!”.
Được ba ca anh Toản phải lên tiếp bí thư đảng ủy đến kiểm tra. Tôi và Hà phối hợp. Một ca tôi chuẩn bị đưa dụng cụ tránh thai vào vị trí thì có tiếng đập cửa rầm rầm. Hà – dược lao vào: “Ca này có ý kiến của lãnh đạo…”. Người phụ nữ bật lên toan vớ lấy quần. Hà gạt lại: “Cứ nằm đấy… nhưng… hiểu chưa?”. Và Hà ghé tai tôi:
- Bà này bốn gái rồi. Ông chồng cố chết muốn tí thằng cu hương khói, lại là cán bộ thuộc phe phạm nên chủ tịch cho phép đặt lệch đi. Vợ chồng cò chửa là do sự cố kỹ thuật, ông chồng không bị kiểm điểm. Nông thôn nó thế, hắn ạ.
Xong ca “lãnh đạo cho phép”, một người đàn bà sấn sổ bước vào. Chị vừa khóc, vừa leo lên bàn, thổn thức:
- Cha tổ nó! Nó nhốt chị trong buồng, phải gọi cờ đỏ phá khóa các em ạ! Cha tiên nhân nó chứ! Các em cứ đặt cho chị hai ba cái càng tốt. Cốt sao nó ấy vào rồi nó phải ấy ra. Cha tổ nó! Cứ đi mà lấy vợ hai. Chị đủ sức nuôi năm con bé. Chị cần đ. gì cái chức trưởng họ. Chỉ tổ mệt bã người ra…
Gần trưa chị em đứng chật hành lang chờ lĩnh thuốc. Bí thế anh Toản nói đại: “Vô trùng tuốt” tội gì phải nuốt kháng sinh cho thêm mệt người với lại danh sách phát thuốc gửi cả bên “hội phụ nữ”. Thuốc đâu ra! Tôi chợt nhớ tuần trước anh Toản xuống phòng y tế về nắm oạch cái túi lên mặt bàn, ấm ức: “Chui đủ các cửa, giở đủ ngón mà cửa nào cũng trợn mắt lên: “Chủ động tự lo tự cứu…”. Mất cả ngày trời, hai bao Zét mới được chục nghìn bạc thuốc. Để lại hai nghìn anh phát, bán cho đám hay kêu ca, còn lại các em chia nhau…”
Bữa trưa tám mâm bày chật nhà anh Toản. Cán bộ chủ chốt đủ mặt ngồi mâm trên. Như biết tôi sẽ đặt câu hỏi sau nỗi ngạc nhiên, Lan ghé tai: “Ở làng thời nay ăn uống tinh vi hơn. Các ngành giới tiếp khách, liên hoan tại gia sau đó lên phiếu chi”. Cuối bữa, chủ tịch chỉ mặt đội trưởng cờ đỏ, như say:
- Bắt được vợ chồng “lục bướm” tao thưởng hai mâm ngũ món.
Người ta hứa quyết tâm. Sao lại “lục bướm”? Tôi hỏi. Lan, Hà cười phá lên. Té ra là “lục bướm” là thày u của sáu cô gái cách nhau năm một. “Cũng vì- Lan giải thích – trong làng có ông bác sĩ về hưu chuyên tháo vòng chui. Nhờ thế mụ “lục bướm’ được đà xoen xoét: “Tại các chị đặt nó hay lệch sao ấy”. Lần sinh cô thứ sáu, anh Toản vặc cho, mụ thút thít: “Các bác đặt chắc thế thì đúng tại cái lão nhà em. Nó cứ như giặc ấy… Các bác thắt cha nó lại hộ em..”
Ngay đầu giờ chiều người ta đã tóm được vợ chồng “lục bướm”. Bà vợ to như hộ pháp, còn ông chồng còm nhom, xanh bủng như môn đồ của thuốc phiện. Bà vợ xoen xoét: “Em đang có ấy”. Anh Toản nhìn ông chồng và chỉ tôi:
- Cô ấy là chuyên gia sinh đẻ kế hoạch, ông ạ. Mấy lần trước bà trục trặc vì ông mạnh quá. Giờ chúng tôi phải thắt của ông lại.
Nghe thế ông chồng ù chạy để mặc bà vợ bị hai cờ đỏ rong xuống nhà sản.
Thứ hai tuần thực tập thứ tư, tôi và cụ Hồi trực trạm, anh Toản đi họp huyện. Gần trưa anh Toản về trạm. Lúc đi anh nói họp cả ngày mà về giữa chừng hẳn có việc hệ trọng. Quả thế, ngày mai có đoàn kiểm tra tỉnh về trạm. Thông báo rồi anh Toản bảo cụ Hồi:
- Cụ đi tìm mấy đứa đến ngay.
Cụ Hồi lắc đầu:
- Chả có đứa nào ở nhà đâu. Hai cái Hà rủ nhau đi xem bói lá tre từ sáng sớm. Cái Lan đi làm cỏ. Còn cái Thủy đi chợ sắm lễ giải hạn cho anh trai.
- Thì cụ cứ đi nào.
Trưa, các nhân viên đến đủ anh Toản phân công:
- Viện trưởng lo cái vườn đông y. Mượn mấy cái cuốc và xin đâu bó sả, ngải cứu… về đặt ở tư thế sẵn sàng lên luống. Hai cô vệ sinh phòng bệnh nhân. Ba cô lo quầy dược, nhà sản. Tất cả cá co cho mượn giát giường, chiếu một. Rồi anh sẽ tính công…
Chỉ tôi, anh Toản nói:
- Cô Ngân, tối về phụ với chị cắt súc vải hoa Tiệp may ba tấm ri đô. Rồi đi với cái Thủy mượn mấy cái nong to phơi thuốc đông y…
Cả trạm hộc tốc tấn công đón đoàn kiểm tra. Anh Toản lôi trong tủ ra một bó bảng, biểu, phác đồ… Tôi giúp anh phủi bụi, cắt con số mới, dán đè lên số cũ. Cụ Hồi thế mà khỏe, loáng cái đã lôi đâu về hai bó sả, ngải, lại cuốc được luống đất dài.
Buổi sáng ngày đoàn đến, anh Toản mở tủ phát áo blu. Chiếc nào cũng mới cứng, thơm nức mùi hồ vải. Thiếu hai chiếc, anh Toản bảo Lan:
- Cô vù xe máy sang làng Vũ bảo tay trưởng trạm cho anh mượn hai chiếc. Mới vào.
- Lão ấy khó tính lắm – Lan ngúng nguẩy – Lấn trước mượn cái biểu dồ tiêm chủng bẩn một tí mà lão cứ cằn nhằn mãi.
- Cứ đi! Bảo lão tháng trước mượn ta cái bàn để đón đoàn huyện, lúc trả gẫy cái chân anh chưa hỏi đến đâu.
Lan đi rồi, anh Toản giục cụ Hồi:
- Đã bảo từ hôm qua mà cụ cứ đóng bộ tã tàng này thì hỏng ráo! Cụ về thay bộ quần áo khác đi. Nhanh lên.
- Có mỗi bộ lành, tôi cuốc đất bẩn, giặt chưa nỏ.
- Thì cụ cứ về mượn tam ai một bộ. Lúc làm vườn cụ nhớ ngồi ghế chứ ngồi bệt như mọi ngày là mất điểm như chơi.
Cả đoàn áo trắng rồng rắn ra tận ngã ba đón đoàn. Phần cho long trọng, phần vì đường hẹp, nhiều rãnh, cây cối um tùm xe con khó đi. Tôi đảo mắt tìm ngôi hàng hôm nào ngồi nghỉ hỏi đường và… giật thót mình! Như có bàn tay thần thánh, ngôi hàng hôm nào đã biến thành trạm “hồng thập tự” có giường, màn, tủ thuốc… y như thật. Xế cửa một quãng, một tốp thanh niên đeo bình phun, gang tay, khẩu trang tươm tất. Trên đầu mỗi người nổi bật cái mũ có băng giấy trắng, chữ đỏ: “Ruồi – muỗi là kẻ thù phải diệt!”. Đứng chờ một lát, anh Toản sực nhớ, hốt hoảng bảo tôi và Hà – sản:
- Anh quên mất điểm quan trọng. Hai cô ù về phơi mấy bao thuốc đông y cho anh. Sau đó pha mấy chai rượu bổ. Nhớ tăng cồn vào để anh mời khách nếm thử đông y của ta.
Hai đứa tất tả về trạm. Cửa quầy dược vừa mở, hai con chuột cống lao ra làm tôi hết hồn. Lũ chuột con rinh rích chạy trốn. Hà lôi trên nóc tủ, ba bao tải đầy căng. Bao ý dĩ, nhân trần mốc xanh. Bao sâm hành còn tệ hơn, động vào là nát vụn.
- Chẳn sao! Còn đón được mươi đoàn nữa mới chịu vào chuồng lợn - Hà nói và dốc miệng bao vào cái nong lớn.
Phơi xong – mà phơi trên giàn cao để khách ngửi thấy mùi thuốc chứ muốn ngó phải công kênh – Hà phân công:
- Hằn khênh thuyền với cối ra lau sạch, ném vào đấy nắm ý dĩ. Khi nào đoàn đến tớ với hắn sẽ hoàn tán. Tớ ù đi mua vài lít rượu trắng, kẹo đắng về pha rượu đông y. Ngần kia cồn anh Toản bắt pha mười hai chai làm sao được.
Chúng tôi vừa pha xong “kẹo đắng đông y” có ba cụ bà đến xin thuốc tra mắt. Cụ nào cũng che mắt bằng khăn khô đen xỉn.Hà nửa đùa nửa thật:
- Hôm qua sao các cụ không đến? Hoặc để mai có được không? Vừa báo cáo thành tích dứt điểm mắt hột, mắt quặm mà đoàn kiểm tra thấy một lúc ba cụ “cặp là té” thế này thì chết cả nút!
- Nhưng nó đau quá cô ơi! – Một cụ thì thào.
- Cứ phát cho các cụ - Tôi bảo Hà và vội vàng rửa tay khám mắt cho các cụ. Cả ba đôi mắt đều ướt nhèm, mọng đỏ, hậu quả của vệ sinh kém và thiếu sự chăm sóc y tế.
Hà mở tủ lấy ra ba ống sun phát kẽm nhưng không phát ngay mà ghé tai cụ thì thầm. “Ừ… ừ… đoàn đến tôi sẽ nói y lời cô dặn”. Một cụ nói. Một cụ gật đầu. Một cụ cười phô cặp lợi không còn một chiếc răng: “Lạy trời cho ngày nào cũng có đoàn kiểm tra…”.
Một tối, làng có vi-đê-ô, anh Toản chiêu đãi cả trạm. Trước lúc đi Lan đưa cho tôi một lưỡi dao cạo râu. Tôi ngớ ra, Thủy vỗ vai:
- Hắn ngố thấy mồ! Bọn con trai bây giờ hơn cả quỷ sứ. Chúng nó lợi dụng đông người bóp trước chọc sau. Thằng nào đểu hắn cứ cứa cho biết đời. Tớ thủ cả hai lưỡi đây này. Tối nay tớ quyết trừng trị cái thằng khốn nạn đã làm bẩn quần cái Mai.
Xem được một lúc thì loa gọi cấp cứu. Anh Toản, tôi, Hà dược lao về. Người bệnh là cô gái tầm tuổi tôi, rất xinh, mốt đến tận răng. Cô chợt mắc bệnh phụ tình và tự chữa bằng thuốc chuột. Anh Toản nới dải vải cô thít bụng dấu thai, giục tôi đi pha thuốc. May cho cô gặp được bác sĩ giỏi nghề chứ không hậu quả sẽ khó lường nổi.
Nửa đêm cô gái tỉnh táo hẳn. Anh Toản thủ thỉ:
- Hoàn cảnh mày tao không lạ. Tao sẽ kín nhẹm chuyện này. Lần sau rút kinh nghiệm. Nó lo sắm sanh quần áo, son phấn cho thì mày cũng phải thủ mấy cái ca-pốt phòng lúc sinh sự chứ…
- Nhưng nó hứa lấy em…
- Thằng ôn ấy bố nó thế có hứa cái con khỉ. Cố ngủ lấy một lúc. Tao dặn chị mày nấu cả ba bốn suất rồi.
Cô gái bật dậy khỏe khoắn không ngờ:
- Anh cho em về ngay bây giờ. Đã đến nỗi này bố con nó chức to đến mấy em cũng không kinh.Chết em cũng viết đơn tố cáo bố nó hay ăn nằm với bà… Còn nó, ngay sau tối lễ kết nạp đảng nó ăn nằm với con Hòa suốt đêm ngoài bãi…
- Thôi ngay đi – Anh Toản gắt – Con kia nó nằm thì mày đứng à? Với lại ai xin cho em mày đi tây? Hồi nọ bố mày làm nổi nhà máy bằng là trúng xổ số hay thánh giúp?
Cô gái đờ ra rồi ngã vật xuống giường. Chiếc giường và tấm thân đẹp của cô rung lên theo những tiếng nức nở.
Trở lên phòng trực, tôi và Hà trần trọc không sao chợp mắt nổi. Đếm dỗ ngủ đến hai nghìn Hà kéo tôi ngồi dậy, kể chuyện linh tinh. Thoạt đầu là chuyện tình của cô gái uống thuốc chuột. Rồi lan man đến chuyện phe, họ cán bộ ở làng. Phe nào ngoài chuyện lem nhem kinh tế cũng không ít vụ bê bối tình ái. Mấy năm trước vì mối bất hòa nào đó anh Toản công khai cái thai của cô thủ quỹ với ông anh họ kế toán. Từ đấy cán bộ xã, một số cán bộ huyện dù thuộc phe họ nào cũng phải kiêng nể trưởng trạm xá làng. Nhờ nắm trong tay cái “tròng tạm tha” nên anh Toản và các nhân viên dễ bề làm ăn lắm…
- Một con người khôn ngoan – Hà nhận xét về anh Toản như thế rồi lan man – Anh là bác sĩ giỏi có tiếng đã khám chữa cho ai thì hết lòng. Anh chị Toản sống tình nghĩa, hào phóng: Quả thế, các bạn, bà con tôi quen biết đều dành cho anh chị Toản những lời tốt đẹp. Nhiều lần huyện có quyết định điều lên làm cán bộ phong trào nhưng anh đều từ chối. Vua làng hơn quan huyện – Đó là lời bình của cụ Hồi về việc ấy. Lan thì nói: “Ông ấy mà lên huyện thì cánh tớ bị đánh bật khỏi trạm ngay”.
- “Thời cũ khua khoắng ních đầy két rồi. Nay đổi mới làm người cưỡi ngựa xem hoa, lúc im như hến, lúc phán như trời. Một mạnh thường quân có tính toán”.- Hà kết luận. Tôi hiểu nhận xét ấy Hà muốn giành cho trưởng trạm. Có thiếu chính xác và khắt khe quá không? Hà – dược là cô gái hiểu biết sâu sắc nhưng hay dùng lời lẽ cay độc. Nhớ một buổi tối bí thư đảng ủy và anh Toản tranh luận về những đổi mới ở làng. Hà chêm một câu thẳng thừng: “Cái mới ở làng ta là y nguyên như cũ. Đổi mới là cái cũ tinh vi hơn, xảo quyệt hơn”. Qua thực tế ở làng và tình cảm mọi nguwoif đối vơi Hà, tôi tin câu nói ấy là xác thực.
Anh Toản về nhà trở ra với xoong xôi ăng gô thịt gà. Chúng tôi ép bằng dược cô tự tử cùng ăn. Đang ăn, Hà chống đũa nhìn anh Toản:
- Một tuần nữa Kim Ngân hết đợt thực tập mà tận bây giờ anh mới nghĩ ra một việc cần cho nó, cả anh chị nữa.
- Việc gì thế? – Anh Toản hỏi dồn.
- Chúng em bắt nó xưng hô “anh chị” với anh là dở hết chỗ nói. Trong khi đó cả làng này chưa thấy có cô nào xứng đôi với cậu cả nhà anh bằng Kim Ngân đâu.
Anh Toản đờ đẫn một lát rồi mới gượng cười được. Chính điều ấy khiến tôi đỏ mặt hơn. Anh chị Toản có hai người con. Người anh là sĩ quan quân đội, người em du học bên Tiệp. Chỉ nhìn anh cũng biết họ là người trong mơ của phái yếu đuối tuổi yêu đương.
Tảng sáng có ca đẻ. Sản phụ ở xa trạm lại thiếu hướng dẫn y tế nên nước ối sũng lòng võng cáng. Tôi bảo Hà đừng đánh thức anh Toản. Hai đứa dìu sản phụ lên bàn. Hà líu ríu:
- Chị được dùng xô bàn mới, sướng nhé. Cảm ơn cái Ngân đi. Nhớ mời nó ăn cỗ mụ nhé…
Lời Hà khiến tôi nóng ran người. Từ ngày về thực tập tôi và các bạn cùng trưởng trạm làm được một số việc. Bộ mặt và phong cách làm việc của trạm có những thay đổi, tiến bộ đáng kể. Chả hiểu các bạn tôi nói sao mà nhiều bà con hễ gặp là cầm tay tha thiết: “Có biết thương làng thì về làng nhé”, “Về cho chúng tao nhờ vả lúc ốm đau nhé...”.
Một ca mẹ tròn con vuông. Đứa trẻ bụ bẫm đẹp như tranh. Ôi! Sẽ chẳng bao giờ tôi quên được giây phút lần đầu tiên tự mình đón đứa trẻ ra đời. Tiếng khóc chào đời của cu cậu mới tuyệt vời hạnh phúc làm sao! Oa…oa nhé. Lại tóp tép miệng đòi ti ngay nữa chứ!
Lại một tuần trôi qua với biết bao công việc đã khép kín sáu tuần thực tập của tôi bao cơ là bao cơ chuyện trong năm tuần và một cuối cùng ấy. Nhưng… bạn thân mến ơi! Dịp khác nhé. Xin chờ dịp khác nhé.
MỘT MIỀN KHẮC KHOẢI
Câu truyện này xin bắt đầu từ một đêm trăng. Trăng lên. Cả nhà tôi ngồi quanh đống lúa chọn giống cho mùa sau. Bà tôi cầm len nẹn lúa, quay qua thầy tôi:
- Thầy u con Na này. Mai cho tao ra đồng cắm cái niềm, ăn bữa cơm đầu bờ lần nữa. Chứ tao nghe ra khó được trông thấy mùa sau.
- U…chỉ nói gở - Thầy tôi gạt đi.
U tôi nhẹ nhàng:
- Chúng con xin khất u buổi khác. Chứ mai gặt chân trũng, lúa đổ mệt lắm.
U tôi nói rối nhưng biết làm sao khác. Vì lòng thương, lòng kính trọng người già. Tôi vào hùa với u:
Cánh vục Ấu lầy lụt, lắm đỉa lắm. Để hôm nào gặt đồng cao bà nấu cơm gánh ra đồng như mùa trước ấy.
Cha tổ cháu bà – Bà chửi yêu, cầm lên nẹn lúa thích lại với chị em tôi thủng thẳng:
- Tháng trước lên đền Mẫu Lễ khai hạ, bà nhờ cụ từ đảo xem bát hương bản mệnh các cụ bốc cho thời con gái. Đồng trinh thất bảo xỉn mục. Lại mấy hôm bà mơ thấy cụ Tú Trâm. Cụ về nói chuyện ngày xưa rồi bảo;“có việc cần làm sao chưa làm? Làm đi rồi ta cho đi hội đền Cha”. Bà gặng hỏi việc gì. Cụ lắc đâu chỉ tay ra phía bờ sông. Nhờ lời cụ đêm qua, tháng Tuất này bà đi hầu các cụ.
Chị em tôi cười khúc khích. Tháng Tuất là tháng sau. Bà đã ngoài tám mươi nhưng còn mau lẹ đủ việc, lời bà đích thị là thoáng lẩm cẩm của tuổi già. Vĩ nhân về già lắm khi còn quá lẩm cẩm nói chi người thường. Tôi buột miệng:
- Mộng mị buồn cười lắm. Bà tin làm gì cho thêm mệt.
Bà tôi như không nghe thấy.
- Đêm nay thế nào cụ cũng về. Bà sẽ giữ cụ hỏi bằng được xem việc ấy là việc gì. U tôi bật cười. Thì ra u chỉ dành nửa tâm cho cuộc thì thầm với thầy tôi.
Hôm sau, hôm sau nữa… cho đến buổi gặt cuối cùng vẫn không thấy bà nhắc đến việc đi gặt. Mới hay người già mau nhớ mau quên. Hôm rửa liềm cất mùa sau, cậu út huơ cái liềm xén trêu bà:
- Bà ơi, mai bà cháu mình đi gặt đồng cao bà nhá.
- Cha tổ mày chứ - Bà mắng yêu út, xách xô ra vườn tưới rau.
Không ngờ giấc mơ linh nghiệm. Sau lễ xá tội vong nhân bà tôi ngã bệnh. Triệu chứng ban đầu là cơn chóng mặt, sốt nhẹ. Cậu ruột tôi bác sĩ chuyên khoa nổi tiếng, khám bệnh cho bà xong kéo thầy tôi ra ngoài.
- Không nên đưa bà đi bệnh viện.Vừa tốn kém lại không giải quyết được gì.Tốt nhất bà thích ăn gì thì mua .
Chiều muộn, cụ lang Mạc sang thăm bệnh cho bà, cụ xem mạch, thở dài lo âu hằn rõ trên gương mặt người bạn già của bà.
Không khí trong nhà tôi trầm hẳn xuống. Mỗi người già lên mấy tuổi. Bữa cơm nào cũng thừa.
Tháng Tuất đang ở những ngày cuối. Bà tôi như cành núc nắc mùa đong rơi xuống đống chăn dầy. Thuốc thang bao nhiêu cũng không đủ sứcđẩy lui con bệnh tuổi già. Duy thần sắc, giọng nói của bà vẫn như thường. Tàn lực vị thần. Đấy là niềm hi vọng của gia đình xóm láng.
Một buổi sáng, tôi ngồi bóp chân cho bà.Hai chân bà ấm,nhẹ nhõm hơn mọi ngày.
- Bà thấy dễ chịu rồi. Bà tôi nói, co co hai chân.
- Ngồi lên bà bảo cái này.
Tôi kê lại bao trấu bà dựa lưng, dỗ dành:
- Cháu lấy cháo bà ăn cho nóng bà nhé.
Để lát nữa, bà tôi nhìn lên trần màn, bâng khuâng – Đêm qua cụ Tú Trâm về chơi. Cụ nói bà mới nhớ ra. Còn sống đến giờ thì cái Tâm nhà ông Chí, cô Nở bằng tuổi bà. Tuổi Tuất, Bính Tuất.
Trời đất, nếu bà không đang ốm tôi sẽ ôm bà cười ra nước mắt. Ai lại đem mình ra vận vào hai kẻ ấy.Tự dưng tôi gợn một thoáng trách bà đã khiến tôi phải nhớ cái chuyện không muốn nhớ.
Làng tôi, đích danh làng Vũ Đại. Chí Phèo, Thị Nở là người hàng xóm tôi. Chuyện cũ đã có người người chép thời mới, tên làng, dù đã có hàng chồng đơn xin đổi, trên không duyệt, đành chịu. Dân làng tôi bằng đủ mọi cách triệt nọc “di tích” mà cụ Nam Cao đem vào văn học hiện đại nước nhà. Khu nhà cha con Bá Kiến được cải tạo thành trụ sở Đảng bộ. Vạt vườn chuối có túp lều cô cháu Thị Nở, giữa những năm sáu mươi được san ủi xây ngôi nhà trẻ mẫu. Cũng những năm ấy khu lò gạch cũ được đoàn thanh nieencair tạo thành vườn ươm tặng hội phụ lão. Đến thế mà vẫn không thoát tiếng tăm. Hồi còn trường cấp hai liên xã trò Vũ Đại khổ sở vì các làng “Ê, dân Vũ Đại kia kìa…”, “Này! Bác Chí nhà đằng ấy độ này còn bợm chứ!”, “A lúi! Thị Nở có họ với hắn à?”… Đại để thế.
Cuối cùng tôi cũng gạt đi được những điều không muốn nhớ! Tôi cầm tay bà lắc nhẹ:
- Cháu hâm nóng cháo bà ăn nhé.
- Bà không thấy đói – Bà tôi lắc đầu, mắt không rời ô cửa sổ hé mở. Hình như bà chờ đợi cái gì đó ngoài kia. Một lát bà thở ra nhẹ nhõm – Làng này khối người biết, nhớ chuyện ấy. Nhưng chả ai muốn nhớ. Bố thế, mẹ thế nhưng trời thương phật độ cho đứa con kháu khỉnh đáo để. Trời bỏ sống thì năm nay trạc tuổi u cháu.
Gắng lắm mới kìm được tiếng thốt kinh ngạc. Chí Phèo, Thị Nở có con. Bà tôi đãng trí đến nỗi này ư. Tôi đã lầm. Bà vẫn nhớ nhiều chuyện thời còn là cô Tảo nết na xinh đẹp có tiếng của làng Vũ Đại. Nhưng mãi đến năm tám mươi bảy tuổi bà mới đủ sức gồng lên vượt qua nhiều ngáng trở để thổ lộ nỗ day dứt nhất đời với đứa cháu bà tin yêu.
Để khỏi mất thì giờ tôi xin tóm lược chuyện của bà thời là cô Tảo chưa chồng.
“…Sáng ấy, trời xui đất khiến thế nào cô Tảo lần ra khu lò gạch hoang cắt cỏ. Quang gánh đến khóm ruối thì cô hết hồn vì tiếng rên rỉ từ trong lò gạch.Hồi lâu trấn tĩnh cô vén lau lách nhìn vào. Thì ra Thị Nở. Thị trần truồng quằn quại trong vòm cửa lò gạch. Chốc chốc Thị quằn sấp, lật ngửa, đập tay lên bụng. Không đành bỏ đi cô Tảo vào với Thị. Cô rùng mình lóa mồ hôi hột. Thị Nở như tắm trong vũng nước ối. Cái đầu đen nhu nhú đang chờ bàn tay đón. Cô Tảo vội xắn tay áo. Chiếc khăn vuông làm tã. Lưỡi liềm cắt rốn.Bé gái bụ bẫm choài choài trên vạt cỏ, khóc toang toáng. Thị Nở lịm đi, mãn nguyện. Cô Tảo úp nón che mặt cho Thị, bế đứa trẻ về vườn chuối trao cho bà cô Thị. Cô tắt đòng trở ra lò gạch. Thị Nở ngủ say như chết. Bị đánh thức, Thị chồm dậy cười hô hố. Thị bước thình thịch như không hề vừa qua cơn vượt cạn.
Làng Vũ Đại xôn xao. Thị Nở đẻ ra con gái đứa bé không giống cha cũng chẳng giống mẹ. Bé gái ăm ắp lời năng là cô gái đẹp. Nó ra đời đúng hôm cúng bách nhật lão Chí. Người dang tay đón, rửa liềm cắt cuống, chôn nhau là cô gái từng phát lời thề thà chết chứ không cam làm dâu con nhà Bá Kiến.
Đúng ba tháng sau. Tinh mơ đi chợ bán rau, đến cuối xóm cô Tảo gặp cụ Tú. Hình như cụ Tú vừa mãn đêm cô đầu xóm bãi. Cô hạ gánh chào cụ. Cụ gật đầu: “Ta đoán không sai’. Cô Tảo nghĩ cụ đón đường nói chuyện mối manh. Nhưng cô nhầm, cụ Tú ngậm ngùi.
- Đã thương thì thương cho trót. Thế mới phải đạo làm người. Cháu không ngại bẩn thỉu, dang tay đón nó ra đời. Cớ chi không đặt cho nó cái tên. Sơ sinh sắp đầy cữ mà chưa có tên là có tội với trời đất. Mà nó tội tình gì!
Cô Tảo cúi mặt. Cụ Tú nhìn trước nhìn sau, vén áo the lấy lấy ra năm đồng bạc dúi vào tay cô.
- Đưa cho mẹ con nó. Bảo đặt tên là Tâm. Người ấy phải xứng với tên ấy. Ta bấm ngày giờ sinh, xem tử vi, biết hài nhi phải một thời phiêu bạt quê hương. Nhưng có phúc, có phần. Con bé rồi là người quyền quý, sang trọng và đức độ lắm. Chuyện này chớ lộ với ai. Cháu đi đi. Các cụ sắp hết chầu hát sáng rồi.
Cô Tảo run bắn cả người. Phần ngạc nhiên trước thái độ của bậc nho sinh tiên chỉ làng. Phần nữa tiếng là con nhà khá giả nhưng chưa bao giờ cô cầm trong tay món tiền to đến thế. Năm đồng bạc là ngót mẫu ruộng, là hai suất sưu. Cô run rẩy nhấc gánh. Cụ Tú phải giục hai, ba lần cô mới cất bước nổi.
Cô Tảo gánh cả gánh rau vào vườn chuối. Trong túp nều vườn vóng tiếng vóng rống tiếng khóc Thị Nở. Cũng may túp nều khuất nẻo chứ xom riềng khổ sở vì cô cháu Thị. Tối nay Thị với bà cô dở người s hết cãi chửi nhau quay ra khóc than. Cô chửi cháu khóc. Cháu cãi cô khóc. Cứ thế!
Cô Tảo vén mành chiếu che cửa. Thị Nở vật vã giữa nều. Thị ở trần, hai vành vú căng rức, sữa chảy ròng ròng. Ổ lá góc lều có lưng thúng gạo, nắm tiền lẻ. Nhận ra cô Tảo thị chồm lên. Thị gào. Thị đấm hai giành vú. Sữa bắn đầy mặt cô Tảo. Cô níu Thị ngồi xuống dỗ hỏi. thụ chỉ thúng gạo, chỉ mớ tiền. Cô Tảo bàng hoàng. Ai bảo bà cô Thị dở người! Độ gà gáy canh ba mụ dẫn về tốp người buôn chuyến miền ngược. Mụ bán đứa trẻ giá nửa thúng gạo, đồng hai bạc. Mụ bán mình, đi theo tốp buôn người với giá hai cóc rượu ty. Cô Tảo dỗ dành thị và đi hái lá thuốc nhức sữa. Gánh rau muống bị nắng héo quắt đành đổ xuống sông. Trước lúc về cô Tảo đưa cho thị món tiền của cụ Tú. Thị đờ người ra. Thị nức nở.
- Ơn cụ. Ơn cô. Con đứt ruột còn chả giữ được cầm tiền mua gỗ chôn à.
Cô Tảo gạt nước mắt về. Ai bảo Thị dở hơi. Cô thuật lại sự việc sự tình với cụ Tú Trâm , cụ Tú thở dài, bấm đốt ngón tay, lắc đầu.
Phiền cháu giữ giúp ta món tiền ấy. Qua mùa gặt, ắt có việc dùng. Chớ lộ với ai.
Mùa gặt qua đi. Một buổi sáng, người mõ thấy xác Thị Nở nổi bềnh giữa giếng Tiên trước cửa đình. Lý trưởng lệnh cho đám tuần đinh vớt xác buông sông. Cụ phó hội bàn thêm- Phải thay nước riếng thiêng. Cụ Tú Trâm cất lời thu xếp. Thị Nở cởi áo quan, vải liệm và nắm đất góc nghĩa địa làng.
Đang dịp đói kém nhưng đám tang Thị Nở khá đông. Người đưa đám lỉnh kỉnh bị gậy. Mãn họ tản tác đi kiếm ăn. Dân làng Vũ Đại có dăm ba người nhớ, bấm đôt ngón tay tính ra ngày Thị Nở chết đúng hôm giỗ đầu lão Chí.
“- Sau đó đến nay có tin tức gì về cô Tâm ấy không bà”. – Đó là câu hỏi vội vàng và dầy phất phỏng của tôi ngay khi bà ngừng kể.
Bà tôi lắc đầu:
- Tịnh không ai biết mảy may. Ngay cả đường nét mặt giờ gặp bà cũng không nhận ra nổi. Bà chỉ nhớ nét mặt nó đẹp lắm. Bà bế ẵm bao nhiêu đứa nhưng không có đứa nào được như nó. Đẻ ra có tràng hoa cuốn cổ. Có vết chàm đỏ ở lòng bàn tay và nốt ruồi đôi ở của mình. Các cụ bảo đấy là tướng cao sang…
Tôi đứng lên đỡ bao chấu bị nghiêng bởi cơn ho. Mấy hôm nay bà ho nhiều hơn. Dứt cơn bà nhìn tôi khẽ khàng:
- Bình sinh cụ Tú có dặn người con cả, vào các năm Ngọ, năm Mùi tìm cách tìm kiếm con bé về biết quê hương bản quán. “ Thìn, Tị ly thân thích; Ngọ Mùi quy cố hương”. Nhưng anh con cụ gạt đi. Phần anh ta là cán bộ to. Phần không muốn dây vào chuyện không hay, người xấu. Bà cả đời chả được ra khỏi cổng làng, lo nuôi chồng con , quán xuyến việc nhà. Có muốn cất công tìm kiếm cũng không được. Mà cũng không dám nhờ vả ai. Có lần nói với thầy cháu việc này, thầy cháu gạt đi: “việc gì đến u. Bao nhiêu công của vẫn chưa xóa hết tiếng sấu. Tìm rước của ấy về nó chửa cả làng à…”
Tôi đỡ bà nằm xuống và đi hâm cháo. Bưng cháo lên, đã thấy bà ngồi dậy nhìn trần qua ô cửa hé mở. Bà ăn cháo cho nóng – Tôi đặt bát cháo vào tay bà. Được vài thìa bà đặt bát cháo xuống, thở dài: - Bao nhiêu năm cứ nghĩ đến chuyện ấy bà nuốt không xuôi, ăn gì cũng thấy đắng ngắt. Đêm rồi gặp cụ tú, bà ngẫm lời cụ thật chí lý chí tình. Nay mai về đưới ấy biết đâu chả hỏi han về con bé. Thì bà biết ăn nói sao. Thà rằng chẳng biết cho xong.
Bà cầm bát cháo lên, xúc vài thìa lại đặt xuống. Muống bà ngon miệng tôi nói:
- Bà cứ yên tâm. Nay mai cháu nhờ đài nhắn tin. Còn sống thể nào cô Tâm ấy chả về thăm quê, thăm bà cháu mình. Việc ấy khó gì ạ.
Đôi mắt mờ của bà tôi sáng lên, tin cậy. Bà bưng bát cháo ăn ngon lành.
Năm ngày sau. Tinh mơ tôi đã ra đồng làm cỏ. Quãng nửa buổi sáng, Đứa em hàng xóm chạy ra đứng đầu bờ, cuống cuồng “Về… chị về…, bà mệt lắm…”. Tôi nhào lên, ngã sấp giữa ruộng. Đường về tôi bám vai đứa em, gắng lắm mới khỏi gục ngã.
Trong nhà tôi khá đông người. Tôi nhào vào giường bà. Tôi lay. Tôi gọi hồi lâu bà tôi khẽ hé mắt. Anhs mawys chiếu vào tôi. Bà gật đầu. Chỉ mình tôi hiểu ánh mắt ngắn ngủi, cái gật đầu yếu ớt của bà. “… Việc ấy đến đâu rồi?…”. Cũng chỉ mình tôi hiểu việc ấy là việc gì! Hỡi ôi! Để bà ăn ngon miệng tôi hứa làm việc nhắn tìm và không chỉ một lần tôi hứa. Và hơn một lần tôi nghĩ đấy chỉ là chuyện bà kể lại cho mà biết. Nào ngờ cả khi sự sống chỉ còn giây phút bà vẫn hi vong, chờ đợi sự giải thoát một niềm khắc khoải. Bà cần một sự thật mang sang thế giới bên kia an ủi hai con người khốn khổ nhất lịch sử làng Vũ Đại. Thế mà tôi. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi lao ra nhà ngoài.
Tôi giật bung cánh tủ lấy ra chiếc đài cát sét ấn nút ghi. Tôi ghé sát cửa máy, cố đánh lạc giọng mình. Tiếng băng chạy rè rè.
- Bà sắp mất… mà mày làm trò gì thế Na? Ai đó quát.
Tôi làm như không nghe thấy. Tôi ấn sẵn nút phát, xách cát sét vào trong buồng. Tôi để máy trên đầu giường, lay gọi bà. Bà hé mắt nhìn tôi. Tôi mở máy. Tiếng băng rè rè. Tiếng người vọng ra:
“Cháu là Tâm… cháu đã nhận được tin nhắn tìm của bà… xin bà yên lòng. Cháu và gia đình đang thu xếp để về với bà, với làng…”
Máy tự động tắt. Đôi mắt bà tắt dần ánh nhìn. Môi bà tắt dần mấp máy. Hỡi ôi. Vào tích tắc cuối đời bà mới được nhẹ nhõm nỗi khắc khoải bám riết cuộc đời từ thời con gái bằng trò giả mạo của đứa cháu bà tin yêu nhất. Biết làm sao được!
Có ai nghe thấy không? Ngày… tháng… năm trong mục nhắn tin của đài phát thanh có lời nhắn: “Cháu gái Tâm, có đặc điểm… Xa quê trong hoàn cảnh… Bây giờ ở đâu? Báo tin cho bà… địa chỉ làng Vũ Đại…”. Hôm ấy là lần phát thứ năm, trùng với bách nhật của bà tôi. Trước đó tôi đã nhờ người bạn làm báo giúp việc nhắn tìm trên mặt báo.
Nếu câu chuyện trên may mắn đến được với các bạn thì đó là niềm an ủi tuyệt vời cho người con gái nhà quê. Xin coi đó là chi tiết sơ cư cho lời nhắn tìm: “Cô Tâm có đặc điểm vết chàm đỏ… nốt ruồi đôi… bị bán cho… Ở đâu xin báo tin cho… địa chỉ làng Vũ Đại…”.
LÃO TRƯỞNG XÓM
- Xóm Vũ họp. Kẻng báo bảy giờ tối. Đài “tút tút” một lúc người đã ngồi trật sân đình. Mấy mươi năm… Cũng may xóm còn giữ được ba gian đình bẹp, miếng sân chó giãy làm nơi hội họp. Cũng mấy mươi năm, xóm mới có cuộc họp mau đông đúc đến thế. Này! Xóm họp để thành lập xóm mới đấy. Ơ! Ăn nói rõ dớ dẩn. Hầy! Việc đời vốn lắm éo le.
Thì nói tuột cái sự “lé eo” ra nhớ!
Hơn hai chục năm trước, Đại Lăng xã được chọn thí điểm đường lối làm ăn lớn. Cơ giới hóa. Điện khí hóa. Gà lợn hóa… Viễn cảnh hóa đầy ắp các cặp tài liệu. Rừng rực những cuộc họp thâu canh gà.
Nông nghiệp lớn khong thể chấp nhận kiểu xóm, đội cò con. Làng xóm nháo nhác vào cuộc sát nhập. Xóm Vũ gốc gác ngụ cư, quần tụ kiểu trại ấp, cách làng “nội địa” vạt đồng lớn, con sông rộng vầy vậy. Tin sáy nhập bay ra. Bảy mươi bảy hộ đồng thanh sát với bảy mươi hộ “nội địa” thành đội Tiền Phong. Dân làng xanh mắt. Cái xóm ba ngang có tiếng là cách mạng quá ta. Vũ say viễn cảnh hóa? Hay Vũ hốt bánh xe lịch sử nghiền nát làm tương? …? Té ra các bô lão thúc con cháu cách mạng nhằm mục đích kéo sân kho, trụ sở quân đội qua sông. Như thế tiếng là lớn đội mà vẫn tiện lợi như thời xóm cò con. Nhưng ý xã ủy lại khác. Xóm như đảo. Đường gang tay.Cầu khỉ thế… Lãnh đạo, đường lối, nghị quyết đi lối nào? Tiểu phải lụy đa! Dân xóm giở thói phá ngang. Để an dân, xã ủy hứa lập kế hoạch xây cầu, đắp đường. Xe trọng tải lớn sẽ “bim… bim…” dọc xóm. Dân Vũ chỉ thiếu nước rập đầu lạy tạ ơn trên.Được vài năm, đường vẫn thế. Cầu vẫn khỉ. Lại có lệnh di xóm theo quy hoạch dân cư Hai Nghìn. Vài nhà dư dật chạy trước. Đa số dân xóm ăn chưa đủ chả lẽ vặt răng bán chạy nhà. Hơn bốn mươi vụ gặt cười, khóc trôi qua xứ mạng Tiền Phong. Kế hoạch cầu đường và quy hoạch “Hai Nghìn” vẫn là kỳ phùng địch thủ. Chỉ khổ cái dân Vũ.
Cơ chế mới lên sân tung chưởng quyết đo ván lề lối cũ. Trong cuộc nhị vị yêng hùng tỉ thí ở Đại Lăng có pha tái lập xóm. Hỡi ôi! Tiền Phong tầm cỡ rũ cánh. Con cò Vũ đến cơ vận hồi sinh. Hạ hồi chưa biết “mèo-mỉu” thế nào. Nhưng nguồn tin “Vũ hoàn Vũ” vừa qua cầu khỉ mấy tay ba trợn đã phanh ngực hết xin tử thủ với “kiếp cò con xóm” lại vỗ tay vạn tuế “cò con Vũ”.
Có tay ba trợn sành nho nhe lý giải: Vũ tức là lông. Đã bé tí teo lại ở tít cuối làng ắt phải là xóm “Lông… Dưới”. Ha… ha… dân Vũ ưng mới kỳ. Cần một trưởng xóm mới ra trò. Biết thế! Nhưng chọn ai?
Quyết định lập xóm được công bố. Tiếng vỗ tay tưởng bay mái đình. Đến mục giới thiệu chức ứng cử viên chức trưởng xóm. Ồn ào. Thật ồn ào. Giới thiệu. Rút gọn nhân sự… Danh sách ứng cử viên còn tròn hai. Đối thủ tranh cử là lão Đổng. Lão ấy to như hộ pháp. Ngữ ấy chỉ giỏi vào cày dong trâu.
- Kính thưa các bậc cao niên, trung niên và bạn trẻ - Chuyên gia chủ tọa oang oang – Chúng ta đã thực sự dân chủ trong việc lựa chọn ứng cử viên chức trưởng xóm. Căn cứ vào hiến pháp. Chiểu theo luật bầu cử. Chấp hành nghị quyết của tỉnh, huyện đảng bộ và nghị quyết của xã, chi ủy. Bà con ta đã bầu trưởng xóm bằng phiếu kín. Như luật định, trước khi bầu, đề nghị bà con cử ban kiểm phiếu.
- Tôi có ý kiến. Bà trung niên đứng cái phắt. Bà nhổ quết trầu đánh toẹt – Các ông cứ bày bày phiếu phiếu làm gì cho mất thì giờ, tốn giấy, phí mực…
- Ta chiểu theo luật. Sống và làm việc theo luật, thưa bà… - Chuyên gia ôn tồn.
- Vâng, thưa ông. Tôi cũng biết luật.Nhưng tôi còn thấy bao nhiêu cuộc cử bầu người tôi ưng đều không trúng. Cái tên tôi gạch rõ đậm sợ kiểm phiếu kém mắt thì lại đứng đầu bảng. Đời tôi đủ biết mùi phiếu kín rồi. Cho nên tôi có ý kiến như vầy. Ta nên bầu bằng cách giơ tay. Trên có ông giăng, đất có ánh đèn. Hai vị ấy, ưng ai thì chúng tôi giơ tay. Chẳng có phiếu nào kín bằng bàn tay cày cấy.
Sân đình thoắt chung chiêng trong tiếng vỗ tay, những lời hưởng ứng.
- “Hoan hô mẹ cái tĩn… Đêm nay thế nào bố cu cũng tặng cho cái chân giò”.
“Hoan hô… bàn tay… phiếu bàn tay”.
Lão Đổng trúng chức trưởng xóm với số phiếu áp đảo. Tin ấy chẳng mấy chốc lan khắp Đại Lăng, trở thành chủ vị những cuộc bàn luận.
Vì sao lão Đổng trúng chức trưởng xóm? Câu hỏi ấy có rất nhiều câu trả lời. Ví dụ: Để thưởng công lao bậc lão nông tri điền. Cái xóm đàn bà cũng say bầu lão hay rượu để say cho khỏe. Hoặc thời dân chủ dân ưng người dám đội cả chồng đơn… Rất nhiều câu trả lời bị phủ nhận. Xin hãy nghe đoạn trích cuối băng bức vách tình cờ người đi te đêm thâu được.
- “Ông mình ơi! Ông làm trưởng xóm thật ư?” – Giọng nói trong ngọt như đàn. Giọng bà vợ lão Đổng đấy. Thời con gái bà nết, bà xinh có tiếng. Việc đồng nó tống xuân đi. Bà kém đi những xinh giòn nhưng giọng nói vẫn nguyên thời son trẻ. Nói trộm vía! Bà đứng trong bóng tối nói ra, lọt tai, thì nghìn tay trai tơ chết mệt cả ngàn”. Ta nghe tiếp:
- “Chậc! Thì bà bảo, bà con họ bầu, chả lẽ - Lão Đổng đủng đỉnh.
- “Thì họ bầu. Nhưng làm hay không làm là quyền ông mình chứ. Ông mình cứ ngẫm mà xem. Thời trước chỉ chân ban đội, dao thớt quản trị vợ con cũng được mát mặt. Cứ từ chân đội trưởng trở lên là mưa không đến mặt, nắng không bén đầu. Chẳng những vợ con đình huỳnh mà hàng họ cũng được nhờ. Giờ chính sách mới. Ruộng công được thời tư điền. Sai sót cả họ nửa làng là không xong. Ăn nhằm gì…
- “Ơ! Thế có ăn nhằm thì tôi mới lên làm hở bà!”
- “Tôi không nghĩ thế. Có điều ông mình cứ nghĩ mà xem. Rượu chè, cờ bạc, trai gái, ngoa nguề… Cái xóm như bàn tay mà xấu xa tội lỗi chất cao như núi, đổ đầy góc biển. Người tử tế ra đường cấm dám ngẩng đầu…
- “Ấy đấy bà mình ơi! Tôi nhậm chức là để bà mình đàng hoàng ngẩng đầu đối mặt với thiên hạ.
- “Gớm! Tôi nói chung chung. Chứ thân tôi mà phải cúi đầu à”.
- “Thì bà mình vẫn ngẩng cao đầu. Bà mình chặc… còn sạch sẽ. Tôi cũng đâu phải cúi đầu. Rồi bà mình xem. Chặc! Cuốc ruộng cả ngày, tối họp thâu. Xương cốt nhão cả ra. Bà bê cái hũ ra cho tôi làm cốc nào”.
- “Này! Hôm nay ông mình hai cốc nhé. Mà này! Tôi nghĩ hay ông mình chỉ nhận quyền thôi. Mới chỉ là quyền, có sơ sẩy gì cũng nhẹ án…”.
- “Ừ! Thì quyền trưởng xóm. Bà mình nghĩ đến là hay. Chà… chà! Tiên sư cái anh tam xà. Nhấp vào là cứng ra ngay…”
- “Gớm chết cái… ông mình”.
Giữa tuần trăng xóm Vũ lại họp. Để trưởng xóm ra mắt. Và bà con bàn việc xóm láng, làm ăn. Cũng là lần đầu tiên chủ tọa là người do chính họ bầu lên.
Trăng vằng vặc. Chiếu trải kín sân. Nước chè xanh đặc sánh. Điếu cày roanh roách. Tân trưởng xóm có khác. Lão ta không cần bàn ghế. Lão ta ngồi góc sân với đám lão ông. Chà chà thuốc nước. Chuyện như mổ bò.
Tám giờ, rít vội điếu thuốc, trao ống điếu cho người bên cạnh, Lão Đổng bước ra giữa sân đình. Lão nhìn khắp, cúi nhẹ đầu:
- Thưa bà con, ta họp thôi ạ. Loa xã đã loa, xin miễn đọc quyết định của cấp trên công nhận trưởng xóm Vũ ta. Chỉ dám hỏi bà con có thực lòng bầu tôi?
- “Chứ lại không à” – Nhiều tiếng đồng thanh.
Lão Đổng lùi vào góc sân. Lão khum hai tay giữa lòng, giọng sang sảng:
- Xin đa tạ bà con. Trước khi bàn việc chung, tôi xin phép các bậc cao niên, toàn thể bà con đặng có mấy lời. Những lời tôi sắp nói có thể bất nhã. Thậm chí lếu láo. Nghe được, bà con xin có ý kiến. Không lọt tai, các vị bãi ngay chức trưởng xóm của tôi.
Sân đình im phắc. Cổ kim chưa thấy ai vừa nhận chức đã ăn nói như vậy. Lão Đổng vẫn sang sảng:
- Thưa bà con! Tôi đây, bà con ta ngồi đây, cũng như ai vắng mặt, con cháu ở nhà… Tất cả chúng ta một thời là lũ bợm người.
Sân đình vẫn im phắc. Sự im lặng đông cứng.
- Chúng ta là một lũ bợm người. Lão Đổng nhấn lại, giọng rắn đanh. Đi làm ăn cắp giờ công. Đi gặt ăn cắp thóc. Vãi đạm ngầm đút thứ cứt hóa học vào túi, đổi rượu. Nộp thuế đút thóc lép, gạch đá vào giữa bao. Dám đội bão gió ra ỉa đầy mộ cha thằng ức hiếp, ăn chặn nhưng với kẻ sờ sờ thì run rẩy, cúi luồn… Xóm làng nhăm nhe vặt của nhau từ con gà chíp đến quả chuối xanh. Đọt măng bên này nhú sang bên kia là ngầm chém tận gốc. Trái ý nhau một tí là dọa đốt nhà, đào ao sát móng tường. Xóm ngõ không mấy khi ngớt tiếng chửi rủa. Tóc bạc, đầu xanh, trên dưới như cá mè ranh đồng rứa. Trai tráng động một tí là nói chuyện với nhau bằng con dao. Ra đường trẻ con chửi đ. mẹ con già, thằng lão. Bắt con em bỏ học vì không có tiền sách bút, nhưng một tiếng bán nhà cửa vườn tược đi ngồi vào quán… Đấy! Sơ sơ thói bợm như vậy.
Lão Đổng ngừng lời nhìn bao quát. Lão nói tiếp, giọng lắng xuống:
- Cái phần người trong ta cũng không được ra hồn người. Đui mù, câm điếc, điên khùng. Nhìn con gà cõng cả tấn thóc vào cót nhà ai; lòng lợn dẫn được điện cao thế; rượu bia chưng cất bằng sắt thép, xi măng; gạch ngói nấu ra rựa mận, dồi chó. Văn phòng đêm có gái trần truồng. Ta có biết, có nhìn, có nghe thấy không? Biết hết. Nghe rõ. Nhìn tỏ. Nhưng ta như không có mắt, không có tai, bị ai cắt lưỡi mất rồi. Cái phần người không ra hồn người ấy phải vắt mồ hôi ra để sắm máy móc. Phải còng lưng xây sân kho lớn triệu viên. Mồ hôi lao lực một thời giờ, là đống sắt vụn, là hòn gạch non. Lại có những khi bỏ bố già nằm xó đi đắp đường đón ông to bụng. Động viên con cháu đi lính tráng để ở làng kẻ đảo ngũ cưỡi lên đầu cha mẹ người hứng hòn tên mũi đạn. Lại nữa, bao nhiêu năm tảo tần dốc lòng, phần người vẫn ra vào mái gianh nát… Thưa bà con! Nếu cái phần người còn lại ra hồn người, cường tráng… thì đâu có những cảnh đời thật như đùa, thực ngỡ mơ, như ác mộng. Âý là việc hôm nay phải bàn.
Bài tuyên thệ nhậm chức kết thúc. Lão Đổng run rẩy lùi vào gốc hiên đình. Khối người trên sân vẫn lặng phắc. Những ánh mắt chớp chớp gặp nhau. Chợt đâu đó có tiếng sụt sùi. Có người kéo vạt áo lau mắt. Giuwax sân, một cụ già chống gậy đứng lên. Cụ nhìn khắp:
- Xem ra ông trưởng xóm nói có lý đấy bà con ạ. Vì sao đến nỗi này? Nay gặp vận hội cho làng ra làng, xóm ra xóm, thì nói nhiều chi bằng bàn cách làm ăn, khu xử. Đặng phần ngợm phải chết. Phần người khỏe lên, sáng rạng ra…
Lời cụ già đã khởi động không khí ồn ã truyền thống ở làng.
Cái ông giời giở chứng khóc dai. Đêm nay nữa là bảy đêm tầm tã. Lão Đổng khoác áo bạt dò dẫm trên đường trục xóm. Ruột gan lão nôn nao quá vãng. Cuộc đời lão gắn bó với con đường này. Thơ bé lê la, té nước, vấy bùn, đuổi chuồn, chạy diều. Lớn lên gánh lúa, gánh phân… Cô gái má hồng, mắt dao cau lúng liếng, nón quai thao, yếm đào… bước trên con đường này về làm vợ lão… Nhiều lớp người bạc tóc mà con đường vẫn như thuở sơ khai. Không! Tồi tệ hơn mới đúng. Chỗ sạc lở. Chỗ phên dậu lấn ra. Từ đầu đến cuối xóm vừa chẵn ba mươi hai rãnh xẻ ngang. Tạnh ráo đi lại đã thấy khổ. Ngày mưa gió, vạn bất đắc dĩ mới phải ra đường. Rác rưởi hai bên tràn ra. Cứt trâu, cứt người lềnh bềnh. Mặt đường như ruộng trũng rải phân tươi, bừa ngấu. Trẻ con, người lớn khối lần phải vác cái chân sưng to như ống trít vào trạm xá làng.
Của đáng tội! Mươi năm trước cũng có kế hoạch tu bổ con đường. Đến lúc ra tay thì mất mặt. Cái dân vác cuốc ra chân dậu. Nhà nọ nhìn nhà kia… cùng nhìn vào bờ tre cán Đảng. Ơ hơ! Cán bộ chưa đụng cuốc thì ta tội gì! Thế là huề cả xóm.
Sau ngày nhậm chức, lão Đổng đã nghĩ đến con đường. Khổ nỗi xóm có bao nhiêu việc cần làm ngay. Điều hòa ruộng đất. Dân công đê điều. Thanh niên nhập ngũ. ồi chuyện rượu chè, đâm chém. Tối ngày, đầu thôn động một tí là “Ơ ông trưởng xóm… Này! Xóm trưởng…”. Cái xóm tí hin như bàn tay mà công việc cứ rối tung canh hẹ. Thành thử mãi tháng ba ta lão mới có cơ đụng đến con đường. Dân xóm bàn sửa tạm để ngày mùa dễ đi lại. Muốn làm lớn phải chờ cơ vận. Nhưng… mẹ kiếp! Đến lúc đụng tay mới rõ mặt cái dân Vũ. Lão Đổng thân chinh đi gọi cổng từng nhà. Nhà thì: “xin khất bác hôm sau. Giờ em phải đi kiếm cho các cháu lưng cơm”. Nhà thì: “cháu nó thúc học phí, em phải làm buổi te…”. Hôm khởi công chỉ được dúm người. Mấy bố đảng viên, mấy ông hưu trí ngồi đầu xóm bi bô hết tâm-tim-tả luy… đến ki lô mếch, đếch xì phân khối… Nghe thật “câu đường tiến sĩ”. Khi vào việc như mấy gái tỉnh vào bếp nhà quê. Điên tiết, lão Đổng bãi việc. Mấy đêm liền, lão mất ngủ, xót xa chiêm nghiệm thất bại đầu tiên trong nhiệm kỳ trưởng xóm. Lão cay đắng nuốt cái chí lý lời chửi vỗ mặt: “Tiên sư ông! Đường lầy thì lội mà đi!hứ đang thời kỳ giáp hạt lấy hơi đâu đắp đường với ngõ”.
Bây giờ mùa màng đã gọn. Ơn trời thóc lúa rủng rỉnh. Lão Đổng lại nghĩ đến con đường. Lân la nghe ngóng binh tình, lão biết hai chữ đồng tâm còn mờ nét lắm. Được! Lão cũng đã tính đến nước ấy. Phen này khắc biết thế nào là quyền trưởng xóm.
Lão Đổng dừng bước ở chỗ giáp mối đường trục xóm với đường độc đạo vắt qua cánh đồng nối xóm với làng “nội địa”. Mưa vẫn tầm tã. Đêm nhờ nhờ trông rõ con đường như con rắn đen khổng lồ. Khúc dduoi là đường trục xóm. Khúc giữa trườn qua cánh đồng. Cái đầu chúc vào mố cầu khỉ. Con rắn đã chết, đang thối rữa.
Đến chân cầu khỉ nghe tiếng mưa, biết đêm đã khuya, lão Đổng trở về. Lão dò dẫm. Chốc chốc con rắn đen lại bắt lão vồ ếch. Đường ngõ thế này… Ngày mai lũ trẻ… Lão Đổng đưa tay dụi mắt.
Lũ trẻ xóm Vũ nghịch phá có tiếng. Nhưng chúng trội hơn trẻ xóm khác ở nết ham học và tinh thần đoàn kết. Chỉ trừ có bão chết cò chúng mới nghỉ học. Mưa như mấy ngày qua với chúng chả là cái đinh gì. Cũng nói qua một chút về tinh thần tập thể của trẻ Vũ. Trẻ trong làng vênh váo ỷ thế dân gốc bắt nạt trẻ xóm bãi, ngụ cư.Chúng gây sự bắt vạ, trấn lột sách, bút… đủ trò. Nhiều vụ xô xát xảy ra. Đòn đau đã kết trẻ Vũ thành một khối. Cái thước kẻ cũng được chuốt nhọn đầu làm vũ khí. Dần dà chúng trở lên chai dạn lầm lỳ. Tính liều và tinh thần đoàn kết đã tâng trẻ Vũ lên ngôi. Hãy dè chừng nếu động vào trẻ Vũ. Một đứa bị bắt nạt, cả hội có nghĩa vụ trả thù. Chơi thân với dân “nội địa” bị coi là phản bội. Chúng có bộ luật nghiêm ra phết.
Sáng chưa rõ mặt người, Lão Đổng đã có mặt ở đầu xóm. Đấy là điểm hẹn của lũ trẻ trước khi “hành quân” đến trường. Đã có mấy đứa trẻ đang đùa nghịch. Lũ trẻ lục tục kéo nhau đến. Chúng phớt lờ trưởng xóm té bùn, chọc nhau chí chóe. Lão Đổng không nạt nộ hoặc tỉ tê như mỗi lần may mắn gặp lũ trẻ. Lão đứng nép vào bụi tre dõi mắt về phía làng. Chỉ có người tinh nhạy mới phát hiện ra vẻ phấp phỏng, chờ đợi cái gì đó lặn sâu trong đôi mắt lão trưởng xóm.
“Tùng… ùng…tùng…”. Tiếng trống trường dóng dả bay qua cánh đồng dội vào xóm nhỏ. Lũ trẻ nhớn nhác. “Ơ! Đài nhà tớ vừa tút tút mà…”. “Ừ!Đài nhà tớ tút chuẩn lắm. Hay đồng hồ thầy chạy sai…”. Lão Đổng nhớn nhác còn hơn lũ trẻ: “Lạ nhẩy! Chắc đài tút sớm. Chứ đồng hồ thầy mấy khi chạy sai”. Chợt lão vỗ đầu:
- Các cháu ơi! Chết thật thôi. Hôm qua tao có việc vào trường. Thầy hiệu trưởng nói có đoàn tỉnh về thăm. Hình như có cả vợ ông Tây trắng đi cùng. Thầy dặn các trò đến sớm chỉnh dốnđội ngũ đón Tây thăm. ao cũng có việc vào trường. Phải đến sớm kẻo Tây đến trước ta thì bỏ mẹ. Nào. Hai… ba… chạy!
Lũ trẻ nhất loạt tung giò. Lạch… bạch… Bùn bắn tứ tung. Hệt như đàn vịt chạy trên đồng trũng. Con đầu đàn là lão Đổng. Được mươi bước lão ngã oạch. Lũ trẻ cười ré lên. Sáu, bảy đứa ngã vì cười. Lão Đổng lại vung tay “hai… ba… hầy”. Bảy tám đứa ngã vì “…sau Tây thì bỏ mẹ”. Lão Đổng lại ngã. Một lũ ngã theo.
Rốt cuộc “đàn vịt” cũng đến được chân cầu khỉ. Lão Đổng lướt mắt tính sơ. Ba mươi trong số ba bảy đứa bị ngã. Nhiều đứa vồ hai, ba ếch. Số không ngã quần áo, cặp sách cũng bẩn bết không kém.
- Thế này các cháu ạ - Lão Đổng vuốt bùn bắn đầy mặt chỉ cầu khỉ - Đường đã thế! Cầu còn nguy hiểm hơn. Bác sang trước thăm dò.Rồi cứ đôi một qua cầu.
Lão Đổng bước lên cầu. Lão run rẩy. Lão úi giời ơi. Đến giữa sông lão vung tay: “Anh vẫn hành quân đi qua cầu…”. Tòm… Lão Đổng chìm lỉm. Lũ trẻ rú lên. Chỉ có dòng sông mới nhìn thấy lão khẽ ẩy mũi bàn chân vào cây tre quá giang. Cây tre theo dòng nước vút đi. Lũ trẻ chỉ còn thiếu nước òa khóc. Lão Đổng bước lên bờ run rẩy:
- Chà! Rét quá! Các cháu trở lại đi. Quần áo mặt mũi thế kia đến trường ta cũng cho “dê rô” điểm thi đua. Nói gì Tây. Về đi. Bác sẽ lấy quyền trưởng xóm thưa với thầy hiệu trưởng. Không đứa nào bì phạt đâu.
Lũ trẻ lũi cũi trở về. Lão Đổng ngậm ngùi nhìn theo lũ trẻ và nghĩ lan man. Lão nghĩ đến cụ cựu lý trưởng. Ngày mưa có việc đi đường tình cờ gặp cụ có việc đi đâu về.Này anh trưởng xóm – Cụ cựu lý trưởng giật giọng, chúc đầu cán ô xuống mặt đường – “Nội trực ngoại”, anh nhớ chứ. Ngày tôi làm việc làng tôi chơi sách ấy. Ai lơ mơ tuần đinh nó xóc xác ra”. Tối ấy lão sang nhà cụ. Thâu đêm chuyện con đường. Rồi cụ ghé tai lão: “Như thế… như thế…”. Lão chỉ còn thiếu nước lạy tạ. Người cũ có khác! Thật cao kiến! Lão nhớ đến thầy hiệu trưởng. Lúc này đây, sau khi dóng hồi trống chắc phải quay đi giấu những giọt nước mắt. Hôm qua lão vào trường thưa với thầy việc học phí của mấy đứa trẻ nghèo. Xóm làng đã bàn của ít lòng nhiều, mỗi người một tí cốt sao chúng khỏi lỡ sự học. Nhân thể lão thưa với thầy sự đi lại của lũ trẻ. Thầy hiệu trưởng thở dài: “Bao nhiêu lứa học trò cơ cực vì con đường ấy. Chúng tôi đã kiến nghị nhưng lực bất tòng tâm…”. “Thầy giúp tôi phen này nhé – Lão nói và ghé vào tai thầy – Như thế… phải như thế…”. Thầy hiệu trưởng cười ngất.
Ước đoàn lũ trẻ đã về đến nhà, lão Đổng tắt đồng về xóm. Lão cứ đóng nguyên quần áo lấm lem vào từng nhà. Có nhà lão oang oang từ đầu ngõ. Có nhà lão kéo phụ huynh ra góc hè thì thầm: “Này! Tôi vừa vào trường về. Thầy cô phàn nàn cháu nhà ta hôm nay vắng mặt”. Các phụ huynh rầu rĩ: “Ông nhìn mà xem. Cháu đi rồi cháu lại về. Quần áo, đầu tóc… cứ như từ dưới lỗ ngòi lên. Thật khổ đường với ngõ”. Lão Đổng vuốt bùn trên mặt: “Tôi cũng như ma lem đây này. Tiên sư đường với lối. Chả lẽ để mãi thế. Thôi thì vì con vì cháu. Mai ta họp xóm bàn xem thế nào…”. Cả chục nóc nhà đều có cuộc đối thoại na ná như thế.
Trong số những đứa lấm lem nhất có cậu bé lớp hai nhà ở cuối xóm. Lão Đổng dành nhà này làm cuộc gặp gỡ sau cùng. Cái đàn bà nhà ấy như con mèo hen. Nguyên do chị ta cố rặn bằng được thằng người có chuôi dao ở háng. Chị ta là đảng viên trưởng thành từ phong trào trực chiến, từng là chỉ huy mười hai cô với sáu khẩu trường “mát” và hệ thống ụ súng ở cuối làng. Lão Đổng oang oang từ đầu ngõ:
- Ông đâu? Bà đâu? Ái chà! Ôm nhau hú hí quên nấu cơm sáng để thằng bé đói phải nghỉ học hả. Tôi vừa vào trường về. Thầy cô phàn nàn.
Con mèo ngồi trong bếp ló đầu ra. Chắc mụ đang đun nước tắm cho “chuôi dao”. Mụ the thé:
- Phàn nàn cái nỗi gì. Nó đi nó ngã nó về. Như từ dưới hố lôi lên kia kìa. Sao cô với thầy không ra đường mà phàn nàn.
Lão Đổng lắc đầu, nhắt gừng:
- Cả xóm dễ mỗi nó ngã. Bỏ học bỏ lớp là mất điểm thi đua.
Con mèo hen nhổ bọt đánh tét, nhảy bổ ra khỏi bếp vung tay xỉa xói:
- Tiên sư lớp. Tiên sư thi đua. Đường ngõ thế! Ông tổ cũng bò ra bùn chứ nói gì trẻ mỏ.
Nghe có lời lớn tiếng to, hàng xóm rẽ dậu nhìn sang. Dăm người đi đường tạt vào. Lão Đổng liếc xéo chém chả:
- Bà ăn nói cho tử tế nhé. Chẳng gì tôi cũng là trưởng xóm.
Con mèo hen đay nghiến:
- Trưởng xóm hả! Chưa to đâu. Chưa là cái đ. gì.
- A. Bà chửi tôi hả. Vì sự đi lại, học hành của các cháu, tôi đến hỏi han tử tế. Dễ mỗi cục thịt thừa toòng teng của bà ngã lấm lem đấy hử. Bà đi khắp xóm xem. Chớ có quen mồm chửi láo, nói càn. Ra họp xóm, tôi thách bà chửi đấy.
- Sợ đéo gì mà không dám chửi – Con mèo hen chồm lên – Ngữ ông là cái gì! Mà có là gì, to đến đâu, chỉ nỏ mồm, tôi cũng chửi. Chửi có bài có bản hẳn hoi. A! Ông cười tôi hả! Tiên sư bố đường… Tiên sư bố…
“Thật may cho lão Đổng. Bài chửi sắp đến mục vạn bát thì cụ cựu lý trưởng đi đâu thấy có sự tạt vào. Cụ phân giải đôi bên. Con mèo hen nghe ra. Lão Đổng cũng nghe ra. Những người có mặt cũng nghe ra.
Hình như trời cũng nghe ra đặng phù lão trưởng xóm. Hôm sau trời tạnh ráo. Dân xóm tay mai tay cuốc đổ ra đường.
- Việc lớn “xô” đường mới không phải là lãnh đạo vi hành. Cũng không phải xe tải “bin… bin…”. Mà là chiếc cáng võng như chiếu kín mít. Lão Đổng và một cậu trai khênh cáng chạy huỳnh huỵch.
Hãng thông tấn xã loan tin – Một con rượu ngộ nạn rượu. Dân Vũ dẩu môi – A! Ai chứ tay ấy thì phải thế cho biết đời. Chưa thấy mặt người đã sặc mùi rượu. Ngồi đâu mở miệng ra là xoen xoét “năm mươi với một trăm phần trăm”, “Em nhiệt liệt tán thành nghị quyết bảy mươi lăm mi- ni-lít…”. Với những trời đất gì nữa. Chết! Quy ước xóm như thế mà vẫn vi phạm. Phạm đến mức trưởng xóm phải cáng bờm đi viện. Cứ đợi đấy. Chiều nay trưởng xóm về.
Thật “lầm cái tò”. Sáng hôm sau, lão Đổng mới về. Lão kè kè bên nách tấm giấy đên xì to tướng, y học gọi là phim X. quang. Nhằm vào những nhà hay ầm ĩ vì chuyện rượu chè lão thò ra tấm giấy đen.
- Rõ khổ? Đến viện huyện họ giới thiệu ngay lên viện tỉnh. Xe chũ thập đỏ phải chạy thần tốc. Đấy! bà với các cô nhìn xem! Mớ ruột , buồng gan. Cả mớ phèo, cái cổ hũ… Nó phình lên. Kinh chưa? Ông kính trắng bảo còn may. Chứ chậm tí nữa thì nó nổ tung ra vào nhà xác.
Các bà các cô liếc xéo các đấng mày râu thương mến. Bây giờ lão Đổng mới rủ rỉ:
- Chậc! Nó sâu bợm. Nhưng nó nghèo quá, lại lâm bệnh trọng. Thôi thì bà con ta của ít lòng nhiều, giúp nó một ít.
Mấy mươi nóc nhà lão Đổng đều cho xem “tấm giấy đen” và rủ rỉ như thế. Gần trưa, lão gặp chủ các lò, chủ quán rượi. Các vị chủ quán run rẩy, lịa lịa: “Thề có trời cao đất dày. Em pha bồ kết với phân đạm, thuốc sâu, thì trời vật em ra hộc máu tươi ngay trước mặt bác…”.
- Tôi không bảo các bà pha phách – Lão Đổng êm ấm chìa ra tấm giấy đen – Nhưng các bà nấu, bán cho nó uống đến nông nỗi này. Đúng luật, phải phạt nặng, bắt rỡ quán, đập nò. Nhưng cái sự làm ăn, các bà nên nhớ chớ tái phạm. Giờ các bà nghĩ sao cho đẹp tình xóm làng. Nó hư, ta trị dần. Lúc nó hoạn nạn, ta đùng nên thít chặt hầu bao. Sáng mai phải nộp lệ phí rửa ruột cho nó.
Tinh mơ hôm sau, lão Đổng khăn gói lên…bệnh viện tỉnh. Đến cuối xóm, ngó trước ngó sau, lão rẽ vào… viện. Đấy là ngôi nhà ranh vách, chỉ ba người hây hô là kềnh. Nhìn cơ ngơi đủ biết chủ nhân là tay “ăn giỏi hơn làm”. Lão Đổng xộc thẳng vào nhà. Bảo ba cô gái còn trẻ, khá xinh khóa cửa.
- Mày đâu?
- Dạ! Cháu đây.
- Đêm qua mày về có đụng ai không?
- Dạ không. Cháu đi nối tắt như bác dặn.
- Tốt! Giời tao nói phiên phiến. Còn phải vào làng tạ ơn ông đốc tờ. Người ta học thời Tây, cao kiến thế, tốt thế mình phải đối xử cho đẹp. Mày đã hết lòng giúp tao nhiệm vụ cấp cứu. Với tư cách trưởng xóm, tao hứa kín nhẹm chuyện gà qué cho mày. Tiên xư anh! Mấy mươi năm nhờ thiên hạ nuôi gà, chó nhiều đến thế cũng có tay cao thủ đấy. Chiến công lồng gà thuộc về lũ trẻ. Sơ tính mỗi gà ba tháng thì mọt gông con ạ. Mày mà giở trò bẩn với các “đặc tình” của tao thì cứ gọi là…
- Thưa…lạy bác. Bác sử đẹp thế lẽ nào cháu dám.
- Nghĩ được thế là tốt. Nghe đây, vợ chồng mày ăn ở như thế nhưng cái tình bà con đối lại vẫn rộng mở, khoan dung. Tao quyên được món tiền.
- Ấy chết…Cháu có say… ốm… thật đâu mà.
- Im! Đói cùng túng quẫn. Thì đấy là món bà con giúp mày làm ăn phục thiện. Mua lấy đôi lợn gây giống. Rồi sắm vài tay lưới. Sức mày kiếm ngày dăm ba nghìn không khó. Khoản rượu chè thì như tao đã nói, phải giảm mạnh. Có uống thì trước bữa làm chén cho dãn gân cốt, ngon cơm nghe chưa! Kiếm cái hũ, hôm nào tao kiếm cho bộ tam xà. Thứ ấy uống vào vợ nó cũng thích. Lại có vẻ dân phong lưu.
Lão Đổng đứng lên. Ra đến nhà ngoài, sực nhớ, lão nhảo lại:
- Suýt bỏ mẹ cả bác lẫn cháu. Này, cố ngồi trong buồng dăm hôm cho nước da nó mai mái đi. Chứ cấp cứu nằm viện mà da dẻ như gà chọi thế thì ma nó tin. Nghe rõ chửa. Tao tin được mày rồi đấy.
Các bạn! Không lấy gì làm khó hiểu khi tôi phải lân la ghi chép những chuyện trên trước khi tiếp cận lão trưởng xóm. Với vị “nguyên thủ xóm” như lão Đổng, sự lân la vòng ngoài như thế là ít. Rất ít nữa là khác. Nhưng các bạn thử rơi vào hoàn cảnh tôi xem.
Không ai muốn chia tay với giấc mơ đẹp. Nhưng đang mơ mà có kẻ túm tóc, ghé miệng sấm vào tai: “Dậy. Ngủ gì kỳ vậy…” thì biết làm sao!
Té ra kẻ túm gáy tôi là sếp. Ông đi dự hội nghị nông thôn về. Chắc có quà gì phần nhau đây. Tôi lồm cồm ngồi lên. Sếp gieo người xuống cái giường bùng nhùng chăn màn:
- Tiếc cho chú mày quá. Cái hội nghị nông thôn hay quá trời! Tuyệt nhất là cuộc đối thoại giữa dân báo chí với lão trưởng xóm ở Đại Lăng. Trời ơi! Đến giờ tao vẫn còn điên. Vào cuộc được vài phút thì cái máy mang theo giở chứng. Điên quá. Tao phải đi bài “bờ-tê-xê” (bia thịt chó) cánh trung ương mới để lại hộp băng. Nghe nhé! – Sếp dướn người ấn cuộn băng vào cát-sét nhỏ trên bàn.
- “Thưa ông trưởng xóm.Nông thôn, cụ thể là xóm nhỏ của ông đang thay da đổi thịt,khởi sắc, hồng hào lên. Theo ông có vấn đè nào tồn tại nổi cộm?”.
- “Tồn tại tức là… À! Còn nhiều lắm, nhiều như rơm rạ ngày mùa. Còn nổi cộm. Chà. Tôi ngán nhất đám trai tơ với lũ gái già”.
- “Thưa… Xin ông nói rõ…”.
- “Trai tơ là trai chưa vợ. Gái già là gái quá thì chưa chồng và không chồng. Vô phép, các bác thư thả về làng khắc rõ’.
- “Vâng. Nhất định chúng tôi sẽ về làng, về xóm nhỏ của ông. Nhưng lúc này, chúng tôi, các đại biểu thấy có điều khó hiểu…”.
- “Ờ… ờ… Chung quy là do đẻ đái nhiều các bác ạ. Thuốc men, bác sĩ sẵn. Cái ăn cái uống không quá khổ nên trẻ mỏ bây giờ lớn nhanh như lợn. Đa số được học hành chu đáo. Nhưng phần nhiều học xong về bám đít trâu. Rồi bộ đội giải ngũ. Công trường xí nghiệp dãn nhân công. Thành thử nông thôn hôm nay là cái bồ đựng người. Người nhiều, ruộng ít, nghề phụ teo tàn. Đấy! Nhàn cư vi bất thiện. Các cụ dạy rồi. Lũ con gái hiền lành hơn nhưng xem ra chúng nhiều khổ sở hơn. Lũ đàn ông bây giờ lấy vợ chọn của hồi môn hơn là nhìn người xem nết. Nhiều đứa vì thế, vì nghèo mà hóa gái già. Lại không ít đứa già vì bố mẹ khỏe đẻ, kém nuôi nên chúng vừa nghèo lại không sạch nước cản. Rồi số bà cô gái già vì thời chiến tranh bom đạn. Rồi đám vợ liệt sĩ tuổi ba bốn mươi. Xóm tôi, một đám gái già gầy quắt, cáu bẳn, giở chứng bà cô vì thèm khát làm vợ, làm mẹ…
Đến đây sếp tắt máy, vỗ vai tôi:
- Đấy! Vấn đề xem ra mới lạ lắm. Cánh trung ương còn mải bám mông mấy cô dâu tằm. Ta phải vồ ngay chuyện ở Vũ. Cậu về Vũ ngay cho tớ! Đi xe đạp bất quá nửa ngày đường. Ta phải làm cái gì đó cho ra hồn. Chứ đài tỉnh cứ sài bài ngoại thì có ngày sập đại. Một bài viết. Mười phút phỏng vấn. Tớ cho chú mày bốn mươi tám giờ. Đi đi.
Các bạn! Tôi đang ngồi với lão trưởng xóm. Lúc tôi vào ngõ, lão đang cuốc vườn. Lão tiếp tôi không lạnh nhạt cũng không vồn vã. Mời tôi ngồi chõng tre kê dưới gốc mít, đặt trước mặt tôi bát nước chè xanh, lão chỉ cái máy ghi âm tôi mang theo: “Anh về quay phim phải không?”. Tôi chưa kịp trả lời lão đã dồn: “Có cần chất rơm, rạ lên thuyền lên xe rồi rải khoai, phủ thóc cho đầy để quay không?”. Chà! Trưởng xóm là tay hóm hỉnh đây. Tôi giả tảng thờ ơ xem lão hóm đến đâu. Tức thì lão Đổng tung ra một lô câu hỏi: “Có cần chọn cửa cao nhà rộng? Có cần bảo bà con tắm lợn? Có cần bà con vác cày, dong trâu xếp hàng. Trâu bò béo đi ngoài. Người mặc rách hàng trong không? Tôi lắc tuốt. “Thế có cần mấy đứa xinh xắn, mông nở, vú to gánh thóc quẩy mạ không?”. Đến bụt cũng phải phì cười nói gì tôi người trần mắt thịt lại có tật hay cười. Để chứng minh không phải nhà quay phim, tôi ấn nút máy ghi âm và nói.
- Cháu theo những lời này về gặp bác đấy.
Lão Đổng chau mày khi bắt gặp giọng nói của chính mình. Lão nhìn ra vườn, ấp úng:
- Chà… Không ngờ…
Lâu lắm tôi mới gặp cảnh đường làng đêm trăng. Các cô, các cậu trẻ từng tốp đi lại cười nói inh ả. Dưới gốc bàng cổ thụ, một tốp trai ra bình luận cho điểm gái. Cách đó một quãng, mấy cậu choai khoe nhau côn gỗ, xanh tuya rông. Rõ rành họ phất lờ lão trưởng xóm. Lão Đổng cũng phớt tỉnh kéo tôi nhanh bước. Bất ngờ, đoàn cả chục xe đạp ngược chiều ép chúng tôi sát dậu tre. Lão Đổng vỗ vai tôi:
- Anh thấy chưa! Trai tráng bây giờ lạ lắm. Động một tí là vung côn, huơ dao. Con gái xóm tôi người xinh, nết đẹp có tiếng. Trai thiên hạ đến nườm nượp, xô xáy xảy ra luôn. Phạt nặng mấy chúng cũng không ngán, cốt sao trả được đòn. Tôi ớn bọn chúng lắm rồi. Nhưng lúc này mình nản lòng, thờ ơ với chúng thì cái sự hỏng của chúng thật khó lường. Với chúng phải từ từ từng bước. Anh về thật đúng dịp. Lát nữa anh sẽ thấy nước cờ tôi chơi với bọn trẻ.
Gần đến cuối xóm, lão Đổng kéo tôi vào một ngõ nhỏ. Chúng tôi dừng bước trước ngôi miếu cổ. Trong miếu, đèn, nến sáng trưng. Hương hoa nồng ngạt. Mảnh sân nhỏ trước cửa miếu chật ních người. Sự im lặng của con người như tôn thêm cái huyền hoặc, linh thiêng cổ kính. Không phân công, không mệnh lệnh, tuần tự người nọ tiếp người kia tiến lại gần trước ban thờ rập đầu dâng lễ, khấn vái. Sự xuất hiện của lão Đổng không mảy may tác động.
- Bác tán thành việc cả xóm rập đầu trước bát sứ mẻ? – Tôi ướm hỏi lão Đổng khi trở ra đường.
- Chuyện dài lắm – Lão trưởng xóm thở dài - Ở làng, nhất là xóm nhỏ, nẻo xa, người già cả, đám thợ cày thợ cấy ngoài công việc đồng áng, vui thú gia đình còn biết còn biết khuây khỏa vào đâu? Chả lẽ ra đường, ra bãi nhìn con cháu gây gổ, bóp vú, sờ mông.
Đến chết cười với lão trưởng xóm. Lão Đổng nói tiếp:
- Cũng là sự lạ đời. Trước cái bát sứ có mấy chân hương con người ta đổi khác nhiều lắm. Bao nhiêu kín đáo, oan trái, cả những xấu xa… Không ai khảo mà xưng ra hết. Tôi đã lập mưu thi kế chứ không còn lắm trò nữa.
- Mưu kế thế nào? – Tôi như vồ lấy bàn tay lão Đổng.
- Phải bí mật. Lộ ra họ biết thì lại tối ngày lên đồng múa may. Đột ngột, lão Đổng dừng bước. Lão đập tay lên vai tôi, lại đập tay lên ngực mình: - - Nói vô phép anh! Giá tôi với anh, với những ai đó nữa …chiếm được lòng dân bằng nửa cái miếu kia,chỉ cần thế thôi, thì tốt bao nhiêu.
Tôi giật mình suýt vập đầu vào vai lão Đổng.
Đi tiếp quãng đường, tôi và lão Đổng sững người lại vì tiếng hét: “Cháy…Làng ôi…cháy…’. Tức tiếng kẻng báo hỏa dồn dập. Tôi toan lao về phía ngọn lửa. Nhưng…lạ thay! Lão Đổng mỉm cười kéo tôi lại khóm tre gần đó. Lão hoàn toàn bình chân như vại nhìn những tốp người rầm rập chạy đi cứu hỏa.
Khi ngọn lửa sắp tàn, lão Đổng kéo tôi chạy về nơi xảy ra hỏa hoạn. Rất đông người, phần lớn là cánh trẻ vây quanh đống rơm cháy dở. Lão xô lại đám thanh niên, rối rít vỗ tay, cầm tay.
- Trời đất! Cảm ơn các cháu. Làm ăn thế đấy. Lửa thế. Gió thế. Không có các cháu thì đống rơm này thừa sức hóa tro cả xóm. Khao! Trưởng xóm phải khao đáp cái ơn này. Mấy đứa con gái đâu. Ù ra quán mua cho tao tút thuốc thơm. Nhanh lên!
Mấy cô gái ào đi. Lão Đổng bước lại đám trung niên phẩy tay như làm hiệu. Lão ngắt về với tốp thanh niên khác.
- Úi giời! Toàn các cậu làng bên! Cảm ơn! Cám ơn các cháu không quản ngại cứu hỏa. Kìa! Các trai xóm ta lại đây cả nào.
Mấy cô đi mua thuốc đã về. Lão Đổng vớ cả tút bóc ấn cả bao vào tay các trai.
- Hút đại đi các cháu. Chợt lão vỗ vai một cậu, cậu nữa, reo lên – A! Mấy anh vung côn huơ dao hôm nọ đây hả! Bố sư các anh! Thằng bị chém đi gánh phân khỏe rồi. Chặc! Anh tưởng tôi không biết hả. Trong khi phụ huynh trích lương hưu, vay nợ cho con nộp phạt hành chính, thì các anh hội tửu quán rút kinh nghiệm, sửa côn, học võ chờ cơ hội phục thù. Này! Hôm nọ tôi sang nhà gặp các cụ nhà ta, lúc ấy các tướng đi đâu hả?
Vừa nói lão Đổng vừa gạt, lôi, kéo các trai lại gần nhau. Qủa họ có tụm lại nhưng quen – lạ vẫn phân tốp. Lão Đổng nhích vào đứng giữa hai tốp, nhẹ nhàng:
- Chẳng mấy khi may mắn gặp các cháu chủ - khách đông đủ thế này. Nói gần nói xa chi bằng nói thẳng. Đất lành thì chim đậu. Nhưng trai chủ thật chưa đáng mặt chủ. Cậy thế thổ công, sinh sự bắt nạt, vòi vĩnh trai khách. Các cháu làng bên nghe tiếng trai thơm tìm đến. Nhưng đi thiên hạ mà lách cách côn, dao, coi đất bạn như bãi làng mình thì quả là cạn nghĩ nông suy. Bao nhiêu va chạm chỉ còn thiếu nước đào hào, kê súng bắn nhau. Hậu quả đau đớn nhỡn tiền. Các bậc phụ huynh nghĩ đến con cháu phải cắn răng chết từng khúc ruotj. Nhưng thôi! Ddaam chém là chuyện hôm qua. Trước hiểm nguy, ví như đám cháy vừa rồi, các cháu biết chung lòng hợp sức. Lẽ nào thường nhật các cháu nỡ xử nhau như thù địch…
Đám đông đứng lặng phắc. Lão Đổng nháy tôi đi. Được một quãng, tôi và lão cùng ngoái lại. Các trai vẫn chia tốp. Nhưng đã nghe loáng thoáng tiếng cười nói. Lão Đổng không dấu nổi đắc ý.
- Không có đám cháy đúng tuần trăng thì còn khướt chúng mới chịu đứng với nhau như thế. Hết nước thí quân là cờ vào thế! Bước đầu như vậy là được. Chắc rồi yên ấm.
Chúng tôi bắt vào đường trục đồng. Đang đi, lão Đổng sững lại. Lão khoát tay về phía bờ đê mờ ảo xa xa.
- Ngoài ấy có mỏ cát xây dựng. Trai tráng trong xóm thì vô công rỗi nghề. Trong khi đó xe thuyền tứ phương đến lấy cát bán khắp nơi. Mười nghìn một khối cát chứ rẻ đâu. Dân Vũ nhìn thấy đống tiền mà vêu mõm. Nhưng tôi không chịu đâu.
- Bác định thế nào?
- Còn thế nào? Giao thông và vốn. Con đường như anh thấy đấy, ổn rồi. Nay mai, tôi sẽ chọc tức bọn chủ thuyền cho nó chửi toáng lên rằng dân Vũ ngu. Nằm trong đống của mà chịu đói rách. Chọc trúng “tia máu” dân Vũ việc này chắc xong.
Lội qua con ngòi hẹp, lần theo bờ đạc lở lói, chúng tôi dừng bước trước ngôi nhà nhỏ. Gọi là lều thì đúng hơn. Rất tự nhiên lão Đổng cạy phên liếp:
- Mẹ thằng chim ngủ chưa? Có muốn đánh dậm con bướm cho đủ nếp tẻ thì sáng đèn mở rộng cửa ra nào. A! Đèn sáng sẵn thì dễ chơi lắm rồi.
- Gớm chết! Ai như bác trưởng xóm. Em xin đủ khoản ấy rồi. Mời bác vào chơi.
Sự xuất hiện của tôi khiến nữ chủ nhân đỏ mặt. Cô vội kéo coóc-xê che bầu vú căng sữa. Nhà không có bàn ghế. Đồ gỗ độc một chiếc giường đôi. Lão Đổng tót lên giữa giường và chỉ chỗ tôi ngồi mép. Mùi nước hoa thoang thoảng. Muỗi đàn vo ve. Bên ngoài, đồng bãi râm ran tiếng côn trùng.
- Ông anh đây muốn nghe chuyện chị em. Có gì cứ kể ra. Đừng ngại – Lão Đổng nói, hai bàn tay chai sạn xua xua đám muỗi vo ve trên mặt cậu bé.Trong lòng mẹ, cậu bé ngủ rất đẹp. Gương mặt bụ bẫm, sởn sơ, ăm ắp lời hứa hẹn làm một chàng trai đẹp trong tương lai không xa.
- Chẳng nói thì dấu diếm được ai nữa. Cuối cùng thiếu phụ cũng chịu chuyện. Em chờ đợi suốt một thời bom đạn rồi. Làm vợ, làm mẹ là quyền là khát vọng của phụ nữ. Là danh dự nữa. Riêng em chờ đợi, cả săn đón điều ấy đến nát lòng. Thế rồi thế đấy. Kiếp gái già. Thế gian không có nỗi buồn khổ nào sánh nổi phận đàn bà chịu nỗi gái già, đơn độc, bà cô. Nên em liều. Phải tốn khối tiền xem phim kịch. Lại phải đi làng khác mới dám… Rồi tôi có mang. Gia đình, xóm làng chỉ còn thiếu cách cạo đầu bôi vôi. Có lúc, em toan phỉ phui giọt máu liều thân. Nhưng rồi em cố cắn răng. Trước tháng sinh, em xin xóm vạt đất này. Đám bạn gái lỡ thì người cây tre, người bó mạ giúp mẹ con em có nơi trú mưa nắng. Ơn trời! Mẹ con em vuông tròn. Nhà em lúc nào cũng đông khách. Toàn gái già, gái lỡ trót với nhau. Đứa nào cũng khen em tốt số! Cầu cho người đời cứ xinh trẻ mãi.
- Chẳng niềm vui nào sánh nổi hạnh phúc của người mẹ đâu – Tôi an ủi thiếu phụ và động viên – Ta đã có luật con ngoài dã thú.
- Vâng! – Thiếu phụ nhỏ nhẹ - Nhưng ở làng mấy ai hiểu, cảm thông phận gái già. Đành nhắm mắt thôi. Em gắng nuôi thằng bé ngoan, khỏe, giỏi giang. Nhất định thế! Khối cặp vợ chồng quyền bính, của nả như núi mà con cái có ra gì.
Tôi xin phép thơm cậu bé và chia tay người mẹ. Đường về, lão Đổng trở nên lầm lỳ.Dường như thiếu phụ đã đánh cắp ở lão tính năng nổ và bản chất lão điền hóm hỉnh. Tự lúc nào tôi cũng nhạt mất hứng thú công việc. Thế vào những háo hức là một nỗi buồn rất cụ thể thật khó xoa dịu.
Đêm dần vào khuya khoắt. Cốc tam xà đã kích lão Đổng thường lại. Lão chỉ cái máy ghi âm của tôi, gật gù:
- Thời khoa học lắm cái thú ra phết. Tháng trước tôi phải vào làng mượn cái máy như của anh đặng trị các bà ngoa ngoắt.
Trời ơi! Tôi suýt sặc rượu! Ở làng các bà sẵn sàng bỏ buổi làm để chửi chộm nải chuối, mớ rau… chủi chồng con và chửi chồng con. Có bà cứ nhè lúc vợ chồng con trai khép cửa buồng mới cất giọng. Nhè một đêm bà kia đang “hát” lão Đổng xách đài chạy đến, ôn tồn: “Bà không ngủ để chửi, tốt thôi! Nhưng chửi từ tối đến giờ mệt rồi! Giờ bà chửi khẽ tôi ghi vào máy. Mai họp xóm tôi mở băng đài. Như thế bà đỡ mệt, dâu con chắc ngoan lên…”. Bà kia sợ xanh mắt. Đám chua ngoa nháy nhau: “Liều liệu cái mồm từ nay…”. Ai chứ lão Đổng xắn tay thì không phải chuyện đùa.
Hôm sau, trước khi tạm biệt lão Đổng, tôi phải làm cuộc phỏng vấn chốt chuyến về Vũ. Lão Đổng giãy lảy:
- Phỏng với phiếc làm gì cho rách việc ra. Tôi là cái dân ý mà.
- Nhưng còn xếp của cháu. Lão khó tính lắm – Tôi nài nỉ:
Ngẫm nghĩ một lát, lão Đổng gật đầu:
- Thì vấn. Cậu chuẩn bị máy trước đi.
Cái máy đã sẵn sàng từ lâu cho những phút này. Tôi ấn công tắc máy và đặt câu hỏi:
- Xóm Vũ có những chuyển động đáng mừng. Xin trưởng xóm cho biết động cơ thúc đẩy xóm nhỏ chuyển mình đi lên?
- Chặc! Bợm già mắc bẫy cò kè thôi mà.
- Xin trưởng xóm giải thích cụ thể:
- Chà… chà… Bà nó ơi. Xong chưa…
Tôi vội cắt máy, không để đâu hết ngơ ngác. Lão Đổng cười. Lão ão xuống bếp và trở lên với mâm cơm sáng. Như thế là tôi hết cơ hội yêu cầu giải thích. Vả lại, tôi hiểu, với lão trưởng xóm, khôn khéo nhất là “stốp” ở đây.
Sếp của tôi là một người rất chịu chơi. Ông rửa điếu cày, mua cả lạng thuốc lào Vĩnh Bảo tông chờ tôi trở về. Thưởng thức món ruột đâu đấy, tôi báo cáo chi tiết chuyến đi và trao cho ông hộp băng. Ông mở máy đúng ba lần. Ông kinh ngạc, đập tay lên trán.
- Lạ quá! Lạ quá! Cổ, kim. Á, Âu, Phi, Mỹ-la tinh, cả Úc-đại-lợi. Chưa từng có ai trả lời báo chí công luận như lão trưởng xóm nhỏ này. Sếp thì thầm. Và đột nhiên ông gắt lên- Còn cậu! Cậu đã mục sở thị xóm nhỏ. Cậu giải thích tôi nghe.
- Thưa sếp – Tôi từ tốn – Bợm già là tay cao thủ, lọc lõi các mánh lừa bịp, trấn cướp. Cò ke là loại bẫy rất đơn giản chỉ lừa nổi lũ chim bé nhỏ, khờ khạo, đám gà tồ, chó ngố! – Với trường hợp xóm Vũ ta có thể hiểu đại ý: những tay cao thủ, sừng sỏ bị sa sập bởi cái bẫy đơn giản thô sơ. Cái lớn lao thua cái bé nhỏ. Đau lắm. Đây là một chiều ý nghĩa, một cách hiểu. Nhiều việc lớn lao, những thói hư tật xấu ghê gớm boong ke trong đời sống xóm làng… Rốt cuộc được giải quyết thông đồng bén giọt bằng những biện pháp bình thường, tối đơn giản…
Sếp lắc đầu, hổn hảo:
- Chưa ổn. Phải hội nhập xóm nhỏ. Phải nghiên cứu kỹ câu trả lời phỏng vấn của lão Đổng. Không thể xem thường.
Các bạn! Có lẽ sếp của tôi quyết định đúng. Nên chăng chúng ta cùng suy ngẫm câu trả lời của lão Đổng. Trong khi chờ đợi tìm kiếm lời giải thích thỏa đáng, tôi xin trình các bạn đôi ba chuyện về lão trưởng xóm.
THÁNG BA THƯƠNG MẾN
Cuối tháng hai âm lịch, tôi được xuất ngũ về quê. Tôi gặp cây đa cổ thụ sừng sững đầu làng khi ngày đã ngả sang chiều. Nắng chiều xuân nhàn nhạt. Vòm trời chiều xuân cao cao. Những vầng mây phớt xanh, mây nhờ nhờ trắng đan vào nhau làm âm ấm không gian, âm ấm mắt nhìn.
Lệ quê tôi, những ai trước buổi đi xa hoặc trở về, dân làng vui rủ nhau đến chúc mừng, thăm hỏi. Với những người lính, khách đến càng đông hơn. Buổi tối đầu tiên tôi trở về cũng giống như đêm trước ngày tôi đi lính. Khách ngồi chật trong nhà, ngoài thềm, cả phần bán mái của ngôi nhà ba gian hỗn hợp ‘‘tre-đất” vốn là nơi đặt cối xay thóc. Tôi xăng xái trong nhà, ngoài thềm, ra trái mời bà con hút thuốc cuốn Lạng Sơn tôi mang về và uống nước chè xanh các em hái vội vườn nhà. Bà con, bạn bè ai cũng muốn tôi ngồi lâu với họ để trả lời những câu hỏi về cuộc sống vùng biên, người lính. Nhưng tôi không ngồi lâu được với ai, cũng chẳng trả lời trọn vẹn câu hỏi nào. Giữa lúc tôi mời thuốc lá một ông cụ, nhà ở giữa xóm thì một bác ở cuối xóm vỗ vai tôi, bỏm bẻm miệng trầu: “Năm nay trầu cau tốt, cưới vợ đi cho mẹ mày nhờ, cu ạ”. Tôi nóng ran cả người. Lời khuyên khởi dậy những nỗi niềm, long tôi hướng về Nụ - người vợ chưa cưới của tôi. Đã biết trước Nụ hay tin tôi về sẽ sang cùng mẹ và các em lo việc nước nôi, nhưng lúc này tôi cứ lo lo em chưa biết hoặc đã biết nhưng vì ngại ngùng, vì bận công việc họp hành gi đó…nên chưa sang. Thật lạ lung! Mối băn khoăn đang quẫy thì Nụ từ ngoài thềm bước vào, hai tay em xách hai bình nước. Ánh đèn dầu đủ cho tôi nhìn rõ đôi mắt em long lanh mãn nguyện. Tôi nhìn rõ mái tóc dài óng mượt cảu em và lưng suối tóc lấp lánh ánh kim loại của chiếc cặp hình con bướm. Con bướm ấy tôi làm từ chiếc ca nhôm bẹp, trong suốt một tuần mưa mịt mùng điểm tựa. Mắt tôi bị hút vào mái tóc em. Người xưa nói: phụ nữ tóc dài sẽ thư nhàn hay vất vả nhỉ? Hình như Nụ nhận ra ánh mắt tôi dõi nhìn nên luống cuống đặt bình nước vào tay một bác và bước nhanh ra ngoài. “Nụ… Nụ…”. Tôi nghe rõ ràng tiếng long tôi bật lên run rẩy. Tôi muốn đứng lên chạy theo em, cầm tay em, vuốt mái tóc em… và cùng em xách bình nước nóng, thơm đi khắp trong nhà, ngoài sân để mời, để chào bà con bè bạn. Nhưng tôi ghìm được cảm xúc, ước ao của mình nhờ một điều chợt nhớ đơn giản: Tôi là chàng trai quê, em là cô gái quê, đâu dám vượt “đất lề quê thói”.
“Nụ… Nụ…”. Tiếng lòng tôi run rẩy bật lên. Năm trước tôi được nghỉ phép nửa tháng để sau đó tại ngũ thêm một năm theo yêu cầu của cấp trên. Trong dịp ấy, theo lệ làng, mẹ tôi sắp cơi trầu sang chạm ngõ người tôi yêu thương. Cặp bánh gai đặt lên bàn thờ. Xấp bánh đa vừng bẻ chia cho trẻ. Đấy là kết quả độ chin tình yêu trai làng ta, gái làng ta. Đấy cũng là kết quả của sức ép của họ hang, của việc mẹ Nụ “bật đèn” trước hiện tượng trai tráng quanh vùng dạp dìu vào ngõ… người tôi yêu. Thế là em như ván sắp nên thuyền, tôi như cây chèo đang rõ hình từ phiến gỗ.
Dưới bếp chợt rộ lên những tiếng cười trẻ trung giòn giã. Trong vui vẻ ấy, tôi nhận ra tiếng cười của người tôi yêu thương. Tôi lắng nghe. Chợt có bàn tay ai vỗ lên vai tôi:
- Chú xuất ngũ có được đong gạo không?
- Có ạ - Tôi đáp và nhận ra người vỗ vai là bác ở xóm bên.
- Thế thì tốt chứ không thì…
Tôi không được nghe tiếp “chứ không thì” là sao bởi phía cửa buồng ai đó đã ới gọi. Tôi lách qua khe chiếu để đến chào người dì họ. Dì sờ nắn tay tôi, vuốt lưng, vuốt tóc như vỗ về đứa trẻ. Dì thì tháo:
Mày không đến nỗi phù thũng như mấy đứa về hồi trong năm. Nhưng sao mày gầy thê, lại ghẻ nữa.
Dì thì… dì thì… Tôi ấp úng và lặng đi trong bàn tay vuốt ve của dì. Dì cười mà đôi mắt ngân ngấn nước. Tôi hiểu nước mắt và nụ cười kia nửa dành cho người lính trở về, nửa còn lại dành nhớ thương hai người con đã gửi nhịp đập con tim vào lòng đất miền Trung.
Thức vui với dân làng rồi lại thức rất khuya với Nụ, vừa đặt mình xuống giường, tôi nghĩ sẽ phải ngủ đến chớm trưa mai. Vậy mà lúc thức dậy trời vẫn còn tối đậm, trên bàn thờ vẫn còn le lói ánh đèn dầu bao giờ cùng được mẹ tôi thắp từ lúc tắt mặt trời đến khi sang hẳn. Cùng lúc nhận ra ánh đèn, tôi nghe trong buồng vọng ra tiếng mẹ tôi thì thào với ai đó. Ngay đó, một giọng nói the thé, rin rít đã giúp tôi nhận ra người khách sớm mai. Đấy là vợ chú Thấn, Bí thư đảng ủy, nhà ở xóm bên. Đúng là thím Thấn rồi. Tôi ép mình sát vách, dỏng tai hóng chuyện. Lạy chúa! Cảm ơn linh giác đã mách cho tôi biết thím Thấn sang sớm không phải để hỏi thăm thằng lính hồi hương.
Mẹ tôi thì thào:
- Miệng dân song bể thím còn lạ gi! Cháu nó về đến đồng kẹo cho trẻ tôi cũng phải lo chứ làm gi có hàng biên giới mới chả đồ tâm lý. Chả giấu thím , đến quà sang ông thong gia cháu nó cũng cậy tôi.
Thím Thấn chem chép miệng:
- Vậy mà em cứ tưởng thằng ấy ở biên, làm ăn được, thế nào chả mua ít hàng kiếm đồng lời đỡ bá…
Tai tôi thoắt ù ù như có ai kề cối xay bên cạnh. Rồi vẫn tiếng qua kẽ răng khít khịt trồi ra:
Tưởng có hàng thì bá đưa em rồi quy ra tiền khấu vào món bá khất hồi trong năm và mòn lãi đận rồi. Thật không có cũng đành vậy. Chỗ chị em, em nói thật, anh ấy cứ đay đớn món bá khất, thúc em xin cả bá để lo việc cưới cái út Len. Nể bá, em đành vay ngõ khác đập vào. Người em vay, họ đòi “năm mươi phân”, thóc đến mùa một trả đôi chứ không mềm như em đưa bá đâu…
Cảm ơn thím – Mẹ tôi cất lời nghe run run.
Thằng cả nó về bất quá được bốn chục ký gạo chứ mấy. May thì đử trả ngõ vay nóng chứ bõ bèn gi, bá nhỉ! Nếu thiếu ăn bá cứ sang em, mà sang ngay chứ không tuần tới nhà em nó họp huyện về. Em đỡ không bá nhưng bá đỡ cho em cái ngõ em vay đập vào món bá khất em nhé!
- Thím… thím xơi trầu đi.
- Thằng cả qua tuổi kim lâu rồi thì bá xin cưới ngay đi. Chứ để vậy trai gái gần kề bố ai răn ai lường nổi. Bá cứ lo đi, em đỡ cho một món. Bất quá dăm tạ thóc, dăm chục ngàn là thừa cưới chứ mấy nả…
Thím Thấn kết chuyện bằng tiếng cười the thé rồi cáo về. Mẹ tôi theo tiễn thím ra ngõ. Bao mệt mỏi hành trình mã hồi, rồi đêm vui ào về quật tôi xuống giường ngủ tiếp. Tôi cố gượng đứng lên gấp chăn màn, vừa lúc mẹ tôi trở vào. Tôi hỏi ngay:
- Thím Thấn sang hỏi nợ hả mẹ?
- Mày thì… Mẹ tôi chỉ nói thế rồi bước vào trong buồng đánh thức lũ em vẫn đều tiếng ngủ.
“Mày thì…” – Đấy là lời của mẹ. Bao giờ cũng thế khi đứa con muốn tham dự vào những lo toan của người mẹ đều được mẹ chối từ, gạt đi bằng: “Ối dào… ối dào… mày thì…”. Như thế là mẹ quyết dành hết về mình những gánh nặng. Muôn lo từ nhỏ tới lớn,từ ăn đến mặc, lấy vợ, lấy chồng… muôn lo mẹ chất được cả lên vai, vào lòng.
Tôi cầm khăn mặt ra bờ ao. Mưa phùn bay bay. Từ lúc tôi chia tay Nụ trong đêm, giờ mưa vẫn bay bay, vẫn giăng màn hư ảo. Bên kia bờ ao thấp thoáng bóng cây. Lưng bóng cây thấp thoáng chái bếp nhà Nụ. Tôi vục tay xuống ao vốc nước vào mặt. Màu nước ao quê xanh xanh, mùi nước ao quê ngai ngái. Những mệt mỏi, cả những buồn lo nữa bỗng tan loãng, mất hút trong cái màu, cái mùi nước ao quê đã hơn một năm nay tôi mới được vỗ lên da mặt mình. Từng vốc… từng vốc nhé… A! Nhà bên Nụ đã dậy từ lúc nào. Tiếng em nẹt con lợn đòi ăn nghe sao mà oai thế! Bên ấy là cầu ao nhà em, có cây lộc vừng cổ thụ. Từng vốc…từng vốc nước ao quê ngai ngái, xanh xanh.Buồn cười thật đấy! Ngày ấy làng chưa có nhà hộ sinh, bà Nụ đón Nụ ra đời rồi rẽ giậu, băng qua vườn sang đón tôi. Hai đứa chung quả chanh tưa miệng. Hai đứa chung lưỡi hái cắt rốn. Đến ngày hết ngén, tôi và Nụ lại “ti” chung bầu vú mẹ Nụ, vì mẹ tôi lại mang thai, lại bị ốm. Tôi bú nhờ mè Nụ đến khi đầy tuổi mới thôi.Chúng tôi như củ khoai trầy trật lớn trong luồng đất cằn. Chúng tôi than nhau, đánh nhau, cãi nhau… lại than nhau như hai đứa trẻ sinh đôi. Học hết lớp bảy, tôi và Nụ phải thôi học vì hoàn cảnh éo le. Bố tôi ngộ cảm sau đêm đi riu tép. Mẹ Nụ sinh cô gái thứ bảy lại mắc thêm chứng hậu sản. Chúng tôi cứ vô tư đùa nghịch cho đến khi trái tim tôi đổ nhịp lạ lùng theo ánh mắt chợt nhận ra người “tic hung” đã là cô gái lộng lẫy trong bộ quần áo quê. Hết vô tư sao? Dầu sao cũng chẳng ai thơ trẻ, vô tư mãi được… từng vốc… từng vốc … ao quê.
Các em tôi đi học được một lát thì Nụ sang nhà. Gương mặt em bừng đỏ sau nụ cười gượng thay cho lời chào “trống”, tôi đang ngây người vê thuốc sợi. May mà mẹ từ dưới bếp đi lên chứ không đôi bên chưa cưới khó mà “ngồi được” với nhau.Tôi đã làm vỡ điếu thuốc, còn em đang lùi lại góc nhà.
Mẹ tôi vừa bước qua bậc cửa, Nụ sà lại. thì thào:
Mẹ, con sắp đĩa xôi sng thắp hương thầy để lát nữa bố con… đi ngược…
Mẹ tôi run rẩy đón đĩa xôi đặt lên ban thờ.Nụ rút ba nén hương đưa cho mẹ tôi rồi mạnh bạo bước ra bàn:
Em mua mấy gói kẹo để anh làm quà…
Em thì… tôi chỉ nói được thế! Nụ lặng lẽ xếp mấy gói kẹo lên mặt bàn. Hương trầm đã tỏa ngan ngát. Mẹ tôi chắp tay trước ngực, miệng lầm rầm: “… độ trì… đi ngược… làm ăn…”.
Đi ngược tức là hành trình từ vùng xuôi lên lên vùng đồi núi. Tôi đã quen với tổ hợp từ “đi ngược, lên đoàn” từ thủa lên ba. Làng tôi nghèo lắm. Thiên hạ năm, mười tấn một héc-ta; cơ giới tới bốn, năm mười phần trăm việc đồng mà làng tôi vẫn cứ nghèo. Ngày ba tháng tám khi đồng ngơi việc cũng là trong nahf cạn cái ăn, dân làng tản tứ phương tìm cái ăn đợi mùa. Người sang Nam Đinh, Ninh Bình đóng gạch, nung vôi khoán. Người lên rừng gặp việc gì làm việc ấy, cốt sao có bát cơm, đồng công. Cũng có người đi ngược không cốt tìm việc mà đi mót sắn, mót chè đưa về xuôi đổi thóc gạo. Những nhà khá giả thì ngồi nhà cũng kiếm gấp nhiều lần đám xuôi ngược tứ tán. Họ xuất tiền, xuất thóc, lãi một trả một rưỡi, gấp đôi và lấy mốc là mùa gặt tới. Kẻ khó cần cái ăn, cần đồng vốn, tiền tàu xe thì lãi mấy cũng phải gật, phải ngậm bồ hòn. Tôi đi lính mấy năm, năm nào cũng được hưởng phép. Dịp nghỉ nào về cũng nghe nói làng Hạ (tên làng tôi) quyết tâm phá thế độc canh cây lúa bằng nghề này nghề nọ; nâng cao đời sống bằng kế bày, sách kia; triển khai nghị quyết, chỉ thị này khác… Nhưng rồi làng tôi cũng như năm nào, vẫn nguyên thế độc canh, vạn sự chi dung hợp lý, phi lý chồng lên hạt lúa; vẫn mỗi mùa gặt cờ đỏ, dân quân vác sung, kéo xe đi thu sản; vẫn tháng tám ngày ba người giàu xuất tiền, thóc cho vay lãi, người nghèo tứ tán làm ăn, cả hành khất nữa…
Nụ về rồi, mẹ bảo tôi:
- Con sang bên nhà đưa ông xuống bến xe. Đừng để cái Nụ nó đi. Nó đi thì bỏ mất gánh cỏ bán cho đám xe bò bến than. Bỏ rẻ gánh cỏ đầy cũng được lưng bở gạo.
- Vâng ạ - Tôi đáp và thấy đầu óc chông chênh, giống như ngày nào mưa tắc đường vận chuyển, cả tiểu đội “ăn” nước lã tròn nửa tuần lễ.
Nụ đồng ý để tôi quảy gánh đưa bố xuống bến xe huyện. Hành trang đi ngược của ông gồm vài bộ quần áo, hai ký thuốc lào, ba ký tép khô và năm lý mắm tôm đặc. Trên đường xuống bến xe, bố con trò chuyện rôm rả. Ông không giấu tôi cả việc phải đi vay ai, lãi bao nhiêu phân để có vốn đi ngược. Đến bến đã thấy mấy người làng cũng chờ xe đi làm ăn. Ông không cho tôi xếp hàng chờ mua vé mà giục về và dặn: “Bảo các em làm đất trồng cà. Nếu khan việc sẽ đi mót sắn, mót chè đủ gánh rồi xuôi…”.
Từ bến xe, tôi về thẳng nhà Nụ. Nhà im vắng. Tôi đứng một lát mới thấy Nụ từ vườn rau về. Nụ bảo mẹ đi cắt cỏ, mấy đứa em, đứa đi chăn trâu, đứa đi đánh dậm. Tôi hiểu mẹ đã giành lấy việc đi cắt cỏ để Nụ ở nhà chờ tôi ve
Vào trong nhà, tôi mạnh bạo hẳn lên. Ngồi đối diện với Nụ, tôi hết nói luyên thuyên laij lấy xe điếu chọc đùa vào trán, vào tóc em. Nụ chỉ cười. Hết quay mặt đi lại gục mặt xuống bàn để cười. Một lần Nụ ngẩng lên, mặt đỏ bừng, đôi mắt sáng lạ lùng. Tôi nôn nao bật khổi ghế sang bên Nụ. Em vội đứng lên lách qua người tôi để mất hút sau cửa buồng. Tôi lao theo em. Điều chợt nhớ ngày xưa bé bỏng đuổi nhau chốn nấp gậm giường, niềm âu yếm cả ham muốn nữa vừa dậy lên đã lắng xuống khi tôi nhìn thấy, đúng hơn là ập vào mắt tôi, dáng đứng như bết vào góc tường của Nụ, đôi mắt em mở to, ngấn nước và đầy ắp sợ hãi. Sợ hãi kia có giống ngày xưa tôi dọa em trong đêm đi học nhóm? Có giống như đêm nào bên gốc lộc vừng cạnh cầu ao mùi nước ao quê ngai ngái, màu nước ao quê lấp lánh dưới trăng… Toàn thân tôi thoắt tròng trành. Tôi đảo mắt khắp gian buồng tìm nơi bấu víu. Không thể vịm vào vai em đang nép chặt vào góc tường. Không thể.. Góc trong cùng một lá cót cuộn trong bên cạnh cái lải không đậy nắp. Cái lải chắc dùng đựng gạo nhưng không cần đậy nắp nữa. Vách áp gian ngoài có hàng vấu tre để vắt quần áo. Vài bộ quần áo trên mắc. Dưới chân vách, một rổ khoai củ to nhất cỡ ngón chân cái…
Tôi run rẩy bước ra khỏi gian buồng mà thời thơ ấu đã thuộc từng xó xỉnh, từng chui xuống gậm giường chốn nấp. Tôi không đến bên bàn ngồi xuống chiếc ghế ghép bằng than tre để chờ Nụ mà đi thẳng ra vườn rau. Trên mặt luống đất vằm nhỏ, những cây cà tím đang chờ vào hốc. Tôi cầm lên tay những cây cà, ngắm bộ rễ non tơ và nhớ đến món cà bung tra tỏi, lá lốt ăn thay cơm tối.
Từ nhà Nụ về, tôi thấy mẹ ngồi bên thúng thóc đặt cạnh cối xay. Tôi sà vào với mẹ và đặt tay vào thúng thóc. Những hạt thóc lạo xạo bốc lên mùi hôi ẩm. Tôi nghiền mấy hạt thóc trong lòng bàn tay bằng ngón tay cái. Vỏ trấu và hạt gạo vụn nát. Chắc chắn là thóc lưu cữu từ vài ba năm trước, ngữ này tỉ lệ gạo không thể hơn bốn nhăm phần trăm.
- Mẹ vay ai thế? – Tôi hỏi và nhớ đến thím Thấn.
- Của cô Liên mẫu giáo đấy. Cũng lãi nhưng nhẹ hơn – Mẹ tôi nói.
Sao mẹ lại vay? Con sẽ đong gạo chế độ cơ mà.
Mẹ tôi như bừng tỉnh, vỗ tay lên cạp thúng.
Con không nhắc đến đong gạo thì mẹ quên chuyện. Con xuống bến một lúc thì chú xã đội lại chơi. Chú ấy bảo chế độ gạo xuất ngũ bây giờ trả bằng tiền, giá trăm tám một cân. Cứ như chú ấy tính thì ba tháng Chính phủ trả bằng tiền chỉ đong được nửa tháng giá chợ.
Ngừng một lát, mẹ tôi nói tiếp, giọng trầm xuống:
- Mẹ đã tính nếu được đong gạo thì san cho bên nhà một nửa, đỡ ngày nào hay ngày ấy. Nhưng nếu thật phải lĩnh tiền thì chẳng được mấy nả. Bên ấy ngày càng neo bấn. Vụ chiêm rồi lúa tốt đấy nhưng ruộng ít lại đông miệng ăn. Gặt xong buông liềm coi như trắng tay vì phần cờ đỏ thu tại ruộng, phần chủ nợ thu tươi ngay trên sân.
- Tôi nhớ đến gian buồng trống không, lá cót cuộn tròn, cái lải sành không nắp. Tôi nhớ đến khuôn mặt nhợt nhạt, cái dáng đứng như bết vào góc tường và vầng trán vã mồ hôi khi vung cuốc trên luống cà.
Con xay ù hộ mẹ nhé. Mẹ sang bảo cái Nụ xuống nhà thím Thấn mà lấy thóc. Thím ấy gạt một tạ đến màu thành một tạ sáu bảy cân. Như thế cũng còn nhẹ hơn nhiều ngõ khác. Phải bảo nó xuống lấy ngay không xóm dưới họ lấy cả, ngày mai thím ấy lại lo cưới con gái – Mẹ tôi nói thế rồi sải bước ra ngõ.
Tôi bưng thúng thóc đổ vào lòng cối và mắc chàng xay vào tay cối. Cối xay quay tít. Tiếng cối xay “ù… ù” đan vào tiếng ngỗng kêu “ken ket…”, “ù… ken…két…”.
Ngày tháng ba thật dài. Nhưng dù có dài bao nhiêu rồi cũng phải tối. Tối đậm, tôi và Nụ ra ủy ban xã để trình giấy tờ xuất ngũ của tôi. Đường làng vắng ngắt. Hai bên đường khá dài mái nhà nhưng thoảng mới có ánh đèn hắt ra đường. Có lẽ tôi và Nụ là hai con người duy nhất có mắt trên đường làng trong đêm tháng ba.
Ngày mai hoặc ngày kia trình giấy cũng được – Tôi bảo Nụ và quyết định rủ em đi dọc đường làng. Đi thế, để thỏa mãn cái chớt đến ngồ ngộ: tận hưởng vẻ tĩnh lặng của đêm quê giữa kì giáp hạt, sau đó là vì lâu tôi mới được đi bên em trên đường làng. Cuối đường làng có lối rẽ lên bờ đê. Trên bờ đê có nơi khuất gió, ngày xưa, cả bây giờ nữa, trẻ chăn trâu thường tụ tập.
Nhưng còn các em ở nhà. Chúng nó sẽ đùa nghịch, đánh cãi nhau thay vì học – Nụ nói. Tôi trá lời bằng cách cầm tay em. Sắp đến cổng ủy ban, tôi kéo Nụ bước nhanh hơn. Hai đứa lướt qua cánh cổng mở rộng. Vào đây sẽ giải quyết được gi nào? Cái thiết thực là con dấu để mua gạo thì đã trả bằng tiền. Chế độ: chắc chắn sẽ được nhận một sào khoán sản. Chứ việc ưu tiên ở đây xin đừng có mơ nếu không có “chân rết” vây cánh ở làng.
Chúng tôi dừng bước bên một gốc phi lao. Trước mặt hai đứa là bãi ngô. Sau bãi ngô là dòng song. Con song Trà khá rộng chảy qua làng tôi màu hanh hao êm ái như dải lụa uốn lượn, uốn lượn… Vậy mà chỉ chớm mùa mưa bão,sông thoắt biến hình cuồn cuộn, cuồng nộ như con thủy long lao đi chinh chiến với biển cả.
- Đầu tháng tới là có ngô ăn rồi – Tôi nói để có chuyện vì hai đứa im lặng đã lâu lâu.
- Vâng – Nụ đáp và nói lảng – Ngày kia đám cưới cái Len đấy.
- Anh biết rồi. Cái Len con thím Thấn sắp “chống cười”.
Nụ trở lên sôi nổi:
- Đám cưới con gái Bí thư lấy con trai chủ tịch xã sẽ to nhất làng cho mà xem. Chú Thấn chuẩn bị hơn tạ lợn. Nhà trai chắc phải gấp đôi. Trong món đồ dẫn cưới có ba chỉ vàng, trong hôn lễ có dàn nhạc sống, chụp ảnh.
- Thế còn chúng mình? – Tôi buột miệng hỏi đùa.
- Thế anh đã chuẩn bị được gi nào?
Nụ hỏi thế, giọng điệu rất chi là vui nhộn, vậy mà tôi chết lặng.
Chuẩn bị được gi nào? Gian buồng của mẹ trống không, lá cót cuộn tròn, không có mùi thóc gạo, lũ chuột rúc lên cắn mái rạ. Chăn, màn, giường, gối, thuốc lá, pháo, cơm cỗ… trông vào đâu? Hay là trông, là chờ vào cô mẫu giáo, vợ chú Bí thư?... Chiếu nay, mấy mẹ con đã bưng lên tay bát cơm của thúng thóc vay theo lãi suất “tình cảm”, một tạ đến mùa thành một tạ sáu mươi kí. Chiều nay mẹ tôi và mẹ vợ chưa cưới rủ nhau đi cắt cỏ bán kiếm mấy trăm bạc phòng thím Thấn nài ép thì có đồng đặt đĩa bữa cỗ cưới…
“Lung tung… nghĩ lung tung… Vợ chưa cưới hỏi về việc cưới mà nghĩ lung tung… ê… ê… xấu xấu…” - Tôi nghe hình như dòng sông trước mặt nói thế. Tôi đành chốn tránh sự thật bằng hài hước, vui nhộn giống như hôm nào lình đói bàn chuyện cãi nhau về cỗ bàn, món này, món kia, ngon, dở; giống như trên sạp trong hầm chốt toàn con trai luận chuyện tán gái, đùa trò ôm yêu…
- Anh chuẩn bị đủ ráo cả rồi. Anh sẽ cưới em ngay bằng… bằng… - Tôi nói thế và ôm ghì Nụ vào lòng mình. Đôi môi, cả toàn thân em nóng bừng run rẩy.
- Thoắt thôi, vẫn trong lòng tôi, toàn thân Nụ lạnh toát, run rẩy nhiều hơn. Hai bàn tay và cả khuôn mặt em vã mồ hôi.
- Cưới nhau nhé? – Tôi lại đùa khi trên đường về Nụ đã vui lại.
- Ừ! Thì anh cưới đi. Chúng mình cưới nhau tức là góp thêm vào cuộc sống làng xã một sự kiện tuyệt vời.
Những sự kiện nào nữa? Có thế người vợ chưa cưới của tôi nhận định chưa chuẩn lắm nhưng đang vui và em vội chữa “làng xã” thành “tháng ba” nên tôi đồng ý với Nụ rằng: vài tạ thịt dùng trong cỗ cưới “ chạy bung” con gái Bí thư xã là một sự kiện; tờ lịch treo tường báo ngày tháng của những năm cuối thế kỉ hai mươi nhưng đa số dân làng phải sống, phải lo như đồng bào mình những năm đầu thế kỉ cũng là một sự kiện.
Một chiếc lá to bay qua mặt tôi rồi đậu xuống mắt đường. Cái lá bay đậu vô tình khiến hai chúng tôi cùng hướng mắt lên khoảng không trước mặt. Nhanh thế! Mới ở trên đê bây giờ đã gặp cây gạo cổ thụ giữa làng. Trên vòm cây, những bong gạo lặng lẽ chờ nắng đầu hạ để nở bung, để bay bay. Hoa gạo nở độ tháng ba. Tháng ba dân làng tôi tứ tán tìm cái ăn, tìm đến đám địa chủ mới đợi mùa…
Anh này! – Nụ kéo tay tôi đi tiếp – Sáng nay tụi em tổ chức dựng rạp giúp nhà gái. Rạp rộng kín nửa vào sân gạch nhá. Trong lúc làm, thằng con thím Thấn nghỉ phép cưới em gái cứ bô bô kể rằng xuống ga phía Nam nó gặp người làng mình đi ăn xin. Nó xấu hổ quá vội lỉnh đi, bỏ dở bát phở bò tái. Mấy ông bà cán bộ xã, huyện, chờ ăn cỗ dựng rạp, nghe kể vậy ai cũng cười tít. Nếu không nghĩ đến tình bạn và hoàn cảnh cái Len thì bọn em bỏ về ngay.
Tôi im lặng từ lúc ấy đến khi chia tay vợ chưa cưới, tôi cứ tự hỏi mình: chuyện con trai Bí thư xã ủy kể trong buổi dựng rạp cộng với những người nghe cười tít phải chăng là một sự kiện nữa?
Hôm sau, trong lúc cuốc vườn, mẹ tôi kể thím Thấn chưa gạt thóc cho nhà Nụ vay vì còn phải đi canh đám thợ kim hoàn đánh dây chuyền vàng cho con gái. Cũng đã có người đỡ cho vài thúng thóc, nhưng buổi chiều, mẹ Nụ sẽ xuống xóm dưới để vay thêm với tỷ suất một gấp đôi, tính mốc là mùa gặt tới.
Những ngày sau đó, cả hai nhà có sự chuyển hướng làm ăn. Mẹ tôi, mẹ vợ và vợ chưa cưới của tôi đi xúc tép, mấy đứa lớn đi cắt cỏ bán cho đám xe bò bến than. Đứa em út của Nụ hơn năm tuổi bị nhốt trong nhà hết gào khóc lại bi bô: “ữ… i… à… cái chống cối, ữ… o… à… cái… ung… ồi… khoai”. Có lần nó hát “Xuyền xan ại ậu ến xan, thấy em dất dả ơ hàn anh ương”. Lời hát ấy chắc là đám xe bò dạy lũ trẻ cắt cỏ, lũ cắt cỏ dậy thằng bé bị nhốt trong nhà.
Hơn bốn mươi tám giờ trôi qua, trong suy nghĩ và bàn tay tôi ráo riết hoàn tất một kế hoạch làm ăn. Khi cái riu tép, “con vịt” tre, sang đãi – tất cả là dụng cụ kiếm ăn buổi sinh thời bố tôi – đã sửa chữa chắn chắn bảo đảm cho việc hành nghề, tôi băng qua vườn sang nhà Nụ. Đấy là buổi trưa trời trong, nắng đẹp.
- Tôi và Nụ ngồi trên bậc cửa hướng ra sân. Trên sân lô xô mấy đụn cỏ phơi khô thay rạ đun bếp.
- Nụ này – Tôi vào chuyện, giọng điệu rất “ông chồng” – Anh đã tính kỹ và thấy rằng hai bên nhà không thể trông vào nợ lãi đợi mùa. Hoàn cảnh giống như con voi sa lầy càng giẫy càng lún.
- Ối người tính, nghĩ như anh mà vẫn phải mang nợ chồng chất – Nụ nói, mắt nheo nheo cho như tôi bàn đùa.
- Anh bàn việc nghiêm chỉnh đấy. Em hẳn biết anh sửa cái riu tép…
- Thì em chả giúp anh đưa nó xuống từ gác bếp còn gi.
- Một bơ tép quy ra gạo là nửa bơ. Một buổi đun riu bắt đầu từ mười giờ đêm trước đến năm giờ sáng hôm sau, anh đun em đãi, vừa rui vừa tán cũng cũng được ít nhất ba bơ. Ba bơ tép là hơn ký gạo chưa kể ban ngày làm việc gì đó ví như cắt cỏ bán cũng chắc nửa bơ…
Nụ nhìn đăm đăm về phía trước. Như thế là em đang suy ngĩ về kế hoạch của tôi. Tôi lặng im để em đi đến quyết định cuối cùng. Giây phút ấy tôi lại nhớ đến bố tôi. Sinh thời đêm nào bố tôi cũng đi riu. Người đội riu đi trước, mẹ tôi xách đén “ló” đội sàng theo sau. Con tép đồng bé tẹo vậy mà đỡ được phần nào gánh nặng của gia đình tôi. Trước khi ngộ bệnh, bố tôi còn đun riu trên đồng làng… Tôi hình dung ra cảnh tôi gò lưng đẩy riu trong lòng sông, trên bờ, Nụ đặt sàng sát đèn “ló”, căng mắt nhặt vấn rác ra khỏi mớ tép trong lòng sàng đãi…
- Em không ngại đêm hôm vất vả, nhưng em… sợ… - Nụ ấp úng.
Tôi dồn:
- Sợ gì nào?
- Sợ… sợ… giữa đồng vắng khuya khoắt…
Những tiếng bước chân chạy vội đã khiến Nụ ngừng lời. Em đứng bật lên cùng lúc ngoài ngõ dội vào tiếng reo: “Bố về… A… Bố về…”.Tôi theo sau Nụ đi ra ngõ. Bố vợ tôi đang đi vào, đằng sau, đằng trước là mấy đứa em. Dáng đi của người nặng nề, tấm lưng còng xuống vì gánh nặng trên vai. Một bên vai là gánh nặng, một bên là chiếc khăn vải đã xỉn màu, ươn ướt mồ hôi.
Tôi đỡ gánh nặng đặt xuống thềm. Nụ đã từ trong bếp cầm chiếc rá đi ra ngõ. Bố vợ tôi giật giọng”
- Không phải nấu nướng gì cả. Bố ăn trên đường rồi. Con nấu nước anh uống rồi luộc sắn chia cho các em.
Lát sau, lũ trẻ đã bóc đầy một rá sắn. Những cặp mắt hau háu nhìn rá sắn có củ trắng phau, có củ lốm đốm vàng. Những củ đốm vàng là sắn lưu niên. Năm kia cả tiểu đội tôi say mềm người vì ăn phải sắn lưu niên chứa độc tố.
- Em phải cho vào nắm muối trước khi luộc và nhớ đun thật kỹ - Tôi dặn Nụ thế và xách ấm nước lên nhà.
“Bố vợ hom hem như ngã nước” – tôi vừa đi vừa nhận xét trong đầu như thế. Ông noi:
- Tôi lên Bắc Cạn, chỗ làm năm ngoái anh ạ. Đến nơi may được người quen chỉ nơi khoán đào giếng, đào ao. Ba giếng thơi, một ao thả đều ở sườn đồi đá ong nhưng được cái cơm nuôi, công sá cũng khá. Nhận chỗ rồi tôi đảo về ngay tìm người chứ việc đất đa, thổ mộc một mình khó kham.
- Vâng ạ - Tôi đỡ lời bố.
- Đến ga tàu xuôi, gặp vài người làng mình hành khất, tôi mời họ ăn cơm nắm. Tôi cũng có ý rủ họ đi làm nhưng xem ra sức họ đuối lắm mà mình lại nhận đấu làm khoán
- Vâng ạ.
- Suốt đường về, tôi cứ nghĩ nên rủ anh đi được không. Xem ra bên nhà cũng túng, quanh cùng lại ít việc khả dĩ có bát gạo, đồng công chờ mùa. Đến tối, tôi sẽ sang thưa chuyện với bà. Theo tôi, anh nên đi.
- Thầy cho con nghĩ – Tôi đáp và sực nhớ chưa chế nước ra cốc.
Hai hôm sau, tôi đi ngược cùng bố vợ. Lẽ ra là ba người, nhưng trước hôm đi, người được bố tôi rủ đi – chú ấy cũng là bộ đội phục viên – xin kiếu vì vợ chuyển bụng đẻ. Hành trang của chúng tôi gọn gàng trong ba lô cóc và chiếc khâu từ bao tải loại xác rắn. Vẫn đem theo mấy ký thuốc lào, cá khô, mắm tôm đặc phần làm quà, phần bán đỡ tiền tàu xe, tiêu vặt.
Nơi chúng tôi nhận khoán đào giếng, đào ao cách điểm tự toiowr gần ba năm chừng bảy mươi cây số đường chim bay.
Hoàn thành xong ba cái giếng, tôi ra bưu điện huyện gửi tiền về quê. Phòng trước việc Nụ dành cho mẹ tôi phần hơn, tôi chia món tiền kha khá ra làm ba, hai phần của Nụ, phần còn lại của mẹ. Cô bưu điện ngạc nhiên trước việc hai người nhận tiền có chung một địa chỉ.
Ra khỏi bưu điện, đi được một quãng, tôi gặp hai bác người cùng xóm. Đôi bện mừng đến chảy nước mắt. Tôi kéo hai bác vào quán nước gần đó. Lát sau tôi được biết hai bác cùng lên Na Rì. Một người đến với đứa cháu làm thợ sơn tràng; một người lên chuyển sắn mót phơi khô gửi người quen từ tháng trước. Nhờ gặp hai bác, tôi được yên tâm về nhà tôi, nhà Nụ vẫn bình thường. Như thế là hai mẹ và Nụ vẫn đi xúc tép, bòn đồng. Lũ em lớn vẫn một chiều đi học, một chiều cắt cỏ bán cho đám xe bò bến than. Cậu út vẫn hết gào khóc lại trệu trạo: “I chống cối, o vung nồi…”. Cà tím vườn quê đã cho lứa quả đầu. Lúa cũng khá. Đại diện đầu ngành của xã đang họp phân gạo cứu tế và bàn kế hoạch thu sản vụ tới. Ngày hai bác cất gánh ra đi, việc họp vẫn chưa xong. Nhà thím Thấn cưới chồng cho con gái, mời hơn trăm mâm khách. Đấy là những tin quê quan trọng trong hai mươi ngày qua.
Đưa hai bác ra bến xe rồi tôi trở về với cái ao đang đào dở. Trên đường đi, tôi nhẩm tính thời gian. Như thế là chúng tôi xa quê đã tròn hai mươi ngày. Trong những ngày ấy, chúng tôi đã đào khoán xong ba cái giếng và một cái ao khá rộng đang ở những chục mét khối cuối cùng. Hai mươi ngày đã trôi qua… Như thế tháng Ba chỉ còn hai ngày nữa.
Còn hai ngày nữa là hết tháng Ba. Tháng Ba thương mến ơi! Biết nhắn gì? Biết gửi gì cho tháng
NHỮNG CON RẮN
Lưng chiều. Tư vác dậm đi như lướt trên ngõ. Anh đang vui – Gặp chiều nước cạn dậm một chập đã chấm hom giỏ. Lại nữa, đến đầu ngõ anh đã nghe tiếng dao băm bèo bôm bốp. Như thế là “mẹ nó”đã đầy gánh cỏ đồng xa về nhà. Điều đó báo trước giỏ cá lên chợ con tươi rói, dễ chào.
Nhác thấy bóng chồng vào sân, Na buông dao nhảo về. Chị đỡ cái dậm trên vai anh, đon đả:
- Thầy mình nhanh tý nữa thì gặp cậu với u.
- Cậu Nhãn về phép à? Sao không giữ u với cậu ở lại chơi? – Tư hỏi dồn hàm ý trách cứ.
Na cười phô hàm răng đẹp:
- Rõ chán với thầy mình. Cậu Cẩng chứ cậu Nhãn nào…
- Ừm. Hừm… Tư hừm giọng chặn lời vợ. Anh bực ra mặt. Chưa một lần sở thị nhưng từ lâu anh được nghe nhiều lời đồn đại về cậu Cẩng làng Cọi. Tay thợ đào ếch trong giấc ngủ trên đê. Được thánh báo mộng cho ăn lộc. Giấc tiên đã tâng tay bợm rượu lên hàng Cô – Cậu. Cậu Cẩng đợi lệnh đức Thánh Trần làm việc phúc đức, độ thế cứu dân, trừ ma diệt quỷ… Tiếng tăm cậu Cẩng lừng lẫy khắp vùng.
Na không nói thêm nửa lời. Ngót chục năm chồng vợ, chị hiểu anh hơn ai hết. Thường nhật Tư lành như cây lúa nhưng gặp điều ngang trái anh có họ với Trương Phi.
Na cúi đầu tránh ánh mắt của chồng. Nhưng chị không bỏ lỡ cơ hội được tạo lập bởi kinh nghiệm. Bàn tay chị chậm chạp chọn cá như làm nhịp cho lời nói vừa như kể lể, phân bua:
- Bao nhiêu lời mời mọc, lạy van cậu chỉ lắc. Đến u nói với cậu Cậu xem tướng mặt tôi rồi mới tạt vào vãng cảnh nhà ta. Cậu bảo thế đất nhà ta đẹp. Thầy mình có quý nhân phù trợ. Nhưng động long mạch hướng đông, có tà ám nên làm ăn lúi xúi. Cậu bảo cứ thành tâm rồi cậu kêu Thánh độ trì.
Tư nhấp nhổm ra ý không bằng lòng. Na đón trước tiếng “hừm…” bực dọc bằng cách nhặt lên con cá trên nhỡ.
- Để lại thêm con này nữa. Chứ vài con rô nướng. Thầy mình gỡ nạc cho trẻ thì lại nhắm suông…
Bất thần Na cúi gằm mặt sát đầu gối. Mặt chị vụt đỏ rựng, giọng nói lý nhí:
- Kìa… chỗ cửa.. quần thầy mình. Gớm chết khiếp.
Tư giật nhột nhìn xuống. Anh đứng bật lên trong nỗi ngượng vì sự vô ý của mình.
Mươi hôm sau. Một chiều Tư đi làm về đến đầu ngõ đã thấy chiếc mipha buộc catáp đen dựa bên gốc mít. Nhà anh chưa bao giờ có khách sang đến thế. Tư đang băn khoăn thì Na trong nhà chạy ra. Chị nhìn chồng bằng ánh mắt tươi rói:
- Cậu với u trong nhà. U với tôi van mãi cậu mới nán lại chờ thầy mình.
Tư miễn cưỡng vào nhà. Anh chưa tìm được lời thích hợp chào vị đại diện thánh thần. Cậu Cẩng đã đứng lên cúi người nho nhã.
- Anh Tư đi làm về.
- Vâng. Tư đáp và ngồi xuống ghế cạnh mẹ vợ. Thoáng chốc Tư hoài nghi với mặc cảm bấy nay về những người hành nghề mê tín. Con người đang ngồi trước mặt anh là một đấng thiên sứ có tài tiên tri, giao tiếp âm dương, điều ma cử quỷ. Con người ấy được cả vùng tôn kính là cậu, là Thánh. Dến bà lão chín mươi cũng phải rập đầu một điều cậu hai điều con. Con người ấy không hề giống sự miêu tả của sách báo, phim ảnh. Không râu cằm, ria mép. Không nách tráp, tay ô. Không áo chùng, khăn xếp… Con người ấy – Cậu thánh Cẩng làng Cọi kia mới lịch lãm làm sao. Đồng phục sơ vin.n Tóc chải đầu. Kính trí thức. Nước da khỏe khoắn no đủ… không được giới thiệu trước ắt toàn quốc chắc mẩm cậu là viên chức bậc trung nơi đô thị. Lời ăn tiếng nói tất nhien bội phần hơn nước xuýt đậm mì chính cánh. Con người cậu lồ lộ vẻ mãn nguyện tự tin của kẻ biết thời cuộc đang thuộc về mình, bị mình chi phối. Muốn yên được yên, thích sóng gió khắc có sóng gió.
- Ông Tư này – Cậu Cẩng xưng hô tự nhiên. Trước đó, trong lúc Tư hút thuốc lào cậu đã ném sang anh cái nhìn kẻ cả hàm ý cảnh cáo anh nhà quê quen thói mượn cái điếu thăm dò người lạ - nể lời cụ, cảm tiếng sống của anh chị mà tôi ghé vào chứ công việc chả mấy lúc được thư rỗi.
Bà mẹ vợ cung kính:
- Dạ. Đa tạ cậu…
Cậu Cẩng mủm mỉm, nói ra vẻ không cần ai nghe.
- Chuyện tôi đã nói với cụ và chị. Giờ sẽ nói với anh. Tin hay không tùy tâm. Nhà ta tứ đời vắt mũi không đủ nuôi miệng. Anh chị có tướng đa tài bách nghệ. Nhưng anh chị có tính nghề nào cũng sớm mở chiều dẹp. Của cải lắm phen ngỡ trong lòng bàn tay mà thoắt nhiên tay trắng. Tâm thần cả trong giấc ngủ cũng không yên. Vài lời trót dại, anh nghĩ tôi nói đúng sai?
Tư thần người ra. Rõ ràng cậu thánh đoán mò mà đúng. Đời ông bà, bố mẹ là chuyện hôm qua không nói. Thời hôm nay, ngoài cây lúa, tập thể mở nghề nào vợ chồng anh dốc lòng theo nghề ấy. Rốt cuộc, nghề thì chết vì đủ vòi bạch tuộc tiêu cực, nhũng nhiễ. Có nghề bát cả bát mồ hôi cũng không đủ lửng diều gà. Có nghề, trên kêu gọi làm ngay, làm nhiều. Châu Âu đặt hàng đơn như núi. Ngoại tệ mạnh. Đùng một cái sản phẩm đồ nghề xếp xó như thức ăn dần cho mối mọt. Vợ anh cũng sắm quang gánh chạy chợ. Nhưng chuyens thứ nhất dân phố lừa mất cả sọt. Chuyến tiếp, tiền thuế, tiền chợ gấp đôi tiền lãi. Vợ anh lại hoàn nghề khi đi mò, lúc cắt cỏ bán cho đám xe ngựa bến than. Anh lầm lũi với đánh dậm từ thời cụ tổ làng. Sông xa, ngòi gần. Con cá, con tép. Âu cũng có thu nhập. Của đáng tội bấy nay ở làng có những sang sáng nông nổi. Nhuwnghx chính sách, chủ trương, đường hướng làm ăn… chí lý lắm. Nhưng làm sao vẫn cứ hàng lũ hình nhân ăn trắng mặc trơn, cu thiên xích đế, nhảy nhót múa may trên lưng tấm áo nâu sờn bạc dãi dầu.
Thoáng hồi tưởng làm bật trên môi Tư nụ cười chua xót, mỉa mai. Phận áo nâu khổ từ trong bụng mẹ. Điều ấy đứa đứa trẻ con cũng biết, nói gì thánh. Tư vê mồi thuốc lào dụng ý cho chín thêm những lời khiến cậu thánh bẽ mặt.
Dường như biết điều ấy, cậu Cẩng đặt điếu thuốc đầu lọc xuống bàn. Cùng với ánh mắt bề trên cậu thánh ra giọng mật:
- Biết người có hạn không cứu thì người biết mang tội. Thấy người có lộc không báo người thấy ắt tán tài. Cứ vào tướng mặt anh và đường vân tay chị. Ứng với thẻ quẻ chịu xin hôm qua, nhà ta đây sắp mở nghề phát tài hái lộc.
- Nghề gì vậy? – Tư thốt lên. Trong nỗi kinh ngạc anh thoáng giận vợ. Thì ra hai ngày liền Na bỏ buổi mò đi đến tối mịt mới về. Hỏi thì ậm ừ: “sang làm cỏ giúp dì”.
- Nghề gì à? – Cậu Cẩng mủm mỉm – Như tôi dã nói với cụ và chị sau buổi lễ điện hôm kia.Đang thời âm thịnh dương suy. Âm thịnh thì đồ cúng lễ phải nhiều. Chỉ một cái lễ đã hội đủ tứ nghề. Nghề vàng hương, nghề xáo nếp, hàng gà, hàng mã. Trong tứ nghề phụng âm kính thiên có nghề hàng mà là mau phát, bền lộc hơn cả. Các vị có biết hàng mã Tốc, mã Lủng phố huyện không?
Na và mẹ gần như đồng thanh:
- Dạ. Thưa cậu có ạ.
Cậu thánh Cẩng gật đầu đắc ý:
- Hai nhà ấy cha truyền con nối nghề hàng mã. Cơ ngơi cỡ nhất phố huyện. Phu, thê, đệ tứ một bước là vè vè kích, cúp. Nhưng quân ấy hái lá lộc mà không biết vun gốc tín lễ. Chúng cậy thế độc quyền bắt chẹt dân lành. Chúng dư giả chu du đó đây mà không nửa bước vào cửa cô điện cậu. Chúng tiên tiền như rác nà không đồng bạc, nén hương tiến cửa chùa cung miếu. Tháng trước đi lễ tôi có tạt vào hai nhà ấy. Nhà thì chôn cột an-ten cản phương tài lộc. Nhà thì đôi xà quá có đá hóa tinh. Hai nhà ấy sắp đến ngày mạt vận. Ứng với quẻ thẻ, anh chị nên chớp cơ hội mở nghề hái lộc.
Tư buột miệng:
- Nhưng nghề ấy phạm pháp.
Cậu thánh cả cười:
- Hẳn anh biết lai lịch hai nhà ấy. Nào đã luật nào đụng đến họ.
Ba người chủ nhà đớ ra. Họ im lặng ngầm thừa nhận sự đúng đắn của lời thánh. Mã Tốc vốn là phó phòng văn hóa huyện về hưu.Hàng của ông ở cạnh hiệu sách nhân dân. Mã Lủng là em ông Treo đương chức Bí thư huyện. Ngôi hàng của ông liền vách trạm cảnh sát, bề thế giữa phố huyện không mấy khi vắng khách.
Ba ngày sau. Na đội mưa đi đâu từ sáng sớm. Giữa trưa chị mới trở về. Tựa bó nan nứa, cuộn giấy ngũ sắc vào góc nhà. Chị quay ra với chồng ngồi bó gối hút thuốc lào vặt:
- Cậu dặn hôm nay tốt ngày mở hàng được. Khách xô vía cậu đã xin thánh tìm cho. Giờ thìn mình làm cho tôi đôi ngựa hồng, đôi long đao. Ngựa thế này… Long đao thế này… - Giảng giải một hồi Na te tái xuống bếp quấy hồ.
Ngày mưa, nước lớn cái dậm gác xó. Tư miễn cưỡng mượn việc giải buồn. Anh khéo tay, từng tham gia ban thông tin xã, chuyên kẻ vẽ… Nên việc ấy đối với anh không khó.Tư hì hụi dựng khung, cắt, dán.Đến chiều, ngựa ra ngựa, long đao ra long đao. Na mừng như bắt được vàng. Hai đứa con đi học về thấy lạ mắt cứ quấn quýt quanh món hàng. Xem chán chúng hết đòi cưỡi ngựa lại vác long đao dọa nhau Na phải đe roi chúng mới chịu thôi.
Xẩm tối có tiếng xe máy vào ngõ. Tư thất tán thất hồn. Biết đâu làng xóm thấy láng giềng hành việc phi pháp mật báo công an. Tư toan vơ ngựa nghẽo, long đao nhét vào gầm giường đã nghe tiếng vợ đon đả:
- Hàng của chú xng rồi. Tôi lo lo là. Chỉ sợ chú trễ giờ cậu bấm.
Vợ chồng Tư giúp khách xếp hàng vào bao tải, buộc sau xe máy. Khách vù đi ngay.
Na vặn to hơn ngọn đèn dầu. Chị đặt lên mặt bàn xếp tiền, giọng nói run run:
- Mười tám nghìn thầy mình ạ. Kách khen hàng đẹp, giá mềm thưởng thêm hai nghìn nữa.
Tư lặng người đi. Anh nghe trống ngực dồn như vồ đập đất. Đời anh trong mơ cũng chưa thấy công lao động nào cao giá đến thế. Mà lại nhàn nhã. Không phải lội đồng đến rạc cẳng. Không phải ngâm mình trong nước đến bã bợt da thịt. Không có đàn lũ các loại đỉa bu bấu bòn rút giọt máu loãng… Tư khẽ rùng mình vì một nỗi cảm phục không quá mơ hồ.
Mã đẹp, giá mềm, gia chủ hiền lành… Những tiếng lành đồn xa. Tư – dậm trở thành Tư – mã. Na – mò dần nhường chỗ cho Na – mã. Ở làng quê có thói quen gọi tên người kèm tên nghề như vậy.
Cậu thánh Cẩng phán: “Đang thời âm thịnh dương suy”. Sai đúng ra sao cần phải nhìn đời để mà bàn nghị. Riêng vợ chồng Tư – Na mã bận tối mắt mũi. Những ngày tuần tiết, lễ hội, tết mã tháng bảy, nguyên tiêu, phải nghỉ học phụ giúp. Có khi vợ chồng anh phải mướn nhân công.
Chặp đầu khách hàng chỉ là các con nhang đệ tử trong xóm ngoài làng. Dần dà khách là những bà chuyên nghiệp buôn hàng mã. Họ đặt cọc hẹn ngày đến lấy hàng. Mỗi chuyến vài ba xe thồ. Có khi khách phải thuê xe ngựa mới chở hết hàng. Từ ngày có khách mua buôn nhà Tư – Na mã như một xí nghiệp gia đình chuyên sản xuất hàng âm phủ. Vợ chồng anh không phải tháng đôi ba lần đi chợ mua giang, nứa, giấy màu… Có người hàng xóm xin làm chân cung ứng vật tư. Từ ấy nếu cần vật tư chỉ ới một câu. Mấy tiếng sau xe bò chở hàng về phanh kít tận hiên nhà.
Sau một thời gian lên ngôi chủ xưởng đời sống gia đình Tư - mã được cải thiện rõ rệt. Giầu lên thì chưa hẳn. Nhưng bữa bữa người ngồi đầu nồi đã dịu bớt cơn đau thắt tê tái từng xêu cơm. Mâm cơm thưa dần đĩa cá nát kho tương. Thỉnh thoảng ba ông đồ rau bếp có dịp toe toét dội niêu thịt bụng kho mặn, nồi cá khúc kho riềng. Tháng đôi, ba có khi bốn, năm lần bố con Tư - mã được thụ lộc phật lộc thánh. Na - mã càng năng lên chùa, vào điện quả lộc càng to. Thoạt đầu chỉ là lát oản, quả chuối. Dần dà trong làn Na - mã đi lễ về đã có khi đĩa xôi, miếng thủ, cái cổ gà; khi cả đùi gà, chân giò… Rượu Tư không nghiện. Nhưng rượu lộc anh được thụ luôn. Một điều vợ chồng Tư ngỡ “không bao giờ” đã thoát nổi đến như mơ. Chủ nợ thưa dần rồi vắng hẳn. Món nợ sản lưu cữu trả đánh phắt một tiếng. Đi đâu, ngồi đâu vợ chồng Tư – Na mã đã có được cái đàng hoàng của người không nợ nần.Vợ chồng anh dần có tiếng nói trọng lượng của kẻ đến thời vận.
Bấy nay thời gian đối với Tư - mã là dòng chảy êm đềm qua khung cảnh làm ăn tấn tới.
Cậu thánh Cẩng trở thành khách quý của vợ chồng chủ xưởng hàng âm phủ. Cậu được cả vùng trọng vọng. Cậu đối nhân xử thế bằng phong thái tự tin của người lãnh trọng trách thánh thần ủy nhiệm. Nhưng với vợ chồng Tư, cậu đối xử tự nhiên, bằng vai phải lứa, người trần mắt thịt với nhau. Phải chăng đó là một đặc ân. Đúng quá! Tỉ như việc cậu hết mực lo toan sự làm ăn của họ.
- Ông thấy tôi nói có đúng không? – Cậu Cẩng hỏi. Đấy là buổi tối sau lễ trấn long mạch, trừ tà ám.
Tư – mã chỉ còn biết đáp lại bằng sự im lặng. Tất nhiên sau đó anh luôn lấy câu hỏi ấy làm “điểm khởi xuất những chiêm nghiệm”.
Tư – mã thật lòng biết ơn cậu thánh Cẩng! Cậu đã lướt qua bao nhiêu khẩn cầu, mâm cao cỗ đầy để chui vào mái gianh nát, uống với vợ chồng anh bát nước vối loãng. Đời ông bà, bố mẹ cho chí nửa đời vợ chồng anh một lòng đi theo đủ loại đường hướng làm ăn, chỉ thị, nghị quyết… Vậy mà đói khổ hoàn đói khổ. Ngờ đâu chỉ một lời của cậu thánh cuộc sống gia đình anh biến đổi mau lẹ. Như vạt lúa cằn được bón thúc u rê. Như cơn mưa rào đúng ngày con nước trơ đáy.
Tình ơn, tài phục chưa đủ sức biến Tư – mã thành con nhang đệ tử của cậu thánh Cẩng. Anh vẫn chưa nhìn thấy bằng cứ cậu là vị đại diện cho các thế lực huyền bí. Nhưng vô hình chung nó vỡ đất gieo mầm một thứ tình cảm dầy ma lực buộc Tư – mã nhất nhất y lời cậu thánh.
- Anh nên chạy cái bếp. Cả gian chuồng lợn. Để như thế hại phương tài lộc. Cậu thánh phán như thế trong dịp lễ đoan ngọ năm ngoái. Tư – mã đình việc xuống đi mượn người chuyển bếp. Cái bếp chỉn chu thì bọc hạt đay giống thối rữa.
- Cái giếng chạm long mạch, phải lấp! Để thế tán tài hại thê – Cậu Cẩng quả quyết.
Tư – mã bỏ buổi cày hô vợ con bưng đất lấp giếng.
Vợ chồng Tư – mã lo sắm lễ như pháo thủ lo đạn cho loạt bắn cấp rập.
Sau lễ động mộ đến lễ trấn long mạch.Sau lễ giải hạn là lễ gọi hồn tổ cô. Rồi lễ sao. Lễ bốc bát hương. Tư – mã hì hụi đóng một lúc bảy cái giá để vợ đặt mười ba bát hương xin cốt cửa điện cậu thánh Cẩng.
Một đêm đã khuya lắm Na – mã mới đi lễ về, Tư – mã bị vợ gọi dựng dậy:
- Cậu bảo phải bán ba con bé vào cửa điện. Chúng đẻ giờ ấy, ngày ấy mình sao số nặng lắm. Phi cửa phật điện thánh không ai trông nom nổi.
- Thì bán – Tư gật đầu trong cơn ngái ngủ.
Hôm sau sang điện cậu Tư mã đớ người ra. Nhà Lẹp sắm một lúc bảy cái lễ bán cả bảy đứa con cho các ngài. Anh em nhà Mai, Cuốc nợ nút đầu cũng sắm lễ bán con. (Sau này Tư – mã rất áy náy về việc này. Đã laf con thánh cháu thần mà việc dạy dỗ chúng vẫn bội phần vất vả. Chúng vẫn học dốt, lưu ban. Chúng vẫn mắt toét, thối tai, cam sài, bụng ỏng… hệt như đám con thánh thần không ai dòm ngó đến.)
Sau lễ… đến lễ… Tư mã vã mồ hôi vì lo vì sợ. Cái hòn đá cạnh gốc đa cuối xóm bấy nay là nơi trẻ buộc trâu bỗng dưng hóa hòn đá thần linh. Cây đa cụt ngọn bây giờ là nơi trú ngụ của tiên cô, tiên cậu. Phải xây phải điện cho các ngài. Người dứng chủ việc này, như quẻ thánh đã chỉ đích danh: Bùi Thị Na, tuổi tỵ, xóm Vũ.
- Để tôi nói cho anh nghe – Bà mẹ phủ đầu người con đang băn khoăn – Một người nói thì anh không tin, gàn việc ấy là phải. Nhưng cậu Đút chùa Hang. Cô vào đền Banh. Rồi lời thầy Tông dưới Ba Bướn. Mấy nơi đều y một lời. Cửa nào cũng bảo vợ anh hồng phúc có quý nhân phù trợ. Gốc đa, hòn đá thần cho ai đứng chủ lễ phải theo. Không các ngài phạt cho khuynh gia bị sản chả chơi.
Na – mã dúi vào tay chồng tờ giấy:
- Thầy mình đừng lo. Thầy tính cả rồi. Việc xây cất mình không thạo. Nên gửi cái giấy này để thầy mình lo mua vật liệu.
Tư – mã lướt qua tờ giấy. Anh thất kinh. Bấy nay dốc sức đảm ngôi chủ xưởng và mấy sào ruộng khoán anh mù tịt tình hình. Cứ vào danh sách hằng sản xóm Vũ có tới tám chục phần trăm số hộ là con nhang của ậu thánh Cẩng.Các xóm khác tỷ lệ cũng sít sao. Anh lẩm nhẩm cộng trừ. Vôi, gạch, trang trí, bát hương, đồ thờ… giá tối đa. Vẫn có lãi. Lãi to là khác.
- Thầy mình nghĩ gì mà thần ra thế? Na – mã thì thầm – Hôm sắm lễ, cậu dặn mình cứ mạnh tay vào. Các tín chủ phải đóng chứ. Không thiệt mình đâu.
Ngày đinh thìn tháng quý ngọ hạ móng điện gốc đa cụt. Cậu thánh Cẩng khấn vái đặt viên gạch đầu tiên. Bỗng trưởng công an xã vù xe đạp đến. Tư – mã hết hồn lỉnh vào bụi cây. Bất thần bà chủ nhiệm trong đám phu hồ nhảy cầng cẫng, xỉa tay vào mặt trưởng công an:
- Này này… trần sao âm vậy. Ông chớ có hàm hồ làm việc thất lễ. Các ngài giận thì cái mái bằng nhà ông cũng bốc hỏa. Chớ có nói chơi.
Bà vợ trưởng xóm dịu dàng hơn. Bà kéo trưởng công an ra một chỗ. Cậu thánh Cẩng cũng tiến lại. Ba bên rì râmf đối thoại. Lát sau trưởng công an vù xe đi. Ngờ đâu, buổi trưa ông đến thăm xưởng hàng âm phủ. Ông đặt mua đôi ngựa tía, đôi long đao, đôi súng ngắn. Nhân thể đặt cho ông chủ tịch đôi cúp đời chóp, đôi ca táp. Đều để góp phần dâng lễ mở cửa điện cây đa.Tất nhiên, y lời cậu Cẩng dặn trước, Tư – mã chỉ lấy tiền cho có khước. Dịp lễ điện Tư - mã kiếm được món kha khá.
Sự làm ăn phát đạt của mình nhiều khi khiến Tư – mã chạnh lòng nghĩ đến cảnh mạt vận của đám đồng nghiệp phố huyện. Lòng trắc ẩn xui anh làm một hành trình. Vả lại, dễ năm dài anh không có dịp xuống phố huyện.
Thoáng qua hai gian hàng Tư – mã bàng hoàng nghi ngờ cả đôi mắt vốn tinh anh của mình. Sau vài giây định thần thì thật sự là không thể chối cãi được. Té ra xưởng Tư – mã chỉ đứng hạng bét chuyên sản xuất đồ tầm tầm, bình dân. Trong hàng mã Tốc, mã Lủng, bên cạnh mặt hàng truyền thống bày la liệt của nền công nghiệp hiện đại. Ô tô von ga, La đa, Tô ky ô ta cho đến xe tải cỡ lớn. Kích cúp đủ loại xếp hàng cùng máy bay, súng lớn. Cuối phố huyện, bên cạnh nhà văn hóa, mọc thêm xưởng mã mới. Hỏi ra Tư – mã biết chủ xưởng là ông Rụ, viên chức cấp tỉnh hồi hưu. Háng mã Rụ không bề thế rực rỡ nhưng cực kỳ tinh sảo chứng tỏ sự điêu luyện tay nghề. Com lê, quân phục, phù hiệu, hộp con dấu, sách báo, nghiên bút… Thứ nào cũng tuyệt xảo.Người kém mắt thoáng qua khó thể tin đấy là sản phẩm chế tạo bằng tre nứa, giấy màu, hồ bột. Sự ăn nên làm ra của đối thủ không làm Tư – mã buồn lo. Trái lại anh phấn khởi ra mặt. Đó là dấu hiệu “cung” cõn xa mới đáp ứng được “cầu”. Nền công nghiệp hàng mã có một tương lai cực kỳ sáng sủa.
Hỡi ơi! Đó cũng là biểu đồ một thứ lòng tin nơi thôn dã.
Đời sống gia đình Tư – Na mã được cải thiện rõ rệt. Hẳn rồi.
Na – mã là người khởi xướng những thay đổi trong mái gianh nát. Cho nên con người chị có những biến chuyển đậm nét, sâu sắc hơn cả. Na – mã không còn “biểu diễn” những cơn cáu gắt, hò hét, tay choi chân dậm trước những sự trái mắt mặc dầu vô lý hay hợp lý. Sau ngày mở xướng (như quý bạn đọc đã biết). Chị đoạn tuyệt với nghề mò gia truyền. Đường quê vắng đi đôi chân te tái chợ sớm, chợ chiều, mớ tép, xóc cua đồng.
Khi con người ta được vợi bớt tảo tần, không canh cánh nỗi lo từ hạt gạo, củ khoai; khi sau bữa ăn không phải thít dây quần, bát cơm thi thoảng có hơi thịt ,mùi mỡ… Thì ai trẻ xinh sẽ bền lâu xinh trẻ. Ai đã qua thời trẻ xinh cũng cơ may vãn hồi chút đỉnh. Na – mã dần trọn cơ may ấy.Nước da chị bớt dần màu đen đúa, trăng trắng hồng hồng trở lại. Cặp mông mây mẩy lại như mông bò cái bóc bê gặp mùa cỏ mật. Đôi vú căng căng trồi trồi như hai cái hom vịt te tép. Đôi mắt dần hết lử nhoét lúng liếng sắc giòn trở lại. Sau ngót chục năm quên mất bóng mình Na – mã đi chợ mua chiếc gương to về treo góc buồng. Vào tuổi hồi xuân Na – mã hây hẩy như con sề bóc con đến thì thả nước.
Tài lộc đến với mái gianh càng thôi thúc Na – mã năng đi chùa chiền lễ bái. Điện cậu Cẩng tháng đôi ba lần Na – mã sắm lễ bươn bả xuất hành từ trưa. Chùa chiền, điện miếu quanh vùng dần dần nơi nào cũng có Na – mã thành tâm “nhang-đăng-tửu-quả-thực - cốc” dâng tiến cầu phúc, xin lộc. Có chuyến đi lễ xa nhà vài ngày, có chuyến cả tuần, mươi ngày.
“Phải là việc tối hệ trọng thế nào người đàn bà mới đành xa chồng, xa con như thế”. Tư – mã nghĩ vậy nhưng không sao bứt nổi lo âu. Những thông tin đài báo, những lời đồn đại về tư cách các thầy, các cậu thánh khiến Tư– mã lắm đêm mất ngủ. Nhưng đó chỉ là những lo âu ban đầu. Và nó dần biến mất nhờ những chiêm nghiệm rất đàn ông.
Hơn mười năm chung sống, có với nhau ba mặt con gái, Na – mã vẫn còn là Na – cỏ, Na – mò của Tư – dậm ngày xưa. Sau mỗi lần lên chùa sang điện về đôi mắt Na – mã hừng hực một niềm tin thành kính. Tư chợt nhớ hôm nào.
Buổi tối các bà, các cô tập trung bàn sắm lễ dâng điện cậu Lỗ bên Ba Bướn. Tình cờ đài phát câu chuyện: “Ôi! Lạy thánh…”. Đại ý lễ lạt sơ suất thế nào mà thánh phạt cậu lôi nữ tín chủ vào gầm bàn thờ… Thế là các bà nổi đóa lên. Bà nhảy cầng cẫng. Bà vung tay xỉa xói cái đài.
“- Tôi mà biết mặt thằng con nào chế tạo cái chuyện ấy thì tôi kẹp cho vỡ đầu”.
“- Cha tổ quân thất lễ! Cha tổ lũ báng bổ. Sao cũng có ngày các ngài vật chết tươi đành đạch…”
Nhanh tay lắm Tư – mã mới chặn đứng được hành động “ném tổ nó ra sân”. Cái đài lắp cũ mèng cũng phải tiền nghìn. Phải có niềm tin cổ vũ thế nào “đám các mẹ nó chi ly từng hào bạc, mớ rau” mới dũng cảm đến thế.
Dần dà Tư – mã quen với cảnh “vắng đàn bà quạnh bếp”. Thỉnh thoảng Tư – mã ngồi bó gối mủm mỉm chiêm nghiệm khám phá của một đấng mày râu. Sự quen được kia là nhờ có “sự ấy”. Sau mỗi chuyến đi hành lễ xa về Na như trẻ lại, xinh hơn, gì…gì…hơn. Một cảm giác tuy chưa xưa cũ nhưng đang chai nhàm trong anh bỗng râm ran mơi mới đến lạ.
“Cứ như ý tứ mà suy…”. Cái gì đã manh nha ắt dần rõ hình hài. Các thánh có thánh bao nhiêu, con nhang tín chủ thành tâm đến mấy cũng bị chi phối bởi quy luật cuộc đời. Thoạt đầu là những lời xì xào, cái nhìn khang khác của dân làng. Tiếp đến là lũ trẻ nghêu ngao hát vè: “Lẳng lặng mà nghe… Cái vè thánh Cẩng. Tiếp nữa là nước da, cặp mày, những tiếng ọ ọe của Na – mã. Sau rốt đến Tư –mã. Anh cắn răng, rắp tâm.
Ngày rằm Na – mã đi lễ điện cậu Cẩng khuya lắm mới về đến nhà. Thấy chồng vẫn ngồi bó gối ngoài hiên Na – mã giòn giã:
- Thầy mình chưa ngủ à. Qua giờ tý rồi còn gì. Cửa cậu hôm nay đông ơi là đông. Lộc thánh của thầy…
- Này thì lộc thánh – Tư–mã rít qua kẽ răng. Cái tính “Trương Phi” thoắt đập tan kế hoạch kiên trì đến nhẫn nhục. Tư – mã bật lên. Một tay anh vớ làn lộc thánh anh ném ra sân, tay kia quấn tóc vợ lôi vào bếp. Dù đang cơn lôi đình Tư – mã vẫn con chút tỉnh táo. Anh co chân đá sập cửa bếp “cách âm” tiếng lu loa phá giấc xóm giềng.
- Cô bôi tro trát trấu lên mặt bố con tôi. Tư gằn giọng đẩy vợ suýt đập đầu vào tường.
Sau giây phút kinh hoàng Na – mã định thần được. Chị chắp tay lẩm bẩm:
- Nam mô a di đà. Xin cho tín chủ con là… nhập bất kỳ…
- Câm mồm! Bố thánh cũng không nhập đồng nổi thằng này – Tư gầm lên. Anh lao lại góc bếp vớ cái chày giã cua vung lên – Mày nhìn cái bụng. Mày nghe dân làng…
Nhanh chân Na – mã nhảy vào ô bếp chứa rạ. Cái chày trong tay Tư – mã hụt đích đập vào chạn bát. Bát đĩa vỡ loảng xoảng. Lút trong rạ Na – mã không dậm châm được nên sức lực dồn cả cho tay xỉa, miệng gào:
- Rượu lộc nốc cho đẫy vào rồi hành hạ con này. Anh nghe ai cứ bảo tôi xé xác nó ra. Tôi bảo cậu làm sớ nộp cho thánh phạt quân điêu toa ghen ăn tức ở chết hộc máu tươi, hạn ba đời cha tội, ba đời con…
- Câm mồm.
- Anh im đi thì có. Anh nghe ai xúc xiểm? Không có cậu với thánh thì đói rã họng cả nút. Anh nghi ngờ? Thế ai xui tôi đi tháo vòng chui? Ai bắt con này đi xoa đầu đá cô, đá cậu? Ai xin cậu bốc bát hương cầu con trai.Hả… Na – mã gục mặt xuống đống rạ, bật khóc hu hu.
Tư – mã đập cửa lao ra sân. Anh như tên bắn vào nhà. Ngựa xe, mũ áo, hài hán, phướn cờ, ngai kiệu, kích, cúp… cho chí đồ nghề, bát bột… Tất tật Tư – mã vơ ném vào sân. Đang cơn “Trương Phi” anh vớ cái đèn ném theo.
Giấy, nứa bén lửa cháy phừng phừng. Thuận gió lửa bén vào đống rơm. Lửa rơm ngùn ngụt. Kẻng báo hỏa dồn dập.
Vài ngày sau đêm hỏa hoạn Tư – mã sắm cái dậm mới. Anh đi nghề từ tinh mơ đến tối sẫm Tư không ngó ngàng gì đến vợ. Đêm đêm anh bó gối làm bạn với cái điếu, cút rượu, trái ớt, quả sung.
Cho đến một đêm. Khuya lắm Tư vẫn ngồi góc hè với cút rượu, chùm sung. Trong bếp, Na đi ra phủ phục trước mặt chồng:
- Tôi chót.. Xin thầy mình tha…
Tư vẫn ngồi như hóa đá.
Na bưng mặt hầng hậc. Nước mắt chị ướt đầm gối quần thâm đất tã tàng, ròng rơi xuống mặt hè nứt nẻ. Đã bao đêm vật vã, đã bao nhiêu nước mắt Na vẫn không sao thoát khỏi sức ám ảnh đêm lễ điện rắn thần.
“Mười hai giờ đêm mới xong lễ bốc bát hương. Các con nhang ra về. Chỉ còn Na – mã nán lại giúp cậu dọn dẹp. Cậu thánh hạ mâm lễ mời tín chủ thụ lộc. Hai chén… Bốn chén. Cậu thánh Cẩng hạ chén thắp thêm tuần hương. Bó hương vô ý làm tắt ngọn đèn. Na – mã đang quờ tìm bật lửa thì cậu vấp ngã đè lên. Trong chếnh choáng hơi men Na – mã gắng sức ngồi lên. Nữ tín chủ thành tâm đành bất lực trong cảm giác có con rắn lông lá đang xâu chặt hai khối thịt ngùn ngụt hơi men… Đó là lần đầu tiên nhưng không phải là duy nhất cuối cùng…’
Cuối cùng Na cũng kìm được nước mắt. Chị nhìn chồng đau đớn:
- Thầy nó cho tôi về với u. Ngày mai các dì đưa… đi viện…
- Thôi đi! – Tư quát chặn lời vợ. Giọng anh đanh vút nhưng không chói chát – Đừng có nói đến việc thất đức. Các con, việc nhà bỏ cho ai?
Na òa khóc. Trong nhà, lũ con giật mình, thức giấc. Con chị bế con em đi ra.
Sau buổi đi mò Na trở dạ. Tư hớt hải lấy võng cáng vợ xuống trạm xá làng. Lúc ấy trời sắp tối mưa lâm thâm. Gió hây hẩy.
Mười giờ đêm. Sau mấy tiếng đồng hồ xoay xở bà bác sĩ mới lập được giây phút tuyệt vời cho cơn vượt cạn của người đàn bà. Trong cảm giác đau đớn đầy nhẹ nhõm Na ngây ngất chờ tiếng khóc chào đời. Nỗi nhục nhã ê chề không dễ gì gột rửa. Nhưng bản chất người mẹ, chín tháng mang nặng đẻ đau giúp người đàn bà vượt lên hết thảy cho bình an giây phút hài nhi cất tiếng “oa…oa” chào đón cuộc đời. Cùng lúc với cảm giác hụt hẫng nhẹ lâng, Na nhổm người, căng mắt nhìn xuống phía bác sĩ. Chị rú lên kinh rợn, ngã vật xuống nền nhà loang máu cơn vượt cạn.
Ngoài hiên, nghe tiếng hét Tư xô cửa lao vào. Thoáng nhìn bàn sản phụ Tư hộc lên một tiếng đau đớn. Anh nghiến răng, cầm cập cúi xuống cùng bác sĩ vực Na lên bàn.
Cô hộ lý gói ghém xong cái hình nhân quái dị bằng tấm vải xô. Chụp cái nón lên đầu cô run rẩy đi ra.
Ngoài trời mưa nặng hạt hơn, gió mạnh hơn. Đêm đang vào khuya khoắt.
Vài tuần trước khi câu chuyện trên có may mắn đến với các bạn Na phải chuyển viện. Thể trạng, tinh thần phụ sản có những biểu hiện không bình thường vượt quá khả năng trạm xá làng. Bây giờ Tư – dậm gạo bị củi bó phục vụ vợ nằm bệnh viện huyện. Ngoài đồng lúa nhà anh có thửa chín rục gặp mưa lác đác bật mầm. Ruộng giống như chưa cày vỡ.
Hình như dân làng coi chuyện nhà Tư – Na xảy ra đâu đó ngoài hành tinh này. Ngày rằm, mồng một các con nhang, tín chủ vẫn nườm nượp đi lễ. Cậu thánh Cẩng vẫn bình an vô sự, thong dong mi pha, ca táp, chuông mõ, sớ trạng… đi hành lễ cho bàn dân thiên hạ. Đâu vài ngày trước cậu thánh giải hạn cho nhà Cuốc-te, láng giềng của Tư – Na. Đàn lễ bày giữa sân. Cậu thánh ngồi thiền, tay chuông, miệng sớ oang hết cỡ giọng:
“Việt Nam quốc. Thái Bình tỉnh. Tiền Hải huyện. Lăng Vu tổng.
Hợp đồng gia đẳng. Cẩn dĩ phò an. Cảo chiêu cáo vu… Kim tiền tín chủ Mai Như Cuốc. Thê Thân Thị Trê…”
Cheng…eng…cheng…
Đấy! Không có thánh thần bảo trợ, không có điểm tựa niềm tin như bàn thạch thì ma nào bảo lãnh cho tay thợ đào ếch đàng hoàng hành nghề như vậy.
MỘT NĂM LÀM VỢ
Vào một đêm trăng sáng trên bờ đê bên bụi tre chắn sóng, tôi trở thành đàn bà. Tôi vật vã trên lằn ranh cảm giác bị cưỡng bức và dâng hiến. Hôm ấy tính theo dương lịch tôi tròn mười chín tuổi. Bây giờ người ta gọi là ngày sinh nhật. Tôi khóc. Toản gạt lá tre bày bọc kẹo như làm lễ, dỗ dành.
Trong việc tôi và Toản yêu nhau, gia đình tôi chia làm hai phe. Mẹ tôi, vợ chồng anh cả cho rằng tôi lấy Toản khác nào chuột sa chĩnh gạo. Nội cái tiếng dâu trưởng dòng họ Ðào Ðức đã là mơ ước của bao nhiêu gái làng. Nhà người ta như thế, về làm dâu chỉ việc ăn với đẻ! Chị dâu tôi chua thêm: "Bây giờ đẻ cũng phải theo luật, ít con càng sướng em ạ". Bố tôi đơn phương một phe. Ông vận dụng phép xem tướng và thiên về phê phán. Ðàn ông mỏng môi, dẻo lưỡi, con mắt chảo chớp là mưu xảo lắm! ở tuổi hai nhăm Toản thiếu chất sôi nổi thanh niên nhưng thừa cung cách kẻ phú gia lọc lõi. Xem ra phe nào cũng có cái đúng. Tôi thực sự hoang mang. Ðúng lúc ấy anh hai có thư riêng cho tôi. Anh phân tích, góp ý đúng chín cái gạch đầu dòng. Rồi anh kết luận: "Anh tin út không mù. Hơn người hay không ở chỗ cầm cương con tuấn mã bất kham". Ông anh sĩ quan hải quân thế mà hóm. Toản cầm tinh con ngựa mà.
Ðám cưới ấn định ngày mùng sáu, rước dâu lúc một giờ.
Ðêm mùng năm bạn bè tôi đông đủ. Anh chàng Hưởng chỉ hai hào rượu là say cả chấy bị ép trăm phần trăm cốc tàu. "Hưởng ơi! Na! đi lấy chồng, người vui nhất là cậu. ". "ừ! Vui nhất.". "Này! Cạn cốc này vì hạnh phúc bạn bè.". "Nào! Vì hạnh phúc bạn bè.". "Na đi lấy chồng thì cậu say. Bao giờ cậu lấy vợ thì Na say". "ờ! Say đi! Bao giờ Na bỏ chồng thì tớ lấy vợ. Thề đấy". Không có hơi men trong những lời bạn bè. Tôi cạn cốc vì nỗi buồn khác. Ngày mai tôi đi lấy chồng. Biết bao giờ được đông đủ bạn bè, được vui buồn như đêm nay?!
Mùng sáu là ngày hoàng đạo. Một giờ "con sáo sang sông".
"Cười như anh khóa hỏng thi. Khóc như cô gái sắp đi..." Biết thế mà tôi không cầm nổi nước mắt. Phấn son nhòa vào nước mắt loang lổ khăn mùi soa. Ði qua người đón vía thợ ảnh bắt tôi phải trang điểm lại. "Ðêm tân hôn". Mười một giờ kém Toản vẫn ở dưới nhà. Tôi đoán có việc quan trọng tôi chưa được phép tham gia. Không lẽ ngủ biến như gái chưa chồng. Tôi chống được cơn buồn ngủ nhưng không tránh được những ý nghĩ vẩn vơ. Tôi nhớ đến ánh mắt cô út nhà chồng. Tối muộn tôi đang tắm thì Cúc xộc vào. Cúc ngang nhiên trút hết quần áo: "Nuy đi chị. Ðàn bà với nhau ngại cóc gì". Tôi chỉ dám cởi áo lót. Cúc nhìn như nuốt lấy tôi, thở dài: "Chị thế ông anh em chết mệt là phải". Tôi nhớ đến lời chị dâu: "Em phải nhớ đêm tân hôn là...là...". Thôi rồi chị ơi! Là đã qua rồi trên bờ đê đêm trăng sáng. Giả như lúc này Toản lên giường "chiều và đòi" tôi sẽ dành như một nghĩa vụ để được nhanh chóng ngủ thiếp.
Cảm giác lành lạnh khiến tôi choàng tỉnh. Bàn tay Toản đang day ngực tôi và khuy áo cuối cùng đang bị gỡ. Tôi co người lại. Toản cười đập tay lên tập phong bì:
- Anh phải "giở vở" ông bà già mới chia cho một phần phong bì. Mai chúng mình đếm, vào sổ.
Tôi hoàn toàn tỉnh ngủ. Toản dúi tập phong bì xuống dưới gối, quay ra. Mùi bia mùi thuốc lá quyện mùi mồ hôi, nước hoa. Tôi buồn nôn. Toản hùng hục như gã lực điền cày xới mảnh vườn hoang.
"Có lẽ tôi sướng thật". Nhà chồng tôi có tám sào ruộng nhưng cho cấy rẽ. Thành thử nhà nông mà không phải làm ruộng. Bố chồng tôi là sĩ quan cấp tá về hưu. Lương một tháng của ông đủ cho cô út đang học đại học hai tháng đóng góp, ăn tiêu thỏa thích. Mẹ chồng tôi là cán bộ trưởng thành từ phong trào "phân xanh, lò thúc mầm". Bà đầu thai nhầm xứ nên tên tuổi chỉ gắn với chữ "phó". Ðội phó, trung đội phó, phó cửa hàng trưởng, phó chủ nhiệm... Bà về làm dân sau hai nhiệm kỳ phó chủ tịch xã. Người thân trong họ ghé tai tôi: "Bà dân ấy có trong tay bốn sổ tiết kiệm. Chỉ một sổ cũng thừa mua ba cơ ngơi cỡ nhà đẻ cô". Một lần Toản bảo: "Lãi tháng đủ cho cả nhà chẳng phải làm gì".
Chủ nhật Cúc về trường. Sinh hoạt gia đình trở lại bình thường. Tôi không phải trở dậy sớm nấu cơm sáng, bèo cám. Bữa sáng nhà chồng tôi đổi món luôn. Bánh cuốn, bún chả, cháo lòng... Mẹ chồng tôi biết uống rượu, nhâm nhi như đàn ông. Bà có thói quen ngồi hàng ăn sáng. Vài lần buộc phải đi theo bà tôi được biết hàng ăn sáng là nơi gặp gỡ của những người khá giả, đám chức sắc làng xã. Họ đến để khao đãi nhau, gặp gỡ bàn đủ thứ chuyện. Bố chồng tôi nhận xét đại ý đấy là trạm thu phát những thông tin rất giá trị: "Với những người như mẹ con đó là nhu cầu thiết yếu đấy".
Công bằng mà nói phép xem tướng của bố tôi không hoàn toàn sai. "Ðêm tân hôn" là một ví dụ. Tàn cuộc, Toản lật đi lật lại tấm vải lót, con mắt đầy nghi ngờ xói vào ngực tôi. Tôi hiểu. Tôi nói với Toản rằng dấu vết lần đầu ở trên bờ đê và giọt máu tình yêu đã năm mươi ngày tuổi. Toản nhếch mép: "Thế à". Gần sáng tôi bị phá giấc. Toản dụi đầu vào ngực tôi: "Anh xin lỗi. Phỉ phui những trò tối qua đi". Ðang xoay xở Toản ngồi lên với lấy tập phong bì. Nét mặt Toản vụt sa sầm: "Sao lại thiếu ba phong bì của bạn anh. Không thể thế này được". Toản lao xuống nhà dưới gõ cửa ầm ầm.
Ít lâu sau ngày cưới hầu như tối nào chồng tôi cũng đi đâu đó. Chưa có gì phải nghi ngờ nhưng tôi tưng tức thế nào ấy. Một hôm rất khuya Toản mới về. Tôi để mặc anh gõ cửa. Cũng là đùa chồng một chút. Không ngờ Toản nổi đóa lên.
- Cô làm trò khỉ gì thế!
Vừa lúc mẹ chồng tôi dưới nhà đi ra sân. Bà ngước lên, mát mẻ:
- Trời nóng, lên sân thượng nằm cho mát con ạ.
- Vào buồng Toản đá ghế nhót lên giường kéo màn gió đánh soạt.
- Tắt điện đi!
Tôi tắt điện, lên giường. Toản làm lành ngay được. Bàn tay Toản làm tôi giật nhột buồn cười. Nằm ngửa rồi nằm nghiêng Toản nói:
- Bố em bố anh cực đúng!
- Ðúng gì em không hiểu.
- Lại còn không hiểu! Anh được sướng mà không biết sướng chứ sao. Thời bố mẹ còn "tỏa bóng" thì anh chơi bời phá phách. Bây giờ hiểu ra thì thua xa chúng bạn. Xấu hổ cả với em.
Toản nhìn lên trần màn vẻ mặt đau khổ như con chiên đang xưng tội. Anh đã thú nhận điều tôi nghe thấy bấy nay. "Bố thế, mẹ thế được mỗi người con trai thì...". Mà kể ra Toản cũng lận đận. Hai lần thi trượt đại học. Lần thứ ba có người hứa chắc như đinh đóng cột: "Yên trí! Cứ yên trí. Dăm bảy điểm đại học với tôi là chuyện vặt". Người ấy ôm bọc tiền rồi "yên trí" mất hút. Toản chán đời ăn chơi quậy phá. Ông bố đành ép con trai vào bộ đội. Ông hy vọng đứa con được rèn luyện lập chí vươn lên. Nước cờ đã tính sai. ở đơn vị thủ trưởng là lính của bố. Toản không bỏ được thói "con nhà". Ðược vài năm vui bạn ở công ty liên doanh Toản xin ra quân. Nhờ quen biết, Toản chuyển ngành. Ðầu năm "chín sáu" liên doanh phá sản. Toản lêu lổng ăn chơi. Dịp ấy anh hai tôi về phép. Anh bổ đi tìm bạn. Toản ăn ở nhà tôi cả tháng... Nhớ đến khúc nhôi ấy tôi bảo Toản:
- Anh buồn thì em vui nỗi gì. Ðâu đã hết cơ hội để anh phấn đấu. Cốt nhất vợ chồng mình hạnh phúc.
- Bố em cũng nói thế. Từ mai đừng cài cửa anh nữa nhé. Anh đi chơi vì sự nghiệp đấy.
- Anh thì... - Tôi oằn người tránh cử chỉ thái quá của Toản.
Hôm sau Toản ngồi với bố cả buổi sáng. Bố chồng tôi có vẻ không vui. Cớ sao người bố không vui trước những ân hận, quyết tâm "làm lại" của đứa con? Tôi nói điều ấy với mẹ chồng. Bà cười hàm ý:
- Ối dào! Bố con chỉ giỏi chuyện giặc giã thôi. Chuyện chính trường làng xã thì ông ấy mít tịt. Mọi việc mẹ khắc lo. Cốt ông ấy đừng phá ngang là được.
Có lẽ mẹ chồng tôi đúng? ! Bà muốn con trai khởi nghiệp từ việc nhỏ. Giống như con đường bà đã đi từ "xuất sắc bèo - phân" lên các "ghế" tiếp theo. Bạn bè của bà còn nhiều người đương chức đương quyền. Từ ngày chồng về hưu, tiếng nói của bà có thêm trọng lượng. Tính quảng giao có thêm động lực. Những ngày này bà vắng nhà luôn. Lắm hôm bà đi từ sáng đến khuya. Mẹ chồng tôi buồn vui thất thường. Tôi lựa lời hỏi chồng. Toản có vẻ nản: "Công việc đang vào dây thì có tin tách xóm. Không phải tin vịt đâu. Mẹ phải làm lại từ đầu. Dây mới hoàn toàn..." Tình cờ một hôm tôi nghe được chuyện giữa bố mẹ chồng. Thoạt đầu hai người bàn luận về việc tách xóm. Như thế là trở lại như ngày xưa. Rồi mẹ chồng tôi nói:
- Tách ra, xóm Thường Kiệt này chỉ có thằng Toản nhà mình là đảng viên trẻ nhất, văn hóa cao nhất. Lãnh đạo dự kiến con trai mình vào chi ủy kiêm trưởng xóm.
- Thật ý lãnh đạo, hay ý mình?
- Mình muốn con mãi làm dân thường thua bạn kém bè suốt đời ư!
- Bố mẹ nào lại không mong con cái tiến bộ bằng anh bằng em. Mình thử nhìn lại, nghĩ lại xem nào. Con mình đã làm được những gì mà nảy sinh tham vọng, toan tính cơ hội? Mình đã không khuyên bảo lại ra tay sắp đặt, tiếp sức. Rồi sẽ đi đến đâu? Nhân đây tôi lưu ý mình: Con dâu chúng ta trẻ quá, vô tư quá chưa hiểu hết ngóc ngách cuộc đời. Mình đang vô tình gieo mầm xấu vào đứa con ngoan...
***
... Bữa sáng chỉ có hai bố con. Vài tuần nay thường như thế. Bố chồng tôi chỉ ăn lấy lệ. Sau đó ông uống trà và đi ra vườn. Ban ngày ông làm vườn, đêm thức viết hồi ký. Tôi biết ông lấy công việc khỏa lấp những nỗi niềm. Bố chồng tôi ít nói, sống giản dị. Tiếp xúc với ông không ai tin được đó là người chiến binh dày dạn từng lập nhiều chiến công. Về hưu ông vẫn giữ tác phong quân nhân. Giường cá nhân kê bên cửa sổ. Ba lô, mũ cối treo trên tường. Ông nói đùa: "Chỉ nửa hồi còi là bố đã đứng đầu hàng quân". Ông làm việc, sinh hoạt rất duýt thời gian biểu. Người ngoài không ai biết ông là "thế giới riêng" trong ngôi nhà chung. Mọi việc trong nhà đều do mẹ chồng tôi tính toán, quyết định. Ông sẵn sàng, vui vẻ nghe những lời "thông qua, báo cáo". Có lần bạn lính căn vặn: "Cái gì buộc anh đứng trên cao nhìn xuống dòng đời thường bằng con mắt thờ ơ kẻ cả mãi vậy". Bố chồng tôi chỉ cười.
Chiều muộn mẹ chồng về. Tôi đang quét dọn từ đường. Ngày mai rằm, như lệ, các cụ dâng hương tổ tiên. Bà cầm tay tôi kéo ra góc hiên, nói nhỏ:
- Các con vô tâm đã đành. Mà mẹ cũng sơ ý quá. Hôm nay mẹ đi lễ cửa "cậu" với các bác. Chồng con là đảng viên đã đăng ký kế hoạch hóa gia đình. Con chưa đến tuổi mà đã thế kia. Các bác ấy bảo...
- Các bác bảo sao ạ. - Tôi rùng mình, líu cả lưỡi. Tôi hiểu các bác này là những ai.
- Chồng con sẽ là cán bộ. Sẽ tiến xa. Cán bộ không gương mẫu, lãnh đạo ai? Ðã trót thế thì phải tìm cách chữa cháy. Hai tuần nữa đại hội chi bộ. Con thít bụng lại, ít ra ngoài thôi. Không sao đâu.
Tôi làm theo lời mẹ chồng. Ðúng là không sao thật. Vài hôm sau Toản mới phát hiện ra. Anh áp tai lên bụng tôi nghe ngóng.
- Em thấy khó chịu không?
Tôi buột miệng:
- Em chịu được.
Cuộc họp đúng tối thứ bảy ngày cuối tháng. Cũng là ngày tôi hết hạn "thít bụng". Toản đứng trước gương sửa mái tóc mới sang mốt ba phân. Anh vận "xơ vin", ca vát trông nghiêm chỉnh, khỏe khoắn. Bố chồng tôi trang nghiêm quân phục. Mẹ chồng mặc đồ lụa tơ tằm. Tôi đứng trên gác nhìn theo tổ đảng gia đình. Xóm mới tách chưa có trụ sở, họp hành nhờ nhà trẻ. Nơi ấy, vài tiếng đồng hồ nữa con đường sự nghiệp của chồng tôi sẽ được khai thông. Tôi hồi hộp đứng ngồi không yên. Mười một giờ đêm. Tiếng bước chân như nện vồ trên cầu thang. Tôi mở toang cánh cửa. Toản lao vào nằm vật xuống giường. Mùi rượu nồng nặc.
- Có chuyện gì thế anh?
- Hỏng hết. Ông ấy phá anh.
- Ông ấy là ai?
- Còn ai vào đấy nữa! Anh chỉ kém người trúng cử bốn phiếu. Bố ở trong số bốn người gạch tên anh.
Tôi rùng mình vì cơn gai sốt đau đau bụng dưới từ mấy hôm nay. Hình như Toản uống quá chén, không làm chủ được hành động. Tôi đẩy Toản ra nép vào sát tường. Toản chồm lên vục đầu vào ngực tôi xiết mạnh cánh tay. Tôi oằn người lên. Có cái gì đó chuồi ra nóng nhớp hai bên đùi, dưới mông. Tôi gào lên.
Tôi không nhớ mình ngất đi từ lúc nào, trong bao lâu. Khi tỉnh dậy tôi thấy bụng dưới hết đau, nhẹ bẫng. Mùi cồn, mùi thuốc tây nồng nặc. Toản ngồi ủ rũ cuối giường. Tôi chồm về phía Toản.
- Con đâu?
- Kìa em... nằm xuống.
Tôi xô Toản ngã ngửa, lao ra sân. Con tôi đâu? Vì sao? Vì sao? Tiếng kêu trồi ra đến cổ họng bị đẩy thuốt vào lồng ngực. Tôi ngã vật xuống hiên. Vũng nước nong nóng nhơm nhớp. Ai đó bế tôi lên. Ai đó gọi bác sĩ.
Suốt ba tuần Toản không đi đâu quá hai tiếng. Tôi nhanh chóng bình phục nhưng Toản già đi trông thấy. Chồng tôi đau khổ kém gì tôi đâu. Tôi khóc.
- Tha lỗi cho em... những ngày qua...
Toản lau nước mắt cho tôi.
- Em không có lỗi. Số chúng mình phải thế. Anh từng phút mong em mau khỏe. Em vui khỏe cho anh yên tâm làm lại từ đầu.
- Không! Dứt khoát em không để anh đi con đường ấy. Em chỉ mong có con, vợ chồng hạnh phúc.
- Anh còn mong hơn em ấy. Việc đã qua cho qua luôn? Anh đã chọn cho mình hướng đi khác.
Tôi không thể tin nổi. Toản ngoắt một trăm tám mươi độ chuyển ngay sang thương trường. Anh quyết tâm trở thành thương gia nông thôn. Không! Dứt khoát tôi không để chồng tôi tiếp tục phiêu lưu.
- Em xin anh từ bỏ ngay quyết tâm ấy đi. Chuyện buôn bán phức tạp lắm. Nhà mình không nghèo nên muốn giầu hơn không khó. Sao anh không làm theo lời khuyên của bố! Vườn đất kia, ao kia. Vợ chồng mình quán xuyến, sẽ không vất vả mà thu không ít tiền đâu. Lại chẳng phải ganh ghé với ai.
- Em đúng là phiên bản của bố! Xin em yêu hãy nghe cho rõ. Bố mẹ hai bên cùng nhất trí cao. Các bô lão trong họ gật đầu sái cổ nhé.
Ðến lượt tôi bị thuyết phục. Mảnh đất chái từ đường liền đường liên huyện. Ðất cằn, cây cối oặt èo, hoa lợi cả năm không đủ mua hương nến tuần tiết. Mấy lần trâu bò húc đổ tường bao. Mấy lần "tự vệ" chộp trai gái xé dậu làm trò bậy bạ. Ðất hương hỏa cho thuê sẽ sinh lợi cho cả họ. Tiền thu được đập vào việc tu bổ giỗ chạp... Tránh được việc bổ bán nhiêu khê. Toản nói thêm:
- Tránh tiếng trưởng họ lợi dụng, mẹ đã nhờ người ngoài phát giá. Chiều mai các cụ họp làm văn bản.
Thì ra mẹ chồng tôi đã ngầm chuẩn bị "con đường mới" cho con trai. Chiều hôm trước xong thủ tục thuê đất. Sáng mai bà mời thầy làm lễ động thổ. Gần trưa xe đầu ngang chở vật liệu đổ đống.
Ðúng là "mạnh vì gạo bạo vì tiền". Mười ngày sau cửa hàng khai trương. Kiểu kiến trúc cửa hàng khá độc đáo, hài hòa với ngôi từ đường cổ kính, vườn cây lưu niên.
Tôi rất bỡ ngỡ với công việc mới. Nhà đẻ tôi mấy đời không có ai làm nghề buôn bán. Trái lại Toản có duyên và am hiểu thị trường, anh như sinh ra để làm thương gia vậy. Làng rục rịch cải tạo đường điện. Toản chở về cả xe dây dẫn, phụ tùng điện. Chỉ bằng một mẹo nhỏ anh kéo được mấy vị sếp xã tham gia hợp đồng đường điện. Vào vụ, kho hợp tác còn trống không thì Toản đã có trong tay hàng tấn phân bón. Một lần Toản tung vốn mua phụ tùng giếng khoan. Cả tháng không ai hỏi đến mặt hàng này. Mẹ chồng tôi lo mất ăn mất ngủ. Chồng tôi vẫn bình chân như vại. ít hôm sau đài xã thông báo chương trình nước sạch. Toản có ngay hợp đồng cung cấp vật tư.
Dần dà tôi cũng quen với công việc. Toản bàn mở quầy bia rượu. Quán nhậu bên cạnh cửa hàng vật liệu. Cái lợi rõ mười mươi nhưng có điều phải nghĩ. Tôi nói thẳng ý mình:
- Theo em, việc này không nên. Quanh đây đã mấy người bán như thế rồi. Cụ Hảo với đứa cháu mồ côi thím Bao lòa, chú Rụ thương binh nặng... Toàn những người trong họ mình cả. Vợ chồng mình trẻ khỏe nỡ nào cạnh tranh với họ.
Toản lắc đầu:
- Em mới nghĩ một chiều thôi. Thử đi dọc làng xem! Mới có mấy tháng mà hàng loạt đại lý mọc lên. Họ giở đủ mánh hòng đè bẹp chúng mình đấy thôi.
- Em biết. Nhưng đấy là chuyện người giầu với nhau. Ðằng này họ là những người nghèo, tội nghiệp họ.
- Em ơi. Thị trường là chiến trường. Chiến thắng thuộc về kẻ mạnh. Anh muốn chứng tỏ năng lực của mình.
Mẹ chồng tôi góp vốn chín triệu mua tủ lạnh, dàn video. Ðiều dự báo của chồng tôi rất đúng. Hàng vật liệu chững lại, hàng bia rượu "vào cầu". Ðồng vốn có sức mạnh kỳ diệu. Quán bia rượu của chồng tôi tấp nập đến khuya. Thiếu chỗ, khách tràn cả sang sân từ đường. Rồi thành quen. Khoảng sân lát gạch cổ rợp bóng cây cổ thụ trở thành sân sau của quán nhậu... Nơi thờ cúng tôn nghiêm nhuốm mầu trần tục bê tha. Họ mạc đã có lời ra tiếng vào. Bố chồng tôi rất không hài lòng. Tôi nói với chồng điều này. Toản thản nhiên: "Ðất đã cho thuê. Người trả tiền toàn quyền sử dụng".
Tháng ba âm lịch. Liên doanh thăm dò khoáng sản đóng trụ sở ở làng tôi. Dịch vụ các kiểu mọc lên như nấm. Chồng tôi chấp nhận điều kiện xây tường bao để được thuê thêm đất hương hỏa. Anh có dự định nâng cấp "quầy" lên thành nhà hàng to nhất làng.
Tôi đã có thai được hai tháng. Việc có thai vội, những cơn ốm nghén hành tôi khổ sở. Những việc nhẹ nhàng cũng trở nên nặng nề quá sức. Toản "ăn ké" được hợp đồng vật liệu công trình cống Lân, đi suốt ngày. Tôi luôn phải gắng. Mẹ chồng tôi khó chịu ra mặt, bâng quơ.
- Ðến phải thuê người làm.
Tôi thật thà:
- Việc này phải chờ bố con về.
- Dào ôi! Vẽ! Ông ấy biết gì mà bàn. Có bàn lại chỉ giỏi phá ngang.
Có khách. Vẫn là ông chủ đại lý phố huyện và chiếc dim đỏ. Mẹ chồng tôi tươi ngay nét mặt.
- Ơ... ô anh.
- Chào bà bạn. Ði ba chục cây số để đỡ nhớ bia bà bạn đấy.
Tôi giúp mẹ chồng bày bia, đồ ăn rồi rút vào sau quầy. Tiếng nắp bia nổ bôm bốp. Mẹ chồng tôi làm duyên giọng nói:
- Hôm nay em khao.
- Hôm nay đến lượt anh. Hiểu chưa.
Tiếng cười. Tiếng cụng ly. Những lời mời ép nhau. Hai người có tuổi mới quen nhau mà cứ như đôi bạn thân, quá thân nữa là khác. Tôi nhìn trộm mẹ chồng. Men bia, những câu chuyện làm đẹp thêm gương mặt vốn xinh đẹp của bà. Không hiểu vì uống nhiều hay quá vui mà bà đem chuyện nhà ra đãi bạn. Ðang xây mới cửa hàng bố chồng tôi có giấy mời đi dự lễ truyền thống binh chủng. Xe hẹn ngày đón. Mẹ chồng tôi cười nhạt: "Công việc ùn ùn thế kia. Mình tính sao?". "Tôi phải đi mình ạ. Lâu lâu mới có dịp gặp anh em đồng đội". "Vâng! Lễ hội, chiến hữu ra tiền thì mình cứ đi". Trước ngày hẹn đón bố chồng tôi có thư về. Ông vào Quảng Bình thăm thủ trưởng cũ bị ốm. Sau đó ông đi Tây Nguyên tìm hài cốt người bạn. Ông không hẹn trước ngày về.
Hình như việc thuê người mẹ chồng tôi trù tính từ lâu. Lý là con gái bạn mẹ chồng tôi. Nhà Lý trên phố huyện, có cửa hàng đồ điện. Vì sao cô rời phố về làng phụ việc? Tôi lấy làm khó hiểu nhưng không muốn hỏi. Toản rất hài lòng với việc "tuyển" người. Lý đẹp người, thành thạo công việc, có duyên ngồi hàng, khéo chiều khách.
Từ hôm Lý đến hầu như tôi không phải trông hàng. Hết ốm nghén tôi lại mắc chứng khó ngủ. Hễ chợp mắt là chìm vào những giấc mơ kinh dị. Vỡ giấc là thức đến sáng. Một đêm tôi mơ thấy trần nhà nhỏ nước như mưa. Nước lênh láng khắp nhà. Tôi bị vùi trong màn nước mầu đỏ, mằn mặn. Sáng ra vui chuyện tôi kể với Lý. Lý gạt đi "Mơ mộng vớ vẩn lắm". Tôi cũng nghĩ thế.
Buổi trưa, giấc mơ đêm tái hiện. Tôi sợ vã mồ hôi chạy xuống nhà hàng. Tôi đẩy cửa gian trong. Mẹ chồng tôi và ông chủ đại lý ngồi uống bia. Tôi ra gian ngoài. Lý hỏi đón:
- Lại mơ hả!
- Ừ. Vẫn giấc mơ đêm rồi.
Lý ngẫm nghĩ một lát.
- Tớ vẫn cho rằng mơ mộng là chuyện vớ vẩn. Còn như đêm nay cậu vẫn mơ tương tự thì tớ sẽ đưa cậu đi xem bói lá trầu. Cậu Học làng Trình giỏi cực nhé.
Tối muộn. Mẹ chồng tôi đứng giữa sân ới lên:
- Cô Na xuống tôi có câu chuyện.
Tiếng "cô" tiếng "tôi" phát ra từ cửa miệng mẹ chồng thường báo trước chuyện không êm. Tôi vội đi xuống. Mẹ chồng tôi chao chát phủ đầu:
- Cô ăn chơi thế chưa đủ sướng hay sao mà còn lắm chuyện.
- Chuyện gì ạ?
- Cô còn không biết hả! Nhà này được như thế này là nhờ công lao người đánh giặc, người công tác cống hiến. Cô mơ mộng vớ vẩn rồi đem chuyện nhà đi kháo. Chẳng hóa ra nhà này bóc lột mồ hôi nước mắt thiên hạ.
- Mẹ cứ nghe ai mách lẻo suy diễn lung tung.
- A! Mất tiền cưới xin, nuôi cô ăn sung mặc sướng để được "ní nuận" thế đấy! Cô dỏng tai lên mà nghe đây. Người ta mách lẻo ra tiền ra bạc, giỏi giang bằng vạn nhà cô. Ngữ cô thì làm ăn cái gì.
- Con đã thưa với bố mẹ rồi. Con không hợp với việc buôn bán. Vụ tới mẹ lấy ruộng về cho con làm.
- Cô giỏi rồi. Nhưng nhà này chưa đến nỗi phải bám vào sào ruộng mới sống nổi.
Tôi đi lên gác. Có tiếng xe máy vào sân. Lại ông bạn chủ đại lý của mẹ chồng tôi. Họ chào mời líu ríu. Tôi uống liền hai bát nước sắc lá vông, cao lạc tiên. Bài thuốc của đẻ tôi, cả trò đếm dỗ ngủ đều vô tác dụng. Chuông đồng hồ điểm mười giờ. Tôi đi ra sân thượng. Nhà dưới vẫn sáng đèn. Cửa hàng sáng đèn, mở cửa sổ phía vườn. Chắc chồng tôi đang nhập hàng hoặc tính sổ. Phải giúp anh một tay! Tôi đi xuống. Nhà dưới khóa cửa ngoài! Mẹ chồng tôi vẫn chưa về. Ngay bố chồng tôi cũng đã quen với việc bà vắng mặt đêm hôm. Từ nửa tháng nay vài ba hôm ông đại lý lại đến đón bà đi đâu đó. Trong nhà hàng vẳng ra tiếng cười. Tôi sang vườn vòng lại phía cửa sổ. Trời ơi! Trên nền nhà Toản đang cùng Lý nhồng nhỗng làm tình. Tôi ngoắt về. Lời đồn đại của dân làng đã có bằng chứng. Dấu hiệu Lý có thai không còn là "hình như" nữa. Tôi đi không vững. Ðến giữa cầu thang tôi vấp ngã sấp mặt. Bụng dưới quặn lên, hẫng nhẹ. Trời ơi! Con tôi chuồi ra, vỡ bục, lênh láng. Tôi khóc.
Bố chồng tôi về. Tôi đã xuất viện được ba tuần, ba tuần qua tôi thay bố chồng giữ một vùng riêng trong ngôi nhà to đẹp nhất làng. Thời gian tạm đủ cho tôi nhìn lại chính mình, những ngày tháng qua và đi đến quyết định. Mẹ chồng tôi thản nhiên: "Cô cứ nghĩ cho kỹ..." Toản độc một câu: "Tùy cô."
Ba ngày thôi mà bố chồng tôi già sọm đi, tóc bạc thêm, con mắt đờ đẫn mất hồn. Tôi nói với ông việc chỉ có tôi và bà bác sĩ biết. Hai lần sẩy thai đã để lại di chứng nặng nề. ít nhất dăm bảy năm nữa tôi mới được phép mang thai.
- Lời bác sĩ con phải nhớ. Còn việc vợ chồng con không còn cách nào ư?
- Không bố ạ. Chính con đặt vấn đề trước. Mẹ con, anh Toản nhất trí đó là lối thoát tốt nhất cho cả hai bên.
- Bố có lỗi với con... với ông bà bên nhà... - Bố chồng tôi nấc lên, tắt lịm giữa lời. Ông khóc. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy nước mắt người lính già. Những giọt nước mắt đặc quánh lại, hằn vết trên gương mặt. Tôi khóc.
Giấy tòa hẹn ngày đầu tuần. Tôi thu xếp về nhà đẻ. Tư trang gọn gàng túi xách nhỏ. Tôi không quên bóc lịch treo tường. Mảnh thời gian bay bay nặng trĩu cánh tay. Ngày mười hai tháng bảy. Tức ngày mùng tám tháng năm theo lịch can chi. Tôi cất tờ lịch vào túi xách.
Ðường về vơ vẩn tôi nhẩm tính thời gian. Tính theo âm lịch tôi đã có mười ba tháng hai ngày làm vợ. Thời gian vừa đủ cho tôi qua tuổi hai mươi. Rồi sẽ có lúc tôi ngồi một mình "tính sổ" mười ba tháng hai ngày ấy có bao nhiêu ngày hạnh phúc bao nhiêu ngày đau khổ. Bạn cho là khó ư! Không đâu! Tôi tính được mà. Chờ nhé!.
VanVN.Net - Chiều nay, 22 – 7 – 2011, Hội Nhà văn Việt Nam đã long trọng tổ chức lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động cho nhà văn Sơn Tùng do Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trao
VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...
VanVN. Net - Trong tác phẩm “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NXB Hội nhà văn-2010), phần suy nghĩ về nghề văn, nhà văn Chu Thị Thơm đã viết: “Văn chương là sự gửi gắm, chia sẻ hữu hiệu nhất. Ở ...
VanVN.Net - Nhận lời mời của Hội Nhà văn Trung Quốc, thực hiện chương trình hợp tác giữa Bộ Văn hóa hai nước Việt Nam và Trung Quốc; đoàn nhà văn Việt Nam do nhà văn Nguyễn Trí Huân - Phó chủ tịch ...
VanVN.Net - Nửa đầu thế kỷ XIX là sự bắt đầu vương triều Nguyễn với cuộc lên ngôi của Gia Long vào 1802. Tôi muốn gọi đó là một thời “khó sống” khi viết về Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn