SÔNG HẬU XUÔI VỀ
Dạo ấy, đã gần ba tháng, từ ngày tía má tôi gã chị Hai Hường về miệt biên giới, cứ mỗi lần nghe tiếng còi “ tu… tu” của con đò bến chợ ngang qua khúc sông trước cửa nhà là má tôi và tôi lại ngóng ra bến nước.Má tôi trông tin chị Hai Hường hoặc là bà trông cả người nữa. Bà muốn biết chị tôi có yên ấm ở nhà chồng hay không, có mạnh khoẻ hay không và bà mong chị, nếu có thể, thu xếp về thăm nhà một vài ngày. Đó là nỗi lòng của người mẹ với sự an phận khi con gái phải theo chồng. Còn tôi mong nhớ chị Hai Hường bằng nỗi buồn da diết của đứa em bé bỏng, mà trong chừng ấy năm của chừng ấy tuổi đầu, tôi và chị đã cận kề, quấn quít với nhau như hình với bóng. Tôi chẳng muốn lý giải tình cảm gắn bó giữa hai chị em, mặc dù, cho đến bây giờ, láng giềng vẫn bảo tôi và chị không là ruột thịt. Người ta bảo, bởi vì tía má tôi chỉ có mỗi mình chị Hai tôi nên tía má tôi mới xin thêm con nuôi, phòng khi sau này phải gã con gái đi xa. Người ta còn nói rõ là, lúc ấy, vì ngoại tôi bệnh kéo dài nên má tôi cho chị Hai Hường về quê để chăm sóc ngoại. Hơn nửa năm, ngoại tôi lành bệnh. Má tôi về thăm mẹ sẵn đón con gái về nhà. Trên đường về, thấy có người đem cho đứa trẻ mới sinh, má tôi biếu người ấy ít tiền rồi bồng tôi về nuôi dưỡng. Người ta bảo là nói lại theo lời kể của má tôi. Tôi đem chuyện đó hỏi má và chị Hai. Má tôi chỉ “ ừ” cho qua chuyện. Chị Hường có lẽ sợ tôi tủi thân, dỗ dành:
- Người ta nói gì cũng mặc kệ! Cưng không phải là con nuôi của nhà này đâu!
- Không phải con nuôi, là gì?
- Là con ruột, ruột thiệt là ruột!
Dù sao, tôi vẫn thích tin lời của chị Hai hơn bởi vì tôi không muốn mình là con nuôi của tía má và cũng không muốn mình là em nuôi của chị Hai Hường.
Dạo tía má tôi gả chị Hai Hường, tôi đã xấp xỉ mười hai tuổi. Ở vào tuổi ấy, tôi chưa hiểu hết mọi điều, mọi lẽ nhưng đã có thể cảm nhận qua từng sự việc. Hôm chuẩn bị đám cưới, chị Hai Hường khóc suốt, còn má tôi thì buồn hiu. Tôi lẩn quẩn bên má và chị mà chẳng chia sẻ được gì. Có lẽ, vì còn bé quá nên tôi chưa đủ sức để cảm thông với nỗi niềm lớn lao của má và của chị Hai tôi. Đêm nhóm họ để rạng sáng ngày sau đưa dâu, chị Hai ôm tôi vào lòng rồi thút thít khóc. Tôi đã muốn khóc theo chị dù không hiểu vì sao chị lại buồn đến vậy. Má tôi bước vào buồng. Thấy tình cảm của hai chị em tôi như vậy, bà đứng sững, giây lát, rồi hạ giọng nói với chị Hai Hường:
- Nó còn nhỏ lắm, chưa hiểu được đâu. Con đừng nói gì với nó! Sáng mai, con cứ về bển. Có gì, con nhắn tàu đò về cho má biết tin…
Chị Hường lau nước mắt, cúi xuống hôn lên tóc tôi rồi bảo tôi chạy đi chơi để chị còn sắp xếp tư trang, vật dụng mang theo. Tôi rời nhà chị, ra khỏi buồng, nơi hai chị em vẫn ngủ chung suốt từ lúc tôi còn ẳm ngửa, mà lòng đầy hoang mang, thắc mắc. Tôi linh cảm chị tôi sẽ gặp điều bất trắc trong cuộc cưới xin này hoặc là má và chị tôi không hài lòng về đám cưới. Nhưng vì lẽ gì mà chị Hai tôi lại lặng thinh làm theo ý của tía tôi, ưng lấy người chồng mà hình như chị không muốn lấy?
Tôi biết, chị Hai tôi đâu quá dễ dãi để chọn lấy một tấm chồng. Trước đây, chị tôi đã từng lắc đầu từ chối nhiều đám nhờ mai dong đến xin cưới hỏi. Như vậy, dần dà, chị tôi đã tròm trèm ở tuổi ba mươi. Có lẽ, như những đứa em quá yêu qúy chị mình, tôi thấy chị Hai tôi là ngon lành nhất. Sự ngon lành ấy, phải kể đến ba điều, đáng để chị tôi treo giá ngọc. Đó là… Thứ nhất, chị tôi tuy không đẹp lắm nhưng rất có duyên. Thứ hai, chị tôi là người phụ nữ có tài nấu nhiều món ăn, mà món nào cũng hợp khẩu vị của tía má và tôi; Chị lại biết làm nhiều thứ bánh. Thứ ba, chị tôi có tài đặc biệt mà không phải anh thanh niên nào cũng sánh được, là tài đánh võ, đi quyền; Khoản này, chị Hai tôi được sự truyền dạy chu đáo của tía tôi. Cần phải nói thêm, tía tôi là người giỏi võ, tiếng tăm lan khắp một vùng. Ai nghe đến tên thầy Tám Mạnh cũng đều kính nhường, quý trọng. Tía tôi không mở lò luyện võ tại nhà. Những khi trà dư, tửu hậu, vui bạn, đẹp lòng, ông mới dạy cho ai đó vài đường quyền, vài thế võ. Oâng không đánh giá quá cao sở trường võ nghệ của mình. Theo ông, người ta sống được với nhau không phải hơn thua bằng võ lực; Chỉ lẽ phải ở đời mới thu phục được nhân tâm. Oâng truyền dạy võ thuật lại cho chị Hai tôi cũng như nội tôi truyền dạy lại cho ông; Aáy là giữ cái nếp cha truyền, con nối. Chị Hai Hường tập võ, đi quyền từ lúc còn tấm bé. Khi ấy, tôi chưa có mặt trong cuộc đời này. Má tôi kể: Thửơ chị Hường mười sáu, mười bảy tuổi, có ba anh thanh niên ở làng bên rủ nhau đến, muốn thử tài của chị. Mấy người ấy rót rượu mời tía tôi, xin phép. Tía tôi gọi chị Hường ra, hỏi chị có nhận lời thi đấu với họ hay không. Chị gật đầu, mời họ ra sân. Có cả tía má tôi cùng ngồi xem. Chị Hai tôi lần lượt hạ từng người một. Aáy là tôi nghe chuyện do má tôi kể lại. Còn bây giờ, chị Hai Hường thay tía tôi truyền dạy võ nghệ cho tôi. Ngày học chữ, đêm tập luyện võ, tôi đã hết sức cố gắng mà thấy mình còn phải học tập lâu lắm mới thành thuộc như chị Hai tôi được.
Vậy đó! Người nhiều tài như chị Hai tôi thì người chồng phải thế nào mới xứng? Tôi thấy chị tôi lắc đầu trước bao đám mối mai, cứ nghĩ chị tôi chê họ kém tài, thua sức. Vậy mà… Mọi sự lại bắt đầu từ chỗ tía tôi.
Tía tôi vốn là người thích giao thiệp, hay kết thân bằng. Oâng không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, không kén lựa tuổi tác lớn nhỏ chi cả. Oâng lấy chuyện nhân nghĩa làm trọng, lấy đức độ mà cư xử với nhau. Những khi rảnh việc, ông thường giong ruổi đi chơi, giao du cùng bè bạn. Có khi, ông đi vài ngày. Cũng có lúc, thuận đường vui bạn, ông lang thang hàng chục ngày, nửa tháng. Lần ấy, ông đi ngược sông Hậu, lên miệt biên giới chơi, có gần nửa tháng. Thấy tía tôi bình yên trở về, cả nhà đều mừng. Tía tôi vui vẻ hơn. Bữa cơm ở nhà sau chuyến đi xa, tía tôi xởi lởi báo tin là đã lựa được chỗ để gả chị Hai tôi. Má và chị Hai tôi chống đủa vào chén, nhìn tía tôi. Hai người chưa kịp nói gì, tía tôi đã cười khà khà:
- Rằm này, họ tới!
Mọi khi, tía tôi vẫn để vợ con bàn bạc, trao đổi việc nhà nhưng khi ông đã quyết định như vậy thì sẽ khôngcó ai trong gia đình dám trái ý ông. Má tôi hỏi:
- Đám đó ra sao?
- Thẳng( thằng ấy )… được lắm!
Tôi nghe tiếng “ được lắm” của tía tôi đầy vẻ hài lòng và tin cậy. Rồi tía tôi nhìn nét mặt đầy vẻ băn khoăn của má tôi, nói với giọng thông cảm.
- Tội nghiệp thẳng( thằng ấy)! Vợ của nó chết đã ba bốn năm mà hai đứa con hãy còn nheo nhóc lắm!
Má tôi kêu lên:
- Trời đất!
Bà ngó sững tía tôi. Sau cái phút bất ngờ ấy, má tôi xịu xuống, không hỏi han, nói năng chi nữa. Chị Hai tôi không nói tiếng nào, cúi mặt, và riết chén cơm rồi buông đũa, đi xuống bếp.
Từ ấy đến rằm, tôi thấy má tôi và chị Hai tôi kém vui. Thỉnh thoảng, hai người lại thì thầm với nhau. Kém vui là sự bất thường của má và chị Hai tôi mà nguyên nhân có lẽ do sự hứa cưới gã đầy trớ trêu của tía tôi. Còn thủ thỉ với nhau vẫn là cách trao đổi quen thuộc của hai người phụ nữ trong nhà này. Tôi chắc rằng, má và chị Hai tôi đang tìm cách chống lại quyết định của tía tôi. Tôi cũng hy vọng việc cưới gã này chỉ là chuyện tía tôi vui miệng mà thôi.
Ngày rằm cũng đến. Sáng hôm ấy, tàu đò xuôi dòng sông Hậu về ngang bến nước trước cửa nhà tôi thì bấm còi, tắt máy. Oâng chủ tàu đò gọi với lên bờ:
- Anh Tám ơi! Có khách!
Tía tôi “ ờ ” thật lớn để dưới bến sông nghe tiếng ông trả lời; Rồi ông đi ra, vừa cười nói
- Vậy mà chắc lời dữ, a!
Tôi và má tôi cũng vội ra sân, ngóng xuống bến sông, coi khách nào đang tới. Tôi thấy tàu đò tắp vào bến. Trên tàu bước xuống cầu chỉ vỏn vẹn có ba người đàn ông. Họ xách trong tay cặp rượu và cặp vịt trống tơ. Tía tôi đón khách vào nhà. Má tôi chào khách rồi nhận cặp vịt đem xuống bếp lo làm đồ nhậu. Má tôi bảo chị Hai tôi châm trà mang lên mời khách. Tôi chạy vào buồng, vén màn, lén ngó ra nhà trước, thấy tía tôi ngồi với khách nói chuyện vui vầy. Khách gồm hai người già, một người hơi trẻ. Tôi đoán chừng hai người lớn tuổi kia là họ nhà trai hoặc ông mai, ông mối; Còn người đàn ông hơi trẻ, đầy vẻ phong trần, có lẽ là anh rể tương lai của tôi. Tía tôi vui lắm! Oâng và mấy người khách nói đủ thứ chuyện, chuyện đất đai, mùa màng, thời tiết, cả chuyện giá lúa, giá cá, giá thịt nữa. Rồi tía tôi hỏi chuyện người đàn ông trẻ:
-Thằng Vẹn! Bây tính chừng nào?
Anh ta nhìn xuống, như suy tính, rồi ngước lên, nói với tía tôi:
- Con tính, phải trước mùa nước nổi, chú Tám à! Bởi vì… sau đó, con phải lo chuyện cá, mắm nữa!
Bấy giờ, tôi không hiểu anh Vẹn phải lo chuyện cá, mắm trong mùa nước nổi là chuyện gì. Sau khi khách đã ra về, tía tôi mới giải thích để mấy mẹ con tôi biết là anh Vẹn sinh sống bằng nghề đánh bắt cá trên sông, nghề hạ bạc. Mỗi năm, cứ vào mùa nước lụt, nước từ sông Mê Kông đổ về đồng bằng sông Cửu Long theo hai ngả sông Tiền, sông Hậu thì cá trên nguồn cũng đổ về theo. Ngoài ra, còn nguồn cá từ sông, hồ, mương, rạch theo nước lụt tràn bờ bơi lội khắp nơi, kiếm ăn và sinh sản. Người sống bằng nghề giăng câu, đánh lưới thu được nhiều cá, suốt ba bốn tháng nước nổi lêu bêu ấy. Người ta đánh bắt được đủ loại cá; Được ít thì để ăn hoặc đem ra chợ bán; Được nhiều thì làm mắm hoặc phơi khô cũng để dành bán, để dành ăn. Nếu ai thơm thảo với thân bằng, quyến thuộc, sau khi bán, để dành lại một ít khô, mắm làm quà cáp, biếu xén. Má tôi nghe chuyện, chắc lưỡi:
- Cực khổ! Con Hường ưng nó rồi sẽ cực khổ theo…
Tía tôi cười nhẹ:
- Biết sao mà sướng, mà khổ, bà? Mình cậy nó là người sống có nghĩa, có tình, biết quý vợ, thương con, trọng cha, kính mẹ… là được! Tôi chắc là con Hường về với nó sẽ không đến nỗi khổ thân đâu!
Má tôi chau mày nhưng không cãi với tía tôi. Bà thường nhường nhịn cha tôi cho gia đình êm ấm. Bà vẫn dạy bảo chị Hường và tôi, rằng tía tôi luôn là điểm tựa về mọi mặt trong cuộc sống của mấy mẹ con. Không phụ lòng tin cậy của má tôi, tía tôi cũng từng chứng tỏ ông xứng đáng hơn trong những khi quyết định việc nhà. Và như thế, tôi biết sẽ không có gì thay đổi quyết định của tía tôi về cuộc hôn nhân của chị Hai tôi.
*
Đến tháng thứ tư, sau ngày đám cưới của chị Hai Hường, ông chủ tàu đò chuyển đến nhà tôi mảnh thư của anh Vẹn báo tin chị Hai tôi bị bệnh. Má tôi nóng lòng, bảo tôi ở nhà với tía, rồi theo tàu đò đi chuyến sớm hôm sau, ngược dòng sông Hậu lên Long Bình thăm con gái. Má tôi đi rồi, trở về với vẻ mặt buồn so. Tía tôi hỏi. Má tôi dần dừ mãi, mới nói:
- Nó ốm nghén, lại nhớ thằng Thắm nữa!
Thắm là tên tôi. Tôi vừa lo cho sức khỏe của chị Hai tôi vừa vui vì biết chị Hai cũng thương nhớ tôi như tôi đã mong nhớ chị. Tôi đòi tía má cho tôi được đi thăm chị Hai. Má tôi “ ừ”. Đêm ấy, tôi cứ nằm, không ngủ được, háo hức với chuyến đi sắp đến. Tôi nghĩ đến đường xa, cảnh lạ. Tôi nghĩ đến niềm vui gặp lại chị tôi… Đang lơ mơ nghĩ, tôi bỗng nghe tiếng tía tôi gắt gỏng:
- Tại sao bà giấu tôi?
Tôi nghe tiếng má tôi lào thào. Lâu lắm. Tôi lại nghe tiếng tía tôi:
- Thằng Vẹn biết chưa?
Tiếng má tôi lại lào thào. Tiếng tía tôi, nghe buồn hơn:
- Thằng Thắm biết không?
Tôi nghe tiếng má tôi sụt sịt khóc. Tôi cố căng tai để lắng nghe câu chuyện, hình như có liên quan đến mình, nhưng tôi không nghe tiếng của tía má tôi nữa. Có lẽ, tía má tôi đang mãi nghĩ ngợi và buồn phiền. Tôi cảm thấy có điều gì bất an cho chị Hai tôi, cái cảm giác mà tôi đã có lúc thấy má và chị Hai tôi ngồi khóc trong đêm nhóm họ hồi đám cưới. Điều gì đó có liên quan đến chị Hai tôi, đến tôi và bây giờ lại liên quan đến anh Vẹn nữa. Điều gì đó mà má và chị Hai đã giấu tía tôi, lại không muốn cho tôi được biết. Điều gì đó mà má và chị Hai tôi đã định biến nó thành chuyện riêng tư của chỉ hai người. Nhưng bây giờ thì không được nữa rồi. Hình như anh Vẹn đã biết. Tía tôi cũng vừa mới biết. Còn tôi đang đầy thắc mắc, băn khoăn. Điều gì đó mà tôi chắc rằng sẽ chẳng bao giờ tôi được biết rõ ngọn ngành, gốc rễ. Tôi thật không thể nào biết được những bí ẩn riêng tư của má và chị Hai tôi.
*
Lần ấy, chị kể với tôi là có một ghe bầu, cũng giống như chiếc ghe bầu đang đậu dưới bến sông trước cổng đình, đã mang anh ấy đi.
- Aûnh là người gốc gác làm ruộng ở miệt vườn của mình. Aûnh đóng vai Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Nguyệt Nga, hay lắm! Coi bộ, ảnh là người cũng có võ nghệ, nghe cưng!
Rồi giọng chị than thở:
- Aûnh về hát có một lần, hồi năm đó! Người hào hiệp chỉ có trong tuồng hát chớ ở ngoài đời làm sao có được!
Tôi cãi:
- Sao không? Nếu như có ai bị nạn, em sẽ cứu…
- Cưng thích hào hiệp như Lục Vân Tiên, hả?
- Ừ! Còn chị? Chị thích làm gì?
- Chị không thích làm gì hết! Chị như cô Nguyệt Nga gặp nạn mà không có Lục Vân Tiên ở ngoài đời để cứu nguy!
- Thì em sẽ cứu chị! Em sẽ đánh cướp…
Tôi chợt nhớ ra:
- Chị giỏi võ hơn em mà! Chị sợ gì cướp?
Chị Hai Hường lắc đầu cười buồn:
- Chị không sợ cướp. Chị sợ thói đời bội bạc, lừa lọc thôi! Mà thôi… Bỏ chuyện đó đi!
Vậy rồi, hôm chuẩn bị đám cưới của mình, chị Hai Hường vừa ngồi làm bánh vừa dặn dò tôi:
- Chừng nào có gánh hát về cúng đình, cưng nhớ hỏi thăm ghe bầu, coi ảnh có về không, nghen!
- Hỏi sao mà biết?
- Hỏi người tên đó, quê ở Vĩnh Trạch…
Má tôi đang ngồi gần đấy, nghe thấy câu chuyện của chị em tôi, gắt:
- Đến nông nỗi như vậy mà mầy còn thương tưởng, trông đợi nó, hả Hường?!
Chị Hai tôi chù ụ:
- Con lấy chồng, đã đành! Còn thằng Thắm…
Má tôi quát:
- Thôi đi! Tao biểu mày câm đi! Nghe chưa?
Chị Hai tôi gục mặt xuống, lặng thinh. Tôi thì lấm lét, vì chưa bao giờ tôi thấy má tôi giận dữ với chị em tôi như vậy cả.
*
Sau khi tôi và má tôi thăm chị Hai Hường về, tôi thấy tía tôi có vẻ buồn bực lắm. Oâng quạu quọ, cự nự, quát tháo má tôi và tôi trong nhiều ngày liền. Tôi chẳng hiểu vì sao và chẳng thấy có lý do gì khiến tía tôi phải bực dọc đến vậy. Má tôi vốn có tánh nhường nhịn chồng; Giờ đây, bà đầy vẻ nhẫn nhục hơn.
Tía tôi ngã bệnh sau gần cả tháng buồn phiền. Tôi linh cảm, gia đình tôi đang diễn ra chuyện gì đó nghiêm trọng lắm! Được tin tía tôi bệnh, chị Hai tôi và anh Vẹn cùng về thăm. Chị tôi hốc hác vì vừa qua cơn đau ốm. Chị bước vào nhà, gặp mặt tía tôi, đã òa khóc. Tía tôi ngồi trên bộ ván, ở nhà trước, thấy con gái về, ngoảnh mặt, lặng thinh. Anh Vẹn vào, theo sau chị Hai tôi, chào hỏi tía tôi. Tía tôi chỉ “ ờ”, lấy lệ. Thấy bộ tía tôi đang giận, anh Vẹn và chị hai tôi đi luôn ra nhà sau, chào hỏi má tôi. Tôi sà đến bên chị Hai tôi. Chị ôm tôi rồi lại khóc. Tôi không hiểu gì cả. Tôi muốn hỏi chị Hai tôi điều gì đó, mà cũng không biết hỏi gì.
Cuộc sum họp của gia đình tôi, từ sau khi chị Hai tôi lấy chồng, đã bắt đầu bằng không khí nặng nề như vậy. Nhưng sau đó, mọi việc dường như ổn thỏa hơn. Tôi thấy má tôi và chị Hai tôi vừa nấu ăn vừa thủ thỉ với nhau ở nhà bếp; Còn anh Vẹn và tía tôi ngồi nói chuyện ở nhà trên. Tôi núp sau vách buồng, lén nghe câu chuyện giữa tía tôi và anh Vẹn. Tía tôi ngồi, lâu lắm, mới nói:
- Vẹn à! Tía… có lỗi với con!
Anh Vẹn nhăn mặt, lắc đầu:
- Tía đừng nói vậy mà con đắc tội! Tía má đã thương con, không chê con nghèo khổ lại gãy gánh giữa đường, đã gầy dựng cho con và em Hai. Con mang ơn tía má! Còn chuyện kia, con đâu chấp nê gì! Chẳng qua là tại vì… phần số em Hai khổ! Bữa nay, vợ chồng con, trước là về thăm tía má, sau nữa là định nói với tía má về chuyện thằng Thắm… Con tính đưa nó về sống với vợ chồng con mà vợ con không chịu. Vợ con muốn để thằng Thắm ở lại với tía má, để nó đỡ đần tía má lúc tuổi già…
Tôi nghe tiếng nói của tía tôi và anh Vẹn rõ mồn một nhưng không hiểu gì cả. Sao tía tôi phải xin lỗi anh Vẹn? Phần số của chị Hai tôi thế nào mà khổ? Chuyện kia là chuyện gì mà anh Vẹn chẳng chấp nê? Ý chừng, anh Vẹn và chị Hai tôi lại muốn dắt tôi theo! Tình cảm trong tôi bộc phát, chống đối lại ý định của anh Vẹn. Dù tôi rất mong nhớ chị Hai tôi nhưng tôi không muốn theo chị mà bỏ tía má tôi ở lại . Tôi bước ra, chạy đến ôm chân tía tôi:
- Em không theo anh chị Hai đâu! Em ở với tía má, hà!
Anh Vẹn chồm tới, xoa đầu tôi, cười:
- Cưng ở với tía má, phải giỏi, nghen!
Tôi “ dạ”, sung sướng, ngước nhìn lên mặt tía tôi. Tôi thấy, hình như tía tôi muốn cười mà không cười nổi.
*
Cho đến bây giờ, chị Hai tôi vẫn sống đầm ấm cùng anh Vẹn. Mỗi năm, vợ chồng chị Hai tôi về thăm tía má và tôi hai lần, một lần vào dịp tết và lần sau vào mùa nước nổi. Vợ chồng chị về, mang cả cháu bé cùng về thăm ngoại. Thằng bé bụ bẫm, rất dễ thương. Chị Hai tôi nựng con, vui miệng nói với má tôi:
- Nó giống thằng Thắm hồi nhỏ quá, hả má?
Má tôi không ừ, cũng không lắc đầu. Bà chỉ thở hắt ra. Chị Hai lại ôm vai tôi, hôn lên tóc tôi, hỏi:
- Tía dạy võ cho cưng tới đâu rồi?
Tôi khôngtrả lời, bước lui ra, bỏ bộ đi cho chị xem mấy thế võ mới tập. Chị xem, ngẫm nghĩ giây lâu, rồi nói:
- Là ruột thịt, tía mới dạy cho cưng ngón đòn hiểm đó; Cưng đừng dạy lại cho người ngoài, lỡ người ta biết được, phản đòn , là mình chết đó!
ĐI MỘT NGÀY ĐƯỜNG
Ai cũng muốn trải qua kiếp người trong cõi đời một cách yên ổn; được sung sướng, hạnh phúc là điều quý hoá; những bất trắc, gian nan, đau khổ là do số phận đưa đẩy vượt ngoài ý muốn và sự kiểm soát của mình. Vậy mà, sau mấy mươi năm yên sống cùng vợ con trên mảnh đất và làng quê thân thuộc, bác Hai của tôi bỗng nứt niềng, giang hồ cất bước.
Sau khi cớ sự xảy ra, bác dâu của tôi đoán chắc là bác Hai đi cùng với mấy tay lái buôn thường về làng mua lúa gạo. Bà quyết đoán như vậy bởi vì bà vẫn thường thấy mấy y hay to nhỏ với ông già; có lẽ mấy y rủ rê ông già làm chuyện chi đó. Linh tính của đàn bà khiến bà lo ngại. Thật đúng vậy! Có lần, bác Hai tôi bỗng than:
- Buồn quá!
- Có chuyện gì mà ông buồn?
- Mình làm ruộng rẫy, quanh năm, suốt thán, mặt nám, tay chai, da đen, tóc cháy; gần hết đời người rồi mà chẳng thấy thảnh thơi. Biết làm sao mà đổi đời được?!
- Đổi sao?
Aäm ừ mãi, bác Hai tôi mới nói:
- Được như thằng Năm hàng xáo cũng sướng!
Bác dâu tôi vừa kể, vừa khóc:
- Ai coi! Oång ( ông ấy) mà đem bì với Năm hàng xáo!
Rồi bà liệt kê bao nhiêu thói hư tật xấu của người lái buôn ấy mà bà cho là trông thấy “ nhãn tiền”. Năm hàng xáo tên thật là Năm Mèo. Y có bộ vó bảnh bao, lại quen thói ăn to, xài lớn. Dưới mắt bác dâu tôi, y là người ranh ma, gian xảo, thường mua cân già, bán cân non, lấy đầu này, đắp đầu kia, so hơn tính thiệt từng xu, từng cắc. Bác dâu tôi kết luận “ Người như vậy mà rộng rãi nỗi gì!”; đó là bác dâu tôi chưa tính đến thói phóng đãng, trăng hoa của y; mặc dù y đã có vợ đôi , vợ ba mà hễ gặp đàn bà, con gái là y cứ cà rà, hí hửng. Như những người đàn bà an phận, bác dâu tôi hài lòng với người chồng thật thà chất phác của mình. Bà thường nói với mọi người:
- Tui thấy ông Hai lo cần mẫn làm ăn mà tui thương!
Bởi vậy, khi nghe bác Hai tôi ao ước được như Năm mèo, bà đã gạt đi:
- Oâng lột lớp, thay hình , đổi dạng, học đòi theo Năm Mèo thì cứ đi mà đổi đời. Tui không biết tới!
Bác dâu tôi vẫn khóc:
- Mình giận lẫy, mới nói với ổng như vậy! Không dè… ổng đi thiệt!
Cứ để bác dâu tôi khóc cho thỏa lòng. Trước sự tình ấy, ai còn biết làm gì hơn? Câu chuyện chẳng mấy chốc lan ra khắp đầu làng, cuối xóm. Ai cũng biết, ngủ một đêm, sáng dậy, vợ con của bác Hai tôi không thấy ông ở đâu cả! Cả nhà hô hoán lên, đi tìm. Bác dâu tôi đâm nghi, hỏi anh Thắng, con trai lớn của hai bác:
- Hôm qua, ba mày có đong lúa bán cho chú Năm không?
- Dạ, có! Lúc đó, má qua thăm ngoại. Con tưởng là ba có bàn với má rồi!
- Trời đất ơi!
Bác dâu tôi chạy ù ra bờ sông, ngó xuống bến, chỗ chú Năm Mèo vẫn thường đậu ghe. Bến sông vắng ngắt, không một bóng người. Chiếc ghe chài chở lúa của chú Năm Mèo đã nhổ neo từ hồi nảo, hồi nào rồi. Bây giờ, chắc họ đã đi xa lơ, xa lắc. Bác dâu tôi than thở với đàn con của mình:
- Ba của tụi bây đong lúa, bán lấy tiền, đi theo … thằng Mèo rồi!
Mấy người bà con, hàng xóm nghe chuyện, thấy buồn cười, cũng lựa lời an ủi bác dâu tôi:
- Anh Hai theo thằng Mèo, chớ có phải theo con mèo nào đâu mà chị Hai khóc! Vài ngày, ảnh( anh ấy) lại về!
- Theo thằng rồi sẽ theo con, mấy hồi! Trời ơi là trời! Ai coi! Già rồi mà ổng ( ông ấy) còn sanh tật, sanh tâm!
*
- Đàn bà hay làm lớn chuyện! Ai mà làm gì đến nỗi tác tệ đâu!
Bác Hai tôi khẳng định như vậy, sau chuyến đi “ bụi” về. Bác Hai tôi đi vắng hai ngày, một đêm. Khi trở về, ông vẫn còn nguyên hai bộ đồ gói mang theo; chỉ thêm chiếc nón nỉ đen mà bác cầm tay chớ không đội bảo là mua cho anh Thắng; và thêm đôi dép nhựa đỏ dành cho con gái út. Bác dâu chất vấn:
- Oâng đi đâu?
- Đi chơi… cho biết Sài Gòn!
- Sao ông không nói với tui?
- Nói với bà đặng… dễ đi được lắm!
Bác dâu tôi thở hắt ra, như trút bao nỗi buồn lo đè nặng trong lòng bà suốt hai ngày chồng mất tăm, mất tích. Bà không nói gì nữa, bỏ đi, lo việc nhà. Có lẽ, đối với bà, việc bác Hai mau chóng trở về là đã quá đủ; hoặc là việc rầy rà chồng, bà để dành thủ thỉ lúc về đêm.
Chúng tôi, anh Thắng và tôi, là những người tò mò về chuyến đi của bác Hai tôi hơn ai hết. Chúng tôi rất muốn biết điều gì đã xảy ra trong thời gian bác Hai tôi giong ruổi và cái gì đã khiến bác Hai tôi cất bước giang hồ. Chỉ những khi vắng mặt bác dâu tôi, bác Hai mới từng lúc hé mở với chúng tôi. Quả tình là sự việc không nghiêm trọng như bác dâu tôi đã nghĩ. Chuyện đổi đời chỉ là ý tưởng mà bác Hai tôi đã diễn đạt không chính xác, khiến bác dâu tôi hiểu lầm mà thôi! Mọi sự, bắt đầu từ một buổi chiều…
Đó là một buổi chiều rảnh rỗi hiếm có trong đời của bác Hai tôi. Là một lực điền, ngoài thời điểm gieo trồng, gặt hái, những công việc không tên của ruộng vườn, nhà cửa, gia đình thường chiếm hết thời gian còn lại của bác Hai tôi. Lúc lễ, tết , giỗ đám lại là lúc bác Hai tôi sa vào trà rượu với chén chú, chén anh cùng thân bằng, quyến thuộc, bà con, hàng xóm. Vậy mà, có một buổi chiều, bác Hai tôi không biết làm gì. Bác ngồi ngó mông ra dòng sông chảy trước cửa nhà, thấy đám lục bình trôi líu ríu, trôi miết về xa. Bác bỗng nghĩ về đời sống của đám lục bình; Dẫu chúng là thân bèo dạt cũng đã trôi hết xứ này sang xứ khác, theo sông mà biết nơi gần, chốn xa. Bác lại ngẫm về mình, một đời người chôn chân, mọc rễ trên mảnh đất này. Bác có đi, cũng chưa quá chợ huyện, chợ xã. Bác có vui chơi, cũng chưa đến nơi nào ra khỏi lũy tre làng. Đối với bác, con đường ra ruộng, về vườn, cả xóm làng, cả mái nhà, cả vợ con… đều quá quen thuộc, quá gần gủi đến mức bác cảm thấy như không nhìn,không nghĩ, không sờ mó, đụng đến cũng biết được. Ứơc muốn được biết về những điều mới lạ, những thứ ngoài mình bỗng chốc xâm chiếm bác Hai tôi. Bác nghĩ đến Năm Mèo và chiếc ghe mua lúa của y. Vậy là bác gọi Năm Mèo, rồi bảo con trai bác đong và vác xuống ghe của y bốn mươi giạ lúa. Hai người đàn ông thì thầm với nhau. Hai giờ khuya đêm ấy, bác Hai của tôi xuống ghe mua lúa của Năm Mèo. Vài phút sau, chiếc ghe chở lúa khẳm mẹp ấy được kéo neo, nhổ sào, từ từ tách bến.
Thật là, chúng tôi không hiểu được, trong tâm hồn của người đàn ông đã luống tuổi có vẻ bên ngoài cục mịch như bác Hai tôi lại có một khoảng dành cho niềm khao khát hết sức lãng mạn ấy. Chúng tôi cũng sẽ cạn nghĩ, khi cho rằng ông già chỉ bận tâm đến manh áo, chén cơm và nếu hơn nữa là đất đai, nhà cửa. Bốn chục giạ lúa để đổi lấy chuyến đi chơi cho biết Sài Gòn là một sự kiện đặc biệt trong cuộc đời của bác Hai tôi. Vì vậy, chúng tôi càng háo hức muốn biết cụ thể về chuyến đi của bác. Bác Hai tôi tủm tỉm cười, khi chúng tôi thúc giục:
- Từ từ… để quỡn việc rồi, tao kể cho mà nghe!
Nhằm lúc vui vẻ, bác Hai kể, để chúng tôi biết thế nào là nằm trong khoang ghe chở lúa, thế nào là bồng bềnh sóng nước. Những lúc nhâm nhi bên mâm rượu, bác lại bật ra câu chuyện Năm Mèo:
- Thằng đó, vậy mà, bợm bẫy lắm!
- Bợm bẫy là sao, bác Hai?
- Nó gạt mấy bà vợ của nó, mà gạt theo kiểu…hàng xáo, mới ngặt!
Tiếng tăm về Năm Mèo thì… ,trong làng tôi, ai cũng biết nhưng đến đoạn này thì bọn tôi, ai cũng ngóng nghe.
“ Nó nói với tao là nó có một bà vợ ngon lắm, làm chủ quán bán rượu, bia ở Sài Gòn. Nó nói:
- Tui sẽ dắt anh Hai tới đó chơi, cho biết mặt bả (bà ấy)!
Mới đi một đỗi, nó đã cho tắt máy, neo ghe đậu giữa sông. Tao tưởng là máy ghe hư nên, đang nằm trong khoang, đã lồm cồm bò dậy, định chui ra sau lái coi sự thể ra sao. Đang bò nửa chừøng, tao nghe bên ngoài có tiếng đàn bà. Hình như bà kia đang ở trên xuồng nhỏ, cặp vô be ghe của Năm Mèo, giọng cằn nhằn, cẳn nhẳn:
- Ba sắp nhỏ đi cả chục ngày mà mặc dơ có một bộ đồ này hả?
- Mấy bộ mặc dơ, hôm trước, đã giặt hết rồi! Tiền gói ở trỏng, cầm coi chừng rớt!
Bà kia nghe nói có tiền gói theo, nín thinh, không hỏi vặc mắc nữa.Vậy rồi Năm Mèo cho nổ máy ghe, đi tiếp. Đi một quãng sông nữa, cỡ mấy tiếng đồng hồ, Năm Mèo lại cho ghe đậu lại. Nó lại gởi lên bờ cho bà vợ khác số quần áo dơ còn lại và tiền, số tiền chắc là không nhiều lắm, rồi nó lại cho nổ máy ghe đi tiếp. Nó cười hì hì với tao
- Lót bến chuyến về, anh Hai! Coi như mình lo trước nơi ăn, chốn ở cho mấy ngày đi lại!
Tao hỏi nó:
- Có chừa bộ quần áo dơ nào cho ngươiø vợ ở Sài Gòn không?
Nó lắc đầu, nói tỉnh queo:
- Đàn bà kẻ chợ không chịu cực khổ mà giặt quần áo cho mình đâu. Đối với mấy bả (bà ấy), mình phải có “ phép” khác!”
Bác Hai tôi nói tới đó thì dừng lại. Anh Thắng ngồi ở góc nhà, hỏi nôn tới:
- Phép gì vậy, ba?
Bác Hai tôi gầm mặt xuống, nói cộc lốc:
- Thôi! Bỏ đi!
Vậy là bác Hai tôi không chịu kể tiếp nữa. Chúng tôi lần lượt tan ra, chờ dịp khác. Điều khiến tôi cứ thắc mắc là, lần nào cũng vậy, cứ kể đến đoạn đó là bác Hai tôi đổ quạu. Tôi điểm lại tất cả những điều bác Hai tôi kể thì hình như bác không hề đả động đến Sài Gòn, tựa như bác chưa bao giờ đến đó. Còn điều gì nữa hệ trọng hơn, trong chuyến đi của bác, mà bác thấy nói ra bất tiện hoặc là bác muốn giữ lấy cho riêng mình. Tôi cứ theo đuổi ý nghĩ này nhưng không dám tỏ bày, chia sẻ cùng anh Thắng, để giữ trọn vẹn tình cảm của hai cha con của bác Hai tôi. Tôi, một mình, lặng lẽ theo dõi bác Hai tôi.
Nhà tôi và nhà bác Hai tôi chỉ cách nhau có một mảnh vườn nhỏ, cùng trên phần đất của ông nội tôi để lại cho con cháu. Do đó, cả hai bên nhà đều có thể trông sang và nhìn thấy nhau. Nhiều lúc, tôi trộm thấy bác Hai tôi ra vào tư lự. Có lúc, tôi lại thấy bác Hai tôi ngó mông ra sông. Đôi khi, tôi lại thấy bác Hai tôi ngóng ra bến nước, chỗ chú Năm Mèo vẫn thường neo ghe mua lúa của bà con trong xóm tôi. Tôi cứ nơm nớp lo. Tôi lo là Bác Hai tôi lại làm một chuyến giang hồ nữa! Nếu như lần này bác Hai tôi lại đong lúa bán và lại đi … cho biết Sài Gòn, liệu bác gái của tôi có im lặng mà chịu đựng nữa hay không? Là bà con ruột thịt, lẽ nào tôi lại làm ngơ nhìn bác tôi nát cửa, tan nhà!
Hôm ấy, gặp dịp hai bác cháu tôi cùng đi sạ lúa trên đồng. Nhân lúc nghỉ tay, tôi lân la dò hỏi, định lựa lời khuyên can bác Hai tôi.
- Bác Hai có tính đi Sài Gòn chơi chuyến nữa không?
- Không!
- Đi một lần đã biết chán, còn đi chi nữa, phải không bác Hai?
- Tao có biết Sài Gòn là gì đâu!
- Vậy, hôm trước, bác đi đâu?
- Thì đi …Sài Gòn!
Trước vẻ ngơ ngác của tôi, bác Hai tôi bật cười. Vậy là, vừa vấn thuốc hút, bác Hai tôi vừa kể, sau khi tôi hứa là không tiết lộ với ai, nhất là với bác dâu tôi, về câu chuyện mà tôi nghe được ở bờ ruộng này. Tôi đã chấp nối câu chuyện đứt khúc, đứt đoạn này.
“ …Chiếc ghe chài gắn máy bốn ngựa của Năm Mèo chạy đến chiều hôm đó là tới bến Sài Gòn. Sau khi nói chuyện buôn bán và giao lại cho bạn lái coi bốc dỡ hàng, Năm Mèo dắt tao đến quán nhà của nó. Cái quán hơi tuềnh toàng, nằm cách bến sông xuống hàng độ vài ba hơi thuốc; Nó giống như các quán bên đường dành cho khách vãng lai như tài xế, lơ xe, chủ ghe, bạn lái… Quán cũng có phòng tắm, nhà vệ sinh, có cả phòng cho khách trọ ngủ qua đêm nữa. Tao vừa tắm xong, bước ra, đã thấy Năm Mèo ngồi chờ bên bàn rượu.
- Làm vài xị rượu thuốc cho giãn gân cốt, anh Hai, rồi tui sẽ kêu bà xã tui ra giới thiệu!
- Được!”
“… Tao gặp nó cũng ở quán rượu của vợ bé Năm Mèo. Nó trạc tuổi thằng Thắng thôi. Trong đám đông mấy đứa con gái son phấn lòe loẹt, tấp nập vô ra tiếp khách, nó ăn mặc giản dị, sạch sẽ, chỉ đứng lấp ló ở góc bếp.Tao nhìn bộ dạng của nó, thấy nó giống mấy đứa con gái ở quê mình. Tao hỏi nhỏ Năm Mèo. Năm Mèo bảo nó là con nhỏ giúp việc lặt vặt, việc quán, việc nhà, gọi nôm na là người ở. Tao thấy, hình như, nét mặt nó không vui. Năm Mèo bảo nó là con gái ở quê do Năm Mèo dẫn dắt lên Sài Gòn làm mướn mà có sự đồng ý của ba má nó. Nghe Năm Mèo nói, ba má nó ở dưới quê nhưng nghèo lắm. Họ ở quê mà không có đất đai, ruộng rẫy chi cả. Họ chỉ rặt đi làm mướn, làm thuê kiếm sống. Mấy tháng trước, má của nó bịnh mà nhà lại thiếu tiền lo thuốc nên ba má nó mới mượn đỡ của Năm Mèo. Sau đó, ba má của nó không trả nợ nổi nên họ đành phải cho con gái đi ở, giúp việc cho vợ Năm Mèo, để trừ nợ lần hồi. Nếu đã làm công trừ dứt nợ rồi mà con nhỏ còn muốn ở lại làm thêm thì vợ chồng của Năm Mèo sẽ tính tiếp.
Chuyện của người ta, tao hỏi cho biết, biết rồi cũng đành thôi! Cha mẹ nghèo khổ, buộc lòng phải đợ con, chớ biết làm sao? Cuộc đời là vậy! Quê mình có tiếng là ruộng đất mênh mông đến cò bay thẳng cánh nhưng cũng có kẻ no người đói; kẻ dư dả bán lúa lấy tiền đi chơi như tao, cũng có người nghèo khó phải đem con đi làm kẻ hầu, người ở như cha mẹ con nhỏ đó. Tao ngẫm, đất Sài Gòn phồn hoa đô hội, chắc cũng không thiếu gì kẻ sang, người hèn… Tao cứ nghĩ mà thấy buồn. Buồn! Tao ngồi uống rượu tì tì với Năm Mèo, cho đến lúc trời tối mịt hồi nào cũng chẳng biết.
Năm Mèo kêu mệt, đòi đi ngủ sớm, bỏ vô trong. Vợ bé của Năm Mèo đi ra, bảo là có dành cho tao một phòng bên cạnh. Ngồi một mình cũng buồn, tao mới cũng vô phòng nằm nghĩ. Tao nằm hoài không ngủ được, phần vì lạ chỗ, lại vì đã ngủ cả ngày trên ghe lúa lúc đi đường rồi. Phòng bên cạnh, vợ chồng Năm Mèo rọ rạy hồi lâu, rồi tao nghe tiếng vợ nó nói nhỏ:
- Kêu đứa nào cho anh Hai không?
- Thôi! Oång (ông ấy) già rồi! Đừng làm bậy bạ! Còn giữ đường cho tui về dưới làm ăn!”
Bác Hai tôi ngừng kể, cười khậc khậc:
- Thằng hàng xáo đó vậy mà khôn! Nó mà để vợ nó gạt tao trận đó là nó hết đường về bến Nước. Nó gian xảo mà cũng biết lựa chỗ, lựa người. Còn tao chỉ tính đi vãng cảnh cho biết Sài Gòn, chớ đâu có tính chuyện “ trăng hoa” đó! Mà mày nghĩ coi, tao già rồi, còn củi lửa gì đâu mà ham hố?
“ … Rồi sao nữa hả? Ờ …! Tao nằm lăn qua, trở lại đến hơn nửa đêm. Bỗng, tao nghe có tiếng động ngoài quán, rồi lại nghe có tiếng con gái khóc. Tao ngồi dậy, mở cửa phòng, bước ra. Tao thấy quán của vợ Năm Mèo đã dẹp vắng teo mà con nhỏ giúp việc còn ngồi khóc trong góc bếp. Tao ra bàn ngồi, ngoắc nó lại, hỏi chuyện. Nó đến, nói mà không dám nói lớn, sợ người khác nghe thấy. Thì ra, có thằng quỷ ôn nào đo,ù là khách ngủ trọ, mò vô mùng nó. Nó không chịu, giẫy được, chạy ra.
- Sao không la lên, méc bà chủ?
- Bà chủ dặn, nếu có như vậy, không chịu thì thôi, không được la. Nếu con la lên, sẽ làm mất mặt khách, khách sẽ không tới quán nữa; chừng ấy, bà chủ sẽ trừ lương, đuổi việc…
- Lỡ bây giẫy không được thì sao?
- Con không biết nữa! Lần nào cũng vậy, con ráng giẫy, chạy ra, không dám trở vô trỏng nữa…
- Vậy là chuyện xảy ra nhiều lần rồi hả?
- Dạ !
Con nhỏ dạ rồi khóc nghẹn
- Sao bây không trốn về quê?
- Dạ! Chú Năm biết nhà ba má con dưới quê. Con mà trốn về, thế nào chú Năm cũng theo bắt lại, vì ba má của con còn nợ tiền của chú Năm. Con tính sẽ ráng ở đến khi trừ hết nợ là con xin về liền…
- Lỡ, từ đây đến lúc đó, bây giẫy không khỏi đám quỷ đó, rồi sao?
Con nhỏ làm thinh khóc
- Liệu bề, bây trả hết nợ rồi, vợ chồng Năm Mèo có cho bây về không ?
- Dạ! Con không biết!
- Thôi! Từ từ… để tao tính cho!
Vậy rồi, tao nhường cái phòng của tao cho nó vô nghĩ đỡ. Tao còn phải dặn nó gài chốt trong phòng cho chắc chắn. Còn lại một mình, tao ngồi giữa quán, với bình trà, chờ sáng. Sáng ra, tao uống cà phê với Năm Mèo, nói chuyện chuộc con nhỏ
- Nhỏ nào, anh Hai?
- Con nhỏ giúp việc!
- Con Thơm, hả?
- Ờ!... Chắc là con Thơm!
Tao kể hết sự tình cho Năm Mèo nghe. Năm Mèo ngồi làm thinh nghe , rồi nói:
- Chuyện đó… để tui nói lại với bả (bà ấy). Bả ( bà ấy) xếp chỗ ngủ lại cho nó, thì êm. Còn anh Hai cứ để tiền mà đi chơi…
- Thôi! Tao hết muốn đi chơi rồi! Giúp cho con Thơm rồi, tao về dưới quê liền, sợ bả (bà ấy) với mấy đứa nhỏ ở nhà rầu lo. Hồi đi, tao có nói với ai tiếng nào đâu!
Năm Mèo ngồi dùng dằng một lát rồi kêu con Thơm ra, hỏi:
- Oâng Hai trả nợ dùm cho ba má mày. Mày chịu trở về dưới quê không?
- Dạ! Chịu!
Thấy con nhỏ mừng rơn mà tao bất nhẫn. Tính ra, vừa tiền nợ vừa tiền lời, ngót nghét gần ba mươi lăm giạ lúa. Cũng may, tao đem vừa đủ, còn dư chút ít. Lúc ngồi chờ sáng, tao đã tính rồi, nếu như vợ chồng Năm Mèo đã tính hết số nợ của ba má con Thơm mà tiền tao đem theo trả giùm còn thiếu thì tao sẽ hẹn lại với Năm Mèo, tới khi về dưới quê mình, tao sẽ đong lúa thêm cho đủ số, đặng chuộc con nhỏ ra. Tính tiền bạc với vợ chồng Năm Mèo xong xuôi, tao với con Thơm đi xích lô ra bến xe miền Tây. Nó mua vé về quê nó. Tao mua vé về nhà mình. Tao coi lại trong túi, thấy còn dư chút ít tiền. Tao cho con Thơm thêm vài chục để ăn đi đường. Còn một ít tiền, tao ra sạp hàng phía trước bến xe, mua cho thằng Thắng cái nón và con Mén đôi dép. Vậy rồi, tao và con Thơm, mạnh ai nấy lên xe, về thẳng.
Ngồi xe về dọc đường, tao cứ nghĩ chuyện tao chuộc con Thơm dùm ba má của nó cũng chẳng qua như thả cá về sông. Trong dòng sông rộng lớn, hễ con cá này thoát thân thì con cá khác cũng dính câu, mắc lưới. Tao chuộc con Thơm ra rồi, thế nào Năm Mèo cũng tìm được đứa khác đem lên giúp việc cho vợ nó, cũng là đứa con gái thuộc nhà nghèo khó ở quê mình. Rồi cảnh cũ lại diễn ra nữa thôi, vì trong cuộc đời này còn nhiều người phải dùng thân mình để đổi lấy miếng cơm manh áo! Nghĩ như vậy nhưng tao cũng chẳng tiếc số tiền đã bỏ ra để chuộc con Thơm giùm cho ba má của nó. Việc của tao làm, tao coi như giúp người hoạn nạn, vậy thôi!”
*
- Chuyện như vậy, tao nói mà mày tin không? Nếu mày không tin thì đợi khi nào Năm Mèo về mua lúa ở làng mình mà hỏi. Nhưng tao chắc rằng, dù Năm Mèo có đứng ra làm chứng, bác dâu mày cũng không tin, bởi vì… bả đâu có tin cậy Năm Mèo. Mà… ai tin nó cho được? Nó là thằng bợm bẫy mà !
Bác Hai tôi ngửa mặt cười, cái cười đầy tự tin và mãn nguyện. Tôi chắc rằng, bác Hai tôi hài lòng với việc mình đã làm. Và, tôi tin tất cả những gì mà bác Hai của tôi đã kể lại về chuyến đi ngắn ngủi của ông.
BẾN NƯỚC KINH CÙNG
Ấy là nơi con sông Cái chia nhánh chảy vào. Con kinh chảy hoài, mải miết, vào đồng sâu. Con kinh chảy đến doi đất ngang nhà cô Hai Cà, tưởng cùng, nhưng không. Dòng nước hiền lành lại mở lối, tiếp tục băng đồng, len lách, quanh co mãi cho đến khi nối được cùng sông Cái ở một nhánh khác. Vậy mà người ta cứ gọi xứ ấy là xứ Kinh Cùng. Cô Hai Cà vẫn nhớ lời của cha cô, ông Ba Thời, giảng giải:
- Có lúc nó cùng như vậy nên người ta mới lấy đó mà đặt tên. Tạo hóa sắp bày khéo lắm! Cùng, sao được mà cùng!
Cô Hai Cà nghĩ là cha cô nói đúng; Nếu không, con kinh này đâu có tạo thành khúc quanh để chảy xuống cuối vàm, ngang qua nhà anh Uùt Chót. Cô tin vào bàn tay của tạo hóa như cha của cô đã tin. Tạo hóa kỳ diệu đã cho cô và con Kinh Cùng của cô mỗi năm có một mùa bằng lăng, loài cây mọc hai bên bờ kinh, nở bông tím ngát. Lòng cô mãi thương cảm khi vào lúc tiết trời ấy, mỗi sáng, cô nhìn thấy cánh bằng lăng đã nở chiều qua rơi rụng xuống dòng kinh bồng bềnh theo con nước lớn đổ vào cuối vàm; Rồi vào buổi xế trưa, cô lại nhìn thấy cũng chính những cánh hoa tàn phai ấy theo con nước ròng trôi ngược ra sông Cái Lớn. Quê xứ của cô vốn đã hiu quạnh và buồn; Thêm cảnh tượng ấy càng thêm buồn man mác. Vì sao quê của cô Hai Cà buồn? Ở đây, xóm làng thưa thớt, xa xa mới có một hai căn nhà cất cặp bờ kinh. Vài vườn cây trái được cư dân trồng ở sân trước, hè sau; Còn lại, quanh nơi ấy, bao la đồng ruộng. Ở đây, lúc này, chưa có đường bộ; Vả chăng, đường bộ, ở đây, không thuận tiện bằng đường sông. Phương tiện đi lại duy nhất ở xứ này, lúc bấy giờ, là xuồng ghe di chuyển trên kinh rạch. Mỗi nhà tự lập ra bến nước dành cho sinh hoạt gia đình và giao tiếp với thôn lân. Trong hoàn cảnh như vậy, có lẽ, người ta sẽ thấy quạnh hiu hơn khi nhà ít người, vắng khách.
- Xứ mình buồn tênh! Đàn địch, ca hát mà khuây lãng!
Oâng Ba Thời giải thích về ngón đàn điệu nghệ của ông, khi ông đưa vợ con, theo đất ruộng, vềâ nơi này định cư, lập nghiệp. Trong hành trang của gia đình mang theo trong cuộc di cư, người ta thấy ông mãi nâng niu cây đàn phím lõm, loại nhạc cụ mà ông quen chơi qua các điệu hò, bản vắn, sáu câu vọng cổ với bè bạn giang hồ. Cây đàn phím lõm với sáu câu vọng cổ mới chơi nghe vui, nhưng khi người ta chơi lâu hoặc quen nghe thì thấy nó buồn da diết. Cha con của cô Hai Cà càng cảm thấy như vậy, nhất là từ khi mẹ cô Hai Cà từ trần vì bạo bệnh; Bà đã bỏ lại trần gian mái ấm gia đình cùng với nỗi buồn sâu lắng của ba cha con, ông Ba Thời, con gái Hai Cà và con trai Uùt Thế.
Thời gian dần qua. Bấy giờ, Uùt Thế đã mười sau tuổi. Cô Hai Cà đã ở tuổi hai mươi. Nỗi buồn mất người thân của cha con ông Ba Thời cũng dần nguôi ngoai theo năm tháng. Oâng Ba Thời không đi bước nữa. Oâng lấy việc gieo trồng, ruộng rẫy và nuôi dạy các con lớn khôn làm trọng mà nương tựa sống qua ngày. Những lúc nông nhàn, rảnh việc hoặc giỗ đám của gia đình hay của láng giềng, ông ba Thời thường đem cây đàn phím lõm của ông đến chơi, đánh đàn, ca hát cùng anh em hàng xóm. Kẻ đàn, người hát dễ kết tri âm. Oâng Ba Thời kết thầy trò với Uùt Chót là duyên cầm ca như vậy. Những lúc trà dư, tửu hậu, thầy đàn, trò hát rất xứng cặp, xứng đôi; Hoặc là những lúc rảnh việc, hay chợt buồn, ông Ba Thời bảo Uùt Thế bơi xuồng xuống vàm đón Uùt Chót lên nhà ông để cùng ông đờn ca, xướng hát. Khi ấy, không gian của nhà ông thật ấm áp, vui vầy. Đó là cảnh nhà yên ấm; Ở nhà trên, có ông Ba Thời, Uùt Chót, Uùt Thế và có thể có vài người láng giềng nữa đàn, ca; Dưới chái bếp, cô Hai Cà, đôi khi có thêm một vài cô gái hàng xóm nữa, lục đục nấu cháo gà,cháo vịt, cháo lòng heo… để lát nữa, bưng lên cho cả hội đàn ca ở nhà trên ăn uống, nhấm nháp cùng rượu đế. Niềm vui của cô Hai Cà là được làm việc ấy. Cô cảm thấy, như vậy, nhà của cha con cô đỡ quạnh vắng hơn. Trong khi đó, bài ca vọng cổ qua giọng ca của anh Uùt Chót mùi thật là mùi. Giọng ca của anh Uùt Chót càng mùi thì cô Hai Cà càng thấy thích và thấy vui. Những lúc cha cô bận việc đồng áng, hơi lâu, ông không tổ chức đàn ca tại nhà nên anh Uùt Chót không có dịp đến chơi thì cô Hai Cà lại thấy buồn buồn, nỗi buồn không tên, không tuổi.
Cứ như vậy, cô Hai Cà thấy đời đáng yêu và đáng sống. Đôi khi, cô nghĩ vu vơ rồi tự thấy thẹn thùa. Cứ như vậy, mỗi lần ra bếùn nước trước nhà, nhìn những cánh bằng lăng trôi giạt trên dòng kinh, cô Hai Cà thấy bâng khuâng buồn, thấy lòng như mong đợi. Cô Hai Cà biết mình mong đợi một chiếc xuồng quen.
*
“Tính …tính…tang…tang…tình…” Cô Hai Cà nghe tiếng đàn dạo của cha mình. Giọng ca của anh Uùt Chót cất lên:
“Ngọc Hà ơi! Mắt của nàng đã gây nên sóng gió… để khổ đau tràn ngập mấy tâm tư…Ngọc Hà ơi! Thôi, từ đây, gió đưa vầng mây đến phương trời xa, gót chân quan hà nghìn thu vĩnh cách. Anh nói không thành câu, nuốt lệ thầm câu tiễn biệt người yêu… cất bước theo chồng!”
Cô Hai Cà nghe Uùt Chót ngân dài bốn chữ “ Cất bước theo chồng” thật là mùi rệu. Không gian như lắng xuống. Khoảng lặng và ngân rung của câu ca ở khúc này như dài, rộng ra. Cô Hai Cà bùi ngùi nhìn ánh lửa trong bếp bập bùng. Trời à! Nếu cô là Ngọc Hà trong bài ca ấy, cô sẽ khóc, sẽ buồn, không biết đến bao lâu. Cô Hai chờ đợi tiếng anh Uùt Chót tiếp theo bằng câu vọng cổ quen thuộc mà anh đã tập với cha của cô, suốt mấy tối rồi. Bỗng, cô Hai Cà nghe tiếng trầm đục của cha mình:
- Giỏi! Uùt Chót! Mầy ca mùi không thua gì kép Bảy Cao hồi đó đâu!
- Thiệt hông, chú Ba?
- Thiệt!
Im lặng. Cô Hai Cà nghe tiếng củi nổ tí tách trong bếp lò. Giọng anh Uùt Chót bỗng hạ xuống thấp, như thì thầm tâm sự:
- Chú Ba thấy con… coi có được hông?
Cô Hai Cà nghe hồi hộp lạ thường. Mặt của cô bỗng dưng đỏ rựng. Tiếng ông Ba Thời nạt nhẹ.
- Thằng này! Mày hỏi chú, được với không được, là sao?
Uùt Chót nói, giọng có vẻ ngượng ngập:
- Thì chú nhìn coi … con có xấu trai lắm hông?
- Chi vậy, mày nhỏ?
Cô Hai Cà chợt thấy tức cười nhưng nụ cười của cô chỉ hiện lên trong ánh mắt. Nếu như người ta thương mình thì là người ta thương tánh nết với giọng ca mùi mẩn của mình, chớ ai mà so đo chuyện đẹp trai hay xấu trai bao giờ! Cô Hai vừa nghĩ vừa nhón tay giở nắp vung nồi nước luộc gà đang sôi ùng ục. Cô nghe giọng nói của anh Uùt Chót hơi khang khác.
- Thì… chú liệu dùm con coi…!
- Liệu coi cái gì, mày nhỏ! Tiếng của ông Ba Thời gắt nhẹ.
- Thì chú coi… con như vầy mà có theo gánh hát được hông?
Tiếng ông Ba Thời sửng sốt:
- Trời đất! Mày… tính đi làm kép hát , hả?
- Dạ!
Cô Hai Cà nghe như có gì đó vừa đổ vỡ. Cái nắp vung trên tay của cô vuột xuống trên miệng nồi đánh xoảng. Tiếng khua ấy, có thể, ở nhà trên, cha của cô nghe thấy nhưng anh Uùt Chót thì không. Cô biết, anh Uùt vẫn cứ vô tình! Cô Hai Cà ngồi phịch xuống vạt tre gần bếp, bần thần. Lâu lắm, cô Hai Cà mới nghe tiếng của cha mình nói rất chậm rãi, ở nhà trên:
- Đừng! Uùt Chót! Cái nghiệp cầm ca bạc lắm! Tao sợ…
Uùt Chót hơi nôn nóng:
- Sợ gì, chú Ba?
Lại im lặng. Cô Hai Cà nghe thời gian dằng dặc trôi qua.
- Tao sợ… đường đời nhiều nỗi… Chỉ e… mày nhỏ chẳng giữ được mình!
Cô Hai Cà nghe tiếng anh Uùt Chót cười lớn:
- Chú Ba nói kỳ chưa? Con sẽ là thằng Uùt Chót của cái xứ Kinh Cùng này cho đến bạc đầu, mà!
Tiếng ông Ba Thời ậm ừ:
- Tại tao lo xa… quá xa…! Tao già rồi! Người già nào cũng vậy! Mày đừng lấy đó mà mích lòng, nghen! Thôi! Mày lấy giọng lại đi! Tao rao trước! Mày tập ca lại bài hồi nãy, nghen!
“ Tình… tang… tính… tình… tình…tang…” Cô Hai Cà nghe tiếng đàn của cha mình sao mà rời rạc và buồn bã. Tại tiếng nhạc buồn hay buồn là tiếng của lòng cô. Cô Hai Cà lại nghe giọng của Uùt Chót cất lên:
- “ Ngọc Hà ơi! …”
*
Ba mươi năm. Tất cả vẫn như in trong ký ức cô Hai Cà, buổi tối mà anh Uùt Chót mơ làm kép hát. Trong cuộc đời mỗi người, cũng có lúc, tâm hồn của người ta có những phút giây bay bổng như vậy nhưng qua giây phút ấy rồi thôi. Anh Uùt Chót khác hơn. Anh đã lao theo và sống trọn vẹn với những gì mà anh mơ ước. Đúng như vậy! Sau đó ít lâu, gánh hát của ông bầu Tèo về hát cúng đình rồi đi, cùng với sự ra đi của anh Uùt Chót. Út Thế bảo với cha mình và chị Hai Cà là anh Uùt Chót có rủ cậu cùng đi nhưng cậu đã từ chối; Bởi vì, cậu biết rằng, việc ruộng rẫy của gia đình vẫn cần có cậu hơn. Vả lại, tuy là mê coi hát cải lương nhưng trong thâm tâm mình, cậu thấy ngán cái cảnh lang bạt kỳ hồ mà cậu vẫn thường nghe mấy đào kép trong gánh hát của ông bầu Tèo than thở và ca cẩm. Ừ! Đi giang hồ , ai muốn như vậy cũng phải có máu mới đi được. Cô Hai Cà nghe em trai nói, thở dài. Cô mừng vì cậu Út Thế đã không nghe theo lời của anh Ú Chót rủ rê. Nhưng… cô buồn vì anh Uùt Chót đã bỏ xứ mà đi, lại không nói với cô dù nửa lời từ giã. Anh không biết đến cái tình của cô đã dành cho anh. Anh không biết, khi vắng anh, cô sẽ nhớ, sẽ buồn…
Đằng đẵng bao năm, anh Uùt Chót ra đi mà không thấy trở về. Gánh hát của ông bầu Tèo mấy mùa cúng đình ở làng này đều trở lại Kinh Cùng; Chỉ bóng dáng của anh Uùt Chót là bặt tăm nhàn cá. Cô Hai Cà, ngày này qua ngày khác, ngóng ra bến nước trước cửa nhà mình, mong đợi hình bóng của anh Uùt Chót. Cô mường tượng là anh Uùt Chót sẽ bước lên bờ, với gương mặt tươi cười rạng rỡ, như xưa. Anh sẽ nói với cô Hai Cà với kiểu nói hơi pha chút màu sắc của tuồng hát cải lương, vì anh đã có thời làm kép hát mà! “ Thôi! Từ đây, tôi đã giũ áo phong sương, dừng bước giang hồ, về đây tìm kiếm người mà tôi đã nhớ thương”. Aáy vẫn chỉ là nỗi niềm ước mơ thầm lặng của cô Hai Cà. Cuộc đời đã diễn ra khác hẳn. Oâng bầu Tèo, mấy lần đưa gánh hát về hát cúng đình ở làng Kinh Cùng, đã kể lại với Ba Thế đủ điều. Ba Thế nghe xong, giấu biệt, không dám kểâ lại cho chị Hai Cà nghe gì cả. Câu chuyện kể rằng: Anh Uùt Chót, sau này, đã thay đổi nhiều lắm! Anh đã đổi tên Uùt Chót thành tên Trường Giang. Anh tập ca hát, tập diễn tuồng trong gánh hát của ông bầu Tèo, chưa được trọn năm. Vai diễn của anh vừa quen nước, quen cái thì anh đã bỏ gánh hát của ông bầu Tèo, theo cô đào nổi danh Mộng Ngọc, qua hát cho gánh khác. Họ, kép hát Trường Giang và cô đào Mộng Ngọc, sống chung với nhau như vợ, như chồng, dù tuổi đời của kép Trường Giang kém hơn cô đào Mộng Ngọc nhiều lắm. Uùt Thế nghe nói, cô đào Mộng Ngọc rất mê kép Trường Giang. Cô buộc bầu gánh phải cho Trường Giang đóng cặp đôi với cô. Có lẽ, trước tiên, cô muốn nâng đỡ kép trẻ Trường Giang; Sau nữa, cô muốn thỏa tình với anh cả trên sân khấu.
Thành danh nghệ sĩ Trường Giang là chuyện không quá khó khăn đối với chàng trai của xứ Kinh Cùng. Các bầu gánh hát đua nhau mời mọc, chiều chuộng anh. Các hãng dĩa nhựa, thu thanh sẵn sàng trả thù lao rất cao để giọng ca của anh có trong danh sách ca cổ nhạc của họ để họ chào mời thính giả. Anh Uùt Chót, kép Trường Giang, một thời, là giọng ca ăn khách ở các đoàn hát lớn ở Sài Gòn, đi lưu diễn khắp cả miền Tây. Cô đào Mộng Ngọc, sau đó, lần hồi xuống sắc, qua thời. Kép trẻ Trường Giang bỏ người bạn tình già của mình, chạy theo cô đào khác trẻ đẹp và duyên dáng hơn, đào Kim Ba. Anh và đào Kim Ba lại đóng cặp đôi, cùng đứng hát chung. Họ lại sống với nhau như chồng, như vợ. Út Thế nghe ông bầu Tèo kể và nhận xét: “ Rồi tụi nó, lại cũng bỏ nhau, cho mà xem!”. Út Thế nghe ông bầu Tèo kể mà thấy ngán ngẫm và thấy buồn. Cậu xét lại mình. Cũng may là cậu, giờ đây, đã có vợ con rồi. Vợ chồng cậu và các con cùng sống với cha cậu và chị Hai Cà trong một mái gia đình yên ấm. Cậu hài lòng với niềm hạnh phúc đời thường của mình, chẳng ao ước được những gì gọi là vẻ vang, danh tiếng như là anh Uùt Chót. Cậu chỉ thương xót cho chị Hai Cà. Chị đã sang tuổi “ băm” rồi mà bao nhiêu đám đến dạm hỏi chị làm vợ, chị vẫn lắc đầu, chẳng ưng lấy ai cả. Uùt Thế không ngờ, mối tình thưở xuân xanh mà Uùt Chót gieo cho chị Hai Cà tưởng nhẹ nhàng mà lại sâu nặng đến vậy. Như vậy mới biết, cái lưới tình thật không chừng đỗi, mỏng manh với người này mà quá bền chặt với người kia! Có phải, vì tình cảm của chị Hai Cà là mối tình chân chất của người thôn nữ quê mùa? Còn tình cảm của anh Uùt Chót trải qua là tình trên sân khấu mà người ta quen như biểu diễn? Uùt Thế càng nghĩ càng thấy thương chị của mình. Vậy mà chị Hai Cà vẫn cứ mong ngóng, đợi chờ, vẫn cứ thương tưởng hình bóng của anh lực điền Uùt Chót ngày xưa.
*
Ba mươi năm. Người xưa của cô Hai Cà đã lầm lũi trở về. Cô Hai Cà vẫn còn ở vậy. Con Kinh Cùng vẫn, ngày đêm, với con nước lớn ròng, với bao mùa bông bằng lăng tím nở để rụng rơi theo dòng những cánh hoa màu tím tàn phai, trôi giạt. Bến nước của nhà cô Hai Cà vẫn vậy. Anh Uùt Chót, giờ đây, chợt thấy thân thương và quen thuộc như thưở nào, thưở một thời trai trẻ của anh. Ba mươi năm, anh đã rời xa nơi này để sống đời làm kép hát, có lúc cuộc sống không phải là của mình, có lúc không giữ được lòng mình. Cho đến bây giờ, anh mới nhận ra điều đó! Giờ đây, Uùt Chót, hay nghệ sĩ Trường Giang, đang hết thời còn nghiện ngập. Giờ đây, anh liêu xiêu tìm về bến nước quê nhà, tìm về để gặp lại người khán giả đầøu tiên trong cuộc đời mình, cô Hai Cà, người của thưở anh còn ca hát tập tành với lão nông lại là thầy đàn Ba Thời, ở cái xứ Kinh Cùng heo hút này.
Giờ đây, có lần, anh Uùt Chót đến tụ điểm ca hát của trung tâm văn hóa huyện xin được ca vài bản để góp vui và kiếm tiền. Anh xưng tên nghệ sĩ Trường Giang, tên tuổi của một thời vàng son của anh. Người phụ trách chương trình bảo rằng họ đã từng mến mộ giọng ca và tên tuổi của anh nhưng họ không có chỗ để xếp anh vào chương trình biểu diễn. Anh tự thấy hổ thẹn vì biết người ấy từ chối anh do bộ dạng quá ư tiều tụy vì nghiện ngập á phiện của anh. Anh thấy oán giận mình hơn là oán giận thái độ phủ phàng của người phụ trách đội văn nghệ huyện. Anh ta còn bảo, nếu như anh Uùt Chót cần tiền thì độâi văn nghệ của anh ta sẽ giúp cho chút ít; Chứ họ không thể để cho giọng ca rè của anh Uùt Chót phá hỏng chương trình ca hát của họ đêm này. Sỉ nhục! Anh Uùt Chót đã nguyền rủa chính mình. Đáng đời mày chưa, tên nghệ sĩ hết thời, nghiện ngập! Vậy mà ngày xưa, ngày mà mày còn ở trên đỉnh vinh quang, mày đã từng là thằng bội bạc! Mày đã phụ rẫy ai? Con Kinh Cùng xứ này đã làm chứng chuyện này!
Đó là dịp cúng đình của làng này, vẫn với gánh hát nghèo của ông bầu Tèo gần mấy mươi năm về trước. Oâng bầu Tèo nghe tin có nghệ sĩ Trường Giang về quê giỗ quảy, liền cho người bơi xuồng đi rước anh. Anh Uùt Chót đã cười lớn, nói với người đi rước mình.
- Oâng bầu Tèo tưởng tao còn là thằng Uùt Chót, hồi nẳm, đi hát kiếm cơm, không dám hỏi tiền cữ sao? Về đi! Nói lại với ổng là tao mắc nhậu!
Oâng thầy đàn Ba Thời đã già, cũng có mặt trong bữa giỗ ấy, vỗ vai người học trò cũ của mình:
- Uùt Chót! Mày không thích ông bầu Tèo thì mày hãy vì tao, đi! Mày ra hát giúp cho gánh của ổng để bầu đoàn của ổng kiếm chút ít cơm gạo mà sống qua ngày. Một đêm này thôi, chớ mấy đêm mà mày lo! Chẳng qua là ổng muốn mượn tên tuổi của mày để quảng cáo, đặng bán vé cho sung. Với lại, dịp này cũng là dịp cúng đình xứ mình, có mày về hát giúp hội cũng làm cho bà con xứ mình nở mày, nở mặt!
Uùt Chót đã giãy nảy:
- Trời! Chú biểu, ngặt, không? Con bây giờ mà đi hát cho gánh của ông bầu Tèo, hát đám cúng, đám cưới… , sợ thiên hạ đồn rùm beng, con bị bể tiếng, chết! Thôi! Nhậu đi, chú Ba ơi! Đời còn thiếu gì chuyện để lo!
Oâng thầy đàn Ba Thời chợt buồn. Oâng ăn uống qua loa rồi ra về. Cây đàn phím lõm mà ông cầm theo, định đờn ca cho vui, lại được cầm về, không được khảy một tiếng nào. Lão nông Ba Thời lặng lẽ buồn. Oâng đã quá già ; Người già vốn kiệm lời. Oâng đã không nói những điều muốn nói cùng Uùt Chót. Hôm ấy, Uùt Chót không xem việc của ông thầy đàn của mình ngày xưa buồn, bỏ về làm trọng. Anh nhậu nhẹt xong, lại ra đi, rời khỏi xứ Kinh Cùng, cũng chẳng ghé qua để gửi người thầy đàn cũ của mình lấy một lời chào. Trong cách cư xử ấy của anh Uùt Chót, đối với ông Ba Thời, có chút gì đó vô tình và bạc bẽo. Từ ấy đến nay, đã hơn cả chục năm rồi. Khi anh Uùt Chót nghĩ lại, biết rằng mình cư xử như vậy là có lỗi với thầy thì người thầy đàn năm xưa đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Giờ đây, anh ân hận cũng đã quá muộn màng! Anh muốn đến nhà thầy Ba Thời để thắp một nén nhang tạ tội cùng thầy…
Cây đàn phím lõm của thầy Ba Thời còn treo trên vách kia. Di ảnh của thầy Ba Thời với ánh mắt khoan dung như dành riêng cho Uùt Chót. Cô Hai Cà vẫn ở vậy. Cô đã tròm trèm ở tuổi năm mươi. Cô đang bước vào tuổi già, như anh; Chỉ ánh mắt của cô nhìn anh vẫn như ánh mắt của cô hồi thời còn son trẻ. Đó là ánh mắt ngợi khen anh, thay cho những tràng vỗ tay tán thưởng, như năm xưa, khi anh hạ giọng, xuống xề. Anh Uùt Chót nhớ…Năm xưa, cô Hai Cà đã ngồi đó, ở góc bộ ván ngựa này, nghe cha cô đàn và anh hát, sau khi nấu xong nồi cháo vịt bưng lên. Bây giờ, cô Hai Cà vẫn ngồi đó, nhìn anh, lặng lẽ. Anh ngồi xuống, ở đầu này của bộ ván ngựa. Anh muốn nói gì đó với cô nhưng không biết bắt đầøu từ chỗ nào:
- Tới bây giờ, sao cô Hai còn ở vậy?
Im lặng. Anh Uùt Chót đọc trong ánh mắt của cô Hai Cà một lời trách nhẹ nhàng. Anh biết, mình đã có lỗi với cô Hai Cà, suốt một đời người, suốt mấy mươi năm. Vậy mà cô Hai cà vẫn ngồi đó, nhìn anh với cái nhìn khích lệ, như năm xưa cô đã dành cho anh lúc anh còn tập hát, tập đàn. Không! Anh không còn xứng đáng với tình cảm bao dung và trong sáng của cô Hai Cà. Anh Uùt Chót đứng lên. Giọng nói của cô Hai Cà vẫn cứ nhẹ nhàng:
- Gấp gì mà về, anh Uùt?
- Bến nước Kinh Cùng này, bây giờ, còn có chỗ cho tôi sao?
BÃI SÔNG XANH
Đêm ấy tối đen. Anh sẽ không thấy phía trước có xuồng nếu không thấy cái bóng trắng của ai đó dập dờn theo gợn sóng. Hình như người ấy cũng không biết đang có xuồng câu của anh trên khúc sông này. Anh thả dầm, lăïng im, theo dõi. Xuồng của anh xuôi dòng, đến gần cái bóng trắng ấy hơn. Anh thấy cái bóng trắng ấy cúi xuống thật thấp rồi ngước lên. Anh nghe tiếng phụ nữ sụt sịt khóc. Bỗng, cái bóng trắng ấy nhoài ngang. Hình như cái bóng trắng ấy đánh đu dưới be xuồâng, rồi từ từ biến mất.
- Ai đó! Làm gì vậy?
Không có tiếng trả lời. Chợt nghĩ là có người đang tự vẫn, anh nhảy tòm xuống nước, bơi nhanh đến chỗ nạn nhân. Rất may, anh đã quờ đụng kẻ chán đời! Khi đưa được cả người lẫn xuồng vào bờ, anh mới nhận ra là trên xuồng của người đàn bà kia còn có một bé gái đang ngủ say. Đứa trẻ bị người mẹ dùng khăn rằn buộc dính với tấm ván lót xuồng. Có lẽ, người mẹ sợ con mình tỉnh giấc sẽ bò dậy và sẽ bị rớt xuống sông trước khi có người phát hiện. Người mẹ này muốn chết nhưng vẫn mong con gái của mình có cơ hội sống còn. Anh đoán như vậy và thấy chạnh lòng trước cảnh thương tâm kia.
*
Người xưa bảo “ Đất cồn bãi, trăm năm trước bồi thì trăm năm sau sẽ lở”. Bà lão Sen nhắc nhở con cháu mình về sự vận hành của trời đất theo những điều mà bà biết được; Bởi vì, kể từ ngày mẹ con bà đến đây sinh sống, thời gian trôi qua đã hơn năm mươi năm; Tính lại, bà đã sống gần hết một đời người. Đêm ấy, cái đêm mà bà định buông mình xuống sông tự vẫn cũng đã xa xôi lắm. Khi ấy, bà còn là cô Uùt Sen đang độ tuổi đôi mươi và đứa con gái của bà chưa tròn một tuổi. Khi ấy, cô Uùt Sen lòng đầy hờn giận, tâm trạng túng cùng. Người đàn ông mà cô dốc lòng yêu thương đã bỏ rơi mẹ con cô. Anh đã chẳng nghĩ mà thương cho thân cô, khi vì trót thương yêu anh mà cô đã bất chấp ý kiến phản đối của cha mẹ, trốn gia đình đi theo anh để được làm vợ và làm mẹ của con anh. Vậy mà giờ đây, trong cảnh khốn khó, không việc làm, không tiền bạc, không nhà cửa, anh đã đổi dạ, thay lòng, bỏ hai mẹ con của cô, đi theo người đàn bà khác nhiều tiền lắm của. Cô Uùt Sen và đứa con gái còn trong thôi nôi cắm sào trên bến sông chờ đợi. Anh đi lên bờ và chẳng thấy trở về. Ngày này qua ngày khác. Cô và con gái vẫn neo xuồng dập dềnh trên bến sông đợi chờ. Rồi một ngày kia… Có người đàn bà lạ tìm đến bến sông này, gặp mẹ con Uùt Sen để xác nhận sự chiếm hữu người đàn ông, xác nhận sự thật là Uùt Sen đã bị cướp mất bạn tình, con gái của Uùt Sen sẽ phải thiếu cha. Bà ta đưa cho Uùt Sen một số tiền, vàng, rồi yêu cầu cô và con gái cô đừng bao giờ trở lại bến sống này nữa. Uùt Sen không nhận tiền, chỉ khóc. Đêm ấy, mẹ con Uùt Sen rời bến ấy. Xuôi dòng về đâu, Uùt Sen không biết nữa. Cô cứ mặc tình cho sóng gió đẩy đưa. Cũng trong đếm ấy, cô Uùt Sen và con gái, trên chiếc xuồng ba lá mong manh, đã trôi giạt đến khúc sông này.
Bà lão Sen không nhớ chính xác câu chuyện đã xảy ra vào ngày, tháng, năm nào nhưng buổi sáng đầøu tiên mà bà đặt chân lên bãi sông này thì bà không dễ gì quên. Bà nhớ là ông Hai Hùm vác dầm đi trước, còn bà bồng con gái lục tục theo sau. Bà vẫn nhớ như nhìn thấy mặt cát bãi sông lún xuống dưới từng bước chân chắc nịch của ông Hai. Đến một túp lều bằng tre lá, ông Hai Hùm đã dừng lại:
- Chỗ này của tui! Bãi này do tui cắm! Giờ đây, tui nhường chỗ này lại cho mẹ con cô! Cô Uùt đừng tính đến chuyện chết nữa. Cha của đứa trẻ này đã tệ bạc mà cô lại chết thì lấy ai nuôi dưỡng nó đây!?
Uùt Sen lí nhí “ dạ”. Thật là, cô không thể không nghe theo ý kiến của người vừa cứu mạng mình. Ý tưởng tìm đến cái chết để giải thoát nỗi ức lòng trong cô cũng đã qua rồi. Lúc này, cô nghe như có một cảm giác mới lạ ùa đến, khi bồng con đứng trước bãi sông. Mặt đất rộng, trên bề mặt là cát bùn mịn màng, thoai thoải chạy dài xuống mé nước; Và kia, xuồng của Hai Hùm và của cô được cắm sào, nằm sóng đôi, dập dềnh trên mé nước. Thoáng bâng khuâng nhớ lại chuyện đã qua, cô đoán, khúc sông nơi mà đêm qua cô định buông mình xuống nước có lẽ gần lắm với bãi sông này. Đêm qua bầu trời và dòng sông tối đen; Còn sáng nay, mặt trời rực rỡ và dòng sông nồng ấm quá. Cô nhìn về phía Hai Hùm. Anh ta đang dồn sức lực của đàn ông vào đôi tay rắn chắc, nắm lấy cột lều, ấn cho cây cột cắm sâu thêm vào lòng đất. Rồi, anh quay lại, hướng về phía Uùt Sen, cất giọng vang vang:
- Trước đây, tôi cắm bãi này là cắm dể dành. Chỗ đất này tôi chưa xài đến nên còn hoang tàn lắm! Mẹ con của cô ở đây sinh sống thì phải gầy dựng. Trời đất cho mình nhưng mình phải có sức, có công!
Một mái lá đơn sơ được dựng lên đủ để, tạm thời, che mưa nắng cho hai mẹ con Uùt Sen. Màu xanh đã điểm dần và lan rộng ra trên đất bãi. Bàn tay mềm yếu của mẹ con cô Uùt Sen nhiều lần căng phồng rồi chai rộp. Đất đai ở đây như chờ đợi bàn tay vun xới của con người. Ở đây, bông trái, rau củ mọc lên tốt tươi; Cây cối càng mượt mà, xanh tốt. Giữa màu xanh ấy, mẹ con của cô Uùt Sen đã chịu bao mùa nắng gió, lụt hạn đi qua. Họ đã sống và vượt qua mưa nắng, như có lần, trong đêm đen trên dòng sông phía ngoài kia, họ đã vượt qua số phận bất hạnh để sống còn giữa cuộc đời này.
Cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời, bà Uùt Sen vẫn luôn muốn chứng minh với mọi người rằng ông Hai Hùm là người đàn ông lương thiện. Những ngày gần đất xa trời, bà lão vẫn nói, như trối cùng đàn con cháu của mình:
- Nếu như… bãi đất này có ngày phải lở… nhưng ơn nghĩa của ông Hai đôùi với gia đình mình vẫn mãi còn đầy!
Vì sao như vậy? Bà Uùt Sen kể rằng: Sau khi ông Hai Hùm nhường bãi đất cho mẹ con bà trồng trọt, ông đã lặng lẽ lội ra mé nước ở chỗ sâu hơn để tiếp tục cắm bãi để dành và chờ đợi một bãi bồi khác lại phơi lên.
- Chờ tới chừng nào, bãi ngoài đó mới phơi mặt, hả bác Hai?
Đứa con gái nhỏ của Uùt Sen ngây thơ hỏi người ơn của mẹ con nó. Oâng Hai Hùm trả lời bằng thái độ cương quyết và dứt khoát, với thái độ chọn lựa của mình:
- Năm hay mười năm nữa, cháu à, mà cũng có thể lâu hơn!
Khi ấy, cô Uùt Sen mới biết niềm say mê đất đai trong người đàn ông này đã có từ thâm căn, cố đế. Ao ước ấy lớn lắm, trải qua đã mấy đời người, từ đời ông, cha của anh. Đến đời của anh, việc khẩn đất hoang không còn nữa bởi đồng ruộng đã thành đất thuộc lâu rồi. Cha anh để lại cho con trai sở hữu và trồng trọt đã trên chục mẫu ruộng ; Vậy mà anh vẫn ra cồn bãi lặn hụp cắm dùi và tiếp tục khẩn hoang. Anh biết rằng, dòng sông Hậu vẫn êm ả chảy bên trên, ngày đêm lắng lại phù sa phía dưới lòng và bồi đắp bãi bờ. Giờ đây, bãi sông mà ông Hai Hùm đã chờ đợi bao năm được nhường lại cho hai mẹ con Uùt Sen bạc phận. Uùt Sen biết là mẹ con cô mang nặng tình nghĩa đùm bọc cưu mang của ông lão Hai Hùm. Đời này, kiếp này, mẹ con Uùt Sen biết lấy gì đền đáp lại cho ông Hai? Đó là điều khiến cho Uùt Sen trăn trở trong những đêm mất ngủ của mình.
Cứ như vậy, ngoài thời gian gieo trồng ở đồng trong, Hai Hùm vẫn thường ra cồn bãi dở chà, te cá. Bến sông vẫn ở mé nước. Hai chiếc xuồng của Uùt Sen và Hai Hùm vẫn được buộc chung ở một nọc cầu. Hai Hùm vẫn thường đi ngang qua bãi đất mà ngày xưa anh đã cắm dùi, giờ đây đã thuộc sở hữu của Uùt Sen, để ra bến sông, chỗ cắm bãi mới của mình. Có lúc, anh dừng lại ở mái tranh của mẹ con Uùt Sen để hỏi thăm sức khỏe và cuộc sống của họ. Có lúc, anh lại tạt qua vườn nhà của hai mẹ con để dọn vài bụi cỏ, lại chỉ thêm cho người phụ nữ cách gieo trồng một vài loài cây trái, rau dưa. Có lúc, anh lại thêm sức để vợt vài leng đất đắp gốc xoài, gốc mít giúp cho hai người phụ nữ chân yếu, tay mềm. Có lúc, anh lại buộc dùm sợi dây chằng giữ cột tre cho căn chòi của mẹ con Uùt Sen trụ lại khi nó đang đến hồi xiêu vẹo…
*
Mùa mưa. Cơn mưa chiều trút xuống như có ai đó bưng thau nước dội lên bãi sông này. Dòng sông, dưới cơn mưa, như đầy thêm, đầy vun lên, bò vào đến tận nền nhà. Dưới mái lá thấm đẫm nặng oằn nước mưa, họ ngồi thu lu, mỗi người một góc trên chiếc vạt tre. Người đàn ông đang tuổi tráng niên; Còn người phụ nữ đang thì xuân sắc. Họ không nhìn nhau. Họ hướng cái nhìn ra ngoài bờ bãi. Bên ngoài, mưa gió mịt mù. Trong mái tranh, lòng họ như lửa đốt. Ý nghĩ của họ có nhau. Trái tim của họ có nhau. Cảnh bất trắc của cuộc đời và trong trời đất này khiến họ thấy cần có nhau, muốn nương tựa vào nhau…
Cơn gió mạnh tạt qua khiến cả mái lá như muốn bật tung lên trong nỗi hốt hoảng của cả hai người. Sau giây phút gió giông gào thét ấy, mưa như nhẹ hạt hơn. Người thiếu phụ bừng tỉnh. Người đàn ông thấy bình tâm hơn. Cả hai như cùng nhớ lại cái đêm đầøu tiên họ gặp nhau trong hoạn nạn ở giữa dòng sông. Lâu lắm, anh Hai Hùm mới hướng cái nhìn về phía Uùt Sen:
- Nơi này quạnh quẽ lắm. Cô Uùt đừng ở vậy nữa… Hãy kiếm ai đó mà bầu bạn, tựa nương!
- Anh Hai! …
- Lòng nào mà tui gieo thêm cho mẹ con cô Uùt thêm cảnh khổ!?
Đó là tiếng nói rành rẽ của Hai Hùm. Uùt Sen bật khóc. Hai Hùm chau mày, nén chịu, rồi anh bước xuống đất, đi nhanh ra cửa. Uùt Sen ngồi yên nhìn theo dáng đi chắc chắn của người lực điền. Cô lại thấy hình ảnh anh Hai Hùm với đôi tay rắn chắc đã dồn sức lực vào cây cột lều, ấn cho nó cắm sâu hơn vào lòng đất. Ngoài trời, mưa đã tạnh và cơn gió giông cũng đã qua rồi.
*
Uùt Sen đích thân đến nhà vợ chồng Hai Hùm xin trả đất. Cô cho rằng, từ ngày mẹ con cô sinh sống trên bãi đất này đến nay, mẹ con của cô đã có dư ăn, dư của, có đủ khả năng để mua miếng đất khác mà cất lại căn nhà; Ơn nghĩa của mẹ con cô đối với vợ chồng Hai Hùm đã nặng và mẹ con cô chẳng muốn mang thêm. Vợ chồng Hai Hùm lắc đầu:
- Để ở mà làm ăn, cô Uùt! Trời đất mênh mông mà nghĩa tình có giới hạn thôi. Tui không cho thêm cô Uùt gì hơn được, ngoài bãi đất ấy. Cô Uùt đừng lo nghĩ đến chuyện trả hay đền đáp. Coi như… hồi nẳm, tui cắm bãi dùm cho mẹ con của cô Uùt, mà thôi!
Vợ của Hai Hùm thẳng thắn hơn trong chuyện đàn bà:
- Cô Uùt ngại miệng đời đàm tiếu chớ gì? Chuyện mình mình biết, việc mình mình lo. Tại vì nhà cô Uùt không có đàn ông nên dễ bị thị phi lắm! Cô Uùt lựa coi, có ông nào tâm đầu ý hiệp ưng lấy, rồi lo cất nhà, gã con gái với người ta… Còn ông Hai này… Ai nghi nan, chớ tui tin ổng!
Sau chuyện trả đất không thành, Uùt Sen đành kêu thợ mộc đến, dở gỗ cất lại nhà mới trên nền đất cũ mà ông Hai Hùm đã nhường cho từ những năm xưa. Ngày dựng cột, gác dông nhà Uùt Sen, cả hai vợ chồng của Hai Hùm cùng ra tiếp sức. Năm sau, lúa đồng trong của Hai Hùm trúng lớn. Vợ chồng Hai Hùm lại sửa nhà để nó trở thành một ngôi nhà đẹp với ngói đỏ, cột săng. Mẹ con Uùt Sen lại vào phụ việc với gia đình của hai Hùm. Những người trong làng xóm lắm điều, lại đồn thổi lên “ Thật là… chẳng ai tốt số như thể Hai Hùm của làng này!”
*
Sau này, nhiều lần bà Uùt Sen nói với mọi người:
- Nói có trời đất làm chứng, ông Hai chưa hề thừa lúc vắng người mà nắm lấy tay tôi, chớ đừng nói là có chuyện gì khác. Lời nầy, tiếng kia râm ran… Aáy là tại miệng đời! Tại người ta không tin tôi, không tin người đàn bà ở giá này, nên tội vạ người ta trút hết vô chỗ ông Hai!
Bà Uùt Sen cố nói để minh oan cho người đàn ông mà bà mang nặng nghĩa ơn và yêu quý nhưng chưa bao giờ bà nói với mọi người vì sao bà không đi bước nữa cho đến hết cuộc đời. Vì bà còn oán hận cha của con gái bà hay vì lòng bà đã dành để yêu thương ai đó mà không thể tỏ bày?
Thời gian lặng lẽ trôi qua. Đã có thêm hai thếâ hệ người nối tiếp nhau sống trên cồn bãi ấy. Bãi sông mà ông Hai cắm để dành sau này cũng đã phơi mặt cát bùn. Lúc này, ông Hai đã già không còn đủ sức lặn hụp, gieo trồng, đào xới nữa. Oâng giao đâùt lại cho con trai Uùt, dặn dò con cháu của ông phải sống hòa thuận với mẹ con, bà cháu của bà lão láng giềng. Thỉnh thoảng, ông Hai chống gậy ra thăm bãi sông xưa, thăm mọi người, thăm cả mẹ con, bà cháu bà lão Uùt Sen. Cô Uùt Sen ngày xưa, giờ đây, cũng đã quá già, còm cõi sống với đàn con cháu của mình. Oâng Hai Hùm và bà Uùt Sen vẫn là bậu bạn của nhau. Tình xưa của họ vẫn nặng. Nghĩa xưa của họ vẫn đầøy. Họ đến cùng nhau, bâng quơ trò chuyện; Đôi khi chuyện nọ xọ chuyện kia, vẫn vui,vẫn nói; Đôi khi bất chợt nhớ, bất chợt chạnh lòng thương cảm, nhớ… một chiều mưa, trong mái tranh nghèo, trên tấm vạt tre, cả hai cùng ngồi thu lu, mỗi người một góc, tình nồng mà không trao nhau!
Vậy mà đã mấy mươi năm qua! Bao mùa mưa nắng. Bao mùa bông trái. Bãi sông xưa vẫn xanh ngát một màu.
XA LẮC CỒN TE
- Đò ơi!
Thầy Bá Tri đứng bên này bờ, gọi vọng ra phía giữa dòng sông. Tiếng ông vang lên, lan tỏa trong không gian, chập chờn trên mặt sóng. Tiếng gọi đò của ông, có lẽ, cuối cùng chỉ còn được âm “ ơi” đã mỏn hơi bay đến bờ bên kia. Oâng gọi nhồi thêm một tiếng, một tiếng nữa, rồi đứng đợi. Oâng ngó mông về phía mình đã gọi nhưng không thấy gì cả. Đêm cuối tháng khiến cho nơi ấy như hòa với dòng sông làm một, mù mịt, xa khơi. Oâng cố gắng lắng nghe nhưng không có âm thanh nào vọng về ngoài tiếng sóng vỗ dạt dào, như là ở đó không còn tồn tại. Có ai nghe thấy và qua đón mình không? Thầy Bá Tri tự hỏi và bất giác thấy buồn.
Đã nhiều lần, người ta nói với thầy Bá Tri là cồn đất này rồi sẽ lở đứt thôi, sẽ không còn gì cả, cả cái trường tiểu học bằng tre lá và đám học trò lam lũ của ông. Rất nhiều người khuyên ông nên kiếm một trường khá mà xin chuyển về cho yên thân, ấm chỗ lúc tuổi già. Vợ ông nói, như bâng quơ:
- Chẳng có của hờ nào dành sẵn đợi mình, mà cồn đất đang lở ấy mang đến cho ông cái gì mà ông đeo đẳng?
Thật là… ông chẳng muốn nghe những lời như vậy. Ông lấy làm tiếc là bộ nhớ của ông, hay nói chung là bộ nhớ của con người, không đủ sức để loại ra những chuyện thị phi. Mặc tình cho chúng đi về trong đầu, ông vẫn cứ đến nơi mà ông muốn đến.
*
Cồn Te, cách đây hơn hai mươi năm, không phải như bây giờ. Nó đã trải qua thời kỳ phồn thịnh trước đó rất lâu, mỡ màng, tươi trẻ và đầy sức sống. Phù sa sông Hậu đã sinh ra nó. Mỗi khoảnh khắc của dòng chảy đã tạo dựng nên, cho đến cả trăm năm, nó trở thành cồn đất như cái đĩa úp nằm giữa lòng sông Hậu. Nó quần tụ về đây hầu hết là dân chài. Cuộc mưu sinh của nhóm người này đã mang đến cho nó cái tên cồn Te. Aáy là do những người sống ở ven bờ sông Hậu đặt tên như vậy, khi đêm đêm họ nhìn thấy đèn của dân chài giăng mắc te cá quanh cồn.
Thầy Bá Tri biết đến cồn Te khi ông còn rất trẻ. Hồi ấy, ông là tập viên tham gia phong trào bình dân học vụ của tỉnh nhà. Bấy giờ, cồn Te đã nổi lên khỏi mặt nước có đến hai trăm tuổi mà vẫn đầy vẻ sơ khai và hoang mạc. Đây đó lơ thơ vách lá, mái tranh của dân chài. Chòm đốm lùm bụi hoang dại và do dân làng chài trồng; Tất cả đều không có trật tự, quy củ. Ở đây không có đường sá. Người ta băng qua các lùm bụi, bờ bãi mà đến với nhau. Lối đi mà người ta thiết lập cũng của riêng mỗi nhà, là con đường ra với dòng sông. Cuộc sống của cư dân ở đây đều hướng về sông Hậu, cả mùa nắng lẫn mùa mưa, cả những tháng mặt đất ráo khô lẫn những ngày nước lụt lêu bêu sóng nước. Một số người te cá. Số người còn lại đưa đò, chở hàng mướn, vác bờ ở các bến chợ, bến sông quanh cồn Te và ở bên bờ sông Long Xuyên. Đất cồn Te không đủ rộng, không đủ nhiều để người ta chiếm hữu, khai phá để trồng trọt. Đối với dân cồn Te, có chỗ để ở là đã quý; Còn lại, vẫn cứ là “ gạo chợ, nước sông…”. Ở đây không có điện, chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có! Ở đây sẽ mãi mãi tù mù ngọn đèn dầu chai hoặc là đèn bình bằng pin hay sạc điện, mặc dù bên kia bờ là thành phố Long Xuyên ở cách cồn Te chưa đầy năm trăm mét đường sông mà đèn điện sáng choang từ trong nhà của các khu dân cư ra đến đầu đường, cuối phố. Có lẽ, số phận của cồn đất này như vậy! Chỉ có dân tứ xứ đến đây ngụ cư. Còn dân cố cựu ở vùng đất trù phú ven sông Hậu, chẳng ai màng đến cồn đất này. Có lẽ, người ta không tin cồn đất nhỏ này là nơi vững chắc để gầy dựng sự nghiệp trăm năm cho bao đời con cháu, như lời người xưa truyền lại: “có bồi thì có lở, đó là quy luật tự nhiên”.
Đã mấy mươi năm, thầy Bá Tri cứ suy nghĩ về sự hữu hạn của cồn Te và của đời người. Oâng cứ âm ỉ buồn và cay đắng. Oâng nhớ, ngày đầu tiên ông đến đây để mở lớp bình dân học vụ, cả trẻ nhỏ lẫn người lớn đều trố mắt nhìn ông:
- Oâng thầy tới đây, tính mần gì?
- Giúp cho bà con ở đây biết đọc, biết viết chữ!
Mấy người đều cười:
- Chữ nghĩa mần chi, thầy ơi! Tụi tui ở đây, chỉ sống qua ngày!
Trong tình thế như vậy, ông biết những lời hoa mỹ của việc biết chữ, của tri thức trở thành vô ích. Oâng tìm đến người từng được xem là đại ca trên cồn đất này, ông Ba Đời, thợ cái của trại đóng hòm. Đó là người đàn ông đã trên tuổi tứ tuần, có thân hình vạm vỡ, chắc khoẻ. Trên gương mặt sạm đen của ông ta, vết sẹo dài ghi lại dấu vết của một thời giang hồ, oanh liệt của ông ta. Khi nghe thầy Bá Tri nói rõ mục đích đến cồn Te của mình, mắt ông Ba Đời ánh lên niềm vui pha lẫn nỗi xót xa. Oâng Ba Đời ngồi vỗ đùi:
- Dân ở đây là vậy, chuyện gì cũng chẳng hiểu hết. Ông thầy đừng buồn tụi nhỏ!
Oâng Ba Đời kể lại, khi trại đóng quan tài mới kéo gỗ đến, cắm sào ở cồn Te, người ta hỏi nhau:
- Ở đâu tắp vô?
- Trên miệt biên giới giạt xuống!
- Hết chỗ tắp! Sao lại tắp chỗ này, ở đây có mấy mống?
- Trời! Ai mà nhắm vô đám mình! Là người ta dành cho dân bên chợ kia!
- Dành cho dân bên chợ, sao không đặt bên chợ? Đặt ở đây, ghê quá!
Oâng Ba Đời hạ giọng, nói với thầy Bá Tri:
- Thầy coi, tụi nhỏ hỏi như vậy, có phải dại không? Chỗ hoang vu, quạnh quẽ, người ta mới làm đất nghĩa địa, mới đặt trại hòm. Ở chỗ chợ búa đông người, ai mà chịu chứa thứ đó?! Có ai sống nổi khi mà kè kè bên lưng là cái quan tài đâu? Vậy mà…
Oâng Ba Đời thở hắt ra:
- Người ta cạnh tranh với nhau, đã mở trại hòm thứ hai ở đây rồi, như thầy thấy đó! Còn tui thì … nghỉ te cá, nghỉ đưa đò, làm thợ đóng hòm kiếm sống mà nuôi vợ, nuôi con.
Đó là câu chuyện cứ ở trong bộ nhớ của thầy Bá Tri. Sau cuộc gặp gỡ đó, ông Ba Đời đã giúp thầy Bá Tri mở lớp bình dân học vụ. Lớp học gồm khoảng mười học viên, cả trẻ nhỏ và những người phụ nữ nhàn rỗi. Lớp học duy trì không lâu. Sau đó, thầy Bá Tri đi học trường sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, thầy được bổ nhiệm làm giáo viên dạy ở trường tiểu học tại chợ Long Xuyên. Rồi, có một lúc, thầy Bá Tri bỏ trường, bỏ lớp, “ đi làm mướn kiếm tiền”. Thầy Bá Tri vẫn ví von thời gian đi làm kế toán cho công ty của bạn ông như vậy. Sau đó nữa, thầy lại trở về ngành giáo dục.Lãnh đạo ngành hỏi thầy muốn về trường nào. Bộ nhớ của thầy hướng về cồn Te, nơi mà ngày xưa thầy đã làm giáo viên của phong trào bình dân học vụ. Người đầu tiên phản đối là vợ thầy.
- Tưởng là ông đi ba đồng, bảy đổi sẽ làm nên chuyện gì! Cuối cùng, ông lại về làm hiệu trưởng ở cái trường khỉ ho, cò gáy đó! Cồn đất đó, tôi nghe người ta nói, là đang lở… Thế nào cũng có ngày … ông xuống thăm hà bá đó!
- Như vậy thì đã sao? Tôi cứ đến đó!
Đó không chỉ là câu trả lời bướng bỉnh của thầy Bá Tri với vợ mà là quyết định của ông. Oâng đã nhận quyết định bổ nhiệm rồi. Oâng biết mình chẳng phải là người đầu tiên của trường tiểu học ở cồn Te; Oâng chỉ là người về thay chỗ cho người đến trước. Trường tiểu học cồn Te đã được thành lập hơn hai mươi năm. Các thầy, trò ở đây đã dạy và học và đã trải qua hai đời hiệu trưởng; Đến thầy Bá Tri là đời hiệu trưởng thứ ba. Bao nhiêu thầy, cô giáo đã dày công với việc giáo dục ở trên cồn đất đang lở này. Học trò trường tiểu học cồn Te, có người đã tốt nghiệp trường sư phạm và trở về đây dạy học, nơi mà trước đây họ đã học lớp vỡ lòng. Còn thầy Bá Tri, tuổi trẻ và sự sung mãn của đời ông đã trút về nơi khác. Ở đó, học trò kẻ chợ chăm học, ngoan ngoãn, lễ phép, có đủ điều kiện để mua sách vỡ, viết mực, quần áo, giày dép. Có trò được sống trong hoàn cảnh gia đình khá giả, cha mẹ còn dư tiền để mời thầy giáo về kèm cặp, dạy học tại nhà riêng. Ở đó, mái ấm gia đình mà thầy Bá Tri nếm trải là cả mật ngọt của hạnh phúc lẫn nhiều điều đau xót làm buốt nhức cả tâm hồn. Có một thời gian dài, lương và các chế đôï chính sách dành cho giáo viên rất thấp, thấp đến mức mà những người thầy có lý tưởng nhất cũng cảm thấy khó có cơ hội sống với nghề nghiệp. Đó là bước ngoặt quan trọng trong đời sống của vợ chồng ông và cũng là bước ngoặt trong cuộc đời dạy học của ông. Oâng cảm thấy như mục tiêu của nhiều người lúc ấy là tiền, là lợi ích vật chất chứ không phải là chữ nghĩa, là tri thức hay là những chuẩn mực của đạo lý làm người. Vợ của ông cũng vậy. Lúc ấy, bà ấy rất cần tiền để lo cho đàn con ba đứa. Bối cảnh ở trường lớp và những thúc bách của đời sống gia đình đã luôn là áp lực đối với tinh thần của thầy Bá Tri. Một người giáo viên như ông làm gì để có thêm tiền, ngoài đồng lương ít ỏi của mình? Oâng biết, đồng lương ấy, dù có mang hết về cho vợ con thì cũng chỉ đủ cho cả nhà với những bữa cơm đạm bạc. Trong ý nghĩ của ông, một người thầy có lương tâm không thể nghĩ cách kiếm sống từ túi tiền của học trò mình. Vậy mà vợ ông cứ ngày đêm phê phán ông là chậm lụt, là gàn dở, là cực đoan, là lý tưởng huyễn hoặc, khi ông từ chối không chịu nhận học trò về nhà dạy thêm để kiếm tiền phụ trội.
- Làm như vậy thì làm sao “ thầy ra thầy, trò ra trò ” nữa?
Vợ của ông đã không hiểu điều đó, hoàn toàn không hiểu. Bà chỉ cần có tiền. Cuộc xung đột đã khiến vợ chồng của ông sống ly thân trong một thời gian dài. Sau đó, vợ ông đã đem con về sống nhờ cha mẹ ruột. Câu hỏi lớn luôn ở trong đầu của ông lúc này, là ông đúng hay vợ của ông đúng? Oâng không tự trả lời được. Khi hạnh phúc của gia đình ông đang ở bên bờ vực thẳm, người bạn học cũ của ông đã giải đáp dùm ông:
- Vậy thì ông cứ bỏ cái nghề dạy học đói khổ ấy đi! Theo tôi mà kiếm tiền. Oâng chẳng phải lo vì có tiền mà lỗi đạo thầy, trò chi cả!
Ở đó, ông đã có cái mà vợ của ông cần là tiền. Bạn của ông đã dành cho ông một vị trí béo bở trong công ty của ông ta là kếâ toán. Giám đốc được thì kế toán cũng được chấm mút, cậy nhờ. Cuộc liên minh ma quỷ ấy đã khiến cho ông nhiều lúc chẳng biết mình là ai nữa. Trước mắt của ông và bạn ông là những con số, là tiền triệu, tiền tỷ, là lợi nhuận, là ăn chia. Họ không muốn bàn bạc với nhau điều gì khác. Họ quy ước với nhau là đừng bao giờ đem đạo đức lên bàn cân. Tiền và đạo đức không cùng thước đo. Họ xác định, cái mà họ cần là tiền chứ không phải là đạo đức.
Không còn là mình nữa, khi ở đó, ông phải giả vờ như không nhìn thấy cô thư ký trẻ chỉ trang lứa với con gái của ông bước ra khỏi phòng giám đốc với vẻ lúng túng mà ngực áo của cô chưa kịp cài kín nút. Không còn là mình nữa, khi ở đó, người học trò cũ của ông, đang là khách hàng của công ty, đã bá vai ông, gọi ông bằng anh. Sau đó, khi trò chuyện với giám đốc công ty, cậu ta đã dùng cụm từ “ ông già kế toán” để ám chỉ ông, người thầy đã từng dạy cho cậu ta bài học vỡ lòng. Bạn ông, giám đốc công ty, đã an ủi ông bằng cái cười khẩy:
- Nó đã chẳng nhận ông là thầy thì ông còn xem nó là trò, làm chi, cho mệt xác?!
Oâng không thể tự an ủi mình bằng cách xử sự ấy; Bởi vì, ông đã chẳng quên được quá khứ của mình và vì bởi đó lại là quá khứ vàng son, đẹp đẽ trong đời ông. Oâng biết, cuộc tranh chấp được thua trên thương trường khiến cho người ta khó lòng kính trên, nhường dưới được. Và chính ông, sau đó, cùng với giám đốc của ông đã gài bẫy để hạ đòn, khiến cho tên học trò vô lễ ấy “ đo ván” trong một hợp đồng mua bán. Cậu ta đã chết vì thất bại, vì nông nổi, vì sự hãnh tiến hợm hĩnh của mình dưới tay hai lão “ cáo già” mà trong đó có ông là người thầy đã dạy cho cậu ta bài toán số học đầu tiên. Sau cú đánh bại cậu học trò ấy, ông không thấy hả dạ mà chỉ thấy buồn, buồn da diết. Còn việc gì nữa mà ông không làm trong các thủ đoạn kinh doanh, khi mà cái được thì ông đã được là tiền và cái mất thì ông đã mất hết, kể cả lòng tự trọng và lương tâm của một người thầy?
Sau đó, không còn gì nữa thật. Công ty của bạn ông đã giải thể. Giám đốc bị kỷ luật. Kế toán bị sa thải. May mà không ai bị tội hình sự hay dân sự. Tất cả bị cảnh cáo vì thiếu tinh thần trách nhiệm. Thoát nạn! An toàn trong vỡ lở! Oâng chán chường, mệt mỏi, mệt mỏi đến quá sức! Oâng trở về nhà, cứ rúc ở trong nhà, hết ngày này qua ngày khác, đến cả năm trời, dày vò vì không sao hiểu nổi những điều ông đã trải qua!
*
Sau hơn hai mươi năm, thầy Bá Tri trở lại cồn Te, thấy ở đây vẫn chẳng có gì khác trước. Vẫn xác xơ những mái tranh, vách lá. Vẫn chẳng hình thành lối dọc, đường ngang. Vẫn tù mù trong đêm những ngọn đèn dầu chai. Chỉ dân số là đông lên gấp năm lần so với trước. Người ta sinh đẻ thêm và thêm người lưu lạc từ nơi khác đến. Một trường tiểu học được thành lập với năm gian phòng dành cho năm cấp lớp. Hai trại đóng hòm đang hồi phát triển, là loại lớn nhất nhì so với các trại khác ở quanh vùng. Thầy Bá Tri gặp lại ông Ba Đời. Người đàn ông giang hồ đã lão rồi, vẫn là cố vấn cho trại đóng hòm, dạy nghề cho đám thợ trẻ. Ông lão ngủ luôn ở trại hòm theo yêu cầu của ông chủ.
- Oâng già Ba hay lắm! Đêm, ổng ( ông ấy) nghe được tiếng “ vong” đi lựa hòm. Sáng nào ông chủ hỏi “ Có nghe không?”, ổng gật đầu, là ngày hôm đó có người đến trại nhấc xuống.
Thầy Bá Tri nghe dân trên cồn nói, chỉ cười. Người già thiên sống về tâm linh. Oâng vẫn nhớ như in, ngày ông đến nhờ ông Ba Đời vận động mở lớp Bình dân học vụ. Nghe ông nhắc lại chuyện cũ, lão Ba Đời ngẩn người giây lát rồi lại vỗ đùi cười:
- Vậy là thầy giáo hồi đó đây, a! Tội nghiệp dữ chưa, sao bây giờ trở lại? Ở đây, đất lở gần đứt hết rồi, thầy ơi! Dời trường hai lần rồi. Trại hòm này cũng dời mấy lần rồi… Còn dời lần nữa… Chắc là dời khỏi đây thôi!
- Còn trường là còn dạy, ông ơi!
- Tốt! Tốt quá! Học trò ở đây nghèo lắm, thầy ơi! Tiền trường không đóng nổi, cũng xin! Tập sách, viết mực không có tiền mua, cũng xin. Cái ghế, cái bàn ngồi học bị hư , gãy cũng xin cây ván của trại hòm để sửa. Vậy mà thầy cô giáo không bỏ! Thiệt là … mang ơn hết sức!
Tiếng gọi “ thầy, cô ” của ông lão giang hồ nghe thật ngọt ngào, như xoáy vào tim thầy Bá Tri. Oâng biết, ông trở về dạy học ở cồn đất đang lở này là đúng, dù có muộn màng.
*
Đã nhiều đêm, như đêm này, thầy Bá Tri lặng lẽ ra khỏi nhà, không nói với vợ là đi đâu, để một mình tản bộ ra bờ sông, đứng giữa không gian thoáng đãng trước trời và nước, ngóng về phía bờ bên kia. Nơi ấy, cồn Te như xa lắc. Nơi ấy, có trường tiểu học nhỏ nhất, nghèo nhất so với các trường khác ở xứ Long Xuyên này. Sự thương cảm trong lòng của thầy Bá Tri, người hiệu trưởng già sắp đến tuổi về hưu, không chỉ dành cho đám học sinh nghèo khó của trường mình mà còn có cả cái tình ông dành cho cồn Te, một cồn đất có số phận hẩm hiu này nữa. Chuyện cồn bồi, đất lở , từ xưa đến nay, chẳng phải là sự lạ, nhưng nghĩ đến ba trăm năm hoang mạc của cồn Te chỉ để cưu mang những con người lưu lạc, tứ xứ giang hồ, cho đến những ngày này… ông cứ thấy chạnh lòng.
Dân lưu lạc, giang hồ ấy, có người, như chị lái đò, mỗi ngày đưa đón thầy Bá Tri qua sông mà không chịu lấy tiền đò, vẫn gọi thầy Bá Tri là “ thầy” và xưng “ con” . Chị cười lỏn lẻn , giải thích:
- Hồi con còn nhỏ, được thầy dạy trong lớp Bình dân. Con học tới chữ NG ghép thì nghỉ học luôn, cho tới bây giờ! Thầy không nhớ con, là phải rồi! Hồi đó, con mới mười hai tuổi!
Chị lái đò lại khoe. Giờ đây, ba đứa con của chị từng là học trò của trường tiểu học cồn Te. Chị hãnh diện về điều đó, về việc các con chị đi học, năm nào tụi nhỏ cũng được lên lớp. Bây giờ, chị lại có niềm hãnh diện khác:
-Thầy dạy chữ cho má hồi xưa, bây giờ, đang làm hiệu trưởng ở trường của các con!
Có lần, chị lại nói với thầy Bá Tri:
- Con ước mấy đứa nhỏ của con học giỏi, học lên cao hơn, để sau này được làm thầy cô giáo như thầy, cô!
Chị lại khoe với thầy Bá Tri:
- Chữ ký mà con ký trong tờ đơn xin giảm tiền trường cho thằng Tủng, vì nhà quá nghèo, là của con chớ con không nhờ ai ký giùm đâu, nghe thầy!
Thầy Bá Tri cười, nhận tờ đơn với chữ ký nguệch ngoạc, có lẽ được gò từ bàn tay ô dề, chai sạn của người phụ nữ lao động, vì từ hồi bé bàn tay ấy chỉ ròng giữ lấy mái chèo.
Vẫn loáng thoáng đi về trong ký ức thầy Bá Tri cái đêm khó quên trên cồn đất lở ấy. Đêm ấy, anh Chẳn, chồng chị lái đò, đón thầy Bá Tri qua sông, rồi chèo một mạch, nhắm chỗ có ngọn đèn bão treo lủng lẳng phía bờ cồn mà ghé. Đó là đèn chong của trại hòm, phía dưới là cầu, bến riêng của trại.
- Vợ con dặn con nói với thầy là “ thầy đừng đi mình ên qua gặp ông Tám Tẻn, nguy lắm!” Oång xúi tụi con nhận chìm đò để cho thầy, cô rớt xuống sông mà tởn mặt, sẽ hết bắt tụi con dời bến đò ra khỏi trước cổng trường. Tụi con, không ai nghe theo! Ai mà làm như vậy được? Tội lỗi với các thầy cô! Bây giờ, con đưa thầy qua trại hòm, cậy ông Ba đi với thầy tới gặp Tám Tẻn. Coi vậy mà y sợ ông Ba, một phép!
Đêm ấy, ông Ba Đời chống gậy tre, đi với thầy Bá Tri, đến nhà Tám Tẻn. Cũng như những căn chòi khác trên cồn Te, cái vạt tre của nhà Tám Tẻn run lên, kêu cót két, như không chịu nổi sức nặng của ba người đàn ông. Lũ nhỏ của nhà Tám Tẻn đang chen nhau trong chiếc mùng vá chùm, vá đụp. Chẳng có gì khác ở Tám Tẻn, người đàn ông “ đứng bến đò” này, với những người lao động khác, vẫn là gương mặt sạm đen vì nắng gió. Oâng Ba Đời vẫn thấp thoáng nét giang hồ, tứ chiến năm xưa, mặc dù râu tóc của ông đã phau phau bạc trắng. Oâng lão Ba Đời vỗ nhẹ xuống vạt tre, ngó thẳng mặt tám Tẻn, hỏi dằn:
- Con mày có đi học ở trường của thầy Tri không?
- Da,ï có!
- Thầy cô ở trường có phân biệt đối xử , có ghét bỏ con mày không?
- Da,ï không!
- Nhà trường yêu cầu mình dời bến đò đi, tránh cổng trường, là để sinh họat bến bãi không ảnh hưởng đến chuyện học hành của mấy đứa nhỏ. Thầy, cô dạy cho con cháu mình học lời hay, tiếng tốt, dạy cư xử lễ độ, ăn ở có phép tắc, biết kính trên nhường dưới, là để sau này ai nhờ? Tụi bây không biết phải quấy, lấy oán báo ơn, đòi nhận chìm đò của thầy cô, là nghĩa làm sao?
- Oâng Ba ơi! Tụi con tính dời bến đi chỗ khác mà sợ tréo đường, ế khách. Tụi con làm không ra tiền, biết lấy gì mà sống?
Thầy Bá Tri nhìn ánh mắt đau khổ của Tám Tẻn, cảm thấy lời đe dọa của anh ta trước đây như bay theo mây gió. Còn lại, trước mắt thầy Bá Tri, một người đàn ông khốn khổ, chật vật vì chén cơm manh áo của cuộc sống gia đình. Oâng lão Ba Đời hạ giọng:
- Bến dời thì khách dời theo. Mày liệu, dân trên cồn này được mấy mống mà tính giành, tính giựt? Mình phải biết nhường nhịn vì… con cháu của mình! Mai kia, cồn đất này lở đứt rồi, bến đò còn biết đặt ở đâu? Bây giờ, tụi bây làm vậy sẽ mang tiếng xấu cùng còn cháu?
- Dạ!
- Tao, dẫu đã già yếu, con mắt mờ mịt nhưng nghe thấu hết. Tụi bây làm khó thầy cô đằng trường là quấy quá, sao đáng mặt giang hồ? Tao, lời ít, ý nhiều. Tụi bây tính lại đi, có dời bến hay không, ngày mai tới trại hòm, nói cho tao biết!
Đêm ấy, thầy Bá Tri về nhà, đặt lưng xuống giường, ngủ một giấc đầy, tới sáng. Có lẽ, đêm ấy là đêm mà ông thấy lòng thanh thản nhất. Đêm như sâu hơn. Trời đất như rộng ra. Gió từ sông Hậu như thổi vào ông mát rượi, tronglành.
*
Đã nửa năm rồi, phía đầu cồn Te sụp lở dữ dội. Chính quyền địa phương báo động. Lệnh di dời dân được thực hiện triệt để, dời khỏi cồn chứ không dời lui xuống đuôi cồn, trước hết là trường học, sau đó là nhà dân. Cụm dân cư đã được chính quyền địa phương sắp xếp nơi khác để chuyển dân cồn Te dời đến. Trường tiểu học cồn Te phải chuyển học sinh đến trường khác học theo di dời của gia đình. Thầy cô giáo trở về phòng giáo dục nhận quyết định bổ nhiệm về trường khác dạy.
Trong không khí ấy, trường tiểu học cồn Te như đàn ong vỡ tổ. Tản lạc! Tản lạc hết cả, cả thầy và trò! Thầy Bá Tri vẫn ngày hai buổi sang đò, đến trường giải quyết thủ tục để thầy trò trường tiểu học cồn Te chuyển trường, chuyển lớp. Khi xong hết việc, thấy Bá Tri mới thấy buồn, nỗi buồn thấm đẫm cả tim óc, thịt da. Oâng, người hiệu trưởng già, là người cuối cùng rời khỏi trường tiểu học ở cồn đất đang lở này, giống như thuyềân trưởng của con tàu bị đắm vậy. Mười năm cuối trong đời giáo viên của mình, ông đã gắn bó với trường tiểu học cồn Te. Giờ đây, thầy Bá Tri không còn muốn chuyển đến trường nào khác nữa.
Nhiều ngày sau đó, thầy Bá Tri lại lẩn thẩn sang đò qua cồn Te, tìm về trường cũ. Ngôi trường đã bị phá dở tan hoang, chỉ còn nền đất và xác lá. Trên cồn, giờ chỉ thưa thớt vài nhà dân cố bám lại với hy vọng “ đầu lở, đuôi bồi”. À ! Biết đâu! Thầy Bá Tri cũng hy vọng như vậy! Thầy Bá Tri lại gặp ông lão Ba Đời:
- Sao ông Ba không dời đi? Ở đây, nguy hiểm lắm!
- Dà! Đi chớ, ông thầy! Nhưng mà tui không đành lòng! Nán nán lại, ít lâu… rồi sẽ đi…!
Người mà thầy Bá Tri không ngờ gặp lại trên cồn đất lở đang tiêu điều, tan tác này là cô Bé Hai. Cô Bé Hai là giáo viên dạy giỏi của trường, người từng được sinh ra và lớn lên trên cồn đất này, từng là học sinh của trường tiểu học cồn Te và sau này đi học trường sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, cô Bé Hai xin trở về dạy học ở trường tiểu học cồn Te này.
- Gia đình của cô đã dời khỏi đây hết chưa?
- Dạ! Nhà con đã dời hết rồi, thầy!
- Cô đã nhận nhiệm vụ ở trường mới chưa?
- Dạ! Con đã nhận rồi, thầy!
- Ở trường mới dễ chịu không?
- Dạ! Con thấy cũng…dễ, thầy!
- Sao cô lại trở về đây, làm gì?
- Dạ! Con về thăm trường, thăm cồn…
Cô giáo trẻ run giọng, mắt ngân ngấn nước
- Sao cô khóc? Cô…
Thầy Bá Tri kịp ngừng lời. Oâng không hiểu sao mình lại hỏi cô Bé Hai như vậy. Cô Bé Hai không thể trả lời. Chính ông cũng không thể tự trả lời.
*
Đêm này, thầy Bá Tri lại ra bờ sông, ngóng qua cồn Te, gọi đò và đứng đợi. Oâng không biết mình muốn qua sông để làm gì. Oâng làm theo tiếng gọi của tâm tưởng. Nỗi nhớ cứ cồn cào, cựa quậy trong ông. Oâng hiệu trưởng già đã về hưu nhớ hoài ngôi trường tiểu học nhỏ nhất, nghèo nhất và đám học trò lam lũ của mình.
SÔNG HẬU XUÔI VỀ
Dạo ấy, đã gần ba tháng, từ ngày tía má tôi gã chị Hai Hường về miệt biên giới, cứ mỗi lần nghe tiếng còi “ tu… tu” của con đò bến chợ ngang qua khúc sông trước cửa nhà là má tôi và tôi lại ngóng ra bến nước.Má tôi trông tin chị Hai Hường hoặc là bà trông cả người nữa. Bà muốn biết chị tôi có yên ấm ở nhà chồng hay không, có mạnh khoẻ hay không và bà mong chị, nếu có thể, thu xếp về thăm nhà một vài ngày. Đó là nỗi lòng của người mẹ với sự an phận khi con gái phải theo chồng. Còn tôi mong nhớ chị Hai Hường bằng nỗi buồn da diết của đứa em bé bỏng, mà trong chừng ấy năm của chừng ấy tuổi đầu, tôi và chị đã cận kề, quấn quít với nhau như hình với bóng. Tôi chẳng muốn lý giải tình cảm gắn bó giữa hai chị em, mặc dù, cho đến bây giờ, láng giềng vẫn bảo tôi và chị không là ruột thịt. Người ta bảo, bởi vì tía má tôi chỉ có mỗi mình chị Hai tôi nên tía má tôi mới xin thêm con nuôi, phòng khi sau này phải gã con gái đi xa. Người ta còn nói rõ là, lúc ấy, vì ngoại tôi bệnh kéo dài nên má tôi cho chị Hai Hường về quê để chăm sóc ngoại. Hơn nửa năm, ngoại tôi lành bệnh. Má tôi về thăm mẹ sẵn đón con gái về nhà. Trên đường về, thấy có người đem cho đứa trẻ mới sinh, má tôi biếu người ấy ít tiền rồi bồng tôi về nuôi dưỡng. Người ta bảo là nói lại theo lời kể của má tôi. Tôi đem chuyện đó hỏi má và chị Hai. Má tôi chỉ “ ừ” cho qua chuyện. Chị Hường có lẽ sợ tôi tủi thân, dỗ dành:
- Người ta nói gì cũng mặc kệ! Cưng không phải là con nuôi của nhà này đâu!
- Không phải con nuôi, là gì?
- Là con ruột, ruột thiệt là ruột!
Dù sao, tôi vẫn thích tin lời của chị Hai hơn bởi vì tôi không muốn mình là con nuôi của tía má và cũng không muốn mình là em nuôi của chị Hai Hường.
Dạo tía má tôi gả chị Hai Hường, tôi đã xấp xỉ mười hai tuổi. Ở vào tuổi ấy, tôi chưa hiểu hết mọi điều, mọi lẽ nhưng đã có thể cảm nhận qua từng sự việc. Hôm chuẩn bị đám cưới, chị Hai Hường khóc suốt, còn má tôi thì buồn hiu. Tôi lẩn quẩn bên má và chị mà chẳng chia sẻ được gì. Có lẽ, vì còn bé quá nên tôi chưa đủ sức để cảm thông với nỗi niềm lớn lao của má và của chị Hai tôi. Đêm nhóm họ để rạng sáng ngày sau đưa dâu, chị Hai ôm tôi vào lòng rồi thút thít khóc. Tôi đã muốn khóc theo chị dù không hiểu vì sao chị lại buồn đến vậy. Má tôi bước vào buồng. Thấy tình cảm của hai chị em tôi như vậy, bà đứng sững, giây lát, rồi hạ giọng nói với chị Hai Hường:
- Nó còn nhỏ lắm, chưa hiểu được đâu. Con đừng nói gì với nó! Sáng mai, con cứ về bển. Có gì, con nhắn tàu đò về cho má biết tin…
Chị Hường lau nước mắt, cúi xuống hôn lên tóc tôi rồi bảo tôi chạy đi chơi để chị còn sắp xếp tư trang, vật dụng mang theo. Tôi rời nhà chị, ra khỏi buồng, nơi hai chị em vẫn ngủ chung suốt từ lúc tôi còn ẳm ngửa, mà lòng đầy hoang mang, thắc mắc. Tôi linh cảm chị tôi sẽ gặp điều bất trắc trong cuộc cưới xin này hoặc là má và chị tôi không hài lòng về đám cưới. Nhưng vì lẽ gì mà chị Hai tôi lại lặng thinh làm theo ý của tía tôi, ưng lấy người chồng mà hình như chị không muốn lấy?
Tôi biết, chị Hai tôi đâu quá dễ dãi để chọn lấy một tấm chồng. Trước đây, chị tôi đã từng lắc đầu từ chối nhiều đám nhờ mai dong đến xin cưới hỏi. Như vậy, dần dà, chị tôi đã tròm trèm ở tuổi ba mươi. Có lẽ, như những đứa em quá yêu qúy chị mình, tôi thấy chị Hai tôi là ngon lành nhất. Sự ngon lành ấy, phải kể đến ba điều, đáng để chị tôi treo giá ngọc. Đó là… Thứ nhất, chị tôi tuy không đẹp lắm nhưng rất có duyên. Thứ hai, chị tôi là người phụ nữ có tài nấu nhiều món ăn, mà món nào cũng hợp khẩu vị của tía má và tôi; Chị lại biết làm nhiều thứ bánh. Thứ ba, chị tôi có tài đặc biệt mà không phải anh thanh niên nào cũng sánh được, là tài đánh võ, đi quyền; Khoản này, chị Hai tôi được sự truyền dạy chu đáo của tía tôi. Cần phải nói thêm, tía tôi là người giỏi võ, tiếng tăm lan khắp một vùng. Ai nghe đến tên thầy Tám Mạnh cũng đều kính nhường, quý trọng. Tía tôi không mở lò luyện võ tại nhà. Những khi trà dư, tửu hậu, vui bạn, đẹp lòng, ông mới dạy cho ai đó vài đường quyền, vài thế võ. Oâng không đánh giá quá cao sở trường võ nghệ của mình. Theo ông, người ta sống được với nhau không phải hơn thua bằng võ lực; Chỉ lẽ phải ở đời mới thu phục được nhân tâm. Oâng truyền dạy võ thuật lại cho chị Hai tôi cũng như nội tôi truyền dạy lại cho ông; Aáy là giữ cái nếp cha truyền, con nối. Chị Hai Hường tập võ, đi quyền từ lúc còn tấm bé. Khi ấy, tôi chưa có mặt trong cuộc đời này. Má tôi kể: Thửơ chị Hường mười sáu, mười bảy tuổi, có ba anh thanh niên ở làng bên rủ nhau đến, muốn thử tài của chị. Mấy người ấy rót rượu mời tía tôi, xin phép. Tía tôi gọi chị Hường ra, hỏi chị có nhận lời thi đấu với họ hay không. Chị gật đầu, mời họ ra sân. Có cả tía má tôi cùng ngồi xem. Chị Hai tôi lần lượt hạ từng người một. Aáy là tôi nghe chuyện do má tôi kể lại. Còn bây giờ, chị Hai Hường thay tía tôi truyền dạy võ nghệ cho tôi. Ngày học chữ, đêm tập luyện võ, tôi đã hết sức cố gắng mà thấy mình còn phải học tập lâu lắm mới thành thuộc như chị Hai tôi được.
Vậy đó! Người nhiều tài như chị Hai tôi thì người chồng phải thế nào mới xứng? Tôi thấy chị tôi lắc đầu trước bao đám mối mai, cứ nghĩ chị tôi chê họ kém tài, thua sức. Vậy mà… Mọi sự lại bắt đầu từ chỗ tía tôi.
Tía tôi vốn là người thích giao thiệp, hay kết thân bằng. Oâng không phân biệt sang hèn, giàu nghèo, không kén lựa tuổi tác lớn nhỏ chi cả. Oâng lấy chuyện nhân nghĩa làm trọng, lấy đức độ mà cư xử với nhau. Những khi rảnh việc, ông thường giong ruổi đi chơi, giao du cùng bè bạn. Có khi, ông đi vài ngày. Cũng có lúc, thuận đường vui bạn, ông lang thang hàng chục ngày, nửa tháng. Lần ấy, ông đi ngược sông Hậu, lên miệt biên giới chơi, có gần nửa tháng. Thấy tía tôi bình yên trở về, cả nhà đều mừng. Tía tôi vui vẻ hơn. Bữa cơm ở nhà sau chuyến đi xa, tía tôi xởi lởi báo tin là đã lựa được chỗ để gả chị Hai tôi. Má và chị Hai tôi chống đủa vào chén, nhìn tía tôi. Hai người chưa kịp nói gì, tía tôi đã cười khà khà:
- Rằm này, họ tới!
Mọi khi, tía tôi vẫn để vợ con bàn bạc, trao đổi việc nhà nhưng khi ông đã quyết định như vậy thì sẽ khôngcó ai trong gia đình dám trái ý ông. Má tôi hỏi:
- Đám đó ra sao?
- Thẳng( thằng ấy )… được lắm!
Tôi nghe tiếng “ được lắm” của tía tôi đầy vẻ hài lòng và tin cậy. Rồi tía tôi nhìn nét mặt đầy vẻ băn khoăn của má tôi, nói với giọng thông cảm.
- Tội nghiệp thẳng( thằng ấy)! Vợ của nó chết đã ba bốn năm mà hai đứa con hãy còn nheo nhóc lắm!
Má tôi kêu lên:
- Trời đất!
Bà ngó sững tía tôi. Sau cái phút bất ngờ ấy, má tôi xịu xuống, không hỏi han, nói năng chi nữa. Chị Hai tôi không nói tiếng nào, cúi mặt, và riết chén cơm rồi buông đũa, đi xuống bếp.
Từ ấy đến rằm, tôi thấy má tôi và chị Hai tôi kém vui. Thỉnh thoảng, hai người lại thì thầm với nhau. Kém vui là sự bất thường của má và chị Hai tôi mà nguyên nhân có lẽ do sự hứa cưới gã đầy trớ trêu của tía tôi. Còn thủ thỉ với nhau vẫn là cách trao đổi quen thuộc của hai người phụ nữ trong nhà này. Tôi chắc rằng, má và chị Hai tôi đang tìm cách chống lại quyết định của tía tôi. Tôi cũng hy vọng việc cưới gã này chỉ là chuyện tía tôi vui miệng mà thôi.
Ngày rằm cũng đến. Sáng hôm ấy, tàu đò xuôi dòng sông Hậu về ngang bến nước trước cửa nhà tôi thì bấm còi, tắt máy. Oâng chủ tàu đò gọi với lên bờ:
- Anh Tám ơi! Có khách!
Tía tôi “ ờ ” thật lớn để dưới bến sông nghe tiếng ông trả lời; Rồi ông đi ra, vừa cười nói
- Vậy mà chắc lời dữ, a!
Tôi và má tôi cũng vội ra sân, ngóng xuống bến sông, coi khách nào đang tới. Tôi thấy tàu đò tắp vào bến. Trên tàu bước xuống cầu chỉ vỏn vẹn có ba người đàn ông. Họ xách trong tay cặp rượu và cặp vịt trống tơ. Tía tôi đón khách vào nhà. Má tôi chào khách rồi nhận cặp vịt đem xuống bếp lo làm đồ nhậu. Má tôi bảo chị Hai tôi châm trà mang lên mời khách. Tôi chạy vào buồng, vén màn, lén ngó ra nhà trước, thấy tía tôi ngồi với khách nói chuyện vui vầy. Khách gồm hai người già, một người hơi trẻ. Tôi đoán chừng hai người lớn tuổi kia là họ nhà trai hoặc ông mai, ông mối; Còn người đàn ông hơi trẻ, đầy vẻ phong trần, có lẽ là anh rể tương lai của tôi. Tía tôi vui lắm! Oâng và mấy người khách nói đủ thứ chuyện, chuyện đất đai, mùa màng, thời tiết, cả chuyện giá lúa, giá cá, giá thịt nữa. Rồi tía tôi hỏi chuyện người đàn ông trẻ:
-Thằng Vẹn! Bây tính chừng nào?
Anh ta nhìn xuống, như suy tính, rồi ngước lên, nói với tía tôi:
- Con tính, phải trước mùa nước nổi, chú Tám à! Bởi vì… sau đó, con phải lo chuyện cá, mắm nữa!
Bấy giờ, tôi không hiểu anh Vẹn phải lo chuyện cá, mắm trong mùa nước nổi là chuyện gì. Sau khi khách đã ra về, tía tôi mới giải thích để mấy mẹ con tôi biết là anh Vẹn sinh sống bằng nghề đánh bắt cá trên sông, nghề hạ bạc. Mỗi năm, cứ vào mùa nước lụt, nước từ sông Mê Kông đổ về đồng bằng sông Cửu Long theo hai ngả sông Tiền, sông Hậu thì cá trên nguồn cũng đổ về theo. Ngoài ra, còn nguồn cá từ sông, hồ, mương, rạch theo nước lụt tràn bờ bơi lội khắp nơi, kiếm ăn và sinh sản. Người sống bằng nghề giăng câu, đánh lưới thu được nhiều cá, suốt ba bốn tháng nước nổi lêu bêu ấy. Người ta đánh bắt được đủ loại cá; Được ít thì để ăn hoặc đem ra chợ bán; Được nhiều thì làm mắm hoặc phơi khô cũng để dành bán, để dành ăn. Nếu ai thơm thảo với thân bằng, quyến thuộc, sau khi bán, để dành lại một ít khô, mắm làm quà cáp, biếu xén. Má tôi nghe chuyện, chắc lưỡi:
- Cực khổ! Con Hường ưng nó rồi sẽ cực khổ theo…
Tía tôi cười nhẹ:
- Biết sao mà sướng, mà khổ, bà? Mình cậy nó là người sống có nghĩa, có tình, biết quý vợ, thương con, trọng cha, kính mẹ… là được! Tôi chắc là con Hường về với nó sẽ không đến nỗi khổ thân đâu!
Má tôi chau mày nhưng không cãi với tía tôi. Bà thường nhường nhịn cha tôi cho gia đình êm ấm. Bà vẫn dạy bảo chị Hường và tôi, rằng tía tôi luôn là điểm tựa về mọi mặt trong cuộc sống của mấy mẹ con. Không phụ lòng tin cậy của má tôi, tía tôi cũng từng chứng tỏ ông xứng đáng hơn trong những khi quyết định việc nhà. Và như thế, tôi biết sẽ không có gì thay đổi quyết định của tía tôi về cuộc hôn nhân của chị Hai tôi.
*
Đến tháng thứ tư, sau ngày đám cưới của chị Hai Hường, ông chủ tàu đò chuyển đến nhà tôi mảnh thư của anh Vẹn báo tin chị Hai tôi bị bệnh. Má tôi nóng lòng, bảo tôi ở nhà với tía, rồi theo tàu đò đi chuyến sớm hôm sau, ngược dòng sông Hậu lên Long Bình thăm con gái. Má tôi đi rồi, trở về với vẻ mặt buồn so. Tía tôi hỏi. Má tôi dần dừ mãi, mới nói:
- Nó ốm nghén, lại nhớ thằng Thắm nữa!
Thắm là tên tôi. Tôi vừa lo cho sức khỏe của chị Hai tôi vừa vui vì biết chị Hai cũng thương nhớ tôi như tôi đã mong nhớ chị. Tôi đòi tía má cho tôi được đi thăm chị Hai. Má tôi “ ừ”. Đêm ấy, tôi cứ nằm, không ngủ được, háo hức với chuyến đi sắp đến. Tôi nghĩ đến đường xa, cảnh lạ. Tôi nghĩ đến niềm vui gặp lại chị tôi… Đang lơ mơ nghĩ, tôi bỗng nghe tiếng tía tôi gắt gỏng:
- Tại sao bà giấu tôi?
Tôi nghe tiếng má tôi lào thào. Lâu lắm. Tôi lại nghe tiếng tía tôi:
- Thằng Vẹn biết chưa?
Tiếng má tôi lại lào thào. Tiếng tía tôi, nghe buồn hơn:
- Thằng Thắm biết không?
Tôi nghe tiếng má tôi sụt sịt khóc. Tôi cố căng tai để lắng nghe câu chuyện, hình như có liên quan đến mình, nhưng tôi không nghe tiếng của tía má tôi nữa. Có lẽ, tía má tôi đang mãi nghĩ ngợi và buồn phiền. Tôi cảm thấy có điều gì bất an cho chị Hai tôi, cái cảm giác mà tôi đã có lúc thấy má và chị Hai tôi ngồi khóc trong đêm nhóm họ hồi đám cưới. Điều gì đó có liên quan đến chị Hai tôi, đến tôi và bây giờ lại liên quan đến anh Vẹn nữa. Điều gì đó mà má và chị Hai đã giấu tía tôi, lại không muốn cho tôi được biết. Điều gì đó mà má và chị Hai tôi đã định biến nó thành chuyện riêng tư của chỉ hai người. Nhưng bây giờ thì không được nữa rồi. Hình như anh Vẹn đã biết. Tía tôi cũng vừa mới biết. Còn tôi đang đầy thắc mắc, băn khoăn. Điều gì đó mà tôi chắc rằng sẽ chẳng bao giờ tôi được biết rõ ngọn ngành, gốc rễ. Tôi thật không thể nào biết được những bí ẩn riêng tư của má và chị Hai tôi.
*
Lần ấy, chị kể với tôi là có một ghe bầu, cũng giống như chiếc ghe bầu đang đậu dưới bến sông trước cổng đình, đã mang anh ấy đi.
- Aûnh là người gốc gác làm ruộng ở miệt vườn của mình. Aûnh đóng vai Lục Vân Tiên đánh cướp, cứu Nguyệt Nga, hay lắm! Coi bộ, ảnh là người cũng có võ nghệ, nghe cưng!
Rồi giọng chị than thở:
- Aûnh về hát có một lần, hồi năm đó! Người hào hiệp chỉ có trong tuồng hát chớ ở ngoài đời làm sao có được!
Tôi cãi:
- Sao không? Nếu như có ai bị nạn, em sẽ cứu…
- Cưng thích hào hiệp như Lục Vân Tiên, hả?
- Ừ! Còn chị? Chị thích làm gì?
- Chị không thích làm gì hết! Chị như cô Nguyệt Nga gặp nạn mà không có Lục Vân Tiên ở ngoài đời để cứu nguy!
- Thì em sẽ cứu chị! Em sẽ đánh cướp…
Tôi chợt nhớ ra:
- Chị giỏi võ hơn em mà! Chị sợ gì cướp?
Chị Hai Hường lắc đầu cười buồn:
- Chị không sợ cướp. Chị sợ thói đời bội bạc, lừa lọc thôi! Mà thôi… Bỏ chuyện đó đi!
Vậy rồi, hôm chuẩn bị đám cưới của mình, chị Hai Hường vừa ngồi làm bánh vừa dặn dò tôi:
- Chừng nào có gánh hát về cúng đình, cưng nhớ hỏi thăm ghe bầu, coi ảnh có về không, nghen!
- Hỏi sao mà biết?
- Hỏi người tên đó, quê ở Vĩnh Trạch…
Má tôi đang ngồi gần đấy, nghe thấy câu chuyện của chị em tôi, gắt:
- Đến nông nỗi như vậy mà mầy còn thương tưởng, trông đợi nó, hả Hường?!
Chị Hai tôi chù ụ:
- Con lấy chồng, đã đành! Còn thằng Thắm…
Má tôi quát:
- Thôi đi! Tao biểu mày câm đi! Nghe chưa?
Chị Hai tôi gục mặt xuống, lặng thinh. Tôi thì lấm lét, vì chưa bao giờ tôi thấy má tôi giận dữ với chị em tôi như vậy cả.
*
Sau khi tôi và má tôi thăm chị Hai Hường về, tôi thấy tía tôi có vẻ buồn bực lắm. Oâng quạu quọ, cự nự, quát tháo má tôi và tôi trong nhiều ngày liền. Tôi chẳng hiểu vì sao và chẳng thấy có lý do gì khiến tía tôi phải bực dọc đến vậy. Má tôi vốn có tánh nhường nhịn chồng; Giờ đây, bà đầy vẻ nhẫn nhục hơn.
Tía tôi ngã bệnh sau gần cả tháng buồn phiền. Tôi linh cảm, gia đình tôi đang diễn ra chuyện gì đó nghiêm trọng lắm! Được tin tía tôi bệnh, chị Hai tôi và anh Vẹn cùng về thăm. Chị tôi hốc hác vì vừa qua cơn đau ốm. Chị bước vào nhà, gặp mặt tía tôi, đã òa khóc. Tía tôi ngồi trên bộ ván, ở nhà trước, thấy con gái về, ngoảnh mặt, lặng thinh. Anh Vẹn vào, theo sau chị Hai tôi, chào hỏi tía tôi. Tía tôi chỉ “ ờ”, lấy lệ. Thấy bộ tía tôi đang giận, anh Vẹn và chị hai tôi đi luôn ra nhà sau, chào hỏi má tôi. Tôi sà đến bên chị Hai tôi. Chị ôm tôi rồi lại khóc. Tôi không hiểu gì cả. Tôi muốn hỏi chị Hai tôi điều gì đó, mà cũng không biết hỏi gì.
Cuộc sum họp của gia đình tôi, từ sau khi chị Hai tôi lấy chồng, đã bắt đầu bằng không khí nặng nề như vậy. Nhưng sau đó, mọi việc dường như ổn thỏa hơn. Tôi thấy má tôi và chị Hai tôi vừa nấu ăn vừa thủ thỉ với nhau ở nhà bếp; Còn anh Vẹn và tía tôi ngồi nói chuyện ở nhà trên. Tôi núp sau vách buồng, lén nghe câu chuyện giữa tía tôi và anh Vẹn. Tía tôi ngồi, lâu lắm, mới nói:
- Vẹn à! Tía… có lỗi với con!
Anh Vẹn nhăn mặt, lắc đầu:
- Tía đừng nói vậy mà con đắc tội! Tía má đã thương con, không chê con nghèo khổ lại gãy gánh giữa đường, đã gầy dựng cho con và em Hai. Con mang ơn tía má! Còn chuyện kia, con đâu chấp nê gì! Chẳng qua là tại vì… phần số em Hai khổ! Bữa nay, vợ chồng con, trước là về thăm tía má, sau nữa là định nói với tía má về chuyện thằng Thắm… Con tính đưa nó về sống với vợ chồng con mà vợ con không chịu. Vợ con muốn để thằng Thắm ở lại với tía má, để nó đỡ đần tía má lúc tuổi già…
Tôi nghe tiếng nói của tía tôi và anh Vẹn rõ mồn một nhưng không hiểu gì cả. Sao tía tôi phải xin lỗi anh Vẹn? Phần số của chị Hai tôi thế nào mà khổ? Chuyện kia là chuyện gì mà anh Vẹn chẳng chấp nê? Ý chừng, anh Vẹn và chị Hai tôi lại muốn dắt tôi theo! Tình cảm trong tôi bộc phát, chống đối lại ý định của anh Vẹn. Dù tôi rất mong nhớ chị Hai tôi nhưng tôi không muốn theo chị mà bỏ tía má tôi ở lại . Tôi bước ra, chạy đến ôm chân tía tôi:
- Em không theo anh chị Hai đâu! Em ở với tía má, hà!
Anh Vẹn chồm tới, xoa đầu tôi, cười:
- Cưng ở với tía má, phải giỏi, nghen!
Tôi “ dạ”, sung sướng, ngước nhìn lên mặt tía tôi. Tôi thấy, hình như tía tôi muốn cười mà không cười nổi.
*
Cho đến bây giờ, chị Hai tôi vẫn sống đầm ấm cùng anh Vẹn. Mỗi năm, vợ chồng chị Hai tôi về thăm tía má và tôi hai lần, một lần vào dịp tết và lần sau vào mùa nước nổi. Vợ chồng chị về, mang cả cháu bé cùng về thăm ngoại. Thằng bé bụ bẫm, rất dễ thương. Chị Hai tôi nựng con, vui miệng nói với má tôi:
- Nó giống thằng Thắm hồi nhỏ quá, hả má?
Má tôi không ừ, cũng không lắc đầu. Bà chỉ thở hắt ra. Chị Hai lại ôm vai tôi, hôn lên tóc tôi, hỏi:
- Tía dạy võ cho cưng tới đâu rồi?
Tôi khôngtrả lời, bước lui ra, bỏ bộ đi cho chị xem mấy thế võ mới tập. Chị xem, ngẫm nghĩ giây lâu, rồi nói:
- Là ruột thịt, tía mới dạy cho cưng ngón đòn hiểm đó; Cưng đừng dạy lại cho người ngoài, lỡ người ta biết được, phản đòn , là mình chết đó!
ĐI MỘT NGÀY ĐƯỜNG
Ai cũng muốn trải qua kiếp người trong cõi đời một cách yên ổn; được sung sướng, hạnh phúc là điều quý hoá; những bất trắc, gian nan, đau khổ là do số phận đưa đẩy vượt ngoài ý muốn và sự kiểm soát của mình. Vậy mà, sau mấy mươi năm yên sống cùng vợ con trên mảnh đất và làng quê thân thuộc, bác Hai của tôi bỗng nứt niềng, giang hồ cất bước.
Sau khi cớ sự xảy ra, bác dâu của tôi đoán chắc là bác Hai đi cùng với mấy tay lái buôn thường về làng mua lúa gạo. Bà quyết đoán như vậy bởi vì bà vẫn thường thấy mấy y hay to nhỏ với ông già; có lẽ mấy y rủ rê ông già làm chuyện chi đó. Linh tính của đàn bà khiến bà lo ngại. Thật đúng vậy! Có lần, bác Hai tôi bỗng than:
- Buồn quá!
- Có chuyện gì mà ông buồn?
- Mình làm ruộng rẫy, quanh năm, suốt thán, mặt nám, tay chai, da đen, tóc cháy; gần hết đời người rồi mà chẳng thấy thảnh thơi. Biết làm sao mà đổi đời được?!
- Đổi sao?
Aäm ừ mãi, bác Hai tôi mới nói:
- Được như thằng Năm hàng xáo cũng sướng!
Bác dâu tôi vừa kể, vừa khóc:
- Ai coi! Oång ( ông ấy) mà đem bì với Năm hàng xáo!
Rồi bà liệt kê bao nhiêu thói hư tật xấu của người lái buôn ấy mà bà cho là trông thấy “ nhãn tiền”. Năm hàng xáo tên thật là Năm Mèo. Y có bộ vó bảnh bao, lại quen thói ăn to, xài lớn. Dưới mắt bác dâu tôi, y là người ranh ma, gian xảo, thường mua cân già, bán cân non, lấy đầu này, đắp đầu kia, so hơn tính thiệt từng xu, từng cắc. Bác dâu tôi kết luận “ Người như vậy mà rộng rãi nỗi gì!”; đó là bác dâu tôi chưa tính đến thói phóng đãng, trăng hoa của y; mặc dù y đã có vợ đôi , vợ ba mà hễ gặp đàn bà, con gái là y cứ cà rà, hí hửng. Như những người đàn bà an phận, bác dâu tôi hài lòng với người chồng thật thà chất phác của mình. Bà thường nói với mọi người:
- Tui thấy ông Hai lo cần mẫn làm ăn mà tui thương!
Bởi vậy, khi nghe bác Hai tôi ao ước được như Năm mèo, bà đã gạt đi:
- Oâng lột lớp, thay hình , đổi dạng, học đòi theo Năm Mèo thì cứ đi mà đổi đời. Tui không biết tới!
Bác dâu tôi vẫn khóc:
- Mình giận lẫy, mới nói với ổng như vậy! Không dè… ổng đi thiệt!
Cứ để bác dâu tôi khóc cho thỏa lòng. Trước sự tình ấy, ai còn biết làm gì hơn? Câu chuyện chẳng mấy chốc lan ra khắp đầu làng, cuối xóm. Ai cũng biết, ngủ một đêm, sáng dậy, vợ con của bác Hai tôi không thấy ông ở đâu cả! Cả nhà hô hoán lên, đi tìm. Bác dâu tôi đâm nghi, hỏi anh Thắng, con trai lớn của hai bác:
- Hôm qua, ba mày có đong lúa bán cho chú Năm không?
- Dạ, có! Lúc đó, má qua thăm ngoại. Con tưởng là ba có bàn với má rồi!
- Trời đất ơi!
Bác dâu tôi chạy ù ra bờ sông, ngó xuống bến, chỗ chú Năm Mèo vẫn thường đậu ghe. Bến sông vắng ngắt, không một bóng người. Chiếc ghe chài chở lúa của chú Năm Mèo đã nhổ neo từ hồi nảo, hồi nào rồi. Bây giờ, chắc họ đã đi xa lơ, xa lắc. Bác dâu tôi than thở với đàn con của mình:
- Ba của tụi bây đong lúa, bán lấy tiền, đi theo … thằng Mèo rồi!
Mấy người bà con, hàng xóm nghe chuyện, thấy buồn cười, cũng lựa lời an ủi bác dâu tôi:
- Anh Hai theo thằng Mèo, chớ có phải theo con mèo nào đâu mà chị Hai khóc! Vài ngày, ảnh( anh ấy) lại về!
- Theo thằng rồi sẽ theo con, mấy hồi! Trời ơi là trời! Ai coi! Già rồi mà ổng ( ông ấy) còn sanh tật, sanh tâm!
*
- Đàn bà hay làm lớn chuyện! Ai mà làm gì đến nỗi tác tệ đâu!
Bác Hai tôi khẳng định như vậy, sau chuyến đi “ bụi” về. Bác Hai tôi đi vắng hai ngày, một đêm. Khi trở về, ông vẫn còn nguyên hai bộ đồ gói mang theo; chỉ thêm chiếc nón nỉ đen mà bác cầm tay chớ không đội bảo là mua cho anh Thắng; và thêm đôi dép nhựa đỏ dành cho con gái út. Bác dâu chất vấn:
- Oâng đi đâu?
- Đi chơi… cho biết Sài Gòn!
- Sao ông không nói với tui?
- Nói với bà đặng… dễ đi được lắm!
Bác dâu tôi thở hắt ra, như trút bao nỗi buồn lo đè nặng trong lòng bà suốt hai ngày chồng mất tăm, mất tích. Bà không nói gì nữa, bỏ đi, lo việc nhà. Có lẽ, đối với bà, việc bác Hai mau chóng trở về là đã quá đủ; hoặc là việc rầy rà chồng, bà để dành thủ thỉ lúc về đêm.
Chúng tôi, anh Thắng và tôi, là những người tò mò về chuyến đi của bác Hai tôi hơn ai hết. Chúng tôi rất muốn biết điều gì đã xảy ra trong thời gian bác Hai tôi giong ruổi và cái gì đã khiến bác Hai tôi cất bước giang hồ. Chỉ những khi vắng mặt bác dâu tôi, bác Hai mới từng lúc hé mở với chúng tôi. Quả tình là sự việc không nghiêm trọng như bác dâu tôi đã nghĩ. Chuyện đổi đời chỉ là ý tưởng mà bác Hai tôi đã diễn đạt không chính xác, khiến bác dâu tôi hiểu lầm mà thôi! Mọi sự, bắt đầu từ một buổi chiều…
Đó là một buổi chiều rảnh rỗi hiếm có trong đời của bác Hai tôi. Là một lực điền, ngoài thời điểm gieo trồng, gặt hái, những công việc không tên của ruộng vườn, nhà cửa, gia đình thường chiếm hết thời gian còn lại của bác Hai tôi. Lúc lễ, tết , giỗ đám lại là lúc bác Hai tôi sa vào trà rượu với chén chú, chén anh cùng thân bằng, quyến thuộc, bà con, hàng xóm. Vậy mà, có một buổi chiều, bác Hai tôi không biết làm gì. Bác ngồi ngó mông ra dòng sông chảy trước cửa nhà, thấy đám lục bình trôi líu ríu, trôi miết về xa. Bác bỗng nghĩ về đời sống của đám lục bình; Dẫu chúng là thân bèo dạt cũng đã trôi hết xứ này sang xứ khác, theo sông mà biết nơi gần, chốn xa. Bác lại ngẫm về mình, một đời người chôn chân, mọc rễ trên mảnh đất này. Bác có đi, cũng chưa quá chợ huyện, chợ xã. Bác có vui chơi, cũng chưa đến nơi nào ra khỏi lũy tre làng. Đối với bác, con đường ra ruộng, về vườn, cả xóm làng, cả mái nhà, cả vợ con… đều quá quen thuộc, quá gần gủi đến mức bác cảm thấy như không nhìn,không nghĩ, không sờ mó, đụng đến cũng biết được. Ứơc muốn được biết về những điều mới lạ, những thứ ngoài mình bỗng chốc xâm chiếm bác Hai tôi. Bác nghĩ đến Năm Mèo và chiếc ghe mua lúa của y. Vậy là bác gọi Năm Mèo, rồi bảo con trai bác đong và vác xuống ghe của y bốn mươi giạ lúa. Hai người đàn ông thì thầm với nhau. Hai giờ khuya đêm ấy, bác Hai của tôi xuống ghe mua lúa của Năm Mèo. Vài phút sau, chiếc ghe chở lúa khẳm mẹp ấy được kéo neo, nhổ sào, từ từ tách bến.
Thật là, chúng tôi không hiểu được, trong tâm hồn của người đàn ông đã luống tuổi có vẻ bên ngoài cục mịch như bác Hai tôi lại có một khoảng dành cho niềm khao khát hết sức lãng mạn ấy. Chúng tôi cũng sẽ cạn nghĩ, khi cho rằng ông già chỉ bận tâm đến manh áo, chén cơm và nếu hơn nữa là đất đai, nhà cửa. Bốn chục giạ lúa để đổi lấy chuyến đi chơi cho biết Sài Gòn là một sự kiện đặc biệt trong cuộc đời của bác Hai tôi. Vì vậy, chúng tôi càng háo hức muốn biết cụ thể về chuyến đi của bác. Bác Hai tôi tủm tỉm cười, khi chúng tôi thúc giục:
- Từ từ… để quỡn việc rồi, tao kể cho mà nghe!
Nhằm lúc vui vẻ, bác Hai kể, để chúng tôi biết thế nào là nằm trong khoang ghe chở lúa, thế nào là bồng bềnh sóng nước. Những lúc nhâm nhi bên mâm rượu, bác lại bật ra câu chuyện Năm Mèo:
- Thằng đó, vậy mà, bợm bẫy lắm!
- Bợm bẫy là sao, bác Hai?
- Nó gạt mấy bà vợ của nó, mà gạt theo kiểu…hàng xáo, mới ngặt!
Tiếng tăm về Năm Mèo thì… ,trong làng tôi, ai cũng biết nhưng đến đoạn này thì bọn tôi, ai cũng ngóng nghe.
“ Nó nói với tao là nó có một bà vợ ngon lắm, làm chủ quán bán rượu, bia ở Sài Gòn. Nó nói:
- Tui sẽ dắt anh Hai tới đó chơi, cho biết mặt bả (bà ấy)!
Mới đi một đỗi, nó đã cho tắt máy, neo ghe đậu giữa sông. Tao tưởng là máy ghe hư nên, đang nằm trong khoang, đã lồm cồm bò dậy, định chui ra sau lái coi sự thể ra sao. Đang bò nửa chừøng, tao nghe bên ngoài có tiếng đàn bà. Hình như bà kia đang ở trên xuồng nhỏ, cặp vô be ghe của Năm Mèo, giọng cằn nhằn, cẳn nhẳn:
- Ba sắp nhỏ đi cả chục ngày mà mặc dơ có một bộ đồ này hả?
- Mấy bộ mặc dơ, hôm trước, đã giặt hết rồi! Tiền gói ở trỏng, cầm coi chừng rớt!
Bà kia nghe nói có tiền gói theo, nín thinh, không hỏi vặc mắc nữa.Vậy rồi Năm Mèo cho nổ máy ghe, đi tiếp. Đi một quãng sông nữa, cỡ mấy tiếng đồng hồ, Năm Mèo lại cho ghe đậu lại. Nó lại gởi lên bờ cho bà vợ khác số quần áo dơ còn lại và tiền, số tiền chắc là không nhiều lắm, rồi nó lại cho nổ máy ghe đi tiếp. Nó cười hì hì với tao
- Lót bến chuyến về, anh Hai! Coi như mình lo trước nơi ăn, chốn ở cho mấy ngày đi lại!
Tao hỏi nó:
- Có chừa bộ quần áo dơ nào cho ngươiø vợ ở Sài Gòn không?
Nó lắc đầu, nói tỉnh queo:
- Đàn bà kẻ chợ không chịu cực khổ mà giặt quần áo cho mình đâu. Đối với mấy bả (bà ấy), mình phải có “ phép” khác!”
Bác Hai tôi nói tới đó thì dừng lại. Anh Thắng ngồi ở góc nhà, hỏi nôn tới:
- Phép gì vậy, ba?
Bác Hai tôi gầm mặt xuống, nói cộc lốc:
- Thôi! Bỏ đi!
Vậy là bác Hai tôi không chịu kể tiếp nữa. Chúng tôi lần lượt tan ra, chờ dịp khác. Điều khiến tôi cứ thắc mắc là, lần nào cũng vậy, cứ kể đến đoạn đó là bác Hai tôi đổ quạu. Tôi điểm lại tất cả những điều bác Hai tôi kể thì hình như bác không hề đả động đến Sài Gòn, tựa như bác chưa bao giờ đến đó. Còn điều gì nữa hệ trọng hơn, trong chuyến đi của bác, mà bác thấy nói ra bất tiện hoặc là bác muốn giữ lấy cho riêng mình. Tôi cứ theo đuổi ý nghĩ này nhưng không dám tỏ bày, chia sẻ cùng anh Thắng, để giữ trọn vẹn tình cảm của hai cha con của bác Hai tôi. Tôi, một mình, lặng lẽ theo dõi bác Hai tôi.
Nhà tôi và nhà bác Hai tôi chỉ cách nhau có một mảnh vườn nhỏ, cùng trên phần đất của ông nội tôi để lại cho con cháu. Do đó, cả hai bên nhà đều có thể trông sang và nhìn thấy nhau. Nhiều lúc, tôi trộm thấy bác Hai tôi ra vào tư lự. Có lúc, tôi lại thấy bác Hai tôi ngó mông ra sông. Đôi khi, tôi lại thấy bác Hai tôi ngóng ra bến nước, chỗ chú Năm Mèo vẫn thường neo ghe mua lúa của bà con trong xóm tôi. Tôi cứ nơm nớp lo. Tôi lo là Bác Hai tôi lại làm một chuyến giang hồ nữa! Nếu như lần này bác Hai tôi lại đong lúa bán và lại đi … cho biết Sài Gòn, liệu bác gái của tôi có im lặng mà chịu đựng nữa hay không? Là bà con ruột thịt, lẽ nào tôi lại làm ngơ nhìn bác tôi nát cửa, tan nhà!
Hôm ấy, gặp dịp hai bác cháu tôi cùng đi sạ lúa trên đồng. Nhân lúc nghỉ tay, tôi lân la dò hỏi, định lựa lời khuyên can bác Hai tôi.
- Bác Hai có tính đi Sài Gòn chơi chuyến nữa không?
- Không!
- Đi một lần đã biết chán, còn đi chi nữa, phải không bác Hai?
- Tao có biết Sài Gòn là gì đâu!
- Vậy, hôm trước, bác đi đâu?
- Thì đi …Sài Gòn!
Trước vẻ ngơ ngác của tôi, bác Hai tôi bật cười. Vậy là, vừa vấn thuốc hút, bác Hai tôi vừa kể, sau khi tôi hứa là không tiết lộ với ai, nhất là với bác dâu tôi, về câu chuyện mà tôi nghe được ở bờ ruộng này. Tôi đã chấp nối câu chuyện đứt khúc, đứt đoạn này.
“ …Chiếc ghe chài gắn máy bốn ngựa của Năm Mèo chạy đến chiều hôm đó là tới bến Sài Gòn. Sau khi nói chuyện buôn bán và giao lại cho bạn lái coi bốc dỡ hàng, Năm Mèo dắt tao đến quán nhà của nó. Cái quán hơi tuềnh toàng, nằm cách bến sông xuống hàng độ vài ba hơi thuốc; Nó giống như các quán bên đường dành cho khách vãng lai như tài xế, lơ xe, chủ ghe, bạn lái… Quán cũng có phòng tắm, nhà vệ sinh, có cả phòng cho khách trọ ngủ qua đêm nữa. Tao vừa tắm xong, bước ra, đã thấy Năm Mèo ngồi chờ bên bàn rượu.
- Làm vài xị rượu thuốc cho giãn gân cốt, anh Hai, rồi tui sẽ kêu bà xã tui ra giới thiệu!
- Được!”
“… Tao gặp nó cũng ở quán rượu của vợ bé Năm Mèo. Nó trạc tuổi thằng Thắng thôi. Trong đám đông mấy đứa con gái son phấn lòe loẹt, tấp nập vô ra tiếp khách, nó ăn mặc giản dị, sạch sẽ, chỉ đứng lấp ló ở góc bếp.Tao nhìn bộ dạng của nó, thấy nó giống mấy đứa con gái ở quê mình. Tao hỏi nhỏ Năm Mèo. Năm Mèo bảo nó là con nhỏ giúp việc lặt vặt, việc quán, việc nhà, gọi nôm na là người ở. Tao thấy, hình như, nét mặt nó không vui. Năm Mèo bảo nó là con gái ở quê do Năm Mèo dẫn dắt lên Sài Gòn làm mướn mà có sự đồng ý của ba má nó. Nghe Năm Mèo nói, ba má nó ở dưới quê nhưng nghèo lắm. Họ ở quê mà không có đất đai, ruộng rẫy chi cả. Họ chỉ rặt đi làm mướn, làm thuê kiếm sống. Mấy tháng trước, má của nó bịnh mà nhà lại thiếu tiền lo thuốc nên ba má nó mới mượn đỡ của Năm Mèo. Sau đó, ba má của nó không trả nợ nổi nên họ đành phải cho con gái đi ở, giúp việc cho vợ Năm Mèo, để trừ nợ lần hồi. Nếu đã làm công trừ dứt nợ rồi mà con nhỏ còn muốn ở lại làm thêm thì vợ chồng của Năm Mèo sẽ tính tiếp.
Chuyện của người ta, tao hỏi cho biết, biết rồi cũng đành thôi! Cha mẹ nghèo khổ, buộc lòng phải đợ con, chớ biết làm sao? Cuộc đời là vậy! Quê mình có tiếng là ruộng đất mênh mông đến cò bay thẳng cánh nhưng cũng có kẻ no người đói; kẻ dư dả bán lúa lấy tiền đi chơi như tao, cũng có người nghèo khó phải đem con đi làm kẻ hầu, người ở như cha mẹ con nhỏ đó. Tao ngẫm, đất Sài Gòn phồn hoa đô hội, chắc cũng không thiếu gì kẻ sang, người hèn… Tao cứ nghĩ mà thấy buồn. Buồn! Tao ngồi uống rượu tì tì với Năm Mèo, cho đến lúc trời tối mịt hồi nào cũng chẳng biết.
Năm Mèo kêu mệt, đòi đi ngủ sớm, bỏ vô trong. Vợ bé của Năm Mèo đi ra, bảo là có dành cho tao một phòng bên cạnh. Ngồi một mình cũng buồn, tao mới cũng vô phòng nằm nghĩ. Tao nằm hoài không ngủ được, phần vì lạ chỗ, lại vì đã ngủ cả ngày trên ghe lúa lúc đi đường rồi. Phòng bên cạnh, vợ chồng Năm Mèo rọ rạy hồi lâu, rồi tao nghe tiếng vợ nó nói nhỏ:
- Kêu đứa nào cho anh Hai không?
- Thôi! Oång (ông ấy) già rồi! Đừng làm bậy bạ! Còn giữ đường cho tui về dưới làm ăn!”
Bác Hai tôi ngừng kể, cười khậc khậc:
- Thằng hàng xáo đó vậy mà khôn! Nó mà để vợ nó gạt tao trận đó là nó hết đường về bến Nước. Nó gian xảo mà cũng biết lựa chỗ, lựa người. Còn tao chỉ tính đi vãng cảnh cho biết Sài Gòn, chớ đâu có tính chuyện “ trăng hoa” đó! Mà mày nghĩ coi, tao già rồi, còn củi lửa gì đâu mà ham hố?
“ … Rồi sao nữa hả? Ờ …! Tao nằm lăn qua, trở lại đến hơn nửa đêm. Bỗng, tao nghe có tiếng động ngoài quán, rồi lại nghe có tiếng con gái khóc. Tao ngồi dậy, mở cửa phòng, bước ra. Tao thấy quán của vợ Năm Mèo đã dẹp vắng teo mà con nhỏ giúp việc còn ngồi khóc trong góc bếp. Tao ra bàn ngồi, ngoắc nó lại, hỏi chuyện. Nó đến, nói mà không dám nói lớn, sợ người khác nghe thấy. Thì ra, có thằng quỷ ôn nào đo,ù là khách ngủ trọ, mò vô mùng nó. Nó không chịu, giẫy được, chạy ra.
- Sao không la lên, méc bà chủ?
- Bà chủ dặn, nếu có như vậy, không chịu thì thôi, không được la. Nếu con la lên, sẽ làm mất mặt khách, khách sẽ không tới quán nữa; chừng ấy, bà chủ sẽ trừ lương, đuổi việc…
- Lỡ bây giẫy không được thì sao?
- Con không biết nữa! Lần nào cũng vậy, con ráng giẫy, chạy ra, không dám trở vô trỏng nữa…
- Vậy là chuyện xảy ra nhiều lần rồi hả?
- Dạ !
Con nhỏ dạ rồi khóc nghẹn
- Sao bây không trốn về quê?
- Dạ! Chú Năm biết nhà ba má con dưới quê. Con mà trốn về, thế nào chú Năm cũng theo bắt lại, vì ba má của con còn nợ tiền của chú Năm. Con tính sẽ ráng ở đến khi trừ hết nợ là con xin về liền…
- Lỡ, từ đây đến lúc đó, bây giẫy không khỏi đám quỷ đó, rồi sao?
Con nhỏ làm thinh khóc
- Liệu bề, bây trả hết nợ rồi, vợ chồng Năm Mèo có cho bây về không ?
- Dạ! Con không biết!
- Thôi! Từ từ… để tao tính cho!
Vậy rồi, tao nhường cái phòng của tao cho nó vô nghĩ đỡ. Tao còn phải dặn nó gài chốt trong phòng cho chắc chắn. Còn lại một mình, tao ngồi giữa quán, với bình trà, chờ sáng. Sáng ra, tao uống cà phê với Năm Mèo, nói chuyện chuộc con nhỏ
- Nhỏ nào, anh Hai?
- Con nhỏ giúp việc!
- Con Thơm, hả?
- Ờ!... Chắc là con Thơm!
Tao kể hết sự tình cho Năm Mèo nghe. Năm Mèo ngồi làm thinh nghe , rồi nói:
- Chuyện đó… để tui nói lại với bả (bà ấy). Bả ( bà ấy) xếp chỗ ngủ lại cho nó, thì êm. Còn anh Hai cứ để tiền mà đi chơi…
- Thôi! Tao hết muốn đi chơi rồi! Giúp cho con Thơm rồi, tao về dưới quê liền, sợ bả (bà ấy) với mấy đứa nhỏ ở nhà rầu lo. Hồi đi, tao có nói với ai tiếng nào đâu!
Năm Mèo ngồi dùng dằng một lát rồi kêu con Thơm ra, hỏi:
- Oâng Hai trả nợ dùm cho ba má mày. Mày chịu trở về dưới quê không?
- Dạ! Chịu!
Thấy con nhỏ mừng rơn mà tao bất nhẫn. Tính ra, vừa tiền nợ vừa tiền lời, ngót nghét gần ba mươi lăm giạ lúa. Cũng may, tao đem vừa đủ, còn dư chút ít. Lúc ngồi chờ sáng, tao đã tính rồi, nếu như vợ chồng Năm Mèo đã tính hết số nợ của ba má con Thơm mà tiền tao đem theo trả giùm còn thiếu thì tao sẽ hẹn lại với Năm Mèo, tới khi về dưới quê mình, tao sẽ đong lúa thêm cho đủ số, đặng chuộc con nhỏ ra. Tính tiền bạc với vợ chồng Năm Mèo xong xuôi, tao với con Thơm đi xích lô ra bến xe miền Tây. Nó mua vé về quê nó. Tao mua vé về nhà mình. Tao coi lại trong túi, thấy còn dư chút ít tiền. Tao cho con Thơm thêm vài chục để ăn đi đường. Còn một ít tiền, tao ra sạp hàng phía trước bến xe, mua cho thằng Thắng cái nón và con Mén đôi dép. Vậy rồi, tao và con Thơm, mạnh ai nấy lên xe, về thẳng.
Ngồi xe về dọc đường, tao cứ nghĩ chuyện tao chuộc con Thơm dùm ba má của nó cũng chẳng qua như thả cá về sông. Trong dòng sông rộng lớn, hễ con cá này thoát thân thì con cá khác cũng dính câu, mắc lưới. Tao chuộc con Thơm ra rồi, thế nào Năm Mèo cũng tìm được đứa khác đem lên giúp việc cho vợ nó, cũng là đứa con gái thuộc nhà nghèo khó ở quê mình. Rồi cảnh cũ lại diễn ra nữa thôi, vì trong cuộc đời này còn nhiều người phải dùng thân mình để đổi lấy miếng cơm manh áo! Nghĩ như vậy nhưng tao cũng chẳng tiếc số tiền đã bỏ ra để chuộc con Thơm giùm cho ba má của nó. Việc của tao làm, tao coi như giúp người hoạn nạn, vậy thôi!”
*
- Chuyện như vậy, tao nói mà mày tin không? Nếu mày không tin thì đợi khi nào Năm Mèo về mua lúa ở làng mình mà hỏi. Nhưng tao chắc rằng, dù Năm Mèo có đứng ra làm chứng, bác dâu mày cũng không tin, bởi vì… bả đâu có tin cậy Năm Mèo. Mà… ai tin nó cho được? Nó là thằng bợm bẫy mà !
Bác Hai tôi ngửa mặt cười, cái cười đầy tự tin và mãn nguyện. Tôi chắc rằng, bác Hai tôi hài lòng với việc mình đã làm. Và, tôi tin tất cả những gì mà bác Hai của tôi đã kể lại về chuyến đi ngắn ngủi của ông.
BẾN NƯỚC KINH CÙNG
Ấy là nơi con sông Cái chia nhánh chảy vào. Con kinh chảy hoài, mải miết, vào đồng sâu. Con kinh chảy đến doi đất ngang nhà cô Hai Cà, tưởng cùng, nhưng không. Dòng nước hiền lành lại mở lối, tiếp tục băng đồng, len lách, quanh co mãi cho đến khi nối được cùng sông Cái ở một nhánh khác. Vậy mà người ta cứ gọi xứ ấy là xứ Kinh Cùng. Cô Hai Cà vẫn nhớ lời của cha cô, ông Ba Thời, giảng giải:
- Có lúc nó cùng như vậy nên người ta mới lấy đó mà đặt tên. Tạo hóa sắp bày khéo lắm! Cùng, sao được mà cùng!
Cô Hai Cà nghĩ là cha cô nói đúng; Nếu không, con kinh này đâu có tạo thành khúc quanh để chảy xuống cuối vàm, ngang qua nhà anh Uùt Chót. Cô tin vào bàn tay của tạo hóa như cha của cô đã tin. Tạo hóa kỳ diệu đã cho cô và con Kinh Cùng của cô mỗi năm có một mùa bằng lăng, loài cây mọc hai bên bờ kinh, nở bông tím ngát. Lòng cô mãi thương cảm khi vào lúc tiết trời ấy, mỗi sáng, cô nhìn thấy cánh bằng lăng đã nở chiều qua rơi rụng xuống dòng kinh bồng bềnh theo con nước lớn đổ vào cuối vàm; Rồi vào buổi xế trưa, cô lại nhìn thấy cũng chính những cánh hoa tàn phai ấy theo con nước ròng trôi ngược ra sông Cái Lớn. Quê xứ của cô vốn đã hiu quạnh và buồn; Thêm cảnh tượng ấy càng thêm buồn man mác. Vì sao quê của cô Hai Cà buồn? Ở đây, xóm làng thưa thớt, xa xa mới có một hai căn nhà cất cặp bờ kinh. Vài vườn cây trái được cư dân trồng ở sân trước, hè sau; Còn lại, quanh nơi ấy, bao la đồng ruộng. Ở đây, lúc này, chưa có đường bộ; Vả chăng, đường bộ, ở đây, không thuận tiện bằng đường sông. Phương tiện đi lại duy nhất ở xứ này, lúc bấy giờ, là xuồng ghe di chuyển trên kinh rạch. Mỗi nhà tự lập ra bến nước dành cho sinh hoạt gia đình và giao tiếp với thôn lân. Trong hoàn cảnh như vậy, có lẽ, người ta sẽ thấy quạnh hiu hơn khi nhà ít người, vắng khách.
- Xứ mình buồn tênh! Đàn địch, ca hát mà khuây lãng!
Oâng Ba Thời giải thích về ngón đàn điệu nghệ của ông, khi ông đưa vợ con, theo đất ruộng, vềâ nơi này định cư, lập nghiệp. Trong hành trang của gia đình mang theo trong cuộc di cư, người ta thấy ông mãi nâng niu cây đàn phím lõm, loại nhạc cụ mà ông quen chơi qua các điệu hò, bản vắn, sáu câu vọng cổ với bè bạn giang hồ. Cây đàn phím lõm với sáu câu vọng cổ mới chơi nghe vui, nhưng khi người ta chơi lâu hoặc quen nghe thì thấy nó buồn da diết. Cha con của cô Hai Cà càng cảm thấy như vậy, nhất là từ khi mẹ cô Hai Cà từ trần vì bạo bệnh; Bà đã bỏ lại trần gian mái ấm gia đình cùng với nỗi buồn sâu lắng của ba cha con, ông Ba Thời, con gái Hai Cà và con trai Uùt Thế.
Thời gian dần qua. Bấy giờ, Uùt Thế đã mười sau tuổi. Cô Hai Cà đã ở tuổi hai mươi. Nỗi buồn mất người thân của cha con ông Ba Thời cũng dần nguôi ngoai theo năm tháng. Oâng Ba Thời không đi bước nữa. Oâng lấy việc gieo trồng, ruộng rẫy và nuôi dạy các con lớn khôn làm trọng mà nương tựa sống qua ngày. Những lúc nông nhàn, rảnh việc hoặc giỗ đám của gia đình hay của láng giềng, ông ba Thời thường đem cây đàn phím lõm của ông đến chơi, đánh đàn, ca hát cùng anh em hàng xóm. Kẻ đàn, người hát dễ kết tri âm. Oâng Ba Thời kết thầy trò với Uùt Chót là duyên cầm ca như vậy. Những lúc trà dư, tửu hậu, thầy đàn, trò hát rất xứng cặp, xứng đôi; Hoặc là những lúc rảnh việc, hay chợt buồn, ông Ba Thời bảo Uùt Thế bơi xuồng xuống vàm đón Uùt Chót lên nhà ông để cùng ông đờn ca, xướng hát. Khi ấy, không gian của nhà ông thật ấm áp, vui vầy. Đó là cảnh nhà yên ấm; Ở nhà trên, có ông Ba Thời, Uùt Chót, Uùt Thế và có thể có vài người láng giềng nữa đàn, ca; Dưới chái bếp, cô Hai Cà, đôi khi có thêm một vài cô gái hàng xóm nữa, lục đục nấu cháo gà,cháo vịt, cháo lòng heo… để lát nữa, bưng lên cho cả hội đàn ca ở nhà trên ăn uống, nhấm nháp cùng rượu đế. Niềm vui của cô Hai Cà là được làm việc ấy. Cô cảm thấy, như vậy, nhà của cha con cô đỡ quạnh vắng hơn. Trong khi đó, bài ca vọng cổ qua giọng ca của anh Uùt Chót mùi thật là mùi. Giọng ca của anh Uùt Chót càng mùi thì cô Hai Cà càng thấy thích và thấy vui. Những lúc cha cô bận việc đồng áng, hơi lâu, ông không tổ chức đàn ca tại nhà nên anh Uùt Chót không có dịp đến chơi thì cô Hai Cà lại thấy buồn buồn, nỗi buồn không tên, không tuổi.
Cứ như vậy, cô Hai Cà thấy đời đáng yêu và đáng sống. Đôi khi, cô nghĩ vu vơ rồi tự thấy thẹn thùa. Cứ như vậy, mỗi lần ra bếùn nước trước nhà, nhìn những cánh bằng lăng trôi giạt trên dòng kinh, cô Hai Cà thấy bâng khuâng buồn, thấy lòng như mong đợi. Cô Hai Cà biết mình mong đợi một chiếc xuồng quen.
*
“Tính …tính…tang…tang…tình…” Cô Hai Cà nghe tiếng đàn dạo của cha mình. Giọng ca của anh Uùt Chót cất lên:
“Ngọc Hà ơi! Mắt của nàng đã gây nên sóng gió… để khổ đau tràn ngập mấy tâm tư…Ngọc Hà ơi! Thôi, từ đây, gió đưa vầng mây đến phương trời xa, gót chân quan hà nghìn thu vĩnh cách. Anh nói không thành câu, nuốt lệ thầm câu tiễn biệt người yêu… cất bước theo chồng!”
Cô Hai Cà nghe Uùt Chót ngân dài bốn chữ “ Cất bước theo chồng” thật là mùi rệu. Không gian như lắng xuống. Khoảng lặng và ngân rung của câu ca ở khúc này như dài, rộng ra. Cô Hai Cà bùi ngùi nhìn ánh lửa trong bếp bập bùng. Trời à! Nếu cô là Ngọc Hà trong bài ca ấy, cô sẽ khóc, sẽ buồn, không biết đến bao lâu. Cô Hai chờ đợi tiếng anh Uùt Chót tiếp theo bằng câu vọng cổ quen thuộc mà anh đã tập với cha của cô, suốt mấy tối rồi. Bỗng, cô Hai Cà nghe tiếng trầm đục của cha mình:
- Giỏi! Uùt Chót! Mầy ca mùi không thua gì kép Bảy Cao hồi đó đâu!
- Thiệt hông, chú Ba?
- Thiệt!
Im lặng. Cô Hai Cà nghe tiếng củi nổ tí tách trong bếp lò. Giọng anh Uùt Chót bỗng hạ xuống thấp, như thì thầm tâm sự:
- Chú Ba thấy con… coi có được hông?
Cô Hai Cà nghe hồi hộp lạ thường. Mặt của cô bỗng dưng đỏ rựng. Tiếng ông Ba Thời nạt nhẹ.
- Thằng này! Mày hỏi chú, được với không được, là sao?
Uùt Chót nói, giọng có vẻ ngượng ngập:
- Thì chú nhìn coi … con có xấu trai lắm hông?
- Chi vậy, mày nhỏ?
Cô Hai Cà chợt thấy tức cười nhưng nụ cười của cô chỉ hiện lên trong ánh mắt. Nếu như người ta thương mình thì là người ta thương tánh nết với giọng ca mùi mẩn của mình, chớ ai mà so đo chuyện đẹp trai hay xấu trai bao giờ! Cô Hai vừa nghĩ vừa nhón tay giở nắp vung nồi nước luộc gà đang sôi ùng ục. Cô nghe giọng nói của anh Uùt Chót hơi khang khác.
- Thì… chú liệu dùm con coi…!
- Liệu coi cái gì, mày nhỏ! Tiếng của ông Ba Thời gắt nhẹ.
- Thì chú coi… con như vầy mà có theo gánh hát được hông?
Tiếng ông Ba Thời sửng sốt:
- Trời đất! Mày… tính đi làm kép hát , hả?
- Dạ!
Cô Hai Cà nghe như có gì đó vừa đổ vỡ. Cái nắp vung trên tay của cô vuột xuống trên miệng nồi đánh xoảng. Tiếng khua ấy, có thể, ở nhà trên, cha của cô nghe thấy nhưng anh Uùt Chót thì không. Cô biết, anh Uùt vẫn cứ vô tình! Cô Hai Cà ngồi phịch xuống vạt tre gần bếp, bần thần. Lâu lắm, cô Hai Cà mới nghe tiếng của cha mình nói rất chậm rãi, ở nhà trên:
- Đừng! Uùt Chót! Cái nghiệp cầm ca bạc lắm! Tao sợ…
Uùt Chót hơi nôn nóng:
- Sợ gì, chú Ba?
Lại im lặng. Cô Hai Cà nghe thời gian dằng dặc trôi qua.
- Tao sợ… đường đời nhiều nỗi… Chỉ e… mày nhỏ chẳng giữ được mình!
Cô Hai Cà nghe tiếng anh Uùt Chót cười lớn:
- Chú Ba nói kỳ chưa? Con sẽ là thằng Uùt Chót của cái xứ Kinh Cùng này cho đến bạc đầu, mà!
Tiếng ông Ba Thời ậm ừ:
- Tại tao lo xa… quá xa…! Tao già rồi! Người già nào cũng vậy! Mày đừng lấy đó mà mích lòng, nghen! Thôi! Mày lấy giọng lại đi! Tao rao trước! Mày tập ca lại bài hồi nãy, nghen!
“ Tình… tang… tính… tình… tình…tang…” Cô Hai Cà nghe tiếng đàn của cha mình sao mà rời rạc và buồn bã. Tại tiếng nhạc buồn hay buồn là tiếng của lòng cô. Cô Hai Cà lại nghe giọng của Uùt Chót cất lên:
- “ Ngọc Hà ơi! …”
*
Ba mươi năm. Tất cả vẫn như in trong ký ức cô Hai Cà, buổi tối mà anh Uùt Chót mơ làm kép hát. Trong cuộc đời mỗi người, cũng có lúc, tâm hồn của người ta có những phút giây bay bổng như vậy nhưng qua giây phút ấy rồi thôi. Anh Uùt Chót khác hơn. Anh đã lao theo và sống trọn vẹn với những gì mà anh mơ ước. Đúng như vậy! Sau đó ít lâu, gánh hát của ông bầu Tèo về hát cúng đình rồi đi, cùng với sự ra đi của anh Uùt Chót. Út Thế bảo với cha mình và chị Hai Cà là anh Uùt Chót có rủ cậu cùng đi nhưng cậu đã từ chối; Bởi vì, cậu biết rằng, việc ruộng rẫy của gia đình vẫn cần có cậu hơn. Vả lại, tuy là mê coi hát cải lương nhưng trong thâm tâm mình, cậu thấy ngán cái cảnh lang bạt kỳ hồ mà cậu vẫn thường nghe mấy đào kép trong gánh hát của ông bầu Tèo than thở và ca cẩm. Ừ! Đi giang hồ , ai muốn như vậy cũng phải có máu mới đi được. Cô Hai Cà nghe em trai nói, thở dài. Cô mừng vì cậu Út Thế đã không nghe theo lời của anh Ú Chót rủ rê. Nhưng… cô buồn vì anh Uùt Chót đã bỏ xứ mà đi, lại không nói với cô dù nửa lời từ giã. Anh không biết đến cái tình của cô đã dành cho anh. Anh không biết, khi vắng anh, cô sẽ nhớ, sẽ buồn…
Đằng đẵng bao năm, anh Uùt Chót ra đi mà không thấy trở về. Gánh hát của ông bầu Tèo mấy mùa cúng đình ở làng này đều trở lại Kinh Cùng; Chỉ bóng dáng của anh Uùt Chót là bặt tăm nhàn cá. Cô Hai Cà, ngày này qua ngày khác, ngóng ra bến nước trước cửa nhà mình, mong đợi hình bóng của anh Uùt Chót. Cô mường tượng là anh Uùt Chót sẽ bước lên bờ, với gương mặt tươi cười rạng rỡ, như xưa. Anh sẽ nói với cô Hai Cà với kiểu nói hơi pha chút màu sắc của tuồng hát cải lương, vì anh đã có thời làm kép hát mà! “ Thôi! Từ đây, tôi đã giũ áo phong sương, dừng bước giang hồ, về đây tìm kiếm người mà tôi đã nhớ thương”. Aáy vẫn chỉ là nỗi niềm ước mơ thầm lặng của cô Hai Cà. Cuộc đời đã diễn ra khác hẳn. Oâng bầu Tèo, mấy lần đưa gánh hát về hát cúng đình ở làng Kinh Cùng, đã kể lại với Ba Thế đủ điều. Ba Thế nghe xong, giấu biệt, không dám kểâ lại cho chị Hai Cà nghe gì cả. Câu chuyện kể rằng: Anh Uùt Chót, sau này, đã thay đổi nhiều lắm! Anh đã đổi tên Uùt Chót thành tên Trường Giang. Anh tập ca hát, tập diễn tuồng trong gánh hát của ông bầu Tèo, chưa được trọn năm. Vai diễn của anh vừa quen nước, quen cái thì anh đã bỏ gánh hát của ông bầu Tèo, theo cô đào nổi danh Mộng Ngọc, qua hát cho gánh khác. Họ, kép hát Trường Giang và cô đào Mộng Ngọc, sống chung với nhau như vợ, như chồng, dù tuổi đời của kép Trường Giang kém hơn cô đào Mộng Ngọc nhiều lắm. Uùt Thế nghe nói, cô đào Mộng Ngọc rất mê kép Trường Giang. Cô buộc bầu gánh phải cho Trường Giang đóng cặp đôi với cô. Có lẽ, trước tiên, cô muốn nâng đỡ kép trẻ Trường Giang; Sau nữa, cô muốn thỏa tình với anh cả trên sân khấu.
Thành danh nghệ sĩ Trường Giang là chuyện không quá khó khăn đối với chàng trai của xứ Kinh Cùng. Các bầu gánh hát đua nhau mời mọc, chiều chuộng anh. Các hãng dĩa nhựa, thu thanh sẵn sàng trả thù lao rất cao để giọng ca của anh có trong danh sách ca cổ nhạc của họ để họ chào mời thính giả. Anh Uùt Chót, kép Trường Giang, một thời, là giọng ca ăn khách ở các đoàn hát lớn ở Sài Gòn, đi lưu diễn khắp cả miền Tây. Cô đào Mộng Ngọc, sau đó, lần hồi xuống sắc, qua thời. Kép trẻ Trường Giang bỏ người bạn tình già của mình, chạy theo cô đào khác trẻ đẹp và duyên dáng hơn, đào Kim Ba. Anh và đào Kim Ba lại đóng cặp đôi, cùng đứng hát chung. Họ lại sống với nhau như chồng, như vợ. Út Thế nghe ông bầu Tèo kể và nhận xét: “ Rồi tụi nó, lại cũng bỏ nhau, cho mà xem!”. Út Thế nghe ông bầu Tèo kể mà thấy ngán ngẫm và thấy buồn. Cậu xét lại mình. Cũng may là cậu, giờ đây, đã có vợ con rồi. Vợ chồng cậu và các con cùng sống với cha cậu và chị Hai Cà trong một mái gia đình yên ấm. Cậu hài lòng với niềm hạnh phúc đời thường của mình, chẳng ao ước được những gì gọi là vẻ vang, danh tiếng như là anh Uùt Chót. Cậu chỉ thương xót cho chị Hai Cà. Chị đã sang tuổi “ băm” rồi mà bao nhiêu đám đến dạm hỏi chị làm vợ, chị vẫn lắc đầu, chẳng ưng lấy ai cả. Uùt Thế không ngờ, mối tình thưở xuân xanh mà Uùt Chót gieo cho chị Hai Cà tưởng nhẹ nhàng mà lại sâu nặng đến vậy. Như vậy mới biết, cái lưới tình thật không chừng đỗi, mỏng manh với người này mà quá bền chặt với người kia! Có phải, vì tình cảm của chị Hai Cà là mối tình chân chất của người thôn nữ quê mùa? Còn tình cảm của anh Uùt Chót trải qua là tình trên sân khấu mà người ta quen như biểu diễn? Uùt Thế càng nghĩ càng thấy thương chị của mình. Vậy mà chị Hai Cà vẫn cứ mong ngóng, đợi chờ, vẫn cứ thương tưởng hình bóng của anh lực điền Uùt Chót ngày xưa.
*
Ba mươi năm. Người xưa của cô Hai Cà đã lầm lũi trở về. Cô Hai Cà vẫn còn ở vậy. Con Kinh Cùng vẫn, ngày đêm, với con nước lớn ròng, với bao mùa bông bằng lăng tím nở để rụng rơi theo dòng những cánh hoa màu tím tàn phai, trôi giạt. Bến nước của nhà cô Hai Cà vẫn vậy. Anh Uùt Chót, giờ đây, chợt thấy thân thương và quen thuộc như thưở nào, thưở một thời trai trẻ của anh. Ba mươi năm, anh đã rời xa nơi này để sống đời làm kép hát, có lúc cuộc sống không phải là của mình, có lúc không giữ được lòng mình. Cho đến bây giờ, anh mới nhận ra điều đó! Giờ đây, Uùt Chót, hay nghệ sĩ Trường Giang, đang hết thời còn nghiện ngập. Giờ đây, anh liêu xiêu tìm về bến nước quê nhà, tìm về để gặp lại người khán giả đầøu tiên trong cuộc đời mình, cô Hai Cà, người của thưở anh còn ca hát tập tành với lão nông lại là thầy đàn Ba Thời, ở cái xứ Kinh Cùng heo hút này.
Giờ đây, có lần, anh Uùt Chót đến tụ điểm ca hát của trung tâm văn hóa huyện xin được ca vài bản để góp vui và kiếm tiền. Anh xưng tên nghệ sĩ Trường Giang, tên tuổi của một thời vàng son của anh. Người phụ trách chương trình bảo rằng họ đã từng mến mộ giọng ca và tên tuổi của anh nhưng họ không có chỗ để xếp anh vào chương trình biểu diễn. Anh tự thấy hổ thẹn vì biết người ấy từ chối anh do bộ dạng quá ư tiều tụy vì nghiện ngập á phiện của anh. Anh thấy oán giận mình hơn là oán giận thái độ phủ phàng của người phụ trách đội văn nghệ huyện. Anh ta còn bảo, nếu như anh Uùt Chót cần tiền thì độâi văn nghệ của anh ta sẽ giúp cho chút ít; Chứ họ không thể để cho giọng ca rè của anh Uùt Chót phá hỏng chương trình ca hát của họ đêm này. Sỉ nhục! Anh Uùt Chót đã nguyền rủa chính mình. Đáng đời mày chưa, tên nghệ sĩ hết thời, nghiện ngập! Vậy mà ngày xưa, ngày mà mày còn ở trên đỉnh vinh quang, mày đã từng là thằng bội bạc! Mày đã phụ rẫy ai? Con Kinh Cùng xứ này đã làm chứng chuyện này!
Đó là dịp cúng đình của làng này, vẫn với gánh hát nghèo của ông bầu Tèo gần mấy mươi năm về trước. Oâng bầu Tèo nghe tin có nghệ sĩ Trường Giang về quê giỗ quảy, liền cho người bơi xuồng đi rước anh. Anh Uùt Chót đã cười lớn, nói với người đi rước mình.
- Oâng bầu Tèo tưởng tao còn là thằng Uùt Chót, hồi nẳm, đi hát kiếm cơm, không dám hỏi tiền cữ sao? Về đi! Nói lại với ổng là tao mắc nhậu!
Oâng thầy đàn Ba Thời đã già, cũng có mặt trong bữa giỗ ấy, vỗ vai người học trò cũ của mình:
- Uùt Chót! Mày không thích ông bầu Tèo thì mày hãy vì tao, đi! Mày ra hát giúp cho gánh của ổng để bầu đoàn của ổng kiếm chút ít cơm gạo mà sống qua ngày. Một đêm này thôi, chớ mấy đêm mà mày lo! Chẳng qua là ổng muốn mượn tên tuổi của mày để quảng cáo, đặng bán vé cho sung. Với lại, dịp này cũng là dịp cúng đình xứ mình, có mày về hát giúp hội cũng làm cho bà con xứ mình nở mày, nở mặt!
Uùt Chót đã giãy nảy:
- Trời! Chú biểu, ngặt, không? Con bây giờ mà đi hát cho gánh của ông bầu Tèo, hát đám cúng, đám cưới… , sợ thiên hạ đồn rùm beng, con bị bể tiếng, chết! Thôi! Nhậu đi, chú Ba ơi! Đời còn thiếu gì chuyện để lo!
Oâng thầy đàn Ba Thời chợt buồn. Oâng ăn uống qua loa rồi ra về. Cây đàn phím lõm mà ông cầm theo, định đờn ca cho vui, lại được cầm về, không được khảy một tiếng nào. Lão nông Ba Thời lặng lẽ buồn. Oâng đã quá già ; Người già vốn kiệm lời. Oâng đã không nói những điều muốn nói cùng Uùt Chót. Hôm ấy, Uùt Chót không xem việc của ông thầy đàn của mình ngày xưa buồn, bỏ về làm trọng. Anh nhậu nhẹt xong, lại ra đi, rời khỏi xứ Kinh Cùng, cũng chẳng ghé qua để gửi người thầy đàn cũ của mình lấy một lời chào. Trong cách cư xử ấy của anh Uùt Chót, đối với ông Ba Thời, có chút gì đó vô tình và bạc bẽo. Từ ấy đến nay, đã hơn cả chục năm rồi. Khi anh Uùt Chót nghĩ lại, biết rằng mình cư xử như vậy là có lỗi với thầy thì người thầy đàn năm xưa đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Giờ đây, anh ân hận cũng đã quá muộn màng! Anh muốn đến nhà thầy Ba Thời để thắp một nén nhang tạ tội cùng thầy…
Cây đàn phím lõm của thầy Ba Thời còn treo trên vách kia. Di ảnh của thầy Ba Thời với ánh mắt khoan dung như dành riêng cho Uùt Chót. Cô Hai Cà vẫn ở vậy. Cô đã tròm trèm ở tuổi năm mươi. Cô đang bước vào tuổi già, như anh; Chỉ ánh mắt của cô nhìn anh vẫn như ánh mắt của cô hồi thời còn son trẻ. Đó là ánh mắt ngợi khen anh, thay cho những tràng vỗ tay tán thưởng, như năm xưa, khi anh hạ giọng, xuống xề. Anh Uùt Chót nhớ…Năm xưa, cô Hai Cà đã ngồi đó, ở góc bộ ván ngựa này, nghe cha cô đàn và anh hát, sau khi nấu xong nồi cháo vịt bưng lên. Bây giờ, cô Hai Cà vẫn ngồi đó, nhìn anh, lặng lẽ. Anh ngồi xuống, ở đầu này của bộ ván ngựa. Anh muốn nói gì đó với cô nhưng không biết bắt đầøu từ chỗ nào:
- Tới bây giờ, sao cô Hai còn ở vậy?
Im lặng. Anh Uùt Chót đọc trong ánh mắt của cô Hai Cà một lời trách nhẹ nhàng. Anh biết, mình đã có lỗi với cô Hai Cà, suốt một đời người, suốt mấy mươi năm. Vậy mà cô Hai cà vẫn ngồi đó, nhìn anh với cái nhìn khích lệ, như năm xưa cô đã dành cho anh lúc anh còn tập hát, tập đàn. Không! Anh không còn xứng đáng với tình cảm bao dung và trong sáng của cô Hai Cà. Anh Uùt Chót đứng lên. Giọng nói của cô Hai Cà vẫn cứ nhẹ nhàng:
- Gấp gì mà về, anh Uùt?
- Bến nước Kinh Cùng này, bây giờ, còn có chỗ cho tôi sao?
BÃI SÔNG XANH
Đêm ấy tối đen. Anh sẽ không thấy phía trước có xuồng nếu không thấy cái bóng trắng của ai đó dập dờn theo gợn sóng. Hình như người ấy cũng không biết đang có xuồng câu của anh trên khúc sông này. Anh thả dầm, lăïng im, theo dõi. Xuồng của anh xuôi dòng, đến gần cái bóng trắng ấy hơn. Anh thấy cái bóng trắng ấy cúi xuống thật thấp rồi ngước lên. Anh nghe tiếng phụ nữ sụt sịt khóc. Bỗng, cái bóng trắng ấy nhoài ngang. Hình như cái bóng trắng ấy đánh đu dưới be xuồâng, rồi từ từ biến mất.
- Ai đó! Làm gì vậy?
Không có tiếng trả lời. Chợt nghĩ là có người đang tự vẫn, anh nhảy tòm xuống nước, bơi nhanh đến chỗ nạn nhân. Rất may, anh đã quờ đụng kẻ chán đời! Khi đưa được cả người lẫn xuồng vào bờ, anh mới nhận ra là trên xuồng của người đàn bà kia còn có một bé gái đang ngủ say. Đứa trẻ bị người mẹ dùng khăn rằn buộc dính với tấm ván lót xuồng. Có lẽ, người mẹ sợ con mình tỉnh giấc sẽ bò dậy và sẽ bị rớt xuống sông trước khi có người phát hiện. Người mẹ này muốn chết nhưng vẫn mong con gái của mình có cơ hội sống còn. Anh đoán như vậy và thấy chạnh lòng trước cảnh thương tâm kia.
*
Người xưa bảo “ Đất cồn bãi, trăm năm trước bồi thì trăm năm sau sẽ lở”. Bà lão Sen nhắc nhở con cháu mình về sự vận hành của trời đất theo những điều mà bà biết được; Bởi vì, kể từ ngày mẹ con bà đến đây sinh sống, thời gian trôi qua đã hơn năm mươi năm; Tính lại, bà đã sống gần hết một đời người. Đêm ấy, cái đêm mà bà định buông mình xuống sông tự vẫn cũng đã xa xôi lắm. Khi ấy, bà còn là cô Uùt Sen đang độ tuổi đôi mươi và đứa con gái của bà chưa tròn một tuổi. Khi ấy, cô Uùt Sen lòng đầy hờn giận, tâm trạng túng cùng. Người đàn ông mà cô dốc lòng yêu thương đã bỏ rơi mẹ con cô. Anh đã chẳng nghĩ mà thương cho thân cô, khi vì trót thương yêu anh mà cô đã bất chấp ý kiến phản đối của cha mẹ, trốn gia đình đi theo anh để được làm vợ và làm mẹ của con anh. Vậy mà giờ đây, trong cảnh khốn khó, không việc làm, không tiền bạc, không nhà cửa, anh đã đổi dạ, thay lòng, bỏ hai mẹ con của cô, đi theo người đàn bà khác nhiều tiền lắm của. Cô Uùt Sen và đứa con gái còn trong thôi nôi cắm sào trên bến sông chờ đợi. Anh đi lên bờ và chẳng thấy trở về. Ngày này qua ngày khác. Cô và con gái vẫn neo xuồng dập dềnh trên bến sông đợi chờ. Rồi một ngày kia… Có người đàn bà lạ tìm đến bến sông này, gặp mẹ con Uùt Sen để xác nhận sự chiếm hữu người đàn ông, xác nhận sự thật là Uùt Sen đã bị cướp mất bạn tình, con gái của Uùt Sen sẽ phải thiếu cha. Bà ta đưa cho Uùt Sen một số tiền, vàng, rồi yêu cầu cô và con gái cô đừng bao giờ trở lại bến sống này nữa. Uùt Sen không nhận tiền, chỉ khóc. Đêm ấy, mẹ con Uùt Sen rời bến ấy. Xuôi dòng về đâu, Uùt Sen không biết nữa. Cô cứ mặc tình cho sóng gió đẩy đưa. Cũng trong đếm ấy, cô Uùt Sen và con gái, trên chiếc xuồng ba lá mong manh, đã trôi giạt đến khúc sông này.
Bà lão Sen không nhớ chính xác câu chuyện đã xảy ra vào ngày, tháng, năm nào nhưng buổi sáng đầøu tiên mà bà đặt chân lên bãi sông này thì bà không dễ gì quên. Bà nhớ là ông Hai Hùm vác dầm đi trước, còn bà bồng con gái lục tục theo sau. Bà vẫn nhớ như nhìn thấy mặt cát bãi sông lún xuống dưới từng bước chân chắc nịch của ông Hai. Đến một túp lều bằng tre lá, ông Hai Hùm đã dừng lại:
- Chỗ này của tui! Bãi này do tui cắm! Giờ đây, tui nhường chỗ này lại cho mẹ con cô! Cô Uùt đừng tính đến chuyện chết nữa. Cha của đứa trẻ này đã tệ bạc mà cô lại chết thì lấy ai nuôi dưỡng nó đây!?
Uùt Sen lí nhí “ dạ”. Thật là, cô không thể không nghe theo ý kiến của người vừa cứu mạng mình. Ý tưởng tìm đến cái chết để giải thoát nỗi ức lòng trong cô cũng đã qua rồi. Lúc này, cô nghe như có một cảm giác mới lạ ùa đến, khi bồng con đứng trước bãi sông. Mặt đất rộng, trên bề mặt là cát bùn mịn màng, thoai thoải chạy dài xuống mé nước; Và kia, xuồng của Hai Hùm và của cô được cắm sào, nằm sóng đôi, dập dềnh trên mé nước. Thoáng bâng khuâng nhớ lại chuyện đã qua, cô đoán, khúc sông nơi mà đêm qua cô định buông mình xuống nước có lẽ gần lắm với bãi sông này. Đêm qua bầu trời và dòng sông tối đen; Còn sáng nay, mặt trời rực rỡ và dòng sông nồng ấm quá. Cô nhìn về phía Hai Hùm. Anh ta đang dồn sức lực của đàn ông vào đôi tay rắn chắc, nắm lấy cột lều, ấn cho cây cột cắm sâu thêm vào lòng đất. Rồi, anh quay lại, hướng về phía Uùt Sen, cất giọng vang vang:
- Trước đây, tôi cắm bãi này là cắm dể dành. Chỗ đất này tôi chưa xài đến nên còn hoang tàn lắm! Mẹ con của cô ở đây sinh sống thì phải gầy dựng. Trời đất cho mình nhưng mình phải có sức, có công!
Một mái lá đơn sơ được dựng lên đủ để, tạm thời, che mưa nắng cho hai mẹ con Uùt Sen. Màu xanh đã điểm dần và lan rộng ra trên đất bãi. Bàn tay mềm yếu của mẹ con cô Uùt Sen nhiều lần căng phồng rồi chai rộp. Đất đai ở đây như chờ đợi bàn tay vun xới của con người. Ở đây, bông trái, rau củ mọc lên tốt tươi; Cây cối càng mượt mà, xanh tốt. Giữa màu xanh ấy, mẹ con của cô Uùt Sen đã chịu bao mùa nắng gió, lụt hạn đi qua. Họ đã sống và vượt qua mưa nắng, như có lần, trong đêm đen trên dòng sông phía ngoài kia, họ đã vượt qua số phận bất hạnh để sống còn giữa cuộc đời này.
Cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời, bà Uùt Sen vẫn luôn muốn chứng minh với mọi người rằng ông Hai Hùm là người đàn ông lương thiện. Những ngày gần đất xa trời, bà lão vẫn nói, như trối cùng đàn con cháu của mình:
- Nếu như… bãi đất này có ngày phải lở… nhưng ơn nghĩa của ông Hai đôùi với gia đình mình vẫn mãi còn đầy!
Vì sao như vậy? Bà Uùt Sen kể rằng: Sau khi ông Hai Hùm nhường bãi đất cho mẹ con bà trồng trọt, ông đã lặng lẽ lội ra mé nước ở chỗ sâu hơn để tiếp tục cắm bãi để dành và chờ đợi một bãi bồi khác lại phơi lên.
- Chờ tới chừng nào, bãi ngoài đó mới phơi mặt, hả bác Hai?
Đứa con gái nhỏ của Uùt Sen ngây thơ hỏi người ơn của mẹ con nó. Oâng Hai Hùm trả lời bằng thái độ cương quyết và dứt khoát, với thái độ chọn lựa của mình:
- Năm hay mười năm nữa, cháu à, mà cũng có thể lâu hơn!
Khi ấy, cô Uùt Sen mới biết niềm say mê đất đai trong người đàn ông này đã có từ thâm căn, cố đế. Ao ước ấy lớn lắm, trải qua đã mấy đời người, từ đời ông, cha của anh. Đến đời của anh, việc khẩn đất hoang không còn nữa bởi đồng ruộng đã thành đất thuộc lâu rồi. Cha anh để lại cho con trai sở hữu và trồng trọt đã trên chục mẫu ruộng ; Vậy mà anh vẫn ra cồn bãi lặn hụp cắm dùi và tiếp tục khẩn hoang. Anh biết rằng, dòng sông Hậu vẫn êm ả chảy bên trên, ngày đêm lắng lại phù sa phía dưới lòng và bồi đắp bãi bờ. Giờ đây, bãi sông mà ông Hai Hùm đã chờ đợi bao năm được nhường lại cho hai mẹ con Uùt Sen bạc phận. Uùt Sen biết là mẹ con cô mang nặng tình nghĩa đùm bọc cưu mang của ông lão Hai Hùm. Đời này, kiếp này, mẹ con Uùt Sen biết lấy gì đền đáp lại cho ông Hai? Đó là điều khiến cho Uùt Sen trăn trở trong những đêm mất ngủ của mình.
Cứ như vậy, ngoài thời gian gieo trồng ở đồng trong, Hai Hùm vẫn thường ra cồn bãi dở chà, te cá. Bến sông vẫn ở mé nước. Hai chiếc xuồng của Uùt Sen và Hai Hùm vẫn được buộc chung ở một nọc cầu. Hai Hùm vẫn thường đi ngang qua bãi đất mà ngày xưa anh đã cắm dùi, giờ đây đã thuộc sở hữu của Uùt Sen, để ra bến sông, chỗ cắm bãi mới của mình. Có lúc, anh dừng lại ở mái tranh của mẹ con Uùt Sen để hỏi thăm sức khỏe và cuộc sống của họ. Có lúc, anh lại tạt qua vườn nhà của hai mẹ con để dọn vài bụi cỏ, lại chỉ thêm cho người phụ nữ cách gieo trồng một vài loài cây trái, rau dưa. Có lúc, anh lại thêm sức để vợt vài leng đất đắp gốc xoài, gốc mít giúp cho hai người phụ nữ chân yếu, tay mềm. Có lúc, anh lại buộc dùm sợi dây chằng giữ cột tre cho căn chòi của mẹ con Uùt Sen trụ lại khi nó đang đến hồi xiêu vẹo…
*
Mùa mưa. Cơn mưa chiều trút xuống như có ai đó bưng thau nước dội lên bãi sông này. Dòng sông, dưới cơn mưa, như đầy thêm, đầy vun lên, bò vào đến tận nền nhà. Dưới mái lá thấm đẫm nặng oằn nước mưa, họ ngồi thu lu, mỗi người một góc trên chiếc vạt tre. Người đàn ông đang tuổi tráng niên; Còn người phụ nữ đang thì xuân sắc. Họ không nhìn nhau. Họ hướng cái nhìn ra ngoài bờ bãi. Bên ngoài, mưa gió mịt mù. Trong mái tranh, lòng họ như lửa đốt. Ý nghĩ của họ có nhau. Trái tim của họ có nhau. Cảnh bất trắc của cuộc đời và trong trời đất này khiến họ thấy cần có nhau, muốn nương tựa vào nhau…
Cơn gió mạnh tạt qua khiến cả mái lá như muốn bật tung lên trong nỗi hốt hoảng của cả hai người. Sau giây phút gió giông gào thét ấy, mưa như nhẹ hạt hơn. Người thiếu phụ bừng tỉnh. Người đàn ông thấy bình tâm hơn. Cả hai như cùng nhớ lại cái đêm đầøu tiên họ gặp nhau trong hoạn nạn ở giữa dòng sông. Lâu lắm, anh Hai Hùm mới hướng cái nhìn về phía Uùt Sen:
- Nơi này quạnh quẽ lắm. Cô Uùt đừng ở vậy nữa… Hãy kiếm ai đó mà bầu bạn, tựa nương!
- Anh Hai! …
- Lòng nào mà tui gieo thêm cho mẹ con cô Uùt thêm cảnh khổ!?
Đó là tiếng nói rành rẽ của Hai Hùm. Uùt Sen bật khóc. Hai Hùm chau mày, nén chịu, rồi anh bước xuống đất, đi nhanh ra cửa. Uùt Sen ngồi yên nhìn theo dáng đi chắc chắn của người lực điền. Cô lại thấy hình ảnh anh Hai Hùm với đôi tay rắn chắc đã dồn sức lực vào cây cột lều, ấn cho nó cắm sâu hơn vào lòng đất. Ngoài trời, mưa đã tạnh và cơn gió giông cũng đã qua rồi.
*
Uùt Sen đích thân đến nhà vợ chồng Hai Hùm xin trả đất. Cô cho rằng, từ ngày mẹ con cô sinh sống trên bãi đất này đến nay, mẹ con của cô đã có dư ăn, dư của, có đủ khả năng để mua miếng đất khác mà cất lại căn nhà; Ơn nghĩa của mẹ con cô đối với vợ chồng Hai Hùm đã nặng và mẹ con cô chẳng muốn mang thêm. Vợ chồng Hai Hùm lắc đầu:
- Để ở mà làm ăn, cô Uùt! Trời đất mênh mông mà nghĩa tình có giới hạn thôi. Tui không cho thêm cô Uùt gì hơn được, ngoài bãi đất ấy. Cô Uùt đừng lo nghĩ đến chuyện trả hay đền đáp. Coi như… hồi nẳm, tui cắm bãi dùm cho mẹ con của cô Uùt, mà thôi!
Vợ của Hai Hùm thẳng thắn hơn trong chuyện đàn bà:
- Cô Uùt ngại miệng đời đàm tiếu chớ gì? Chuyện mình mình biết, việc mình mình lo. Tại vì nhà cô Uùt không có đàn ông nên dễ bị thị phi lắm! Cô Uùt lựa coi, có ông nào tâm đầu ý hiệp ưng lấy, rồi lo cất nhà, gã con gái với người ta… Còn ông Hai này… Ai nghi nan, chớ tui tin ổng!
Sau chuyện trả đất không thành, Uùt Sen đành kêu thợ mộc đến, dở gỗ cất lại nhà mới trên nền đất cũ mà ông Hai Hùm đã nhường cho từ những năm xưa. Ngày dựng cột, gác dông nhà Uùt Sen, cả hai vợ chồng của Hai Hùm cùng ra tiếp sức. Năm sau, lúa đồng trong của Hai Hùm trúng lớn. Vợ chồng Hai Hùm lại sửa nhà để nó trở thành một ngôi nhà đẹp với ngói đỏ, cột săng. Mẹ con Uùt Sen lại vào phụ việc với gia đình của hai Hùm. Những người trong làng xóm lắm điều, lại đồn thổi lên “ Thật là… chẳng ai tốt số như thể Hai Hùm của làng này!”
*
Sau này, nhiều lần bà Uùt Sen nói với mọi người:
- Nói có trời đất làm chứng, ông Hai chưa hề thừa lúc vắng người mà nắm lấy tay tôi, chớ đừng nói là có chuyện gì khác. Lời nầy, tiếng kia râm ran… Aáy là tại miệng đời! Tại người ta không tin tôi, không tin người đàn bà ở giá này, nên tội vạ người ta trút hết vô chỗ ông Hai!
Bà Uùt Sen cố nói để minh oan cho người đàn ông mà bà mang nặng nghĩa ơn và yêu quý nhưng chưa bao giờ bà nói với mọi người vì sao bà không đi bước nữa cho đến hết cuộc đời. Vì bà còn oán hận cha của con gái bà hay vì lòng bà đã dành để yêu thương ai đó mà không thể tỏ bày?
Thời gian lặng lẽ trôi qua. Đã có thêm hai thếâ hệ người nối tiếp nhau sống trên cồn bãi ấy. Bãi sông mà ông Hai cắm để dành sau này cũng đã phơi mặt cát bùn. Lúc này, ông Hai đã già không còn đủ sức lặn hụp, gieo trồng, đào xới nữa. Oâng giao đâùt lại cho con trai Uùt, dặn dò con cháu của ông phải sống hòa thuận với mẹ con, bà cháu của bà lão láng giềng. Thỉnh thoảng, ông Hai chống gậy ra thăm bãi sông xưa, thăm mọi người, thăm cả mẹ con, bà cháu bà lão Uùt Sen. Cô Uùt Sen ngày xưa, giờ đây, cũng đã quá già, còm cõi sống với đàn con cháu của mình. Oâng Hai Hùm và bà Uùt Sen vẫn là bậu bạn của nhau. Tình xưa của họ vẫn nặng. Nghĩa xưa của họ vẫn đầøy. Họ đến cùng nhau, bâng quơ trò chuyện; Đôi khi chuyện nọ xọ chuyện kia, vẫn vui,vẫn nói; Đôi khi bất chợt nhớ, bất chợt chạnh lòng thương cảm, nhớ… một chiều mưa, trong mái tranh nghèo, trên tấm vạt tre, cả hai cùng ngồi thu lu, mỗi người một góc, tình nồng mà không trao nhau!
Vậy mà đã mấy mươi năm qua! Bao mùa mưa nắng. Bao mùa bông trái. Bãi sông xưa vẫn xanh ngát một màu.
XA LẮC CỒN TE
- Đò ơi!
Thầy Bá Tri đứng bên này bờ, gọi vọng ra phía giữa dòng sông. Tiếng ông vang lên, lan tỏa trong không gian, chập chờn trên mặt sóng. Tiếng gọi đò của ông, có lẽ, cuối cùng chỉ còn được âm “ ơi” đã mỏn hơi bay đến bờ bên kia. Oâng gọi nhồi thêm một tiếng, một tiếng nữa, rồi đứng đợi. Oâng ngó mông về phía mình đã gọi nhưng không thấy gì cả. Đêm cuối tháng khiến cho nơi ấy như hòa với dòng sông làm một, mù mịt, xa khơi. Oâng cố gắng lắng nghe nhưng không có âm thanh nào vọng về ngoài tiếng sóng vỗ dạt dào, như là ở đó không còn tồn tại. Có ai nghe thấy và qua đón mình không? Thầy Bá Tri tự hỏi và bất giác thấy buồn.
Đã nhiều lần, người ta nói với thầy Bá Tri là cồn đất này rồi sẽ lở đứt thôi, sẽ không còn gì cả, cả cái trường tiểu học bằng tre lá và đám học trò lam lũ của ông. Rất nhiều người khuyên ông nên kiếm một trường khá mà xin chuyển về cho yên thân, ấm chỗ lúc tuổi già. Vợ ông nói, như bâng quơ:
- Chẳng có của hờ nào dành sẵn đợi mình, mà cồn đất đang lở ấy mang đến cho ông cái gì mà ông đeo đẳng?
Thật là… ông chẳng muốn nghe những lời như vậy. Ông lấy làm tiếc là bộ nhớ của ông, hay nói chung là bộ nhớ của con người, không đủ sức để loại ra những chuyện thị phi. Mặc tình cho chúng đi về trong đầu, ông vẫn cứ đến nơi mà ông muốn đến.
*
Cồn Te, cách đây hơn hai mươi năm, không phải như bây giờ. Nó đã trải qua thời kỳ phồn thịnh trước đó rất lâu, mỡ màng, tươi trẻ và đầy sức sống. Phù sa sông Hậu đã sinh ra nó. Mỗi khoảnh khắc của dòng chảy đã tạo dựng nên, cho đến cả trăm năm, nó trở thành cồn đất như cái đĩa úp nằm giữa lòng sông Hậu. Nó quần tụ về đây hầu hết là dân chài. Cuộc mưu sinh của nhóm người này đã mang đến cho nó cái tên cồn Te. Aáy là do những người sống ở ven bờ sông Hậu đặt tên như vậy, khi đêm đêm họ nhìn thấy đèn của dân chài giăng mắc te cá quanh cồn.
Thầy Bá Tri biết đến cồn Te khi ông còn rất trẻ. Hồi ấy, ông là tập viên tham gia phong trào bình dân học vụ của tỉnh nhà. Bấy giờ, cồn Te đã nổi lên khỏi mặt nước có đến hai trăm tuổi mà vẫn đầy vẻ sơ khai và hoang mạc. Đây đó lơ thơ vách lá, mái tranh của dân chài. Chòm đốm lùm bụi hoang dại và do dân làng chài trồng; Tất cả đều không có trật tự, quy củ. Ở đây không có đường sá. Người ta băng qua các lùm bụi, bờ bãi mà đến với nhau. Lối đi mà người ta thiết lập cũng của riêng mỗi nhà, là con đường ra với dòng sông. Cuộc sống của cư dân ở đây đều hướng về sông Hậu, cả mùa nắng lẫn mùa mưa, cả những tháng mặt đất ráo khô lẫn những ngày nước lụt lêu bêu sóng nước. Một số người te cá. Số người còn lại đưa đò, chở hàng mướn, vác bờ ở các bến chợ, bến sông quanh cồn Te và ở bên bờ sông Long Xuyên. Đất cồn Te không đủ rộng, không đủ nhiều để người ta chiếm hữu, khai phá để trồng trọt. Đối với dân cồn Te, có chỗ để ở là đã quý; Còn lại, vẫn cứ là “ gạo chợ, nước sông…”. Ở đây không có điện, chưa bao giờ có và sẽ không bao giờ có! Ở đây sẽ mãi mãi tù mù ngọn đèn dầu chai hoặc là đèn bình bằng pin hay sạc điện, mặc dù bên kia bờ là thành phố Long Xuyên ở cách cồn Te chưa đầy năm trăm mét đường sông mà đèn điện sáng choang từ trong nhà của các khu dân cư ra đến đầu đường, cuối phố. Có lẽ, số phận của cồn đất này như vậy! Chỉ có dân tứ xứ đến đây ngụ cư. Còn dân cố cựu ở vùng đất trù phú ven sông Hậu, chẳng ai màng đến cồn đất này. Có lẽ, người ta không tin cồn đất nhỏ này là nơi vững chắc để gầy dựng sự nghiệp trăm năm cho bao đời con cháu, như lời người xưa truyền lại: “có bồi thì có lở, đó là quy luật tự nhiên”.
Đã mấy mươi năm, thầy Bá Tri cứ suy nghĩ về sự hữu hạn của cồn Te và của đời người. Oâng cứ âm ỉ buồn và cay đắng. Oâng nhớ, ngày đầu tiên ông đến đây để mở lớp bình dân học vụ, cả trẻ nhỏ lẫn người lớn đều trố mắt nhìn ông:
- Oâng thầy tới đây, tính mần gì?
- Giúp cho bà con ở đây biết đọc, biết viết chữ!
Mấy người đều cười:
- Chữ nghĩa mần chi, thầy ơi! Tụi tui ở đây, chỉ sống qua ngày!
Trong tình thế như vậy, ông biết những lời hoa mỹ của việc biết chữ, của tri thức trở thành vô ích. Oâng tìm đến người từng được xem là đại ca trên cồn đất này, ông Ba Đời, thợ cái của trại đóng hòm. Đó là người đàn ông đã trên tuổi tứ tuần, có thân hình vạm vỡ, chắc khoẻ. Trên gương mặt sạm đen của ông ta, vết sẹo dài ghi lại dấu vết của một thời giang hồ, oanh liệt của ông ta. Khi nghe thầy Bá Tri nói rõ mục đích đến cồn Te của mình, mắt ông Ba Đời ánh lên niềm vui pha lẫn nỗi xót xa. Oâng Ba Đời ngồi vỗ đùi:
- Dân ở đây là vậy, chuyện gì cũng chẳng hiểu hết. Ông thầy đừng buồn tụi nhỏ!
Oâng Ba Đời kể lại, khi trại đóng quan tài mới kéo gỗ đến, cắm sào ở cồn Te, người ta hỏi nhau:
- Ở đâu tắp vô?
- Trên miệt biên giới giạt xuống!
- Hết chỗ tắp! Sao lại tắp chỗ này, ở đây có mấy mống?
- Trời! Ai mà nhắm vô đám mình! Là người ta dành cho dân bên chợ kia!
- Dành cho dân bên chợ, sao không đặt bên chợ? Đặt ở đây, ghê quá!
Oâng Ba Đời hạ giọng, nói với thầy Bá Tri:
- Thầy coi, tụi nhỏ hỏi như vậy, có phải dại không? Chỗ hoang vu, quạnh quẽ, người ta mới làm đất nghĩa địa, mới đặt trại hòm. Ở chỗ chợ búa đông người, ai mà chịu chứa thứ đó?! Có ai sống nổi khi mà kè kè bên lưng là cái quan tài đâu? Vậy mà…
Oâng Ba Đời thở hắt ra:
- Người ta cạnh tranh với nhau, đã mở trại hòm thứ hai ở đây rồi, như thầy thấy đó! Còn tui thì … nghỉ te cá, nghỉ đưa đò, làm thợ đóng hòm kiếm sống mà nuôi vợ, nuôi con.
Đó là câu chuyện cứ ở trong bộ nhớ của thầy Bá Tri. Sau cuộc gặp gỡ đó, ông Ba Đời đã giúp thầy Bá Tri mở lớp bình dân học vụ. Lớp học gồm khoảng mười học viên, cả trẻ nhỏ và những người phụ nữ nhàn rỗi. Lớp học duy trì không lâu. Sau đó, thầy Bá Tri đi học trường sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, thầy được bổ nhiệm làm giáo viên dạy ở trường tiểu học tại chợ Long Xuyên. Rồi, có một lúc, thầy Bá Tri bỏ trường, bỏ lớp, “ đi làm mướn kiếm tiền”. Thầy Bá Tri vẫn ví von thời gian đi làm kế toán cho công ty của bạn ông như vậy. Sau đó nữa, thầy lại trở về ngành giáo dục.Lãnh đạo ngành hỏi thầy muốn về trường nào. Bộ nhớ của thầy hướng về cồn Te, nơi mà ngày xưa thầy đã làm giáo viên của phong trào bình dân học vụ. Người đầu tiên phản đối là vợ thầy.
- Tưởng là ông đi ba đồng, bảy đổi sẽ làm nên chuyện gì! Cuối cùng, ông lại về làm hiệu trưởng ở cái trường khỉ ho, cò gáy đó! Cồn đất đó, tôi nghe người ta nói, là đang lở… Thế nào cũng có ngày … ông xuống thăm hà bá đó!
- Như vậy thì đã sao? Tôi cứ đến đó!
Đó không chỉ là câu trả lời bướng bỉnh của thầy Bá Tri với vợ mà là quyết định của ông. Oâng đã nhận quyết định bổ nhiệm rồi. Oâng biết mình chẳng phải là người đầu tiên của trường tiểu học ở cồn Te; Oâng chỉ là người về thay chỗ cho người đến trước. Trường tiểu học cồn Te đã được thành lập hơn hai mươi năm. Các thầy, trò ở đây đã dạy và học và đã trải qua hai đời hiệu trưởng; Đến thầy Bá Tri là đời hiệu trưởng thứ ba. Bao nhiêu thầy, cô giáo đã dày công với việc giáo dục ở trên cồn đất đang lở này. Học trò trường tiểu học cồn Te, có người đã tốt nghiệp trường sư phạm và trở về đây dạy học, nơi mà trước đây họ đã học lớp vỡ lòng. Còn thầy Bá Tri, tuổi trẻ và sự sung mãn của đời ông đã trút về nơi khác. Ở đó, học trò kẻ chợ chăm học, ngoan ngoãn, lễ phép, có đủ điều kiện để mua sách vỡ, viết mực, quần áo, giày dép. Có trò được sống trong hoàn cảnh gia đình khá giả, cha mẹ còn dư tiền để mời thầy giáo về kèm cặp, dạy học tại nhà riêng. Ở đó, mái ấm gia đình mà thầy Bá Tri nếm trải là cả mật ngọt của hạnh phúc lẫn nhiều điều đau xót làm buốt nhức cả tâm hồn. Có một thời gian dài, lương và các chế đôï chính sách dành cho giáo viên rất thấp, thấp đến mức mà những người thầy có lý tưởng nhất cũng cảm thấy khó có cơ hội sống với nghề nghiệp. Đó là bước ngoặt quan trọng trong đời sống của vợ chồng ông và cũng là bước ngoặt trong cuộc đời dạy học của ông. Oâng cảm thấy như mục tiêu của nhiều người lúc ấy là tiền, là lợi ích vật chất chứ không phải là chữ nghĩa, là tri thức hay là những chuẩn mực của đạo lý làm người. Vợ của ông cũng vậy. Lúc ấy, bà ấy rất cần tiền để lo cho đàn con ba đứa. Bối cảnh ở trường lớp và những thúc bách của đời sống gia đình đã luôn là áp lực đối với tinh thần của thầy Bá Tri. Một người giáo viên như ông làm gì để có thêm tiền, ngoài đồng lương ít ỏi của mình? Oâng biết, đồng lương ấy, dù có mang hết về cho vợ con thì cũng chỉ đủ cho cả nhà với những bữa cơm đạm bạc. Trong ý nghĩ của ông, một người thầy có lương tâm không thể nghĩ cách kiếm sống từ túi tiền của học trò mình. Vậy mà vợ ông cứ ngày đêm phê phán ông là chậm lụt, là gàn dở, là cực đoan, là lý tưởng huyễn hoặc, khi ông từ chối không chịu nhận học trò về nhà dạy thêm để kiếm tiền phụ trội.
- Làm như vậy thì làm sao “ thầy ra thầy, trò ra trò ” nữa?
Vợ của ông đã không hiểu điều đó, hoàn toàn không hiểu. Bà chỉ cần có tiền. Cuộc xung đột đã khiến vợ chồng của ông sống ly thân trong một thời gian dài. Sau đó, vợ ông đã đem con về sống nhờ cha mẹ ruột. Câu hỏi lớn luôn ở trong đầu của ông lúc này, là ông đúng hay vợ của ông đúng? Oâng không tự trả lời được. Khi hạnh phúc của gia đình ông đang ở bên bờ vực thẳm, người bạn học cũ của ông đã giải đáp dùm ông:
- Vậy thì ông cứ bỏ cái nghề dạy học đói khổ ấy đi! Theo tôi mà kiếm tiền. Oâng chẳng phải lo vì có tiền mà lỗi đạo thầy, trò chi cả!
Ở đó, ông đã có cái mà vợ của ông cần là tiền. Bạn của ông đã dành cho ông một vị trí béo bở trong công ty của ông ta là kếâ toán. Giám đốc được thì kế toán cũng được chấm mút, cậy nhờ. Cuộc liên minh ma quỷ ấy đã khiến cho ông nhiều lúc chẳng biết mình là ai nữa. Trước mắt của ông và bạn ông là những con số, là tiền triệu, tiền tỷ, là lợi nhuận, là ăn chia. Họ không muốn bàn bạc với nhau điều gì khác. Họ quy ước với nhau là đừng bao giờ đem đạo đức lên bàn cân. Tiền và đạo đức không cùng thước đo. Họ xác định, cái mà họ cần là tiền chứ không phải là đạo đức.
Không còn là mình nữa, khi ở đó, ông phải giả vờ như không nhìn thấy cô thư ký trẻ chỉ trang lứa với con gái của ông bước ra khỏi phòng giám đốc với vẻ lúng túng mà ngực áo của cô chưa kịp cài kín nút. Không còn là mình nữa, khi ở đó, người học trò cũ của ông, đang là khách hàng của công ty, đã bá vai ông, gọi ông bằng anh. Sau đó, khi trò chuyện với giám đốc công ty, cậu ta đã dùng cụm từ “ ông già kế toán” để ám chỉ ông, người thầy đã từng dạy cho cậu ta bài học vỡ lòng. Bạn ông, giám đốc công ty, đã an ủi ông bằng cái cười khẩy:
- Nó đã chẳng nhận ông là thầy thì ông còn xem nó là trò, làm chi, cho mệt xác?!
Oâng không thể tự an ủi mình bằng cách xử sự ấy; Bởi vì, ông đã chẳng quên được quá khứ của mình và vì bởi đó lại là quá khứ vàng son, đẹp đẽ trong đời ông. Oâng biết, cuộc tranh chấp được thua trên thương trường khiến cho người ta khó lòng kính trên, nhường dưới được. Và chính ông, sau đó, cùng với giám đốc của ông đã gài bẫy để hạ đòn, khiến cho tên học trò vô lễ ấy “ đo ván” trong một hợp đồng mua bán. Cậu ta đã chết vì thất bại, vì nông nổi, vì sự hãnh tiến hợm hĩnh của mình dưới tay hai lão “ cáo già” mà trong đó có ông là người thầy đã dạy cho cậu ta bài toán số học đầu tiên. Sau cú đánh bại cậu học trò ấy, ông không thấy hả dạ mà chỉ thấy buồn, buồn da diết. Còn việc gì nữa mà ông không làm trong các thủ đoạn kinh doanh, khi mà cái được thì ông đã được là tiền và cái mất thì ông đã mất hết, kể cả lòng tự trọng và lương tâm của một người thầy?
Sau đó, không còn gì nữa thật. Công ty của bạn ông đã giải thể. Giám đốc bị kỷ luật. Kế toán bị sa thải. May mà không ai bị tội hình sự hay dân sự. Tất cả bị cảnh cáo vì thiếu tinh thần trách nhiệm. Thoát nạn! An toàn trong vỡ lở! Oâng chán chường, mệt mỏi, mệt mỏi đến quá sức! Oâng trở về nhà, cứ rúc ở trong nhà, hết ngày này qua ngày khác, đến cả năm trời, dày vò vì không sao hiểu nổi những điều ông đã trải qua!
*
Sau hơn hai mươi năm, thầy Bá Tri trở lại cồn Te, thấy ở đây vẫn chẳng có gì khác trước. Vẫn xác xơ những mái tranh, vách lá. Vẫn chẳng hình thành lối dọc, đường ngang. Vẫn tù mù trong đêm những ngọn đèn dầu chai. Chỉ dân số là đông lên gấp năm lần so với trước. Người ta sinh đẻ thêm và thêm người lưu lạc từ nơi khác đến. Một trường tiểu học được thành lập với năm gian phòng dành cho năm cấp lớp. Hai trại đóng hòm đang hồi phát triển, là loại lớn nhất nhì so với các trại khác ở quanh vùng. Thầy Bá Tri gặp lại ông Ba Đời. Người đàn ông giang hồ đã lão rồi, vẫn là cố vấn cho trại đóng hòm, dạy nghề cho đám thợ trẻ. Ông lão ngủ luôn ở trại hòm theo yêu cầu của ông chủ.
- Oâng già Ba hay lắm! Đêm, ổng ( ông ấy) nghe được tiếng “ vong” đi lựa hòm. Sáng nào ông chủ hỏi “ Có nghe không?”, ổng gật đầu, là ngày hôm đó có người đến trại nhấc xuống.
Thầy Bá Tri nghe dân trên cồn nói, chỉ cười. Người già thiên sống về tâm linh. Oâng vẫn nhớ như in, ngày ông đến nhờ ông Ba Đời vận động mở lớp Bình dân học vụ. Nghe ông nhắc lại chuyện cũ, lão Ba Đời ngẩn người giây lát rồi lại vỗ đùi cười:
- Vậy là thầy giáo hồi đó đây, a! Tội nghiệp dữ chưa, sao bây giờ trở lại? Ở đây, đất lở gần đứt hết rồi, thầy ơi! Dời trường hai lần rồi. Trại hòm này cũng dời mấy lần rồi… Còn dời lần nữa… Chắc là dời khỏi đây thôi!
- Còn trường là còn dạy, ông ơi!
- Tốt! Tốt quá! Học trò ở đây nghèo lắm, thầy ơi! Tiền trường không đóng nổi, cũng xin! Tập sách, viết mực không có tiền mua, cũng xin. Cái ghế, cái bàn ngồi học bị hư , gãy cũng xin cây ván của trại hòm để sửa. Vậy mà thầy cô giáo không bỏ! Thiệt là … mang ơn hết sức!
Tiếng gọi “ thầy, cô ” của ông lão giang hồ nghe thật ngọt ngào, như xoáy vào tim thầy Bá Tri. Oâng biết, ông trở về dạy học ở cồn đất đang lở này là đúng, dù có muộn màng.
*
Đã nhiều đêm, như đêm này, thầy Bá Tri lặng lẽ ra khỏi nhà, không nói với vợ là đi đâu, để một mình tản bộ ra bờ sông, đứng giữa không gian thoáng đãng trước trời và nước, ngóng về phía bờ bên kia. Nơi ấy, cồn Te như xa lắc. Nơi ấy, có trường tiểu học nhỏ nhất, nghèo nhất so với các trường khác ở xứ Long Xuyên này. Sự thương cảm trong lòng của thầy Bá Tri, người hiệu trưởng già sắp đến tuổi về hưu, không chỉ dành cho đám học sinh nghèo khó của trường mình mà còn có cả cái tình ông dành cho cồn Te, một cồn đất có số phận hẩm hiu này nữa. Chuyện cồn bồi, đất lở , từ xưa đến nay, chẳng phải là sự lạ, nhưng nghĩ đến ba trăm năm hoang mạc của cồn Te chỉ để cưu mang những con người lưu lạc, tứ xứ giang hồ, cho đến những ngày này… ông cứ thấy chạnh lòng.
Dân lưu lạc, giang hồ ấy, có người, như chị lái đò, mỗi ngày đưa đón thầy Bá Tri qua sông mà không chịu lấy tiền đò, vẫn gọi thầy Bá Tri là “ thầy” và xưng “ con” . Chị cười lỏn lẻn , giải thích:
- Hồi con còn nhỏ, được thầy dạy trong lớp Bình dân. Con học tới chữ NG ghép thì nghỉ học luôn, cho tới bây giờ! Thầy không nhớ con, là phải rồi! Hồi đó, con mới mười hai tuổi!
Chị lái đò lại khoe. Giờ đây, ba đứa con của chị từng là học trò của trường tiểu học cồn Te. Chị hãnh diện về điều đó, về việc các con chị đi học, năm nào tụi nhỏ cũng được lên lớp. Bây giờ, chị lại có niềm hãnh diện khác:
-Thầy dạy chữ cho má hồi xưa, bây giờ, đang làm hiệu trưởng ở trường của các con!
Có lần, chị lại nói với thầy Bá Tri:
- Con ước mấy đứa nhỏ của con học giỏi, học lên cao hơn, để sau này được làm thầy cô giáo như thầy, cô!
Chị lại khoe với thầy Bá Tri:
- Chữ ký mà con ký trong tờ đơn xin giảm tiền trường cho thằng Tủng, vì nhà quá nghèo, là của con chớ con không nhờ ai ký giùm đâu, nghe thầy!
Thầy Bá Tri cười, nhận tờ đơn với chữ ký nguệch ngoạc, có lẽ được gò từ bàn tay ô dề, chai sạn của người phụ nữ lao động, vì từ hồi bé bàn tay ấy chỉ ròng giữ lấy mái chèo.
Vẫn loáng thoáng đi về trong ký ức thầy Bá Tri cái đêm khó quên trên cồn đất lở ấy. Đêm ấy, anh Chẳn, chồng chị lái đò, đón thầy Bá Tri qua sông, rồi chèo một mạch, nhắm chỗ có ngọn đèn bão treo lủng lẳng phía bờ cồn mà ghé. Đó là đèn chong của trại hòm, phía dưới là cầu, bến riêng của trại.
- Vợ con dặn con nói với thầy là “ thầy đừng đi mình ên qua gặp ông Tám Tẻn, nguy lắm!” Oång xúi tụi con nhận chìm đò để cho thầy, cô rớt xuống sông mà tởn mặt, sẽ hết bắt tụi con dời bến đò ra khỏi trước cổng trường. Tụi con, không ai nghe theo! Ai mà làm như vậy được? Tội lỗi với các thầy cô! Bây giờ, con đưa thầy qua trại hòm, cậy ông Ba đi với thầy tới gặp Tám Tẻn. Coi vậy mà y sợ ông Ba, một phép!
Đêm ấy, ông Ba Đời chống gậy tre, đi với thầy Bá Tri, đến nhà Tám Tẻn. Cũng như những căn chòi khác trên cồn Te, cái vạt tre của nhà Tám Tẻn run lên, kêu cót két, như không chịu nổi sức nặng của ba người đàn ông. Lũ nhỏ của nhà Tám Tẻn đang chen nhau trong chiếc mùng vá chùm, vá đụp. Chẳng có gì khác ở Tám Tẻn, người đàn ông “ đứng bến đò” này, với những người lao động khác, vẫn là gương mặt sạm đen vì nắng gió. Oâng Ba Đời vẫn thấp thoáng nét giang hồ, tứ chiến năm xưa, mặc dù râu tóc của ông đã phau phau bạc trắng. Oâng lão Ba Đời vỗ nhẹ xuống vạt tre, ngó thẳng mặt tám Tẻn, hỏi dằn:
- Con mày có đi học ở trường của thầy Tri không?
- Da,ï có!
- Thầy cô ở trường có phân biệt đối xử , có ghét bỏ con mày không?
- Da,ï không!
- Nhà trường yêu cầu mình dời bến đò đi, tránh cổng trường, là để sinh họat bến bãi không ảnh hưởng đến chuyện học hành của mấy đứa nhỏ. Thầy, cô dạy cho con cháu mình học lời hay, tiếng tốt, dạy cư xử lễ độ, ăn ở có phép tắc, biết kính trên nhường dưới, là để sau này ai nhờ? Tụi bây không biết phải quấy, lấy oán báo ơn, đòi nhận chìm đò của thầy cô, là nghĩa làm sao?
- Oâng Ba ơi! Tụi con tính dời bến đi chỗ khác mà sợ tréo đường, ế khách. Tụi con làm không ra tiền, biết lấy gì mà sống?
Thầy Bá Tri nhìn ánh mắt đau khổ của Tám Tẻn, cảm thấy lời đe dọa của anh ta trước đây như bay theo mây gió. Còn lại, trước mắt thầy Bá Tri, một người đàn ông khốn khổ, chật vật vì chén cơm manh áo của cuộc sống gia đình. Oâng lão Ba Đời hạ giọng:
- Bến dời thì khách dời theo. Mày liệu, dân trên cồn này được mấy mống mà tính giành, tính giựt? Mình phải biết nhường nhịn vì… con cháu của mình! Mai kia, cồn đất này lở đứt rồi, bến đò còn biết đặt ở đâu? Bây giờ, tụi bây làm vậy sẽ mang tiếng xấu cùng còn cháu?
- Dạ!
- Tao, dẫu đã già yếu, con mắt mờ mịt nhưng nghe thấu hết. Tụi bây làm khó thầy cô đằng trường là quấy quá, sao đáng mặt giang hồ? Tao, lời ít, ý nhiều. Tụi bây tính lại đi, có dời bến hay không, ngày mai tới trại hòm, nói cho tao biết!
Đêm ấy, thầy Bá Tri về nhà, đặt lưng xuống giường, ngủ một giấc đầy, tới sáng. Có lẽ, đêm ấy là đêm mà ông thấy lòng thanh thản nhất. Đêm như sâu hơn. Trời đất như rộng ra. Gió từ sông Hậu như thổi vào ông mát rượi, tronglành.
*
Đã nửa năm rồi, phía đầu cồn Te sụp lở dữ dội. Chính quyền địa phương báo động. Lệnh di dời dân được thực hiện triệt để, dời khỏi cồn chứ không dời lui xuống đuôi cồn, trước hết là trường học, sau đó là nhà dân. Cụm dân cư đã được chính quyền địa phương sắp xếp nơi khác để chuyển dân cồn Te dời đến. Trường tiểu học cồn Te phải chuyển học sinh đến trường khác học theo di dời của gia đình. Thầy cô giáo trở về phòng giáo dục nhận quyết định bổ nhiệm về trường khác dạy.
Trong không khí ấy, trường tiểu học cồn Te như đàn ong vỡ tổ. Tản lạc! Tản lạc hết cả, cả thầy và trò! Thầy Bá Tri vẫn ngày hai buổi sang đò, đến trường giải quyết thủ tục để thầy trò trường tiểu học cồn Te chuyển trường, chuyển lớp. Khi xong hết việc, thấy Bá Tri mới thấy buồn, nỗi buồn thấm đẫm cả tim óc, thịt da. Oâng, người hiệu trưởng già, là người cuối cùng rời khỏi trường tiểu học ở cồn đất đang lở này, giống như thuyềân trưởng của con tàu bị đắm vậy. Mười năm cuối trong đời giáo viên của mình, ông đã gắn bó với trường tiểu học cồn Te. Giờ đây, thầy Bá Tri không còn muốn chuyển đến trường nào khác nữa.
Nhiều ngày sau đó, thầy Bá Tri lại lẩn thẩn sang đò qua cồn Te, tìm về trường cũ. Ngôi trường đã bị phá dở tan hoang, chỉ còn nền đất và xác lá. Trên cồn, giờ chỉ thưa thớt vài nhà dân cố bám lại với hy vọng “ đầu lở, đuôi bồi”. À ! Biết đâu! Thầy Bá Tri cũng hy vọng như vậy! Thầy Bá Tri lại gặp ông lão Ba Đời:
- Sao ông Ba không dời đi? Ở đây, nguy hiểm lắm!
- Dà! Đi chớ, ông thầy! Nhưng mà tui không đành lòng! Nán nán lại, ít lâu… rồi sẽ đi…!
Người mà thầy Bá Tri không ngờ gặp lại trên cồn đất lở đang tiêu điều, tan tác này là cô Bé Hai. Cô Bé Hai là giáo viên dạy giỏi của trường, người từng được sinh ra và lớn lên trên cồn đất này, từng là học sinh của trường tiểu học cồn Te và sau này đi học trường sư phạm. Sau khi tốt nghiệp, cô Bé Hai xin trở về dạy học ở trường tiểu học cồn Te này.
- Gia đình của cô đã dời khỏi đây hết chưa?
- Dạ! Nhà con đã dời hết rồi, thầy!
- Cô đã nhận nhiệm vụ ở trường mới chưa?
- Dạ! Con đã nhận rồi, thầy!
- Ở trường mới dễ chịu không?
- Dạ! Con thấy cũng…dễ, thầy!
- Sao cô lại trở về đây, làm gì?
- Dạ! Con về thăm trường, thăm cồn…
Cô giáo trẻ run giọng, mắt ngân ngấn nước
- Sao cô khóc? Cô…
Thầy Bá Tri kịp ngừng lời. Oâng không hiểu sao mình lại hỏi cô Bé Hai như vậy. Cô Bé Hai không thể trả lời. Chính ông cũng không thể tự trả lời.
*
Đêm này, thầy Bá Tri lại ra bờ sông, ngóng qua cồn Te, gọi đò và đứng đợi. Oâng không biết mình muốn qua sông để làm gì. Oâng làm theo tiếng gọi của tâm tưởng. Nỗi nhớ cứ cồn cào, cựa quậy trong ông. Oâng hiệu trưởng già đã về hưu nhớ hoài ngôi trường tiểu học nhỏ nhất, nghèo nhất và đám học trò lam lũ của mình.
VanVN.Net - Hưởng ứng tinh thần “Trẻ em là hiền tài và nguyên khí của quốc gia” theo kế hoạch phát triển giáo dục đến năm 2020. Từ ngày 3-8/8/2011 tại Trung tâm Triển lãm Giảng Võ (148 Giảng Võ – ...
VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...
VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...
VanVN.Net - Duyên phận luôn được định đoạt và nhiều khi tình yêu tới không chỉ đơn thuần là vô cớ. Ẩn chứa sau một chiếc nhẫn cổ là vô số bí mật đến bất ngờ…
Tiếp tục chương trình hoạt động của kỳ họp thứ 4 (Khóa VIII), hôm nay, ngày 7/8/2011, BCH Hội Nhà văn VN đã có chuyến đi thực tế tại trại sản xuất giống tu hài của công ty TNHH Đỗ Tờ ...
VanVN.Net - Nửa đầu thế kỷ XIX là sự bắt đầu vương triều Nguyễn với cuộc lên ngôi của Gia Long vào 1802. Tôi muốn gọi đó là một thời “khó sống” khi viết về Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn