VanVN.Net - Tadeusz Rozewicz sinh ngày 9 tháng 10 năm 1921 tại Radomsko, Ba Lan, tốt nghiệp khoa sử tại trường Đại học Jagielonski thành phố Krakow. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, ông tham gia quân du kích, chiến đấu ở trong rừng. Cũng chính trong thời gian đó tác phẩm đầu tay của ông “Tiếng vọng của rừng” đã được trình làng
Trước ngày chiến tranh kết thúc, kẻ thù đã giết hại người anh ruột của ông cũng là một nhà thơ và chiến sĩ du kích. Đối với ông, những gì xẩy ra ở trại giam Oswiecim là một cú sốc mạnh, là tội ác tầy trời, là mối thù muôn đời muôn kiếp không tan. Ông cho rằng những sự kiện đau thương ở Oswiecim không thể không tác động tới diện mạo của thi đàn Ba Lan. Thơ sau Oswiecim phải lớn tiếng nói lên thảm hoạ của người đã bị giết hại, của người còn sống và phải mang phong cách mới. Để trả lời câu hỏi: “Liệu có còn thơ sau các vụ giết người hàng loạt ở Oswiecim?”, ông nói:
Một nhiệm vụ đang chờ tôi:
Xây dựng một nền thơ sau Oswiecim
Dưới tác động của những đau thương mất mát do chiến tranh gây ra, Rozewicz đã lao vào cuộc cách tân thơ, một cuộc cách mạng tổng hợp trên thi đàn Ba Lan sau chiến tranh. Ông chủ xướng thơ mới - thơ tự do, thơ không vần dựa trên nền tảng của cái gọi là sự tích tụ, thể thơ như vậy chứa đựng và chuyển tải được nhiều nội dung hơn thơ theo lối cũ. Hai tập thơ liên tiếp của ông Không bình yên (1947) và Chiếc găng tay đỏ (1948) là hai tập thơ đã thực hiện một cuộc cách tân thực sự, là những thể nghiệm thành công của ông. Những tập thơ đầu của ông thực chất là những tập hồi ký bằng thơ về thế hệ của ông, về nỗi đau mà ông từng nếm trải do đất nước bị chiếm đóng. Rozewicz đã tạo được cho mình một phong cách riêng, một ngôn ngữ riêng và thực tế cho thấy bạn đọc đã thực sự mến mộ phong cách và ngôn ngữ ông dùng. Cuộc cách tân mà ông chủ xướng đã làm thay đổi ít nhất là hai lĩnh vực văn học ở Ba Lan sau chiến tranh: thơ và kịch. Làn gió thơ mới đã thổi vào thi đàn Ba Lan, đem lại cho thi ca luồng sinh khí mới. Các nhà thơ Przybos, Staff và Milosz là những người ngay từ buổi đầu đã thấu hiểu mục tiêu cách tân thơ mà Rozewicz theo đuổi. Staff công nhận rằng, ông đã chịu ảnh hưởng của Rozewicz và càng quý trọng ông. Dẫu rằng giữa Czeslaw Milosz và T. Rozewicz còn nhiều điểm bất đồng, nhưng bằng phong cách của mình, chính Rozewicz đã thực hiện một trong những yêu cầu cốt yếu mà Milosz đòi hỏi - đó là dạng thức dung lượng lớn trong thơ cũng như trong trường ca. Trong một bài thơ của mình gửi Tadesz Rozewicz nhà thơ được giải Nobel này đã viết:
May mắn thay một dân tộc có nhà thơ
Không bước đi lặng lẽ trong khốn khó của mình.
Giờ đây, chăm lo cho sự phát triển của nền thi ca Ba Lan, ông đặc biệt quan tâm tới các nhà thơ trẻ. Ông kêu gọi họ phải tôn trọng sự thật, không nên viển vông xa lạ, phải bám sát cuộc sống đời thường. Ông nói: Để thơ có thể là thứ thiệt thì người làm thơ phải bắt đầu từ “miêu tả bộ mặt của chính mình” và những sự việc tưởng như chẳng có gì ghê gớm nhưng lại tác động tới hình thái của cuộc sống con người. Theo ông, nền thi ca đương đại Ba Lan chưa thật sự ăn nhập với cuộc sống, chưa mạnh dạn nhìn vào thực tế. Cần xác định một điều là, nhà thơ phải có trách nhiệm với mình và với dân tộc.
Trong gia sản quý giá gồm hàng chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch của Tadeusz Rozewicz chúng ta phải kể đến các tác phẩm sau đây: “Không bình yên” (1945-1946), “Chiếc găng tay đỏ” (1947-1948), “Những nụ cười” (1945-1956), “Thời gian đang trôi” (1950), “Thơ và những bức tranh” (1951-1952), “Bình nguyên” (1953-1954), “Bông lúa bạc” (1954-1955), “Trường ca mở” (1955-1957), “Trò chuyện với thái tử” (1960), “Bông hồng xanh” (1961), “Bộ mặt thứ ba” (1968), “Regio” (1969), “Thơ” (1971-1976), “Văn xuôi” (1973), “Bề ngoài và bên trong trường ca” (1983), “Tranh điêu khắc” (1991) v.v... Đặc biệt, với tác phẩm rất xuất sắc “Mẹ ra đi” viết về người mẹ đã quá cố của mình, ông đã được tặng Giải thưởng văn học NIKE (Nữ thần Chiến thắng) năm 2000, giải thưởng văn học hàng năm lớn nhất của Ba Lan.
CHÙM THƠ CỦA TADEUSZ ROZEWICZ
Lê Bá Thự dịch và giới thiệu
Nhà thơ về hưu
Tặng Czeslaw Milosz
Ngồi xuống ghế
cởi mục kỉnh
nhắm hai mắt
lau mục kỉnh
giở tờ báo nhìn quanh thế giới
gập báo và đứng dậy
loạng choạng
chống ba-toong
đọc dòng chữ
trên thành ghế
chân bước, miệng lẩm nhẩm
lão trò chuyện với các nhà thơ
dưới mồ
hai người đàn bà
bước lại hỏi nhà thơ
ngài có đọc thánh kinh
có tin địa ngục
chấm dứt thiên đường trên mặt đất
nhà thơ lắc đầu, cười
về già lão ưa
trò chuyện với những người
im lặng
lão bước tiếp
ngồi xuống ghế
ngắm mây trời
một con quạ
bay tới
xuyên chiếc lông đen
qua miệng nhà thơ
khép lại
rồi bay đi.
Con chim hổ phách
Mùa thu
con chim hổ phách
suốt trong
chuyền cành
mang giọt vàng
Mùa thu
con chim rubi
long lanh
chuyền cành
mang giọt máu
Mùa thu
con chim xanh
lìa đời
hạt mưa rơi
chuyền cành.
Sống
Sống
trong cửa quay
tôi viết
truyện và
kịch
và đây là một trong “những bí mật”
của vở kịch của tôi
trước khi ý tưởng vào
bên trong cửa với “nhân vật chính”
nó đã ở ngoài cửa
với nhà phê bình
tác phẩm tôi bắt đầu viết
ở trang này là lời
ở trang kia tôi kết
không lời
cái bóng đã đi theo tôi
giờ đang vượt trước tôi
một đoạn dài bằng cái lưỡi.
Mầu mắt và những câu hỏi
Có phải người yêu của tôi
có đôi mắt xanh
ánh bạc
Không.
Có phải người yêu của tôi
có đôi mắt nâu
ánh vàng
Không.
Có phải người yêu của tôi
có đôi mắt huyền
hiền dịu
Không.
Người yêu của tôi có đôi mắt
rơi vào tôi
như mưa thu
u buồn.
Những bông hồng xanh của nhà thơ
Tôi đã thấy nhà thơ
gieo gió
anh ta làm rất đạt
như bông hoa
vãi hạt
Ra về
nhà thơ không gặt bão
ôm một bó hoa hồng
Những bông hồng mầu xanh.
Bài tập về nhà
Bài tập về nhà
cho nhà thơ trẻ
Đừng miêu tả Paris
Lvov hay Cracov
Hãy miêu tả mặt mình
từ trí nhớ
chớ có dùng gương
trong gương bạn dễ nhầm
thật và ảo
Khỏi miêu tả thiên thần
hãy miêu tả con người
hôm qua bị bạn bỏ rơi
hãy miêu tả mặt mình
và chia sẻ cùng tôi
những nét đầy tính cách
tôi chưa hề đọc
chân dung tự hoạ đẹp
trong làng thơ Ba Lan.
Sợi tóc nhà thơ
Nhà thơ hẳn là ai đó
Xin lắng nghe tiếng nói nhà thơ
Cho dù giọng nói này
Mảnh mai như sợi tóc
Như sợi tóc của Julieta
Sợi tóc này mà đứt
thì quả cầu buồn tẻ của chúng ta
sẽ rơi vào bóng tối bao la
Hoặc có khi
lạc lối trong mây mù
Các vị có ghe nói
Đôi khi có gì đó treo
Treo trên sợi tóc
Tiếng nói của nhà thơ là sợi tóc này
Các vị có nghe nói
Có ai ở đàng kia nghe nói.
Nhà ảo thuật
Lôi ra từ ống tay áo
Hoặc tai người xem
bông hồng bằng giấy
“Hệt như hoa thật...”
Còn hơn thế
Bởi sặc sỡ vô cùng
Nhưng chẳng thấy ong mật vo ve
chẳng thấy hạt sương thầm lặng
đậu trên hoa hồng
Chỉ bụi bám
năm này sang năm khác
trên những cánh hoa tàn
của đài hoa.
1953
Tàn sát trẻ con
Những đứa trẻ thét vang: “Mẹ ơi!
Con vẫn ngoan cơ mà!”
Tối lắm mẹ ơi! Tối lắm!
Các bạn thấy Chúng đang chìm xuống đáy
Các bạn thấy những bàn chân nhỏ
Chúng đã chìm xuống đáy
Bạn có thấy chăng vết tích này
Những cái chân nhỏ xíu ngổn ngang
Trong túi chúng vẫn còn đầy
Những sợi dây và những viên sỏi
Cả những chú ngựa tí hon tết bằng sợi vải
Một vùng đất bằng kín mít
Như một cái hình hình học
Và một cái cây bằng khói đen ngòm
Sừng sững
Cây chết chóc
Chẳng có sao trên ngọn.
Bảo tàng – trại giam
Oswiecim 1948
Quan sát
Mây trôi trên ngôi nhà
Nơi đời tôi đang trôi
Mây đen lồng lộn
trên cao
mây trắng lướt nhanh
như không hề có
Lớn lên trên đường đời
tôi lưu tâm quan sát kĩ mây trời
và tôi càng yêu hơn mặt đất
nơi in đầy dấu chân người.
Cây
Các nhà thơ ngày trước
là những người mắn phước
Thế giới như một cây
còn họ là trẻ nhỏ
Biết treo cho em cái gì đây
trên cành của một cây
đã từng hứng chịu
những trận mưa sắt gang
Các nhà thơ ngày trước
là những người mắn phước
nhẩy múa quanh gốc cây
như một bầy trẻ nhỏ
Biết treo cho em cái gì đây
trên cành của một cây
đã cháy trụi
chẳng còn hát còn vui
Các nhà thơ ngày trước
là những người mắn phước
dưới tán lá cây sồi
hát hò như trẻ nhỏ
Còn cây của ta bây giờ
đêm khuya kẽo kẹt
trên cây lửng lơ treo
xác quân đê tiện.
Đốt thơ
Tôi xin kể chuyện này
hay thì chẳng phải hay
cuộc đốt thơ
diễn ra trong lặng lẽ
một buổi lễ
chẳng có gì
trọng thể
cuộc đốt thơ diễn ra
trong trang trí nôm na
một chiếc bàn và ba chiếc ghế
một tủ sách đầy
giấy cháy
lửa bập bùng
khói bốc lên không trung
Khi ngôn từ tuôn ra
lão hét
bây giờ lão lặng im.
Núi vàng
Lần đầu
tôi thấy núi
khi hai sáu
tuổi đầu
Tôi không cười
Tôi không hét
khi nhìn thấy núi
miệng lầm nhầm
Lúc về nhà
tôi muốn kể
cho mẹ tôi
núi nom thế nào
Chuyện mới khó làm sao
trong đêm
mọi thứ khác ban ngày
cả núi non, cả lời người
Mẹ lặng im
chừng như đã thiếp đi
mệt mỏi
Trong mây
mặt trăng hiện ra
núi vàng
của người nghèo.
1955
Người cha
Đi qua con tim tôi
người cha già
Sống không tằn tiện
không tích cóp
chẳng tậu nhà
chẳng sắm đồng hồ vàng
chẳng của nả gì
Người sống tựa con chim
hát ca
ngày này sang ngày khác
song
một viên chức quèn
chịu sống mãi như vậy sao
Đi qua con tim tôi
người cha
chiếc mũ cũ trên đầu
miệng huýt sáo
bài hát vui
Và cụ tin như đinh đóng cột
mai kia cụ lên thiên đường.
1954
Nhà thơ là ai
Nhà thơ là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ
nhà thơ là người không ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình
nhà thơ là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ
nhà thơ là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa
nhà thơ là người gục ngã
và là kẻ tự đứng dậy
nhà thơ là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.
Giữa bộn bề công việc
Giữa bộn bề công việc
Vô cùng cấp bách
tôi quên khuấy một điều
rằng mình cũng cần phải chết
vô tâm
tôi lơ là bổn phận của mình
hoặc làm
hời hợt
từ mai
mọi chuyện phải khác
Tôi sẽ bắt đầu gắng chết
Thông minh và lạc quan
Không phí phạm thì giờ.
Tôi thấy những người điên
Tôi thấy những người điên đi trên biển
họ tin đến tận cùng và chìm xuống đáy sâu
bây giờ đây họ lại đang xô đẩy
con thuyền tôi nào vững chắc gì đâu
Tôi cố xua những bàn tay ấy
những bàn tay như những nhánh cây khô
Thật tàn bạo tôi đang xua đuổi
suốt tháng năm không dừng lại bao giờ.
(Lâm Quang Mỹ dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
May mắn sao
May mắn sao là tôi có thể
Được vào rừng và hái những quả ngon,
Vì trước đó thâm tâm tôi cứ nghĩ
Không có rừng và quả cũng đâu còn!
May mắn sao là tôi có thể
Được nằm dài dưới bóng những hàng cây,
Vì trước đó thâm tâm tôi cứ nghĩ
Cây không còn cho bóng mát nơi đây!
May mắn sao là tôi với bạn
Vẫn còn cùng một nhịp đập trái tim,
Vì trước đó thâm tâm tôi cứ nghĩ
Trên đời này người tâm huyết khó tìm!
(Lâm Quang Mỹ dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
VanVN.Net - Tadeusz Rozewicz sinh ngày 9 tháng 10 năm 1921 tại Radomsko, Ba Lan, tốt nghiệp khoa sử tại trường Đại học Jagielonski thành phố Krakow. Trong Chiến tranh thế giới thứ II, ông tham gia quân du kích, chiến đấu ở trong rừng. Cũng chính trong thời gian đó tác phẩm đầu tay của ông “Tiếng vọng của rừng” đã được trình làng
Trước ngày chiến tranh kết thúc, kẻ thù đã giết hại người anh ruột của ông cũng là một nhà thơ và chiến sĩ du kích. Đối với ông, những gì xẩy ra ở trại giam Oswiecim là một cú sốc mạnh, là tội ác tầy trời, là mối thù muôn đời muôn kiếp không tan. Ông cho rằng những sự kiện đau thương ở Oswiecim không thể không tác động tới diện mạo của thi đàn Ba Lan. Thơ sau Oswiecim phải lớn tiếng nói lên thảm hoạ của người đã bị giết hại, của người còn sống và phải mang phong cách mới. Để trả lời câu hỏi: “Liệu có còn thơ sau các vụ giết người hàng loạt ở Oswiecim?”, ông nói:
Một nhiệm vụ đang chờ tôi:
Xây dựng một nền thơ sau Oswiecim
Dưới tác động của những đau thương mất mát do chiến tranh gây ra, Rozewicz đã lao vào cuộc cách tân thơ, một cuộc cách mạng tổng hợp trên thi đàn Ba Lan sau chiến tranh. Ông chủ xướng thơ mới - thơ tự do, thơ không vần dựa trên nền tảng của cái gọi là sự tích tụ, thể thơ như vậy chứa đựng và chuyển tải được nhiều nội dung hơn thơ theo lối cũ. Hai tập thơ liên tiếp của ông Không bình yên (1947) và Chiếc găng tay đỏ (1948) là hai tập thơ đã thực hiện một cuộc cách tân thực sự, là những thể nghiệm thành công của ông. Những tập thơ đầu của ông thực chất là những tập hồi ký bằng thơ về thế hệ của ông, về nỗi đau mà ông từng nếm trải do đất nước bị chiếm đóng. Rozewicz đã tạo được cho mình một phong cách riêng, một ngôn ngữ riêng và thực tế cho thấy bạn đọc đã thực sự mến mộ phong cách và ngôn ngữ ông dùng. Cuộc cách tân mà ông chủ xướng đã làm thay đổi ít nhất là hai lĩnh vực văn học ở Ba Lan sau chiến tranh: thơ và kịch. Làn gió thơ mới đã thổi vào thi đàn Ba Lan, đem lại cho thi ca luồng sinh khí mới. Các nhà thơ Przybos, Staff và Milosz là những người ngay từ buổi đầu đã thấu hiểu mục tiêu cách tân thơ mà Rozewicz theo đuổi. Staff công nhận rằng, ông đã chịu ảnh hưởng của Rozewicz và càng quý trọng ông. Dẫu rằng giữa Czeslaw Milosz và T. Rozewicz còn nhiều điểm bất đồng, nhưng bằng phong cách của mình, chính Rozewicz đã thực hiện một trong những yêu cầu cốt yếu mà Milosz đòi hỏi - đó là dạng thức dung lượng lớn trong thơ cũng như trong trường ca. Trong một bài thơ của mình gửi Tadesz Rozewicz nhà thơ được giải Nobel này đã viết:
May mắn thay một dân tộc có nhà thơ
Không bước đi lặng lẽ trong khốn khó của mình.
Giờ đây, chăm lo cho sự phát triển của nền thi ca Ba Lan, ông đặc biệt quan tâm tới các nhà thơ trẻ. Ông kêu gọi họ phải tôn trọng sự thật, không nên viển vông xa lạ, phải bám sát cuộc sống đời thường. Ông nói: Để thơ có thể là thứ thiệt thì người làm thơ phải bắt đầu từ “miêu tả bộ mặt của chính mình” và những sự việc tưởng như chẳng có gì ghê gớm nhưng lại tác động tới hình thái của cuộc sống con người. Theo ông, nền thi ca đương đại Ba Lan chưa thật sự ăn nhập với cuộc sống, chưa mạnh dạn nhìn vào thực tế. Cần xác định một điều là, nhà thơ phải có trách nhiệm với mình và với dân tộc.
Trong gia sản quý giá gồm hàng chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch của Tadeusz Rozewicz chúng ta phải kể đến các tác phẩm sau đây: “Không bình yên” (1945-1946), “Chiếc găng tay đỏ” (1947-1948), “Những nụ cười” (1945-1956), “Thời gian đang trôi” (1950), “Thơ và những bức tranh” (1951-1952), “Bình nguyên” (1953-1954), “Bông lúa bạc” (1954-1955), “Trường ca mở” (1955-1957), “Trò chuyện với thái tử” (1960), “Bông hồng xanh” (1961), “Bộ mặt thứ ba” (1968), “Regio” (1969), “Thơ” (1971-1976), “Văn xuôi” (1973), “Bề ngoài và bên trong trường ca” (1983), “Tranh điêu khắc” (1991) v.v... Đặc biệt, với tác phẩm rất xuất sắc “Mẹ ra đi” viết về người mẹ đã quá cố của mình, ông đã được tặng Giải thưởng văn học NIKE (Nữ thần Chiến thắng) năm 2000, giải thưởng văn học hàng năm lớn nhất của Ba Lan.
CHÙM THƠ CỦA TADEUSZ ROZEWICZ
Lê Bá Thự dịch và giới thiệu
Nhà thơ về hưu
Tặng Czeslaw Milosz
Ngồi xuống ghế
cởi mục kỉnh
nhắm hai mắt
lau mục kỉnh
giở tờ báo nhìn quanh thế giới
gập báo và đứng dậy
loạng choạng
chống ba-toong
đọc dòng chữ
trên thành ghế
chân bước, miệng lẩm nhẩm
lão trò chuyện với các nhà thơ
dưới mồ
hai người đàn bà
bước lại hỏi nhà thơ
ngài có đọc thánh kinh
có tin địa ngục
chấm dứt thiên đường trên mặt đất
nhà thơ lắc đầu, cười
về già lão ưa
trò chuyện với những người
im lặng
lão bước tiếp
ngồi xuống ghế
ngắm mây trời
một con quạ
bay tới
xuyên chiếc lông đen
qua miệng nhà thơ
khép lại
rồi bay đi.
Con chim hổ phách
Mùa thu
con chim hổ phách
suốt trong
chuyền cành
mang giọt vàng
Mùa thu
con chim rubi
long lanh
chuyền cành
mang giọt máu
Mùa thu
con chim xanh
lìa đời
hạt mưa rơi
chuyền cành.
Sống
Sống
trong cửa quay
tôi viết
truyện và
kịch
và đây là một trong “những bí mật”
của vở kịch của tôi
trước khi ý tưởng vào
bên trong cửa với “nhân vật chính”
nó đã ở ngoài cửa
với nhà phê bình
tác phẩm tôi bắt đầu viết
ở trang này là lời
ở trang kia tôi kết
không lời
cái bóng đã đi theo tôi
giờ đang vượt trước tôi
một đoạn dài bằng cái lưỡi.
Mầu mắt và những câu hỏi
Có phải người yêu của tôi
có đôi mắt xanh
ánh bạc
Không.
Có phải người yêu của tôi
có đôi mắt nâu
ánh vàng
Không.
Có phải người yêu của tôi
có đôi mắt huyền
hiền dịu
Không.
Người yêu của tôi có đôi mắt
rơi vào tôi
như mưa thu
u buồn.
Những bông hồng xanh của nhà thơ
Tôi đã thấy nhà thơ
gieo gió
anh ta làm rất đạt
như bông hoa
vãi hạt
Ra về
nhà thơ không gặt bão
ôm một bó hoa hồng
Những bông hồng mầu xanh.
Bài tập về nhà
Bài tập về nhà
cho nhà thơ trẻ
Đừng miêu tả Paris
Lvov hay Cracov
Hãy miêu tả mặt mình
từ trí nhớ
chớ có dùng gương
trong gương bạn dễ nhầm
thật và ảo
Khỏi miêu tả thiên thần
hãy miêu tả con người
hôm qua bị bạn bỏ rơi
hãy miêu tả mặt mình
và chia sẻ cùng tôi
những nét đầy tính cách
tôi chưa hề đọc
chân dung tự hoạ đẹp
trong làng thơ Ba Lan.
Sợi tóc nhà thơ
Nhà thơ hẳn là ai đó
Xin lắng nghe tiếng nói nhà thơ
Cho dù giọng nói này
Mảnh mai như sợi tóc
Như sợi tóc của Julieta
Sợi tóc này mà đứt
thì quả cầu buồn tẻ của chúng ta
sẽ rơi vào bóng tối bao la
Hoặc có khi
lạc lối trong mây mù
Các vị có ghe nói
Đôi khi có gì đó treo
Treo trên sợi tóc
Tiếng nói của nhà thơ là sợi tóc này
Các vị có nghe nói
Có ai ở đàng kia nghe nói.
Nhà ảo thuật
Lôi ra từ ống tay áo
Hoặc tai người xem
bông hồng bằng giấy
“Hệt như hoa thật...”
Còn hơn thế
Bởi sặc sỡ vô cùng
Nhưng chẳng thấy ong mật vo ve
chẳng thấy hạt sương thầm lặng
đậu trên hoa hồng
Chỉ bụi bám
năm này sang năm khác
trên những cánh hoa tàn
của đài hoa.
1953
Tàn sát trẻ con
Những đứa trẻ thét vang: “Mẹ ơi!
Con vẫn ngoan cơ mà!”
Tối lắm mẹ ơi! Tối lắm!
Các bạn thấy Chúng đang chìm xuống đáy
Các bạn thấy những bàn chân nhỏ
Chúng đã chìm xuống đáy
Bạn có thấy chăng vết tích này
Những cái chân nhỏ xíu ngổn ngang
Trong túi chúng vẫn còn đầy
Những sợi dây và những viên sỏi
Cả những chú ngựa tí hon tết bằng sợi vải
Một vùng đất bằng kín mít
Như một cái hình hình học
Và một cái cây bằng khói đen ngòm
Sừng sững
Cây chết chóc
Chẳng có sao trên ngọn.
Bảo tàng – trại giam
Oswiecim 1948
Quan sát
Mây trôi trên ngôi nhà
Nơi đời tôi đang trôi
Mây đen lồng lộn
trên cao
mây trắng lướt nhanh
như không hề có
Lớn lên trên đường đời
tôi lưu tâm quan sát kĩ mây trời
và tôi càng yêu hơn mặt đất
nơi in đầy dấu chân người.
Cây
Các nhà thơ ngày trước
là những người mắn phước
Thế giới như một cây
còn họ là trẻ nhỏ
Biết treo cho em cái gì đây
trên cành của một cây
đã từng hứng chịu
những trận mưa sắt gang
Các nhà thơ ngày trước
là những người mắn phước
nhẩy múa quanh gốc cây
như một bầy trẻ nhỏ
Biết treo cho em cái gì đây
trên cành của một cây
đã cháy trụi
chẳng còn hát còn vui
Các nhà thơ ngày trước
là những người mắn phước
dưới tán lá cây sồi
hát hò như trẻ nhỏ
Còn cây của ta bây giờ
đêm khuya kẽo kẹt
trên cây lửng lơ treo
xác quân đê tiện.
Đốt thơ
Tôi xin kể chuyện này
hay thì chẳng phải hay
cuộc đốt thơ
diễn ra trong lặng lẽ
một buổi lễ
chẳng có gì
trọng thể
cuộc đốt thơ diễn ra
trong trang trí nôm na
một chiếc bàn và ba chiếc ghế
một tủ sách đầy
giấy cháy
lửa bập bùng
khói bốc lên không trung
Khi ngôn từ tuôn ra
lão hét
bây giờ lão lặng im.
Núi vàng
Lần đầu
tôi thấy núi
khi hai sáu
tuổi đầu
Tôi không cười
Tôi không hét
khi nhìn thấy núi
miệng lầm nhầm
Lúc về nhà
tôi muốn kể
cho mẹ tôi
núi nom thế nào
Chuyện mới khó làm sao
trong đêm
mọi thứ khác ban ngày
cả núi non, cả lời người
Mẹ lặng im
chừng như đã thiếp đi
mệt mỏi
Trong mây
mặt trăng hiện ra
núi vàng
của người nghèo.
1955
Người cha
Đi qua con tim tôi
người cha già
Sống không tằn tiện
không tích cóp
chẳng tậu nhà
chẳng sắm đồng hồ vàng
chẳng của nả gì
Người sống tựa con chim
hát ca
ngày này sang ngày khác
song
một viên chức quèn
chịu sống mãi như vậy sao
Đi qua con tim tôi
người cha
chiếc mũ cũ trên đầu
miệng huýt sáo
bài hát vui
Và cụ tin như đinh đóng cột
mai kia cụ lên thiên đường.
1954
Nhà thơ là ai
Nhà thơ là người làm thơ
và là kẻ chẳng làm thơ bao giờ
nhà thơ là người không ưa ràng buộc
và là kẻ tự buộc dây vào mình
nhà thơ là người cả tin
và là kẻ chẳng chịu tin bao giờ
nhà thơ là người lừa dối
và là kẻ bị dối lừa
nhà thơ là người gục ngã
và là kẻ tự đứng dậy
nhà thơ là kẻ ra đi
và là kẻ một li chẳng rời.
Giữa bộn bề công việc
Giữa bộn bề công việc
Vô cùng cấp bách
tôi quên khuấy một điều
rằng mình cũng cần phải chết
vô tâm
tôi lơ là bổn phận của mình
hoặc làm
hời hợt
từ mai
mọi chuyện phải khác
Tôi sẽ bắt đầu gắng chết
Thông minh và lạc quan
Không phí phạm thì giờ.
Tôi thấy những người điên
Tôi thấy những người điên đi trên biển
họ tin đến tận cùng và chìm xuống đáy sâu
bây giờ đây họ lại đang xô đẩy
con thuyền tôi nào vững chắc gì đâu
Tôi cố xua những bàn tay ấy
những bàn tay như những nhánh cây khô
Thật tàn bạo tôi đang xua đuổi
suốt tháng năm không dừng lại bao giờ.
(Lâm Quang Mỹ dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
May mắn sao
May mắn sao là tôi có thể
Được vào rừng và hái những quả ngon,
Vì trước đó thâm tâm tôi cứ nghĩ
Không có rừng và quả cũng đâu còn!
May mắn sao là tôi có thể
Được nằm dài dưới bóng những hàng cây,
Vì trước đó thâm tâm tôi cứ nghĩ
Cây không còn cho bóng mát nơi đây!
May mắn sao là tôi với bạn
Vẫn còn cùng một nhịp đập trái tim,
Vì trước đó thâm tâm tôi cứ nghĩ
Trên đời này người tâm huyết khó tìm!
(Lâm Quang Mỹ dịch từ nguyên bản tiếng Ba Lan)
VanVN.Net - Sáng nay, 10/8/2011 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thảm họa da cam gieo rắc trên đất nước ta. Đúng ...
VanVN.Net - 9h sáng thứ 7 ngày 19/8 tôi dở điện thoại xem thì thấy có mấy cuộc gọi nhỡ, trong đó có 2 cuộc gọi của họa sĩ Hà Huy Chương - Chủ tịch Hội VHNT Hải Dương, tôi bấm ...
VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...
VanVN.Net - Năm 1973, khi đang là sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, chúng tôi đã nghe và ngưỡng mộ thơ của Trịnh Công Lộc. Lúc đó anh cùng khoa Văn, trước chúng tôi hai khóa, đã ...
VanVN.Net - Sáng 22 tháng 8 năm 2011, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam, PGS.TS nhà lý luận phê bình, dịch giả Nguyễn Văn Dân, Chủ tịch Hội đồng Văn học dịch, Phụ trách tạp chí Văn học nước ...
VanVN.Net - Nửa đầu thế kỷ XIX là sự bắt đầu vương triều Nguyễn với cuộc lên ngôi của Gia Long vào 1802. Tôi muốn gọi đó là một thời “khó sống” khi viết về Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn