Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Tập truyện ngắn “Ổ thiên đường” - Nguyễn Hữu Hồng Minh

11-08-2011 02:01:46 PM

VanVN.Net - Nguyễn Hữu Hồng Minh từng có lúc có nơi được chọn là một trong mười nhà thơ trẻ, nhưng hình như anh đã không bằng lòng với thơ mình và xoay qua truyện ngắn. Đọc truyện ngắn của minh, mới phát hiện ra rằng anh đã nhầm giữa sở trường và sở đoản. Thơ cần ngắn thì Minh viết dài, rất khó nhớ khó thuộc trừ những câu… trái tai; truyện cần dài thì Minh viết ngắn và có vẻ như ở văn xuôi Minh, thơ mới thực sự sinh nở những cảm giác, những khát vọng đẹp mới xao xuyến người đọc. Dù sao thì Nguyễn Hữu Hồng Minh đã khiến bạn đọc yên tâm rằng, anh đã quyết liệt đổi thanh xuân và có lẽ hết cả cuộc đời mình cho văn chương..

Nhà văn Nguyễn Hữu Hồng Minh

 

Phần I

_________________

 

MƯA CHÂU THỔ

 

 

TÀU QUA NÚI

 

Con tàu chuẩn bị qua núi. Hơi gió ngút lên lành lạnh. Lúc đó là mười giờ, Hùng đang ngồi ở toa căng tin và mới ăn tối xong. Anh gọi cô nhân viên phục vụ, mua thêm một bọc cà phê đá rồi băng trở về. Con tàu lắc lư, chòng chành như càng lên cao càng xé bạt gió, nếu không tăng tốc giữ độ thăng bằng thì sẽ rớt như một thanh sắt bị ném vụt xuống biển.

Trên toa mọi người ngủ gần hết. Tiếng rầm rập uể oải các bánh sắt nghiến vào đường ray ngược độ dốc nghe buồn như có luồng cảm giác buốt lạnh lan dần lên sống lưng. Qua cửa sắt nhỏ, Hùng thấy hiện ra trong màn đêm tĩnh lặng không gian núi đồi hùng vĩ. Ở một khúc quanh, biển hiện ra bất ngờ với một cái vũng nhỏ có nhiều ánh đom đóm. Đó là những con thuyền đánh cá với ánh đèn biển. Ánh đèn như đốm sao dẫn đường và những con cá là ước mơ của họ. Họ giong ước mơ lầm lũi trong đêm tối. Hùng đưa ống ngậm hút một dòng đắng chảy thẳng vào ngực. Cà phê như hơi đắng bao cuống phổi anh.

Hùng không nhớ anh gặp Quy lần cuối cùng là bao giờ nữa, nhưng vẫn trên sân ga này. Cuộc tình của họ là những sân ga. Là hai đường ray song song chẳng bao giờ có điểm hẹn. Nàng vẫn mặc chiếc áo đỏ cũ. Đôi mắt lá liễu vẫn buồn muôn thuở. Nhà nàng ở gần một cái ga xép. Mỗi con tàu vô Nam ra Bắc trước khi lên núi là phải đỗ lại cái ga nhỏ buồn tẻ đó để tiếp thêm nhiên liệu. Ga nhỏ, địa thế hiểm trở, tàu lại dừng không lâu nên cũng không nhiều hàng quán buôn bán. Chỉ có những người bán hàng rong đeo bám dọt lên, nhảy xuống như sóc giữa các toa chọn nơi đây làm chỗ dừng để tiếp tục ra Huế hay quay trở lại Đà Nẵng? Đi miết thành quen. Mỗi khi tàu dừng ở đây là Hùng mường tượng một thước phim đen quay bối cảnh núi cao, hầm tối và đèo dốc. Nên bao giờ tàu lên núi cũng phải được tiếp ứng bởi hai đầu máy một kéo và một đẩy. Những cái đầu tàu cổ lỗ, hoen gỉ, nhớp nháp. Trong đêm tối phì khói đen kịt, còi kéo ồm ồm, hắt lên nền trời một khối hung tợn như con bọ hung đen. Bóng người gác ghi với ngọn đèn đá bia đi ngược chiều, phất lá cờ nhỏ trong tay làm hiệu xuất phát. Hùng bắt đầu nghe tiếng còi lẫn bánh sắt quay rèn rẹt. Con tàu nặng nhọc từ từ tách bóng đêm nghiến về phía trước. Cứ ngỡ nó không đi nổi. Độ dốc làm bánh sắt doãng mỏi, kéo dài như nhẩm tính được từng vòng quay. Một lần Hùng thấy được thế đi của con tàu do quan sát từ xa. Nó như móc treo trên sợi chỉ lắc lư giữa sườn núi và biển cả. Qua những đoạn gấp khúc có thể quan sát thấy cái đuôi cong oằn của nó. Cái toa đang dồn đuổi nhau rì rịt, kéo bễ. Lên những bờ dốc núi dựng bát ngát, khi lởm chởm, lúc vuông vức rồi bất ngờ nhoai ra như đâm thẳng vào giữa mặt. Cho đến khi tới cung đường chia đôi Hải Vân nam và Hải Vân bắc thì mới thôi. Dừng lại thở phào nhẹ nhõm. Khói từ đầu máy tống ra đen kịt. Sau đó là tàu đổ dốc. Lao ù ù như thác bão. Bánh sắt nghiến ray nghe veo veo tiếng gió. Đi nhiều lần và sống với cảnh đó, Hùng thấy hình ảnh tàu qua núi ấn tượng như một con người đi ngược gió. Có thể một nghiệt ngã bất thường nào đó ẩn kín trong số phận một ngày bùng phát, đổ ập vào cuộc sống y nhưng y vẫn phải ưỡn ngực ra chịu trận và dũng cảm đi tới. Vì đâu còn cách nào khác. Nếu chỉ cần tí tắc đứng lại khác gì con tàu rơi xuống vực hay đâm vào núi. Vượt qua hết phong tố lại tìm lại được cái nhịp bình lặng của ngày thường.

Nói vậy liệu cuộc tình giữa anh và Quy có được cái êm ả của ngày thường không? Bao lần Hùng chợt hỏi lòng nhưng không dám trả lời thẳng vào câu hỏi ấy. Vì anh thường là kẻ đi tàu chứ không phải người đưa tiễn. Kẻ trên tàu luôn muốn tìm những cảm giác phiêu lưu mới, còn người ở lại hay đưa tiễn chỉ mong muốn một trạng thái bình yên, một khoảng dừng. Hùng quen Quy cũng do tình cờ hai đứa đi cùng một chuyến tàu. Và bây giờ có dịp nhớ lại, Hùng vẫn cho đấy là chuyến tàu định mệnh. Lần ấy, anh đưa bố mẹ Liên ra Huế để ông cụ chẩn đoán bệnh ung thư. Hùng yêu Liên. Nhưng chưa bao giờ gần gũi đến mức nắm tay hay hôn nàng. Chưa bao giờ được đưa Liên đi chơi xa như chuyến đi Hùng đang đưa bố mẹ nàng đi. Nói cách khác Hùng yêu Liên nhưng không gần gũi nàng như gần gũi với bố mẹ nàng. Và khi Hùng đưa bố mẹ nàng đi trên một chuyến tàu thì nàng cũng đang hò hẹn gã đàn ông mơ ước của nàng trên một con tàu khác. Hùng cứ sống như thế với bao đè nén khát vọng. Và tình cờ anh gặp chiếc áo đỏ. Anh gặp Quy. Quy cũng đi cùng anh trên chuyến tàu đó nhưng lại càng vô định hơn anh. Nàng đi cùng người bạn gái thân nhất của nàng ra Huế để thăm anh chàng của cô bạn nàng bị ốm. Anh này lại là nhân viên gác ghi mỗi khi đoàn tàu đi qua trên cung đường An Cựu. Như thế thì Hùng yêu Liên nhưng chỉ gặp bố mẹ Liên. Quy nói đi chơi với bạn nhưng thật ra muốn xem mặt mũi anh chàng gác ghi như thế nào. Nàng càng cô đơn trong hình bóng của tình yêu mình. Một tình yêu chưa rõ mặt của thời hai mươi. Sau này Hùng chính là hình bóng của tình yêu Quy. Nhưng anh lại không thể đáp ứng vì hình bóng anh đã mãi mãi và hoàn toàn thuộc về người khác. Chỉ còn một tấm áo đỏ. Nó như cánh buồm xa vắng lẻ loi trong vụng biển nhỏ. Ánh sáng đã tắt trên những ghềnh đá…

***

Con tàu vẫn trượt trên hai đường ray với vận tốc dữ dội. Nó làm Hùng liên tưởng đến tuổi xuân của đời người trong tình yêu, dù song phương hay đơn phương cũng lao tới với một vận tốc dữ dội đó. Mỗi lần nghĩ về Quy hay Liên anh đều cảm thấy mình bị trượt đà, bốc ra khỏi đường ray cân bằng của cuộc đời mình. Lần cuối anh gặp Quy, hai đứa ngồi trên cây cầu đá trong cảng Hoàng Thạch. Đó là cây cầu chạy hình chữ T dài ngoằng, đổ ra đến tận biển. Hằng ngày những con tàu chở xi măng vẫn cập cảng để ăn hàng. Hùng cũng ăn điếng dại những cảm giác lạ trên bờ môi phù dung. Nắng nhạt đang tắt dần trên biển. Buổi chiều hai đứa ngồi mênh mông, chơ vơ. Những lời hẹn hò cùng những vồ vập quấn quýt đeo bám trên sợi dây tâm trạng bàng bạc không rõ nghĩa. Mọi thứ như đang được sắp đặt theo những chiều tình huống của nó. Không hình dung và cũng không đoán trước được. Nhưng sau này khi đã đi qua nhiều thành phố trên thế giới anh vẫn nhớ về cái vùng biển nhỏ ấy. Nó cho anh thấy cái rộng lớn, cô đơn mênh mông và bơ vơ trước những cánh cửa cuộc đời. Khi phải lựa chọn hay quyết định một việc gì đó trong đời thường phải bỏ qua những cảm xúc phiêu lưu. Không thể lắng nghe mãi tiếng lòng những khát khao mà phải nhìn thẳng vào thực tế với những vạch kẻ cân đong đo đếm vừa vặn. Điều ấy cô đơn và nhỏ bé như một cánh chim biển chấm giữa đại dương quá rộng lớn…

Rồi Hùng như nghe được tiếng còi tàu xa xa. Anh ngước mắt nhìn lên đỉnh đèo Hải Vân xanh thẳm. Thoáng chốc anh hình dung con tàu nặng nề với những toa dài cuồng vọng qua núi. Có một cái gì đó quá sức nhưng vẫn phải băng đi. Bởi không qua núi thì không cách nào đến Huế, tới với những miền xa xanh thẳm quá. Quy ngồi bó gối. Đôi mắt nàng buồn u uẩn như mắt cá. Cánh áo đỏ như tia lửa cuối cùng thắp giữa hoàng hôn. Những ngón tay gầy khẳng của nàng chụm lại hình hoa sen trong tay anh. Nàng khum giữ một điều thiêng liêng mà nàng biết chỉ có bản thân nàng nắm giữ và không thể chia sẻ. Còn Hùng, anh chẳng biết nói gì trong buổi chiều biết rõ bố Liên chẩn đoán ra bệnh ung thư, anh chuẩn bị lên một chuyến tàu vào Sài Gòn, và lời nói thật lòng với Quy là tình yêu của họ không đích đến. Cho đến giờ cuối, khi anh ghé nhà Liên, anh vẫn thấy nàng hồn nhiên bận rộn tiếp chàng trai này chàng trai khác chẳng đoái hoài gì tới anh. Nàng muốn quên căn bệnh ung thư của cha mình bằng những cuộc vui hay tự dối lòng vì cuộc chia tay sắp tới. Tàu qua núi. Thật ra Hùng không thể hình dung ra cảnh ấy. Đôi khi chìm đắm trong những ước mơ héo úa một cách ngẫu nhiên mà không thể nào giải thích. Trên chuyến tàu vô vọng của đời mình Hùng không rõ anh sẽ còn lang thang đến bến bờ nào của tình yêu nữa. Những con cá nhỏ bị sóng đánh dạt lên bờ biển Nam Ô giữa tiếng vọng nặng nề của một đoàn tàu kéo qua. Chiều nay Quy là con cá mắc lưới. Hùng cũng chưa bao giờ là gã chài quăng lưới nhưng trái tim anh bỏng rãy những vết thương. Họ chẳng nói gì ngoài tiếng sóng và những con chim biển xoải mãi đôi cánh liệng trên sóng hoang dại. Và Hùng đi. Một sân ga lầm lũi. Một cánh áo đỏ…

 

Đà Nẵng - Sài Gòn, 2007 - 2010

 

 

MƯA CHÂU THỔ

(Lưu ý: Có minh họa (số 03) Bùi Tiến Tuấn)

Tôi là một nhà văn. Bây giờ là tháng Mười. Mùa của những cơn mưa. Nửa đêm về sáng mưa có thể làm chúng ta khó ngủ. Vì mưa là chứng nhân, hay kể lại những câu chuyện bất tận từ trời đất, thiên nhiên. Tôi cũng đã qua những mùa mưa châu thổ. Tôi muốn kể lại nó. Các bạn thử lắng nghe xem đây là câu chuyện của mưa hay của tôi?

***

Đâu khoảng tháng Mười năm X. tôi có dịp lưu lạc về Bạc Liêu trong chuyến đi hoàn toàn không định trước.

Một chiều mưa như trút nước, khi tôi từ xã Tân Tiến bao vỏ lãi[1] đi ngược lên Hộ Phòng thì trời đã sẫm tối. Chuyến đi làm tôi cạn kiệt sức lực và tôi muốn nghỉ đêm tại đây nhưng không thể. Út Miêng - người chị họ của tôi - đẻ khó đang ở nhà hộ sinh trên thị trấn. Nhưng câu chuyện đã bắt đầu từ trước đó. Tôi về do nhận được tin ông anh rể- Tư Đen- mất đột ngột. Tư Đen phụ ghe chở hàng, rủi ro đụng xà lan lúc tránh nhau ở lưu vực. Lúc đó vào ban khuya. Gặp vùng nước xoáy, không tìm được xác. Cho dù đám thợ lặn quần đảo từ nửa đêm đến sáng rửng. Cuối cùng, tuyệt vọng, chủ ghe mua nhang đèn, quà cáp đến lễ một ông thầy trên tám mươi, sống và tu trong ngôi chùa thiêng gần đó. Sau nhiều năn nỉ, ông thầy gieo quẻ, bấm độn cho biết người chết đang bị hà bá giữ. Số Tư Đen đã hết. Không cần phải mò xác và cho dù có tìm cũng không ra. Sau ba ngày, đúng giờ hoàng đạo tự khắc nổi lên. Nghe thầy phán mọi người hồi hộp chờ đợi. Quả đúng như vậy. Mười hai giờ trưa ngày thứ ba thình lình mưa dội, gió xoáy, cái xác xoay tít dựng lên giữa mặt sông cách chỗ đụng ghe chừng cây số. Nhà đòn phải chở xác Tư đi lênh đênh trên nước thêm một ngày nữa mới về tới nhà. Nghe câu chuyện kể lại, thực thực hư hư khó phân định nhưng tôi cảm thấy vô cùng buồn bã!

Út Miêng vật vã bên quan tài chồng. Gần như chết đi sống lại. Lúc đó cái bụng đã lớn vượt mặt. Đã qua tháng thứ tám. Đứa bé quẫy đạp dữ dội. Với một người mẹ trẻ, thật không còn thử thách nào hơn. Mọi người an ủi can ngăn gì cũng không được. Bác tôi vội đưa Út Miêng lên trạm hộ sinh ở Hộ Phòng. Sau rồi nhắn tôi lên gấp, vì có chuyện. Tôi lật đật đi ngay. Mưa như trút. Như oán giận.

Tháng Mười miền tây mưa triền miên. Mưa vật vã không biết đến bao giờ cho tạnh. Nước dâng loang loáng đôi bờ. Những cánh lục bình trôi mải mê tím biếc. Dòng châu thổ quặn phù sa. Có như Út Miêng, con cá trắm nặng bụng trứng, vượt cạn bơi ngược nước? Trên mi là những dòng rạch mặn lấp lánh chan hòa. Lúc tôi ra khỏi cửa thì có con cú đen từ trong bụi cây bay thốc ra kêu cú cú một cách thê thảm. Không hiểu chuyện gì đang đến với đời tôi? Những năm tháng phiêu du mênh mông vô định với giấc mộng văn chương làm tôi cũng mệt mỏi lắm rồi. Cú ơi cú, kêu gì đồng xa khắc khoải? Cái thân nhỏ nhoi này ta chẳng biết còn xô dạt về đâu nữa? Sao đời ta không là cây đước dầm chân một đời bên đầm vắng? Hay cái vó cất tôm treo ngược phía trời xa? Cứ đợi, cứ chờ, khắc khoải và an nhiên thế thôi! Mặc tất cái gì đến sẽ đến. Cái gì đi sẽ đi. Đau nhói và vô vọng. Chẳng phải cuộc đời này cứ chảy, cứ đổ ra biển khơi hay sao? Phiêu lưu mà làm gì, ước vọng mà làm gì để rồi nhọc mỏi, u mê thân xác? Cuộc đời với bao câu chuyện rủi may vui buồn cứ tới mà không thể giải thích được. Nhưng chiếc vỏ lãi đã xé nước lao đi như đạn bắn. Hai bên bọt trắng xóa phun rào rào như đang xả một cuốn phim quay chậm…

***

Trên chuyến đi ấy tôi như bị thôi miên bởi hình ảnh Út Miêng, người chị con ông bác lắt lay với đứa bé trong bụng chòi đạp mãi chưa chịu ra. Và cái chết bất ngờ của chồng vô lý như một câu chuyện khó tin. Làm sao sức chịu đựng của con người, nhất là một phụ nữ lại có thể lớn đến thế? Và tôi thực ra đang tìm gì trên những truyện ngắn lô xô chữ nghĩa của mình? Ôm ấp khai sinh một đứa con tinh thần liệu có dằn vặt, đau đớn như giờ khắc thiêng liêng của một đứa bé trong bụng mẹ quẫy đạp đòi ra đời? Chế[2] đã có dấu hiệu trở dạ. Nhưng cả tuần nay bác sĩ theo dõi thấy vẫn chưa chuyển biến gì. Cơn đau làm người mẹ trẻ tái nhợt, bợt bã như con mắm. Ngay trong buổi chiều trời đột ngột mưa lớn đó, đứa bé trồi đạp mạnh. Hộ lý khám thấy cổ tử cung đã mở lớn, biết ngay đã sắp đến giờ khai hoa nở nhụy. Câu chuyện có thể xem như bắt đầu từ đây. Khi cái nhà hộ sinh cheo leo bên bờ nước ấy chỉ có một bác sĩ giỏi. Và buổi chiều hôm ấy ông đã theo một chiếc tắc ráng đi thăm một con bệnh đâu đó ở trong rừng U Minh. Ông chỉ để lại mấy lời nhắn rời rạc là đi công chuyện, xong việc sẽ về ngay! Xong là bao giờ xong, về bao giờ về thì hoàn toàn không có câu trả lời chính xác. Mênh mang vô định. Ông còn dặn thêm, nếu có việc đột xuất hãy tìm ông ở đồng phía tây ấp Vinh Hạng, kênh Tẻ Xáng, xã Quách Phẩm Bắc.

Ôi cái địa chỉ đánh đố mù trời. Tôi không biết nó ở tận đẩu đâu trên những cánh đồng sông nước trắng xóa bạt ngàn này? Và một gã phiêu lưu, dớ dẩn, cả đời tham vọng dành trọn cho văn chương như tôi làm sao có thể định hướng được để mở đầu cuộc tìm kiếm? Rồi bác sĩ có khuôn mặt thế nào? Bao tuổi? Dáng dấp, tên họ ra sao? Tôi chưa từng quen làm sao có thể lần ra giữa đêm tối mịt mùng? Và tại sao không ai ghi số điện thoại để liên lạc? Mãi tận sau này tôi mới biết thời điểm ấy điện thoại chưa phổ biến trong những vùng xa xôi sông nước. Họa hoằn lắm mới có nhà có do kéo dây khó khăn còn sóng di động thì chưa phủ đến. Tình hình lúc bấy giờ không còn cách nào khác. Tôi phải mình ên[3] đi tìm ông ta. Bùa hộ mệnh của tôi là mấy dòng chữ loăng quăng, tưởng như vô thưởng vô phạt của bà cô đưa. Nhập nhoạng, tôi tìm ra bến tàu Tắc Vân và hỏi nhờ một chiếc tắc ráng đi về Quách Phẩm Bắc. Một chuyến đi với sứ mệnh cao cả và lạ lùng mà trong đời viết văn phiêu dạt của mình, lần đầu tôi biết được.

***

Tôi là người viết văn nhưng tôi cũng không tin lắm vào chữ nghĩa của mình. Vì đôi khi, tôi thấy nó chỉ là mớ chữ hẩm hiu, thèo lèo, rỗng tuếch. Chủ yếu là mua danh ba vạn, bán danh ba đồng. Một cách lãng quên hay lừa mị mình giữa dòng đảo điên thế sự. Và kỳ lạ, tất cả chừng như thay đổi khi tôi gặp Ba Nghiêm. Như có một bàn tay nào đó vô hình xếp đặt. Ba Nghiêm có biết bác tôi và có chơi với Tư Đen. Y kể cái chết của Tư Đen làm bàng hoàng dân sông nước suốt mấy ngày qua. Và không ai tin Út Miêng có thể sinh con vào lúc này. Khi nỗi đau tâm hồn và nỗi đau thể xác vò xé không biết nỗi đau nào lớn hơn? Tại sao một người con gái xinh đẹp và mong manh như thế ông trời lại buộc cùng lúc phải mang hai nỗi đau lớn như vậy? Ba Nghiêm còn nói, việc chúng tôi được chọn đi tìm ông bác sĩ trong đêm tối cũng là sự xếp đặt. Bởi y hoàn toàn không biết một chút gì trước chuyến đi này. Cả ngày hôm nay ế khách, y buồn và uống rượu. Đầu óc cứ thấy rỗng rang, buồn bã gì đâu. Khi trời chạng vạng, y chuẩn bị về thì thoáng thấy bóng tôi thất thểu trên bến tàu với bộ dạng hết sức thảm hại. Tôi như một sứ giả hành hương mà Thượng đế vừa gửi xuống cho y. Đó là cao hứng Ba Nghiêm nói chơi thế thôi. Còn sự thực là khi đọc cái địa chỉ mù mờ trên tay tôi, y nói  rất may là y đã từng đi qua tuyến đường này. Đó là con đường ngoằn ngoèo, khó đi, thậm chí có đoạn muốn nhích tới phải luồn lách trong những đầm cỏ hoang lau lách mọc quá đầu người. Và tận cùng con đường thì sẽ đổ ra biển Đông. Nhưng đó cũng là điều y nghe giới đàn anh trong tửu lâu thương hồ ngang dọc kể lại thôi. Bởi thực tế chưa có một người khách nào lại đặt ra một yêu cầu cho y phải thực hiện chuyến hải trình xa đến như vậy. Ra biển Đông để làm gì? Khi ở đó chỉ có những con hải âu dữ tợn và lũ sóng bạt ngàn dũng mãnh. Còn lúc này thì chúng tôi cần phải khởi hành ngay! Để mọi việc không chậm trễ - Ba Nghiêm nói. Trời tối và đường xa. Nếu suôn sẻ thì khoảng độ một, hai giờ khuya sẽ tới Quách Phẩm Bắc. Và từ địa điểm này chúng tôi sẽ tiếp tục mò mẫm xem là ông bác sĩ đang ở đâu. Đứa nhỏ cần phải sống bởi cha nó - Tư Đen đã chết. Chẳng lẽ ông trời oan nghiệt bắt tội cùng một lúc hai người trong gia đình sao? Ba Nghiêm uống rượu và liên miên độc thoại.

Còn tôi, lúc này vây giữa bốn bề sông nước không thể định hướng chiếc tắc ráng đang chạy. Chỉ nghe tiếng nước rẽ rào rào, nước bắn lên tận mặt. Tôi đang đi đâu giữa mênh mông đất trời? Những gì đã ở phía sau và đang chờ đợi phía trước? Một cái đích mù mờ nhưng phải đến. Cho dù xa xôi, vô vọng. Chúng tôi phải tìm được căn nhà trên đồng gió Quách Phẩm Bắc. Phải đón được ông bác sĩ trở về. Và tôi, một kẻ vốn dĩ chỉ biết thả dài phiêu lưu, bỗng nhận ra ý nghĩa của công việc viết lách của mình từ một ca đẻ khó. Cuộc sống vốn buồn đau với bao nhiêu thử thách thăng trầm nhưng vẫn phải trôi về phía trước không thể dừng lại. Một trang viết phải tìm được ý nghĩa thực sự như đốm lửa nhỏ lay lắt trong đêm tối. Cuộc đời vốn không dễ dàng với bất cứ ai. Từ bao lâu nay tôi là người viết văn nhưng hình như chỉ đẽo gọt ngôn từ thành những món trang sức diêm dúa bóng bẩy tên tuổi. Những trang viết xa lạ như những bông cỏ dại rũ rạp xuống vô nghĩa, phù phiếm. Dường như kẻ nào dính vào chút bút mực cũng hâm hấp, tự cao đại. Tự mặc lãnh bản thân mình là đấng cứu thế, kẻ có quyền năng sáng tạo ngang bằng thượng đế khi đẻ những đứa con tinh thần là tác phẩm. Đôi khi những trang viết ra đời sặc sỡ trên những cột báo nhưng bao nhiêu số phận, cuộc đời đã bị bỏ quên. Những lời tung hô, sự chúc tụng bia bọt của đám đông hay vòng nguyệt quế héo hon từ sự tưởng tượng viển vông nghèo nàn thực sự không bắt rễ hay ăn nhập gì với đời sống cả. Giờ đây, văn chương liệu có như Út Miêng, người mẹ trẻ chín tháng mười ngày mang nặng đẻ đau, vật vã sinh nở? Một cuộc vượt cạn vĩ đại với cái chết kỳ lạ của chồng. Để nụ cười trên mắt Tư Đen không có gì khác hơn hai mẹ con phải sống! Và phải chăng, trong mỗi chúng ta ai cũng cần một bác sĩ tâm hồn để định hướng trước ngã rẽ cuộc đời phiêu lưu, vô định. Tôi đã nhận thấy le lói một con đường hầm để vượt thoát trong ánh chớp đầy đe dọa trên bầu trời châu thổ. Những hạt mưa hay nước mắt đời tôi?...  

Cũng không biết tắc ráng của chúng tôi đã đi được bao lâu. Mưa tạnh. Chỉ còn nghe tiếng ếch nhái kêu rền đêm tháng Mười. Ba Nghiêm buông lỏng tay. Tiếng cánh quạt nước rè rè thêm một lúc đã dừng hẳn. Cũng đã hai rưỡi khuya. Hình như chúng tôi đã đến đầu kênh Xáng Quách Phẩm Bắc. Theo lời chỉ, ấp Dinh Hạng gần đâu đây. Tiếng chó sủa lộn. Ánh đèn hột vịt chớp chớp phía chòi canh xa. Tiếng người loáng thoáng đi tới với vệt sáng vẽ vòng trong đêm: “Ai đấy? Cần gì?”. Ba Nghiêm hô to: “Tôi đi đón bác sĩ Hộ Phòng”. “Tôi đây, ai cần việc gì đó?”. Tôi mừng hết lớn. Thì ra công việc vừa xong, ông đã đòi về ngay. Nể tình gia chủ lẩu nóng, rượu ngon vừa dọn lên mâm. Ông xoa chân, ngồi vào, tớp chén rượu. Vừa lúc nghe tiếng vỏ lãi xé đêm khuya. Linh tính điều gì cả nhà chạy ra thì gặp chúng tôi…

***

Bây giờ là tháng Mười. Tháng của những cơn mưa.

Tôi xa châu thổ đã lâu. Thời gian giúp mọi nhịp sống đã bình thường trở lại. Như dòng phù sa cuộn chảy trôi đi. Những con cá trắm bụng trứng, vượt cạn. Rồi trở về với những đàn con sinh nở. Riêng tôi, tôi đã nhận ra mình chỉ là một người yêu sự viết lách và mãi mãi ước mơ trở thành một nhà văn. Văn chương hoàn toàn không phù phiếm nếu như chúng ta tìm được con đường trong đêm tối và lúc nào cũng có những liều thuốc tâm hồn của bác sĩ. Tôi vẫn ước ao viết được những truyện ngắn nhẹ nhàng như cơn mưa. Nhưng thực sự có nỗi đau lắng chìm bên trong. Như Út Miêng bế đứa trẻ trên tay sau những hạnh phúc cay đắng. Sức chịu đựng của con người thật lớn lao cao cả. Trong cơn mưa châu thổ những cuộc đời chìm nổi. Những câu chữ liệu có được như hạt ngọc phù sa bồi đắp đời đời?...

Miền Tây, 2002 - Sài Gòn, 2010

 

 

NHỮNG QUẢ TRỨNG TRONG MƠ      

(Lưu ý: truyện có minh họa số 02 Bùi Tiến Tuấn)

 

Đó là cái chòi nhỏ nằm chơ vơ trên đồng gió. Nó chỉ để tá túc khi canh đồng, dặm cua. Vào mùa nước rong còn là nơi tấp vào của mấy chiếc vỏ lãi cân tôm bán lại cho các vựa. Còn bây giờ ngoài chú Năm Hạnh, là Mười Dửng. Nghe  kể, y tới đây cũng lâu rồi. Nghề chính của y là chăn vịt đồng. Hai người gặp nhau bỗng hạp quá xá. Ngày đầu tiên đến, chú Năm bảo y đưa tôi đi xem vịt. Cánh đồng gió đàn vịt cả ngàn con của y chạy lúp xúp thật ham. Tôi thấy Mười Dửng uy nghiêm như vị tướng quân giữa mê hồn trận của Márquez[4]. Sau đó chúng tôi ngoạn du một vòng sông nước châu thổ. Dòng kinh thẳng tắp, chạy mêng mang. Khi đi qua các rẫy chệt, hai bên vàm sông mọc dày cỏ chát. Thứ cỏ lạ mà tay tổ lang thang như tôi chưa từng thấy mọc ở đâu. Trong gió bao lớp cỏ đè chồng ngã rạp. Khi cánh quạt mỏ vịt chém vào, lá khô kêu vè vè, bay tốc táng. Bấy giờ tháng Chạp đã về. Hơi nước bốc theo gió khô khao và hanh lạnh. Giữa khuya giấc ngủ chập chờn biển sóng. Sáng ra, sương mờ bồng bềnh. Mùa nước ròng nên cua béo. Theo phù sa là thức ăn. Lũ cua bén mùi trong những hang nẻ lóp ngóp chui ra. Trong mớ lưới câu ba cạnh mà chú Năm Hạnh cùng tôi bơi xuồng câu cặm lúc chiều những con cua no mồi vẫn không chịu nhả khúc lươn nướng. Cái mùi lươn đất hơ lửa thật quyến rũ. Rượu bắt phải biết! Lũ cua cũng mê mệt cho đến khi giở vó, chúng láo liên những cặp mắt lồi nhìn chúng tôi. Cứ như chúng không sợ bị bắt mà chỉ sợ những miếng mồi thơm bị cướp mất. Sau nhiều lần bị cua kẹp, tôi cũng đã biết dùng tay trái đè dí từ trên mai cua, tay phải dùng sợi dây buộc ngang cặp càng và khóa chặt các khoen chân. Lũ bò ngang giãy giụa thật lực rồi đành thúc thủ nằm yên. Từng con bị ném vào giỏ để mỗi sớm đưa ra sàn nước cân cho lái vựa.

Chòi gió của chú Năm Hạnh nhiều gã ghé vì Hai Trâm là một cô gái đẹp. Kể cả Mười Dửng cũng thầm mơ được bắt rể chú Năm. Đó là lý do mà y, một tay chăn vịt từ Gành Hào xuống quanh quẩn vùng này. Để đưa đàn vịt đến đây không rõ y đã đi bao xa. Tôi cũng chỉ biết quê y đi về hướng biển. Còn những đồng cỏ chát ngút trời này đang ở Lung Roi, lưng chừng cửa ngạn sông. Và nghe đâu, Hai Trâm cũng có ít nhiều cảm tình với y. Cuộc tình này âm thầm vì bị thím Năm cấm cản. Thím nói con gái thím không phải để gả cho một thằng chăn vịt. Đó là câu chuyện của những tay lái vựa, mua cua chứ chú Năm chưa bao giờ đả động tới. Câu chú thường nói mỗi chiều với kẻ đối diện là “Ê, nhậu mày!...”. Và chúng tôi uống đến say khướt.  

Nhiều lần tôi ngồi với Mười Dửng trên sạp còn bị vịt ngáp mỏ đớp dưới chân. Y kể từ năm bảy tuổi y đã bén nghề chăn vịt. Vì nhà nghèo quá thôi. Đến bây giờ y không biết đã rong ruổi qua bao nhiêu cánh đồng miền hạ. Nhưng y có thể tự hào mà nói rằng nếu tính theo đường chân trời thì y và những con vịt đã đi hết tất cả những cánh đồng cỏ chát rộng lớn nhất của miền tây. Từ Vĩnh Long xuôi về Cà Mau. Có những cánh đồng rộng đến nỗi khách thương hồ gọi là đồng chó ngáp. Bởi chạy nhanh như chó cong đuôi còn phải ngáp. Nhưng với y chẳng hề hấn gì! Hai mùa mưa nắng cùng đàn vịt đi qua. Sau vụ gặt càng phải mau xua vịt tới để kiếm cái ăn. Và có rất nhiều đêm cuộc đời vịt chạy đồng của y đã phải đụng độ tóe máu khi đối đầu với những toán chăn vịt từ những miền khác đổ tới. Trong sự hỗn loạn, Mười Dửng vẫn nhận ra đàn vịt của mình từ những tiếng kêu lóp ngóp dưới chân. Thì ra cái nghề này đã ăn sâu vào y thâm căn cố đế. Không chỉ nhìn trời, nghe gió bắt mạch thời tiết mà còn giúp y tinh nhạy nắm bắt những đặc điểm cố hữu của đàn vịt. Như tiếng kêu khạp khạp đã giúp y tìm ra con vịt lạc bầy khi chạy đồng…

***

Nếu như Mười Dửng đem lòng yêu Hai Trâm như những tay vựa nói và được yêu thì đó có thể là may mắn lớn nhất đời y. Bởi Hai Trâm như một đóa hoa tuyệt sắc trên đồng cỏ chát. Mười Dửng không nói ra nhưng qua những câu chuyện bâng quơ người nghe biết được niềm khát khao kín thầm đó. Chỉ cần sở hữu một người đẹp như thế, y đã có thể cúc cung tận tụy, chăn vịt hết cả cuộc đời của mình. Nhưng những đêm đối ẩm bên vàm sông, trong căn chòi đầy gió, khi chú Năm Hạnh say khướt bỏ đi nằm, Mười Dửng mới lè nhè kể. Những chuyến lang thang đã làm y mệt mỏi. Giờ đây y mơ một mái ấm gia đình. Vợ y là một cô gái đẹp, nhìn hao hao giống như Hai Trâm. Em mặc chiếc áo bà ba, ngồi bên những ổ trứng vịt đầy nhóc mặt ngời hạnh phúc. Cái khuôn mặt đầy trứng cá, bộ dạng vốn đã queo quắt của y lại càng như nhỏ thó, gầy rút lại vì những ngọn gió chướng trong đêm tối đã không làm giảm sút ánh lửa long lanh trong hai hốc mắt. Mà thực thì y có lỗi gì? Y không có quyền mơ một tình yêu, một tổ ấm hạnh phúc hay sao? Mùa thu hoạch nào Mười Dửng cũng lựa ra những hột trứng đẹp nhất, có màu ngà, ửng hồng để gửi tặng Hai Trâm. Y mong muốn cuộc tình thầm kín của mình cũng hồng hào, với một kết thúc có hậu, tròn vo như trái trứng vậy. Nhưng đó là suy nghĩ của y khi những giỏ trứng gửi đi. Còn sự thật thì y chưa bao giờ cất được bằng lời vì không đủ ngôn từ và lòng dũng cảm. Bởi thế nghe đâu nhà thím Năm trứng vịt nhiều đến nỗi xếp đầy cần xé[5]. Rất nhiều món ăn được chế biến từ trứng cho đến khi cả nhà ớn tận óc. Người dân cả vùng đó đều được ăn trứng vịt lấy thảo của Mười Dửng. Và trứng nhiều đến nỗi nếu không cho hoặc bán đi thì đến lúc cũng không còn chỗ để. Thím Năm phải cho người ra chợ kêu mối vào bán sỉ.

Giữa hai mùa nước rong Hai Trâm vẫn ngồi một mình buồn như thế khi có việc chạy máy đuôi tôm qua chòi. Thường những lúc đó thím Năm đi cùng em khi biết chắc Mười Dửng không có nhà. Y đang tất tả lùa vịt trên đồng. Tôi không rõ tình yêu họ dành cho nhau thực sự thế nào. Nhưng mỗi đêm về khi nghe kể lại Mười Dửng gần như phát điên vì không gặp được em. Chú Năm Hạnh vẫn thế, “Ê, uống mày! Sao cứ xây chừng, xây chừng hoài dzậy?”, đó là câu nói duy nhất còn sót trên bờ môi chú. Trong cơn say chú đã lầm bầm điều chi không rõ. Ai cũng biết mọi việc trong nhà do một tay thím Năm cất đặt. Phải chứng kiến những điều ngang trái đó, một kẻ lang thang phiêu bạt như tôi bỗng buồn như chưa bao giờ. Mười Dửng cứ uống tỳ tỳ như hũ nút. Con mắt mở chong trong gió. Vần vũ những chân trời bão nổi.

Chỉ có một lần duy nhất tôi được chứng kiến Mười Dửng hạnh phúc khi song ca vọng cổ cùng Hai Trâm trong mùa mưa nấm mối. Cũng như quy luật trời đất vào giữa mùa gió chướng, khi mưa rây đồng nấm mối ra tai. Trên những đồng cỏ chát và những cội rơm, nấm mối mọc nhanh. Chỉ sau một đêm lũ trẻ có thể gọi nhau bẻ nấm trên đồng. Cái mùa nấm mối duy nhất đấy cũng như ngày vợ chồng Ngưu Lang Chức Nữ hẹn gặp nhau bên cầu Ô Thước. Trưa đó, thím Năm cùng mấy người bạn qua chòi đổ bánh xèo. Hai Trâm đúc bánh rất khéo. Em tráng bột trên cái rây nhỏ từng hạt mịn màng kéo sợi. Trời mưa, bánh nóng, hương vị đầu mùa của nấm mối khiến ai cũng tấm tắc, hít hà. Sau vài ly xoay chừng, chú Năm Hạnh nâng cây đờn lên so dây. Không gian như chìm trong một thứ ánh sáng khác. Đó là không khí phiêu diêu tài tử. Mười Dửng cất tiếng ca “Ghe chiếu Cà Mau cắm sào trên dòng sông ngã bảy. Sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra chào…”. Có lẽ cuộc đời phiêu bạt của y đã tích tụ qua giọng ca như một sự tuyệt vọng còn giữ lại. Tiếng ca của Hai Trâm vút lên nghe như hòa sắc điêu luyện trên một bản ngũ cung. Người nghe như thấy giọt nước mắt trong tiếng hát. “Con chim đa đa đậu nhánh đa đa. Chồng gần không lấy lấy chồng xa. Lỡ mai đây cha yếu mẹ già. Bát cơm đôi đũa chén trà ai bưng…”. Tôi bỗng nghĩ về những quả trứng màu ngà bên ngoài nhìn ngỡ rất bình yên mà bên trong chứa toàn giông bão. Trong tiếng ca, nỗi lòng của chàng chăn vịt bên cạnh nỗi niềm phận gái thuyền quyên nghe uất như một niềm căm hận.

***

Một buổi tối, khi chú Năm và tôi đi câu dặm về thì nghe tiếng vè vè của máy nổ. Chẳng biết ai lại qua chòi nửa khuya thế này? Mười Dửng cầm cây đèn hột vịt lom lom đi ra thì gặp thím Năm. Y mừng rỡ: “Ủa, sao con nghe nói thím đi Tắc Vân sáng mơi? Có việc gì đêm hôm quày quả vậy thím?”. “Chuyện gấp tao mới qua. Chú Năm mày đâu?”. “Ổng với ông nhà thơ vừa đi câu về. Đang rửa chân bên hồ đó, tao qua bàn với ổng chuẩn bị cho đám cưới con Hai. Ngày kia họ nhà trai vô rồi!...”. Chuyện ly kỳ nghe muốn rớt tim.

Thì ra từ lâu nay thím Năm sốt sổi đi tìm đám môn đăng hộ đối để gả con gái. Quanh quẩn mãi với đồng cỏ chát và trứng vịt hết ngày xanh tuổi trẻ. Mà kể cũng khó tìm ra được một đám coi được ở nơi đồng không mông quạnh này. Giấu chú Năm, thím đón ghe lên Tắc Vân tìm bà Hai Liêng, bà mối nổi tiếng mát tay tác hợp duyên lành. Bà đã làm mai cho nhiều đám thành công có tiếng cả vùng sông nước. Tuy vậy, với đám Hai Trâm bà than là khó. Bởi cô dâu thì hiền lành mà bà sui sao dữ quá! Đặt ra quá nhiều điều kiện. Bà Hai Liêng đã giới thiệu mấy mối nhưng chưa có đám nào thím Năm chịu vừa ý. Lúc thì thím chê không môn đăng hộ đối, nhà nghèo quá. Sợ con gái sẽ cực. Có nhà tương đối kha khá thì chú rể không bình thường, tướng hèn, xấu trai. Cứ dây dưa năm lần bảy lượt như thế bà mối cũng hết ham. Thời gian cứ trôi vùn vụt thấy mà sốt ruột. Đó là lý do dạo gần đây thím Năm thường xuyên đón đò đi Tắc Vân là vậy…

Lần này thím lên lộ không phải vì chuyện Hai Trâm mà đi ăn đám một người quen. Nhưng quả là duyên kỳ ngộ. Không dưng cả bà mối ông mai đều gặp nhau ở đó. Hai Liêng kéo tay một người đàn bà tên Chín Cà Đao mắt một mí, phốp pháp, vàng đeo đỏ ngực, đỏ tay đến quày quả: “Chèng đéc ơi! Đúng là ông trời xếp đặt. Giới thiệu hai bà chị với nhau. Kẻ tìm dâu, người tìm rể. Tui làm mối cho bao nhiêu đám rồi mà chưa thấy đám nào đẹp đôi như vầy!...”. Thím Năm không biết gì, chỉ thấy ánh mắt người đàn bà đó quá lạnh lẽo. Nhưng qua trang sức đeo trên người thì rõ ràng bà ta thuộc diện giàu có. Có tiền. Rất nhiều tiền. Cũng theo lời Hai Liêng, gia đình bà Chín là chủ một cửa hiệu đóng thuyền composite ở tít mũi Năm Căn. Ở nhà còn có một vựa hải sản và đội tàu lớn gồm ba chiếc đánh cá ngoài khơi. Tuy đã qua tuổi tam thập nhi lập đã lâu nhưng không hiểu sao con trai bà vẫn chưa chịu lập gia đình. Bà Chín cũng đánh tiếng tìm nhiều mối cho con nhưng chưa mối nào thành. Biết đâu lần này qua môi giới của Hai Liêng sẽ tìm được ý trung nhân của thằng nhỏ. Thím Năm nghe mà lòng rổn rảng. Trong bụng thím chỉ gợn chút đỉnh là nếu chuyến này đôi lứa tác thành thì thím sẽ gả con gái vào một chốn xa xăm, ngút mờ chưa bao giờ đến. Như câu thành ngữ từ lâu đã lưu truyền: “chắc cà đao mặc dưng, cùm chưng bằng cùm tay”[6]. Nhưng suy nghĩ đó chỉ thoáng qua. Còn lúc này ma đưa lối quỷ dẫn đường sao đó, thím chỉ thấy cái vòng đeo trên cổ bà Chín lấp lánh. Hình như nó được làm bằng một loại đá quý lấp lánh những vòng quyến rũ. Ước gì thím cũng được đeo một chiếc vòng như vậy. Bà Chín lại đưa ra một đề nghị xem có vẻ lạ nhưng không hiểu sao thím Năm vẫn đồng ý. Bà nói vì ở quá xa xôi, lần đi lần khó nên nay gặp dịp thuận tiện, sau đám giỗ, bà xin phép ngày mai vô Lung Roi thăm gia đình và xem mặt cô dâu luôn. Nếu duyên lành tháng tốt, thì hai bên nhà trai, nhà gái tính toán rốt rẻng chứ không dần dà nữa. Xem ra, hai bà sui mới gặp mà đã tâm đầu ý hợp. Bà mối Hai Liêng hoan hỉ: “Phen này chắc sẽ có đám lớn nhất tại ấp Xẻo Lá này à nha!...”.

***

Mười Dửng tạm biệt đồng cỏ chát, lùa vịt đi đâu tôi cũng không rõ. Y ra đi trong bóng đêm. Khi cả gia đình chú Năm Hạnh đưa Hai Trâm sang sông về “chắc cà đao mặc dưng” thì cũng là lúc Mười Dửng cùng đàn vịt lên đường. Không ai nhớ và đoái hoài về số phận trôi dạt của y. Có gì đáng nói với nỗi đau và kiếp hèn như rối trong cỏ, ngút trong cỏ? Nhưng tôi biết cỏ rất hèn nhưng với tình thì cỏ vẫn ngát hương. Có lẽ “cùm chân” hay “cùm tay” vẫn còn dễ chịu hơn khi “cùm tình”, “cùm yêu” khi ấp ủ, mang vác trong lòng một mối tình quá lớn mà không thể thổ lộ, hét to lên, hay chia sẻ được. Đó cũng là nỗi đau của tướng quân giữa trùng vây cỏ chát.

Làm sao có thể tìm Mười Dửng trên những cánh gió tốc táng, ngút ngát rợn ngợp chân trời? Để tôi có thể kể cho y nghe rằng con thuyền chở tình yêu của Hai Trâm cũng như y, đi hoài không tới. Nghe đâu, chồng của em là một gã đàn ông dở người, bại liệt và tâm thần. Di chứng để lại của cậu ấm quý tử con một gia đình của ăn của để, chơi bời trác táng. Hai Trâm tồn tại như một bông cỏ dại để những cơn điên bất lực thường trực trút bỏ. Thím Năm Hạnh không chỉ có chiếc vòng mã thạch đeo tay mà còn sở hữu rất nhiều thứ khác. Nhưng mỗi lần đi thăm con là lòng thím tan nát, như ai cầm dao mà cứa, mà cắt đứt từng khúc ruột vậy.

Chú Năm lui cui một mình trong chòi vắng. Những con cua béo không còn làm bận rộn chú bằng những chai rượu bí tỉ khi trong lòng đang có một nỗi niềm minh mang cần quên đi. Riêng tôi, tiếp tục hành trình văn chương của mình bằng những quả trứng vịt. Tôi nghe những mùa gió chướng đang về lay rợn trên cánh đồng chữ. Đôi khi cần phải đi tới một mình với ám ảnh đồng cỏ chát. Chúng ta thật bé nhỏ trước cuộc đời rộng lớn. Và giấc mơ sở hữu thực thể những quả trứng không còn của riêng Mười Dửng mà của bất cứ ai. Những quả trứng mộng ảo và hoan ca. Rồi như những con dzê rô tròn trĩnh rớt xuống chân cỏ cay đắng của hiện thực.

Tháp Chạp lại đang về. Mùa nước lên, dòng sông đục ngầu vì bờ bãi phù sa và tràn ngập thức ăn. Những con cua may mắn sót lại từ mùa câu trước nay lại tiếp tục mơ mộng được kẹp những khúc thịt lươn thơm ngon là mồi nhử nướng vừa lửa. Trước khi chết vì bị cất vó, lũ bò ngang vẫn cam tâm thưởng thức hương vị ma quái quyến rũ đến tầng nấc cuối cùng. Những bông cỏ cũng bắt đầu trổ đòng, phơ phất. Cái sắc màu rũ liệt, hoang hoải. Vô duyên và ngơ ngác kéo dài đến cuối chân trời xa thẳm. Làm sao có thể sống được mà không mơ ước?...

 

Sài Gòn, 11.2010

 

 

THUYỀN ĐẮM NGÀY ĐẸP TRỜI

 

Mọi thứ, mọi tình huống có thể diễn ra bất cứ lúc nào như bản chất trôi chảy của cuộc sống cho dù bạn không hề mong muốn. Như truyện ngắn này, tất cả được phát hiện, ngắm rọi trong một ngày đẹp trời. 

Dương chuẩn bị ra khỏi nhà. Anh không nhớ hôm đó thứ mấy. Mà cũng chả cần thiết. Có thể bất cứ ngày nào trong tuần. Chỉ có điều rõ ràng đó là một ngày nắng đẹp. Mặt trời uể oải lên chậm. Nó chùng chình trong mây trắng như vẫn còn ngái ngủ, quấn mình trễ nải trong chiếc màn nhung. Vài tia nắng ấm áp rắc qua tán lá. Rồi cái màu vàng óng như len trải thảm, kéo sợi đến tận cuối chân trời. Dương đẩy xe ra cửa. Tâm hồn vui lắm. Môi anh vẩu lên, ngậm điếu thuốc. Một hơi rít sâu. Làn khói rê vào tận đáy phổi chất ngất giác cảm. Mùa thu đã về. Hơi lạnh tràn mọi ngõ. Nửa khuya, cơn mưa lớn. Như cuốn đi hết những bụi bặm, rác rưởi đời anh. Những ngày vừa qua anh đã sống buồn quá! Lòng hẹp như một vỉa hè bị hàng quán chiếm dụng, nhôm nhoam, chật chội. Những mặt người hầm hố, nham nhở khai quật. Những mưu mô nháo nhoàng, tăm xỉa, đớp đáp. Nắng xối đỉnh đầu. Bất chợt, Dương thèm cơn mưa. Và giờ đây, lúc này, thời khắc chuyển mùa! Một ngày đẹp trời đã đến! Nhưng Dương có biết đâu! Trước và sau một phút chẳng đã từng có những đổi thay làm rung chuyển thế giới hay sao?

Còn bây giờ thì Dương đang vui. Anh đến quán cà phê để gặp một người quen cũ từ lâu bặt tin. Hình như y đi làm ăn xa, vừa trở về. Địa điểm hẹn thơ mộng, nhiều bóng cây. Nhưng vừa bước vào thì cũng là lúc chiếc điện thoại rung lên. Một tin nhắn từ số máy lạ. Người bạn xin lỗi vì không thể đến được. Y biện bạch một lý do đầy hồ nghi. Rối rắm và khó hiểu. Những mẩu tự loăng quăng không dấu càng làm Dương không tin vào mắt mình. Tạm chấp nhận thế này, một cuộc hẹn bị hủy vào đầu buổi sáng đẹp trời. Thế thôi! Còn vì sao thì có ngàn lẻ một lý do. Và Dương quyết định vẫn ngồi xuống. Anh gọi cà phê. Không việc gì phải vội với buổi sáng đẹp như thế này. Cuộc đời có bao lâu. Không tận hưởng thì thật uổng phí. Rồi anh thoáng có ý nghĩ là nên gọi thêm một ai thế vào chỗ người đã vắng mặt. Ai cũng được. Điều đó không còn quan trọng. Dương mở danh bạ điện thoại, vừa hút thuốc, vừa dò vu vơ. Những hàng tên chớp lướt vô vị dưới mắt anh. Anh cố hình dung một gương mặt rồi lơ đễnh bấm đại. Sau vài nhịp chuông rè rè, một giọng nói trầm đục cất lên làm anh giật mình. Một tiếng cười khùng khục mắc trong cổ. Một khứa nào đó mà anh chưa kịp nhận ra đã vội nhận lời là rất sẵn lòng, đến ngay. Y đang ở rất gần và sẽ có mặt chỉ trong dăm phút nữa.

Khi khứa bước vào, Dương ngớ người vì đó không phải gương mặt anh mong đợi. Thì ra anh đã gọi nhầm vì trong điện thoại lưu quá nhiều tên trùng nhau. Nhưng rõ ràng là người mà anh thực sự mong muốn như thế nào thì chính anh cũng không rõ. Chỉ biết rằng Dương tràn trề thất vọng. Trong khoảng mù của trí nhớ, Dương chỉ biết đây là đối thủ của một đối tác trong một phi vụ nào đó. Hoàn toàn không thích hợp với không gian buổi sáng đẹp và tâm trạng của anh bây giờ. Mọi việc có vẻ muộn màng khi tiếp tục trượt ra ngoài ý định. Khứa luôn tỏ ra nhã nhặn, là một tay biết điều. Tuy nhiên, cuối buổi, khứa lại vụng về quá đỗi: “Ông vẫn làm ở chỗ cũ hả? Đã chuẩn bị gì chưa? Thuyền sắp đắm rồi!...”. Lại là một sự cố rơi ra ngoài vòng kiểm soát. Cả hai chia tay nhau đắng đót và vội vã trong cảm giác cố chạy thoát khỏi cục nợ…

***

Thuyền sắp đắm. Là sao nhỉ? Tại sao khứa biết mà nói với Dương nhỉ? Nếu đã thế rõ ràng nhiều người biết. Còn anh tại sao lại không? Công việc của mình đáng ra, anh rõ hơn ai hết mới phải chứ? Đúng là một tin không đáng chút nào vào buổi sáng đẹp trời. Kể từ ấy, Dương biết mình khó bình yên được nữa. Có một nỗi buồn râm rỉ, len lỏi ứa trào. Tim đập mạnh vì linh cảm mơ hồ một sự cố nào đó đang chực bủa xuống. Dương phấp phổng rà soát lại công việc. Anh định tâm và cố nhoài sâu xuống cái hố cảm giác để vực tìm những chuỗi sự kiện liên đới về hình ảnh con thuyền sắp đắm mông lung nào đó.Và anh đã tìm thấy. Thì ra anh đã lơ đãng. Mà cũng chẳng phải. Anh linh cảm, thoáng biết, nhưng đã cố quên đi. Thiên hạ máu thật! Chẳng việc gì không đánh hơi được! Dương là tay cạo giấy, chữa lỗi chính tả quèn trong một tờ báo nhỏ. Chính xác đó là một tạp chí ra hàng tuần chuyên về điện tử, công nghệ thông tin. Gần đây, khi kinh tế thế giới suy thoái, dư chấn của nó đã lan tỏa những chân rết khó khăn bò vô hình trong đời sống. Nghe phong thanh tờ báo của Dương không còn thuận lợi trong phát hành. Thị phần trong thị trường rộng lớn vốn đã nhỏ bây giờ càng bị thít chặt lại. Nhiều nhà đầu tư là các hãng công nghệ lớn như điện thoại, laptop, máy tính… đã rút ra. Những cuộc thương lượng quảng cáo không thành. Ti-ra phát hành giảm sút nghiêm trọng. Những số báo in xong chuyển đi các nơi đến hẹn lại trở về gần như y nguyên. Một sự phũ phàng khó có thể chấp nhận nổi. Không hiểu bây giờ người đọc thích cái gì? Những cuộc cải tổ lớn về nội dung và hình thức diễn ra. Ban biên tập tranh cãi như mổ bò. Đập bàn. Đấm cửa. Vục đầu vào nước lạnh. Mắt cay. Đẫm lệ. Thở dài. Hy vọng rồi thất vọng. Tờ báo tuy vẫn ra đều đều nhưng đã mang dung mạo của một món hàng thiu ế ẩm. Hình ảnh đó chẳng khác gì mớ rau cải bị thối rữa chẳng ai thèm đoái hoài, nằm phơi trong ánh chiều của phiên chợ tàn tạ. Mặc cho trên bìa là sự cố gắng hết mình của đám họa sĩ trình bày. Căng hết cỡ các hình khiêu khích của siêu mẫu, ca sĩ, minh tinh màn bạc, người đẹp phớn phởi, mỡ màng. Bên họ là những món đồ công nghệ cao, Macbook Pro, iPod Shuffle… Những tấm hình được kỹ thuật vi tính vuốt phẳng, mông má. Những thân thể bốc lửa uốn éo, quyến rũ. Vậy mà cũng chẳng lừa thêm được ai. Ở phòng phát hành đưa ra kế sách bán một tờ báo tặng một món quà. Cũng chỉ giải pháp tạm thời. Cho đến số gần đây nhất, tay tài xế chuyên chở báo đi giao cho các đại lý tru lên như sói. Gần như chở đi bao nhiêu thì nhận về bấy nhiêu. Rồi y còn phát hiện ra một điều đáng chán là sợi dây buộc báo thành từng lốc còn nguyên tem nhãn, chưa được mở ra. Có nghĩa nó ế ẩm đến mức người tiêu dùng không còn quan tâm nữa. Tại sao vậy nhỉ? Sự thật bẽ bàng hay có một mưu mô, một cái bẫy vô hình đã được giăng lên nhằm sát hạ không thương tiếc của các tờ báo là đối thủ cùng kênh, cùng đối tượng bạn đọc? Những cuộc họp liên hoàn từ sáng đến chiều nhằm cứu chữa tình thế. Dương vẫn là tên cạo giấy, chữa chính tả hèn hạ ăn lương. Anh chỉ biết căng toét mắt ra để cùng đồng nghiệp quẫy cựa vô vọng trong nỗ lực cải tiến cuối cùng. Anh săm soi đến từng dấu phẩy. Tờ báo sạch bong, không còn một lỗi chính tả nhỏ. Nhưng tình thế phát hành cũng không nhích lên được. Báo ế ùn ùn trả về. Một buổi sáng cầm tờ báo cũ lên, Dương cảm thấy rỗng lạnh như đang thọc vào gương mặt thớt bì bẹt. Cô hoa hậu lõa lồ lúng liếng, cười với anh vô cảm hệt như nhựa tái sinh. Tờ báo nhõng nhẹo, phô cứng như miếng bìa trên tay. Một sự sạch sẽ, vô hồn đáng cảnh giác và âm u như cái chết. Một sự tồn tại thiếu vắng bản sắc và cá tính.

Anh biết sắp kết thúc. Mà vẫn không thể tin. Mỗi ngày đi về mò mẫm với trái tim không hy vọng. Thật khủng khiếp. Dâng ngợp trong anh gánh nặng cơm áo cương tỏa vô hình. Thuyền sắp đắm. Cho dù ngày vẫn đẹp trời. Nó làm anh khó thở. Mà sao có thể thở nổi khi cả đám người đang treo lơ lửng trên trái bom nổ chậm? Tất cả sẽ nổ tung vào lúc bất ngờ nhất. Khi cả bọn đang cười chẳng hạn. Rửng rưng như không mà tan nát từ lâu rồi. Sao có thể nhạt nhẽo và hèn hạ đến vậy! Không ai dám nghĩ khi con tàu đắm sẽ dạt trôi về đâu nữa? Ngày vẫn đẹp. Ngoài kia mùa xuân đang mon men tới gần. Có thể nghe hương vị Tết trong cánh ngọn gió thoảng. Thuyền đắm vào mùa xuân. Rồi bỗng nhiên Dương tự an ủi, ai chẳng một lần trong đời phải chết? Cái chết nó có trống trải như mất việc làm không? Dữ dằn hơn nhiều chứ! Rồi lại thấy tự an ủi. Một lần và mãi mãi. Thế thôi! Chẳng ai nào sống nổi nếu cứ chực nghĩ có một sợi dây treo lơ lửng chực tóm mình câu rút lên cao. Giãy giụa cũng không thể thoát! Mà tại sao cứ nghĩ đến sự kết thúc? Đã có thông tin chính thức về tờ báo đâu? Nó vẫn ra đúng kỳ hạn kia mà! Anh đúng là tên quá nhạy cảm. Là một kẻ rỗi hơi. Ở vào tình thế, nếu chỉ còn được một đêm vui thì cứ vui. Vui tràn lên. Ai có thể biết những chuyện gì xảy ra trước một phút lúc mười hai giờ đêm? Khắc chuyển bóng tối và ánh sáng...

***

Vẫn có lúc Dương nghĩ khác. Buổi sáng đẹp trời ấy, người bạn không hủy cuộc hẹn, anh không gặp khứa, hay giản đơn hơn là chịu khó bấm thêm một vài tên trong danh bạ điện thoại thì biết đâu đời anh đã thoát? Đã nhẹ nhõm? Chẳng biết được. Cuộc sống vẫn ở thì hiện tại tiếp diễn mà. Ít ra thêm được vài ngày vui hay giả vui. Còn bây giờ cảm giác con thuyền sắp đắm ám ảnh không thể dứt được. Như một bức tranh. Ban đầu chỉ một nét. Hai nét. Rồi ba nét. Sau đó không còn đếm được. Nó đan kín, dày đặc. Một gam màu ảm đạm, một màn sương lạnh bao phủ cuộc sống anh. Dương vẫn cố gắng xé toạc cái màn sương ấy ra để nắm, để đếm từng nét, sắp xếp lại xem thử có thể giải quyết được gì không, nhưng sương mỗi lúc một dày. Màu mỗi ngày càng tối sẫm. Nỗi cô đơn băng hoại xâm chiếm ngốn ngấu, ăn dần, lở lói bờ cảm xúc. Anh không thể tháo gỡ được sự hỗn loạn. Dương buông xuôi khi con thuyền bắt đầu chuyển tư thế. Cái mũi phía trước chúi xuống biển khi những trận sóng ướt lạnh tới tấp đổ rào rào trên boong. Bầy ó biển kêu lên những tiếng lạnh người. Chúng xâu xé, táo tác trên biển cả. Chúng đánh hơi thấy mùi của một bữa tiệc phủ phê. Mùi máu tanh trên sóng. Dương không còn cảm giác hãi sợ nữa. Anh nhìn xem bạn bè anh đang ở đâu? Nhưng cũng chẳng còn nhìn thấy ai nữa. Tất cả đã xô dạt hay bất tỉnh ở đâu đó. Rồi một ngọn sóng lớn ở đâu trong lòng đại dương chồm lên. Ngoạm lấy mũi thuyền và xé toạc cột buồm. Trong gió, một cái cây khổng lồ nghiêng nghiêng rồi đổ oạp xuống sàn nước, dội lên âm thanh như núi lở. Không còn nhìn thấy gì nữa. Nước cuốn réo cuồng nộ. Bốn phía tung xé mưa gió bão táp. Trong mắt anh một màn sương dâng lên, sau đó mọi thứ mịt mờ dần. Anh muốn kêu lên nhưng không thể. Một dòng nước mặn đắng như muối cào xé ở cuống họng anh...

Dương tỉnh dậy. Ú ớ. Thì ra là một giấc mơ. Tay chân anh lạnh toát. Đầu óc ong ong. Đã quá nửa đêm. Căn nhà chìm trong giấc ngủ. Anh cảm thấy khát nước cháy cổ, ngồi dậy mở cửa đi ra ngoài tìm một cốc nước. Giấc mơ biển cả làm hồn anh khô kiệt bốc hơi nguội đắng. Bây giờ anh có thể uống cạn cả dòng sông lạnh. Anh bó gối ngồi mông lung trong đêm tối. Thật lạ! Con thuyền đắm và biển cả đã hiển hiện rõ nét trong giấc mơ của anh. Hoàn toàn không thấy hình ảnh cô đơn nhẫn nhục của gã cạo giấy ăn lương và tờ báo không phát hành được cuối mỗi tuần ùn ùn đổ về khiến cả tòa soạn nghả nghiêng như bão. Dương vẫn lang thang trên biển như ngày xưa, khi anh còn là đứa trẻ. Biển gắn với anh sâu đậm đến nỗi không thể tách nó ra khỏi tuổi thơ. Mặc cho bão tố đang ở đâu ngoài xa kia. Những ngày hè nóng nực, anh và bọn trẻ gần như thả rong trên bãi vắng. Bọn anh thường chạy đuổi nhau đến bên những chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi về. Những người đàn ông, đàn bà khuôn mặt nứt nẻ khổ đau, u uẩn, quanh gánh, rê lưới. Vào mùa khô hay những ngày biển động, anh vẫn thấy họ. Trên mặt biển nhấp nhô những riềm lưới bủa vây không thể thoát. Dù xa xa kia là chân trời viễn mộng. Họ bám vào biển như bám vào mặt cuộc sống. Và tất cả nhấp nhô, dập dềnh, khép kín như cuộc đời họ. Cho đến tận sau này anh mới nhận ra cuộc sống anh cũng thế! Xô động như mặt biển. Nếu như họ nhẫn nhục vớt lên từ lưới những con cá thì anh cũng cần mẫn, đọc chữa những lỗi chính tả trên trang báo. Ngày mai, khi những con cá hay tờ báo được bày biện đẹp đẽ dọn lên mâm ăn,  hoàn toàn không ai còn nhớ đến những bóng hình ẩn nhẫn lao động phía sau. Anh đã suy kiệt đến tận cùng niềm tuyệt vọng. Ngày mai không một điểm sáng. Con thuyền lắt lay quay khóc giữa biển cả...

***

Cho đến một buổi sáng, khi từ thang máy để lên phòng làm việc, anh đã thấy bóng con thuyền đắm chấp chới bay lượn. Từ biển xa, con thuyền đã về rất gần với những vẫy gọi rét mướt. Dương thấy ngột ngạt như một con cá đang bơi ngược vào ngách cụt. Dưới cái màu xanh thẳm ngỡ vô ưu của đại dương, con cá lạc đường biên chết, ngửi thấy mùi lưu cữu, mục ruỗng ngàn năm của rong tảo. Đôi khi sự chết lại đắm trong một màu xanh miên man ngây dại. Một nỗi tái mét, mất máu. Dù thông tin có thực hay không, thì con thuyền cũng đã báo động đi qua tọa độ của bình yên và giông bão. Cũng giống như anh, từ nay về sau mãi mãi không còn như trước. Khỏa thân trong nắng. Vui đùa cùng những con sóng hồn nhiên. Đôi khi chúng ta chết già vì một bản tin mà không thèm kiểm chứng. Và cuộc đời phiền muộn, gai góc này đã thêm một chiều nắng quái. Nó cũng âm u như một cơn bệnh. Người chết không vì bệnh tật, tai ương mà chính là vì sự cô đơn, khô úa héo tàn. Chúng ta chờ đợi điều gì khi cuộc đời là sự mở đầu và kéo dài của những chuỗi thất bại? Ôi cái tin buồn ai ngờ lại bắt đầu trong buổi sáng đẹp trời. Sự vô vị nghẹn ứ lên lên từ từ để bóp nghẹt tim anh…

Vì sự thúc hối, ám ảnh của cái chết được báo trước, sáng nào trước khi đi làm Dương cũng làm ra vẻ một khách bộ hành bận rộn, tạt qua vài sạp báo bên đường để hóng hớt tin tức. Anh loay hoay, để ý tìm kiếm rồi tim rộn lên đập mạnh khi nhìn thấy măng sét tờ báo thân yêu của mình. Niềm vui bóp thắt lại tê tái khi thấy nó bị dạt vào một góc và bị bao tờ khác đè lẫn lên nó. Giữa một biển báo chí, mỗi tờ báo là một con thuyền tung buồm ra khơi. Dù nằm khuất phía dưới, con thuyền bé bỏng thân yêu vẫn hét gọi tên anh một cách tuyệt vọng. Hình như độc giả đang lãng quên nó. Nó vẫn ra thường kỳ, vẫn âm thầm xuất hiện một cách kiên nhẫn. Nhưng hình như độc giả không còn tin vào sự có mặt đó. Họ đã lãng quên. Tờ báo như đứa con bị từ chối. Mỗi quầy nhận chỉ một, hai tờ chiếu lệ rồi nhét vào một góc khuất. Dương buồn bã nhận ra thân phận của mình cũng lặng lẽ chìm vào một góc như vậy! Đâu ai hay anh khát khao sự sống thật hàng ngày, trong mỗi dòng chữa chính tả, căng mắt rà soát cho mỗi dòng tin. Bây giờ tờ báo nằm lờ mờ, xa lạ như gương mặt của người bệnh. Nhưng sự thực thì dù đứng ở góc nào của sạp báo Dương cũng nhìn thấy nó. Nó là một cánh buồm lẻ loi giữa biển tin tức. Anh đau xót và nhớ về nó. Nó đang chết trong lòng độc giả. Sự hấp hối cuối cùng...

***

Một đêm khi đang làm việc, Dương thoáng thấy một người khách lạ đi lạc vào phòng. Vị khách không mời đã tới. Tự y kéo ghế ngồi một góc. Y chẳng làm và chẳng quấy rầy ai hết. Chỉ ngồi chơi thế thôi. Hình như y đã thỏa hiệp, đặt thuê văn phòng này nếu tờ báo công nghệ dọn đi. Vấn đề sớm muộn chỉ còn thời gian. Y ngồi đó với gương mặt thân thiện, đôi mắt mở to hớn hở. Nhưng không ai buồn đến bắt chuyện với y. Cứ như vậy, một tuần sau thì y mở máy tính chơi game vô hình. Y say mê cuộc đấu đến độ không còn chú ý đến ai. Y doãi chân, doãi tay thoải mái như y là chủ nhân của căn nhà này vậy! Thi thoảng để đỡ mỏi mắt, y ngước lên quan sát những bóng người đờ đẫn vác từng chồng báo ế chạy ra vào như loăng quăng. Y khẽ thở dài thườn thượt vô vị. Chẳng ai muốn tin sự có mặt của y. Nhưng rõ ràng y đã đến với nhiều hơi lạnh. Và bóng y càng rõ thì bóng dáng của tờ báo ngày càng nhạt. Dương thấy xa lạ với công việc diễn ra dưới tay mình. Dương  như sục tay vào biển tin tức nhạt nhòa. Lạnh lẽo vô cảm như rờ rẫm những xác chết. Một nỗi kinh tởm táng tận. Ngày xưa anh chưa từng như thế! Anh đọc và sửa chữa những bản tin với nụ cười trên môi khi hình dung ra bạn đọc thấy thú vị thế nào buổi sáng ngày mai khi cầm tờ báo. Còn bây giờ, anh phát hiện mình đang bu bám bàn phím như một thói quen. Mỗi tiếng gõ vang lên như một cục đá ném vào tai. Càng lúc càng hoang vu. Mỗi dòng tin trong tình trạng tồi tệ lúc này khác gì một bản cáo phó chỉ còn chờ điền tên người gửi đến. Và biết đâu một ngày, dòng tên đó là măng sét tờ báo anh. Một cái ngách hiểm trở nào đó đang trổ vào lòng Dương. Con thuyền đang vào vùng biển dữ. Người lạ đã xuất hiện. Dương đâu thể lặng im với những gì thân thuộc tỏa bóng xuống tâm hồn. Một cái ngách nào đó hiểm trở trổ vào lòng anh. Dương nhìn người khách lạ đang bí hiểm chơi cờ rồi đờ đẫn nhìn tờ báo như nhìn một cỗ quan tài. Giờ đây có thể nó sẽ mở bất cứ lúc nào, đớp gọn anh, để cả hai cùng biến mất…

Dương cứ phấp phỏng với con tàu đắm một cách tuyệt vọng. Cho đến một hôm lúc tờ báo đã hoàn thành xong vào nửa đêm thì có thông tin không còn kinh phí để in nữa. Lúc đó anh thiếp đi trong giấc ngủ, điện thoại đổ chuông liên hồi. Anh đang mơ thấy như có phép lạ con thuyền vẫn vực được sau bão. Một thủy thủ tìm thấy vết nứt trên thuyền và tất cả lao vào tìm cách bít lại. Nước trong khoang được cả bọn điên cuồng tát ra. Con thuyền tả tơi rách nát giữa biển cả sau chấn động hoang tàn. La bàn đã bị gãy. Mỏ neo đã vuột rơi vào lòng biển cả. Chất đốt cạn kiệt. Nếu không có thuyền trưởng giỏi, con thuyền sẽ dật dờ trôi lang thang vô định. Tiếng máy nổ khen khét được giật lên giữa mêng mông đại dương nghe cô đơn như tiếng kêu của những con ó biển. Chúng vừa kêu thét vừa đập cánh điên loạn bay đi vì không còn viễn cảnh của bữa đánh chén thịnh soạn. Những tiếng kêu sắc nhọn như móng vuốt bấu vào rứt từng mảng thần kinh trong đầu Dương. Anh toát hết mồ hôi, bủn rủn, buốt lạnh cả người vì đau đớn. Giật mình, Dương tỉnh dậy giữa đêm tối. Thì ra chiếc điện thoại đang réo vang. Tin báo làm anh không thể ngủ được nữa. Tan nát mọi hy vọng, những ý chí nỗ lực cuối cùng…

***

Trời hửng sáng đã thấy một gã đàn ông hớt hải tìm ra sạp báo. Cái bóng quen quen như Dương - nhân viên cạo giấy.

Sáng nay, trên ti vi đưa tin, hôm qua ở vùng duyên hải miền Trung có một cơn bão lớn ngoài khơi thốc vào bờ. Biển động mạnh. Nước dâng lên nhanh do mưa lũ lớn. Rất nhiều tàu thuyền không liên lạc được với bờ. Không biết những con thuyền có tìm được vụng biển để tránh bão tố hay không? Sự mất tích đang là những câu hỏi mà các phóng viên truyền hình sẽ tìm cách kết nối với các đội cứu hộ bờ biển để tiếp tục cập nhật. Mưa gió đang ở đâu đấy nhưng phương Nam vẫn nắng ấm. Mặt trời như thức dậy muộn. Những tia nắng ấm như len cùng những đám mây vảy cá loang lổ trôi như huyền thoại.

Dương mệt rũ, chìm đắm trong biển thông tin bão tố và áp thấp. Hình ảnh những con thuyền mất tích trên biển dày vò anh. Một thoáng lưỡng lự, anh trấn tĩnh muốn tìm con thuyền của riêng mình. Anh bắt đầu cảnh giác. Nó có từng tồn tại hay không nhỉ?

“Ông cần gì?”. Gã bán báo, mắt xếch, râu quai nón dữ dằn, hất hàm hỏi anh. Dương khẽ khàng nói điều mình đang tìm và ngước nhìn. Trên cái sạp mêng mông trôi nổi những tờ báo, tạp chí cái treo, cái nằm, những tựa tít chéo vuông, đen trắng, nghiêng ngả, đứng ngồi… sao vẫn trống trải và xa vắng. Một con thuyền đã bị đánh đắm trên biển cả. Và Dương nghe bên tai một giọng nói như ngọn gió xa lạ: “Xin lỗi! Hình như ông có nhầm lẫn gì đó! Tôi chưa từng nghe cái tên này bao giờ!"...

Tất cả đều có thể. Vào một ngày đẹp trời… 

 

Sài Gòn, tháng 10.2010

 

 

ÁM TƯỢNG ĐỎ

 

1. Bây giờ khi đã mười chín tuổi, không chỉ biết yêu, biết căm thù, biết thương nhớ, tôi còn biết sợ hãi vu vơ. Tôi thích lang thang một mình vào những buổi chiều xanh xao dọc con phố vắng. Chẳng nghĩ gì cũng chạnh buồn. Lúc nào tâm hồn cũng đồng vọng tiếng lục lạc xa xôi của kỷ niệm ngày xưa. Bao giờ tôi cũng dừng lại rất lâu trước ám tượng Đỏ - hình thể đẫm nát của những con rắn mối. Nó vẩn vơ bay lượn như điềm không lành. Mặc dù năm tháng đi qua vẫn ở lại lòng tôi nỗi đau trong suốt, trinh nguyên.

2. Hời hơn tôi hai tuổi. Nó là thằng bé cộc còi suy dinh dưỡng. Giọng nói léo nhéo như con gái, vóc người ẻo lả. Hai mắt Hời lé. Nhìn ai thì người đó an tâm là không phải nhìn mình mà đối tượng khác, bên cạnh mình chẳng hạn. Sau này tôi nhận ra rằng đôi mắt đó dự báo những điều chẳng bình thường. Bàn tay nó đường sinh mệnh ngắn và đứt khúc. Tuổi nhỏ Hời ốm yếu, èo oặt, thuốc men lắm vợ chồng lão Hoặc mới giữ được nó. Ngày bé Hời luôn khóc nửa đêm, khóc ngặt nghẽo từ hai giờ sáng. Đúng vào thời khắc lão Hoặc chọn lợn trong lò mổ. Chẳng hiểu nó bị thức giấc vì tiếng kêu oai oái giận dữ của bầy lợn trước khi bị lão Hoặc cướp đi sự sống hay còn một điềm gì khác?

Tôi học đàn và Hời rất thích nghe tôi chơi đàn. Ngày bé tôi chả có ngón nghề gì nhưng thường đánh bản Come back to Sorrento. Những âm điệu buồn bã man mác. Hình như đó là một tác phẩm của một tác giả người Ý sau hành trình của một chuyến đi xa rồi quay trở về quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình. Niềm vui réo rắt nghiệt ngã, nỗi buồn chùng lại ảm đạm. Điều cao cả nhất có lẽ là sự thoát tục. Khi ngồi giữa Sorrento ông quên hết chuỗi ngày tha phương mỏi mệt. Chỉ còn ăn năn thương nhớ những kỷ niệm xưa cũ như mái nhà xưa, bến cảng, tiếng chim thánh thót quen thuộc đã từng rơi trên hiên mái nhà tuổi thơ ông. Hời khắc khoải xa vắng. Cái buồn mờ đục đi trong cái nhìn ngờ nghệch, dài dại. Buổi chiều đã xuống từ lâu lắm rồi.

Hai đứa đi học băng qua con đường nhỏ nhiều hoa bìm và cỏ dại. Mùa xuân cỏ trinh nữ chen chúc đua nhau nở những bông hoa tím li ti bụi phấn. Cào cào châu chấu bay rợp bãi. Có con bươm bướm ma to lạ lùng, hai sợi râu loe ngoe như hai chiếc que dài, chấp chới đôi cánh vằn vện nhiều vệt xanh lục, trắng, di chuyển một cách chậm chạp và kỳ dị. Tôi không thích con bươm bướm đó. Riêng Hời rón rén từng bước từ phía sau run rẩy hai tay định chụp bắt con bướm. Sau này xa nhà tôi chẳng còn dịp nào quay lại con đường xưa để biết rằng những con bướm ấy chẳng còn xuất hiện nữa. Hay chỉ là ấn tượng đau đớn của ký ức tôi?

Hời học dốt. Sách vở luôn cáu bẩn nhòe nhoẹt vết mực. Văn viết thường sai chính tả. Lẫn lộn giữa x và s, d và gi. Toán làng nhàng điểm hai. Đỉnh cao nhất là trung bình. Có cuốn tập xổ tung bìa lộ ra bầy bướm ma, chuồn chuồn, châu chấu bị ép khô chết chồng lên nhau. Lẫn trong mớ sinh vật hỗn độn ấy còn tìm thấy cả xác cỏ trinh nữ.

3. Mà kể ra ở nhà chẳng ai quan tâm đến Hời, nó muốn học thì học. Muốn làm gì thì làm, Có bỏ đi chơi cả ngày cũng chẳng sao. Cứ đến trước bữa cơm biết tìm về là được. Lão Hoặc cưng Hời như trứng mỏng. Bởi vì như lão nói, khi chết lão hoàn toàn bình tâm vì đã có Hời thay thế lão làm chủ cái lò mổ độc nhất vô nhị ở cái chợ huyện này. Họ nhà lão tưởng đã đến hồi tắc. Đẻ một dây chín ả con gái, chỉ được hai cậu con trai. Mà anh Cả lại dở hơi. Điên không ra điên, tàng không ra tàng. Thích thì hát. Buồn thì gào rú đập phá suốt ngày. Lão Hoặc cứ cười khơ khớ và uống rượu. Cười chẳng hiểu sao cười. Hay lão đau cho phận lão đã tròn hai đời làm nghề đồ tể giết heo mổ lợn và đến Hời là đời thứ ba? Nhưng càng ngày lò mổ càng uy tín vì tấp nập người nghe danh tìm đến. Có hôm phải xẻ thịt hàng chục con lợn mà vẫn không đủ thịt để cung cấp cho nhu cầu toàn huyện và bọn lái buôn đánh lên thị xã. Tất cả các cô con gái lão đều chủ những quầy thịt lớn ngoài chợ. Son phấn đầy mặt, vàng đeo đầy tay.

Công việc thì cứ như một chu kỳ đều đặn, nửa đêm lão và bọn thợ phải thức dậy để giết lợn. Xem lão Hoặc làm việc cứ phăm phăm như viên tướng tả xung hữu đột chém giết điên cuồng vậy. Tuy giết lợn nhưng xem ra lão cũng bài bản ra trò. Chân, phò, giò, thủ… thứ nào ra thứ nấy. Có lần đối ẩm với anh Cả, khi hai cha con đã gà gật, anh Cả buồn miệng hỏi cha: “Giết một con lợn cần mười phút vậy giết một con người mất bao nhiêu?”. Lão ngước nhìn lên vằn tia máu đỏ, lầu bầu: “Thì cũng chừng đó! Nhanh mười. Chậm mười lăm. Gọn ơ! Cái khó là phải thứ nào bỏ riêng thứ nấy...”.

Khách lạ đến vùng này chẳng ai có thể ngủ được vì tiếng lợn rống man dại khi bất ngờ bị quật ngửa, trói gô lại, tiếng dao mài rin rít, tiếng máy nổ phành phạch, tiếng va đập náo hoạt của xoong chảo và cuối cùng tiếng gầm gừ tuyệt vọng ai oán mắc lại trong cổ khi dao chọc vào, dòng máu óc ách cuồn cuộn phọt ra. Vào khoảnh khắc đó loảng xoảng tiếng đập phá của anh Cả, tiếng khóc bời bời của thằng Hời và chập chờn những đốm lửa bay. Cho đến gần sáng ló mặt người sự yên tĩnh mới được trả lại. Ngoài đường những lớp sương mỏng tan dần như ảo ảnh. Thật rã rời và u tối cho những khi vắng bóng mặt trời.

Có những lần đi học Hời lấy trong cặp ra một miếng gan to bằng bàn tay. Nó đưa cho tôi cắn một phát trước khi Hời ăn hết. Lúc đầu tôi rất thích nhưng về sau thì chán. Tôi đã không đủ kiên nhẫn. Hời bảo nó còn thích ăn huyết nữa. Ngọt ngọt bùi bùi thế nào! Tôi về hỏi mẹ huyết là gì? Mẹ bảo: Là máu! Tôi lại sợ. Thỉnh thoảng tôi bị chảy máu. Những lúc ấy tê tái và đau đớn. Lẫn lộn giữa huyết và máu tôi thấy ghê ghê làm sao. Dạo ấy tôi chỉ là một đứa trẻ. Chỉ suy nghĩ vớ vẩn những gì u tối không lối thoát như tôi đã kể. Nhưng thật kỳ lạ. Bây giờ nghiệm lại những chuyện ngày ấy cảm giác của tôi vẫn không có gì khác trước lắm. Vẫn mênh mông sương khói. Vẫn buồn buồn…

4. Một buổi trưa tôi đang ăn cơm thì Hời đến. Mặt nó tươi hơn mọi hôm. Tôi nhìn thấy bên hông nó cộm lên một lớp gì dưới áo. Chưa kịp hỏi thì Hời đã hớn hở rút ra một cái ná thun.

Cánh ná xem chừng cũng đơn giản. Một cái chạc ba cưa ra từ cây khô. Hai nút dây thun buộc hai đầu, ở giữa là miếng da lủng lẳng. Lần đầu tiên tôi bị cuốn hút bởi Hời. Hai đứa đi học sớm, băng qua con đường nhiều hoa bìm, bươm bướm ma, cỏ gai. Trông nó như tay thiện xạ lành nghề. Hời tìm viên sỏi nhỏ kẹp vào ná ngắm bắn bông cúc dại. Bông hoa đang lung linh thắm tươi. “Phựt” một cái, chớp mi là biến mất. Trơ thân cây cụt đầu. Tôi bàng hoàng. Trong giây phút thôi sao? Sự sống, cái chết đổi chỗ cho nhau? Tôi vừa sợ vừa thích. Mơ hồ không hiểu nổi.

Không chịu được nỗi sợ hãi, cám dỗ, tôi nằn nì Hời làm cho tôi một cánh ná như nó.

5. Gần nhà tôi có cái đầm rộng từ lâu chẳng có ai bén mảng đến. Ở đây quanh năm tĩnh mịch yên lặng. Lau sậy mọc lút đầu người. Mùa khô hồ rút nước cạn khô phơi lớp bùn đen nhão. Mùa mưa nước dâng lên hai bờ đẩy từng đóa lục bình lững lờ trôi về xa tít.

Mẹ tôi dọa ở đầm có con ma le với cái lưỡi dài thèm thịt trẻ con. Đó là lão Bùng. Một lão già cất vó vì quá sầu đời mà trong một cơn say đã tự treo cổ mình lên cây đa làng gần đó. Mặt lão phồng lên, tím ngắt. Lưỡi thè ra chấm rốn. Từ đó oan hồn như chẳng chịu đi đâu. Ban đêm người ta thường kháo nhau rằng vẫn thấy lão lưỡi thè dài, dáng vẻ rất khát nước, lưng gãy, ốm đói rũ rượi chạy lờ phờ loang loáng ẩn hiện dưới ánh trăng. Vì vậy vào những đêm rằm, lễ cô hồn, nhiều người vẫn cúng rượu cho lão. Cứ như lão thèm rượu hơn tất cả những món khác vậy!

Tôi chưa thấy lão Bùng lần nào mà đã sợ khiếp vía. Ban đêm có chuyện phải đi ngang qua đây tôi xách dép lên thở dốc cuống cuồng bỏ chạy.

Tuần tới, lớp Hời học môn Sinh vật. Chương loài bò sát. Con vật thực hành là rắn mối. Cô giáo hứa sẽ cho điểm mười đứa nào kiếm được con rắn này để làm thí nghiệm. Là đứa học kém cỏi, Hời sung sướng kỳ lạ. Phải rồi. Thời đi học ai chẳng mơ thấy những điểm mười đỏ chói.

Hời sửa sang lại cánh ná. Nó thay nhiều sợi thun đứt bằng những sợi mới nguyên còn thơm mùi phẩm. Hai đứa quyết định thám hiểm đầm. Tim tôi đập thình thịch giữa nỗi háo hức và sự căng thẳng tột độ. Hời láo liên cặp mắt lé nhìn đi đâu tôi không biết. Những con ếch ngồi trơ tráo trên đầu khóm lục bình giật mình nhảy lõm bõm xuống nước. Ánh nắng loang lổ chờn vờn đe dọa. Tay tôi bóp chặt cánh ná. Tôi hối hận vì một thích thú miễn cưỡng tôi đã theo Hời đi quá xa.

Hời bỗng “suỵt” tôi đứng lại. Nó ngọ nguậy tìm viên sỏi trong túi áo. Tôi trương mắt nhìn. Con rắn mối đang trườn đi sột soạt trong bóng im lau cỏ. Đầu nó dẹp. Đuôi nó dài. Thân hình nham nhám xanh. Tim tôi co thắt muốn vỡ. Da con rắn xanh quá. Bầu trời hôm nay cũng rất xanh. Ai biết được cái chết đang cận kề? Con rắn thản nhiên và ngu muội đến mức còn ngóc đầu lên tìm hiểu chúng tôi là ai?

Hời nheo mắt. Tay nó kéo căng ná. Phựt! Viên đạn chính xác cực nhạy tin ngay giữa đầu con rắn. Đuôi con rắn quẫy dữ dội rồi đuối dần. Máu từ từ rịn ra nhuộm đỏ cái đầu giờ đây thành một lỗ sâu hoắm, nát bét. Nó đã chết.

6. Từ ngày Hời kiếm được điểm mười đầu tiên trong đời đi học của mình, nó còn lôi kéo bọn trẻ ở xóm cuốn vào trò chơi sát sinh. Hình như có nỗi kích thích vừa hãi hùng vừa sung sướng đó là lúc quần xắn ống cao, ống thấp, lội bì bõm trên bùn rình mò nã những phát đạn đá vào giữa đầu những con rắn mối. Tận mắt chứng kiến cảnh máu chảy, thân thể lỗ chỗ vết đạn của con vật đang quằn quại đau đớn với từng khoảnh khắc cuối cùng. Bọn trẻ đứa nào cũng có một cánh ná để trổ tài. Hời hết buộc giúp đứa này lại làm cho đứa khác. Mỗi buổi trưa chúng lại í ới gọi nhau bủa xuống đầm dấn thân vào cuộc chơi đẫm máu. Bờ đầm lâu nay vốn uy nghiêm, tĩnh mịch và thiêng liêng nay bỗng chốc bị quấy phá đảo lộn chưa từng thấy. Tôi cũng không còn sợ lão Bùng nữa. Mùa cô hồn vừa rồi cả làng cúng rượu cho lão chắc đến giờ này lão vẫn còn say tít thò lò. Cỏ cây bị đạp ngã rạp đè lên nhau. Lũ dế mèn trốn đi đâu mất. Ếch nhái cũng không còn kêu rền rĩ như trước. Cảnh vật xác xơ hiu quạnh hẳn đi. Rắn mối bị truy nã đến con cuối cùng. Con vật hiền lành ngờ nghệch sống chỉ quen bắt ruồi muỗi trong bụi rậm. Chẳng hại ai bao giờ. Chiều chiều Hời cùng bọn trẻ xách lủng lẳng từng dây rắn mối đi về xóm. Con cụt đầu, chột mắt, con nát thân, mất đuôi. Không một con nào còn nguyên hình hài. Bọn chúng làm ồn ào cả lên khi kể về chiến công săn máu cho nhau nghe. Sau đó tất cả đào lỗ chôn hay vứt bừa bãi cho gà ăn. Riêng Hời nó không làm gì với con rắn săn được. Hời leo lên gác xép, cẩn thận đếm từng con rồi phơi khô trên mái hiên.    

7. Đó là buổi chiều Chủ nhật trời mưa lâm thâm. Đang nắng, bỗng tối sầm. Gió từ phương Bắc ùa về thốc tháo từng cơn, đùn bụi cuốn lên mờ ảo. Màn trời u ám nặng nề. Mưa khắc khoải chừng như vật vã lắm. Lộp độp, lộp độp rồi mưa mạnh lên dần. Buổi chiều ảm đạm chán chường, tôi trùm chăn kín mít đầu giường, lòng xa vắng, buồn bã chả ra làm sao! Bỗng nhiên nghe tiếng la hét ngoài cửa. Tôi chạy ào ra. Mưa đan phủ mờ trời kín đất. Tôi không bao giờ có thể quên hình ảnh mụ Hoặc chới với đôi tay khẳng khiu, hú gọi ba hồn bảy vía thằng Hời trong mưa. Đôi bàn tay run rẩy trong khoảng không cố níu kéo lại một điều gì như cơ hồ tuột mất. Mụ khóc rống lên. Tiếng bước chân người sầm sập nháo nhào. Anh Cả kêu gào giữa cơn động kinh nghe hãi hùng hơn bao giờ hết. Ngoài chợ có loạn. Chín quầy hàng thịt của chín bà chị Hời bị gió cuộn thốc mái. Những cái đầu lợn đã được luộc chín, cạo nhẵn lông phút chốc bỗng ngoác mồm kêu eng éc inh ỏi. Còn những chân giò bỗng nhiên cử động co giật. Tất cả rú lên kinh hãi bỏ chạy về nhà. Sau này tôi nghe nhiều người tận mắt chứng kiến kể lại như vậy.

Ở nhà mọi người cuống cuồng vì tin dữ. Lão Hoặc tỉnh cả cơn rượu bí tỉ dẫn đầu đoàn người lao về phía bờ đầm. Giờ này chỉ còn một mình Hời ở đó. Nó đang mải mê tìm bắn những con rắn mối trong mưa lạnh.  

Không đánh hơi được mùi vị của sự nguy hiểm, buổi trưa Hời lặng lẽ ra khỏi nhà vì nỗi buồn vô cớ. Nó tiếp tục khao khát săn đuổi những con rắn mối. Nó cảm thấy cô đơn. Ước gì cứ đạt được những điểm mười vì săn bắt rắn mối nhỉ? Như thế thật thích. Nhưng giờ thực hành đã đi qua từ lâu và điểm mười duy nhất trong đời đi học của nó đã khép lại. Nó lại trở về với những điểm số làng nhàng. Đỉnh cao nhất là trung bình. Tẻ nhạt làm sao!

Hời mon men theo bờ nước. Trời nổi gió xoáy, cỏ lau run lên chờn vờn và khẽ rì rào. Mặc kệ, Hời không cần nghĩ là nó cần phải quay về. Bây giờ bắn được rắn mối là niềm vui của nó. Nó nghĩ về xác những con rắn đã phơi khô trên mái hiên và đơn độc với trò chơi nhiều điểm mười chói lọi. Nhưng mỗi lúc săn rắn mối càng khó khăn vì chúng đánh hơi được cuộc tàn sát, đã tự lẩn đi đâu.  

Có tiếng sột soạt, Hời quay lại, mặt tái đi vì mừng rỡ. Một con rắn mối ngóc đầu lên sau bụi gai. Nhận ra Hời nó hốt hoảng bò đi vội vàng. Hời cũng nhận ra nó. Đây chính là con rắn lần trước bị Hời bắn cụt đuôi nhưng kịp biến mất. Chỗ cái đuôi cụt còn chưa lành. Nó vội đuổi theo. Con rắn không qua được mắt Hời. Tay nó đã kéo căng ná. Cuộc săn đuổi lúc ẩn lúc hiện kéo Hời mỗi lúc một ra xa giữa đầm. Chỗ mà bọn trẻ chưa đứa nào dám đặt chân tới. Bỗng Hời thấy choáng váng và hoa mắt. Ai như lão Bùng đang cười ngặt nghẽo với cái lưỡi dài chấm rốn. Vì sao thế này? Tay nó buông rơi ná. Cố đứng mà không vững nữa. Chìm vào một giấc mơ rờn rợn huyền bí mà nó chưa hiểu nổi. Sấm sét. Chớp. Gió. Mưa. 

Một người đàn bà chèo xuồng đi vớt bèo hoa dâu phát hiện ra đứa trẻ nằm bên mé nước, gọi mãi mà không thưa. Mặc mưa dữ và gió cuốn, bà bơi xuồng lại. Đứa trẻ ngửa mặt trên bùn, đôi mắt còn mở trừng trừng ngây ngô và dài dại. Một cánh ná dây thun rớt bên cạnh. Trên vệt bùn còn vết trườn đi của một con rắn độc. Người đàn bà hét lên…

 

Đà Nẵng, 1989

 

 

TIỂN BIỆT LÁ KHÔ

 

Khi về già người ta thường hoài niệm về tuổi trẻ và thích ngồi đợi những buổi sáng. Bởi vì đêm tối lạnh lẽo và âm u làm sao!

Lão Đệch thức dậy lúc tia nắng đầu tiên chạm vào cửa sổ. Nó len lén liếm lên tấm chăn rồi mải mê chảy tràn khắp sàn nhà. Chiếc lá vàng lìa cành chao nhẹ trên bàn, luồng gió khẽ đưa nó xuống đất kêu lào xào. Mọi thứ rõ ràng hẳn để lão Đệch thấy sự xô lệch ly tách, ấm trà trên khay nhỏ và dưới chân vương vãi tàn thuốc lá. Màn trời cao vời, xanh thẳm có bóng chim bay vút qua. Trên cây cau trước hiên nhà có cánh diều mắc ngang, đuôi và cánh rũ xuống lõng thõng trong ban mai xem chừng rũ rượi quá. “Buổi sáng!”, lão thầm thì. Chợt thấy người nhẹ hẳn. Đêm qua mới dài làm sao. Mùa thu rét lên từ nửa khuya làm lão đau ê ẩm các khớp xương. Lão nằm trong bóng tối nghe lòng xa vắng. Những kỷ niệm ùa về theo heo may. Một đời người. Có chút gì luễnh loãng tan ra. Thật và không thật. Mơ hồ. Dòng đời mở ra rồi đi mãi. Con người hút vào đó như vô tận. Nghĩ miên man lão càng thấy nhạt và buồn.  

Từ ngày bà Mận mất, lão Đệch quỵ hẳn. Sức khỏe lão xuống trầm trọng. Người khọm đi. Căn nhà vốn vắng vẻ nay cũng chỉ còn một mình ông lão. Có đứa cháu họ xa vừa tốt nghiệp đại học ra trường nhận nhiệm sở ở thành phố, mỗi tuần thu xếp về thăm lão một lần. Tuổi già đơn độc không con cái càng hiu quạnh. “Âu cũng là số phận.”, lão cay đắng nghĩ. Duyên nợ bao nhiêu cuối cùng bà Mận cũng từ bỏ lão. Một đời bà sống nhẫn nhục chịu đựng vì chồng con và biết bao tai họa. Có đêm bà trở về trong giấc mơ ngồi bên lão kể lại những câu chuyện xưa. Bà bảo sống ở đời cứ làm tròn trách nhiệm của mình thì không việc gì phải tiếc nuối. Thế giới bên kia cũng có đạo lý và công bình. Chẳng ép uổng ai mà lo.

Ngày ấy bà không yêu ông nhưng bây giờ đây bà sẵn sàng bỏ qua hết, tha thứ hết mọi thứ cho ông rồi. Hai người khắc khoải bao nhiêu chuyện. Rồi khi nắng lên bà Mận lại đi.

Thời trẻ như buổi sáng rực rỡ trong ngày. Bắt đầu là ban mai. Tiếng chim. Những chiếc lá xanh. Gương mặt ai cũng hồng hào đẹp đẽ. Chẳng có thời nào ý vị, đáng nhớ như thế! Phải biết yêu và quý nó. Ôi, cả những đam mê và sai lầm nữa. Để lại bao tiếc nuối chẳng thể nào xóa mờ được nhưng không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông…

***

Cái làng Chắt ngày ấy quá đỗi xơ xác nghèo nàn. Mưa xói nương, nắng nẻ đất. Gió Lào ngằn ngặt thổi. Đã thế còn mất mùa triền miên. Đời sống lam lũ mà khổ nỗi ai cũng ham đông con. Đẻ rồi nuôi chúng như cây cỏ. Chúng lớn lên vất vưởng mà ma mãnh. Chiều chiều tất cả xúm xít tắm chung ở ao làng Đồi. Ở đây có bóng tre ken dày. Tụi con trai cứ để chim ngỏng tồng ngồng còn bọn con gái thì phơi rốn ra mà tắm. Chúng tha hồ té nước, cười hinh hích. Đôi khi còn đú đởn cưỡi lên lưng nhau và dìm đầu nhau xuống nước sặc sụa. Một chiều thằng cu quờ tay đụng phải bầu vú nhu nhú quả cau ở ngực con bé láng giềng. Bỗng rùng mình gai góc nổi lên. Mới hay cảm giác khác lạ. Đêm về ngáp vặt như ốm nghén. Đâm ít nói. Lẳng lặng củ mỉ cù mì. Đôi khi còn ngờ nghệch khủng khỉnh một mình. Rõ đáo để.

Cu Đệch say gái từ hôm ấy. Trong người cứ háo hức như ngứa ngáy mà gãi không phải chỗ. Đệch mê mẩn cặp đùi non của con bé Mận. Mận mười lăm tuổi. Mắt đen như mắt chuột. Khuôn mặt bầu bĩnh. Cái mũi hếch khiêu khích và má đầy lông tơ. Nhìn Mận đi lút cút trên ruộng, chân trần trắng lốp như bẹ chuối, Đệch thấy bứt rứt ghê. Đã thế bộ ngực còn nứt ròn, đủng đa đủng đỉnh mà phát ghét. Đệch bám theo con bé từng bước. Mặt tiu nghỉu như mất bạc. Nó giở trò gì con bé cũng gạt phăng đi. Nó vẫn còn bé quá. “Đã thế thì biết tay ông!”. Cu cậu điên tiết lắn rồi.    

Hàng ngày Mận vẫn băng tắt con đường qua ao làng Đồi về nhà. Đệch bỏ ba ngày đi dò thiên la địa võng. Chiều đó Đệch thu mình trong bụi rậm. Mặc độc cái quần cụt. Phủ rơm cỏ kín mít. Nó dí mũi xuống bờ đất. Mùi cỏ non ngai ngái làm Đệch đê mê. Bầy kiến đỏ lếch thếch chạy trên lưng nhột nhạt. Nó với tay hất xuống. Mặc kệ! Đệch cười một mình. Tâm can ý chí nhũn ra mơ hồ. Hình như mọi thứ hạnh phúc trên cuộc đời này đều mơ hồ như thế!

Tiếng con vạc chuẩn bị ăn đêm kêu vác vác giữa triền nắng xuân vàng ruộm. Mận thè lè gánh hai gánh rau khoai đi qua. Hấp! Đệch lao phắt ra, ủm ngửa Mận bế thốc vào bụi rậm. Mận thở dốc. Giãy giụa. Vừa la oai oái. Vừa kêu trời. Vừa chửi. Sẵn rơm cỏ, Đệch cứ quơ đại mà tọng vào mồm nó. Cả hai vật nhau ậm ạch. Có lúc Đệch cưỡi lên lưng Mận như cưỡi ngựa. Mận hung hãn cấu mũi Đệch lõa máu. Đệch càng quyết tâm. Cuối cùng là Mận khóc rưng rức. No nê, Đệch hồng hộc chồm dậy. Quên cả việc tháo rơm cỏ ra khỏi miệng con bé. Chúi mũi đánh thẳng một hơi ra ruộng mía.

Cố Vi xách con nác dài bổ đi tìm Đệch. “Mồ tổ thằng cháu mất dạy! Hạng lêu lổng như mày ba đời nhà họ Mai ở làng Chắt này chưa từng thấy bao giờ. Muốn làm gì thì làm? E cái nước này loạn chăng?”. Tính cố dữ dằn, nóng như lửa. Cả làng ai cũng gờm mặt. Thương thì bao bọc. Ghét thì dốc phạng chém bổ ngửa. Không nói năng gì lôi thôi. Đêm sập tối. Cố gầm gừ lồng lộn trên ruộng mía. Vung nác múa loang loáng. Mía đứt phăng phăng. Ngã rạp đè lên nhau chồng chồng lớp lớp. Nhờ trời là mía rập ràng. Đêm lại tối đen như nhọ nồi cộng với thằng Đệch đáo để, tinh quái lẩn như chạch nên cố không biết đâu tìm. Tan cơn giận, cố Vi đùng đùng trở về. Bỏ lại phía sau bãi chiến trường sóng sượt ngổn ngang xác mía.

Đêm đó Đệch ngủ trong ruộng mía. Ăn tha hồ. Chưa lần nào nó được tự do như vậy. Nó ăn đến tướp cả môi. Mẻ cả răng. Nghĩ về chuyện Mận rồi thỏn thẻn cười một mình. Ba ngày sau nó mới chủng chẳng về nhà.

Đám cưới. Con bé Mận khóc thút thít. Về làm dâu nhà họ Mai khi còn chưa biết tí gì. Sau ngày lấy chồng, lúc nào cũng chít khăn mỏ quạ trên đầu. Chỉ chừa hai con mắt lá dăm và một mảng má gờn gợn buồn. Lẳng lặng ít nói cười…

***

Những hoài niệm xưa cũ trở lại với những hình ảnh rõ nét nhất. Đêm qua, bà Mận hiện về với lão, bảo rằng chẳng trách ông dù thuở đầu tiên bà không yêu ông. Chỉ là giấc mơ nhưng ông lão buồn. Lão đã thức để đợi buổi sáng. Ban mai xoa dịu lão bằng tia nắng ấm áp và ngọt lành. Lão nghĩ ngày mình đã qua như hoàng hôn vào chiều tối. Những cơn mưa tuổi tác nặng nề bao phủ. Nếu được bắt đầu để làm lại… Lão day dứt: “Mình chẳng bao giờ ghê gớm thế! Chỉ là con thú. Một con thú có gì hơn?”. Một trò chơi vô duyên và ràng buộc, dan díu nhau một đời cho đến ngày cuối cùng. Thế giới bên kia sẽ không tha thứ. Đây chính là điều bà Mận trở về nói với ông trong giấc mơ.

*

Việc Đệch có vợ như món quà tặng bất đắc dĩ. Được cái Mận đảm đang, xinh xắn. Tưởng có gia đình là yên chuyện. Nhưng không. Buổi sáng rực rỡ của đời người ấy vẫn ồ ạt, lốc xoáy nhiều trận bão.

Ghét cờ bạc nhưng Đệch vẫn ham tán gái và bẫy chim. Mận bao lần nổi cơn ghen dọa đi tuốt tuột về bên ngoại. Có hôm cùng bạn dâu ra huyện rình rập đánh ghen. Cả hai phía ẩu đả tơi bời hệt có loạn trong chợ. Đệch vẫn như ngựa chứng bất kham. Thấy gái mắt sáng trưng lên. Như ếch vồ hoa. Quạ vào chuồng lợn. Cu cậu ham mê đủ mọi chuyện rắc rối trên đời. Một lần chuyện đã quá quắt,đến nước làng xóm cũng chẳng ai chịu nổi. Cái hội trai đàn đúm bê tha làng Chắt rắp tâm cưỡng đoạt một o kẻ lái dưới làng Thương Hạ lên. Ả hai mươi tuổi. Tươi da mát thịt. Cặp mắt lúng la lúng liếng đa tình đáo để. Bộ ngực mơn mởn sau lớp vải láng đen, nhức mắt khủng khiếp. Lúc đó ngoài trời đang có gió lạnh thốc tháo. Rét căm căm. Đệch thao tháo chờ chực cơ hội. Máu nóng lại có thêm cút rượu gạo. Xúi tay không nhảy vào bắt cọp hắn cũng đùng đùng làm ngay.

Dạo ấy ở làng Chắt mỗi vụ vào mùa thường xuất hiện đám kẻ lái. Đó là mấy ả buôn chuyến đi hết miền này qua vùng khác buôn bán đổi chác kiếm đồng lời. Bán lúa thì họ mua. Nếu cần đổi ngay tại chỗ các mặt hàng như cá, hương đèn, dầu, muối… những thứ chỉ có dưới huyện hay tận ngoài chợ Hoàn Lão đi hằng cây số cũng có. Ả Thểu - tên cô gái, có vẻ đẹp làm xốn mắt bọn trai làng Chắt. Cả bọn nghĩ mãi chưa ra kế hoạch, Đệch cười thè một câu là xong.

Buổi sáng, cả bọn kéo sang áp ở nhà đội Chù. Chù cũng là người họ Mai. Y có hai vợ mà bà nào cũng sinh toàn… vịt trời. Nên y lo ngay ngáy vì sợ không có con trai thừa tự. Y có căn nhà lớn. Chái sau cất lên gác lửng để rương hòm rủng rỉnh. Hôm ấy mọi người đi làm đồng hết chỉ còn Đệch. Dưới sự chỉ huy của hắn mấy gã trai cơ bắp, sức lực cuồn cuộn như gấu rừng lốp láp leo lên đó nằm. Gã nào ria mép cũng cứng như cỏ sắc vểnh lên trông thấy mà ớn. Đệch lật mấy cái nia đổ đầy lúa giống ngồi chờ. Ả Thểu te tái đi qua. Đệch đằng hắng giọng đĩnh đạc: “O ơi! Mua lúa không? Vô tui đong cho đây!”.

Mới buổi sáng mà được mối, ả Thểu mừng như cờ mở trong bụng. Đệch đắc ý vì con mồi trúng thuốc. Hắn chỉ đống lúa vun một góc cao thù lù. Giọng kẻ cả:

- O mua được tui bán hết cả! Lại gần mà coi! Giống tốt lắm…

Cùng lúc đó, một cái đầu bù xù ổ quạ từ trên gác cao, thò xuống láu táu:

- O ơi! Giúp tôi đợ cái thúng lúa ni…

Tưởng thật, ả Thểu với tay đợ thúng. Bất ngờ bị kéo tọt lên trên gác. Ngoài trời gió sột soạt. Heo hút. Mưa rơi.    

Vụ đó bẽ mặt trai làng Chắt không ít. Khổ cho Đệch. Hắn phải chạy trốn chui trối nhủi như con rắn tránh nắng trời. Chuyện xé tung khắp nơi. Còn mặt mũi nào mà nhìn ai nữa. Cả đám mấy thằng trốn tịt. Đứa kiếm đường qua Lào. Thằng bỏ xứ vô Nam. Cố Vi đau nặng nằm trên giường. Hay chuyện mặt cố trắng bệch như sáp. Người tóp rọp như con mắm. Cố ho phàng phạc, không chịu ăn uống gì. Nhân trung lệch qua một bên. Máu ộc ra từng búng lớn. Ba tháng sau cố chết. Râu bết ngược. Người co quắp như con tôm. Đám tang của cố buồn rầu ảm đạm. Mọi chuyện cả họ bưng bít ém nhẹm. Dù sao danh dự dòng họ vẫn là điều thiêng liêng.

Đệch mò mẫm chui rúc trong xó bếp. Râu ria ra xồm xoàm giống con khỉ rừng. Trai làng  Thương Hạ bị chạm nọc kéo đoàn xuống làng Chắt quyết ăn thua một trận cho hả nhục. Gậy gộc, dao phạng vung lên nhọn trời. Hai làng sinh thù hằn. Nhiều trận đụng độ bươu đầu, mẻ trán. Ruột gan đổ lòng thòng. Một đêm nửa khuya, cây rơm lù lù trước cổng nhà đội Chù phát hỏa. Lửa bốc cháy đùng đùng. Gặp phải gió nam lửa táp ngùn ngụt không còn cách gì chữa nổi. Đội Chù chỉ kịp kêu gào vợ con thoát ra khỏi nhà rồi đứng khoanh tay nuốt nhục ôm hận nhìn cơ ngơi cả một đời lam lũ tích góp của mình phút chốc tan ra thành tro. Tiếng gào khóc như ri. Ai cũng cho là mưu độc của bọn trai làng Thương Hạ. Vết thù càng khoét sâu. Số phận Đệch mỏng manh như đường chỉ trên tay.

Tây đổ bộ. Từ Đồng Hới chúng bắn ca nông xuống Bố Trạch. Có nhà đang ngồi ăn trưa pháo dập chết không còn một mống. Khắp làng ai cũng phấp phỏng như ngồi trên lửa. Việc riêng dẹp lại hết để lo việc chung. Nửa đêm Đệch tìm cách bỏ làng ra đi. Khuya tháng Ba trời tối đen như mực. Đom đóm lập lòe như ma trơi. Đệch cuống cuồng chạy trốn. Mận thút thít tay xách nách mang, dở cười dở khóc, theo sau. “Lấy chồng thì phải theo chồng. Chồng đi hang rắn hang rồng phải theo…”.

Ả Thểu đâm đầu xuống ao làng Chắt chết vì căm hận. Đêm đêm dưới lùm tre có bóng một người đàn bà xõa tóc, mắt dài dại vô hồn, hát ré u ơ. Thỉnh thoảng bóng ma lại cười khanh khách. Chuyện không rõ thực hư. Chỉ biết rằng từ ngày đó khoảng chín giờ tối con đường băng qua ao làng Đồi trở nên vắng vẻ. Không ai dám đi đâu…  

*

Gần một tháng qua, mưa thu giăng trên bầu trời thị trấn.

Buổi sáng như không còn lên. Mỗi ngày lão Đệch  vẫn ngồi bên cửa sổ khi mùa mưa bắt đầu. Nước róc rách buồn bã chảy trên mái hiên. Tất cả mù mờ. Đơn điệu. Lão Đệch cảm giác thời gian đang ngừng lại, khô cạn. Không còn sự sống nữa. Qua màn mưa, lão thấy cái đầu diều mắc trên cây cau rũ ra, rách toác. Những cái nan tre trơ trong gió phần phật tơi tả. Trong tâm hồn lão giờ đây tràn ngập sự hiu quạnh. Đêm đêm bà Mận vẫn về. Cả o Thểu nữa. Nét mặt ai cũng mọng nước và xa vắng. Hồi ức dội về tê tái. Những mưa Giông gió đã nổi lên trong buổi sáng cuộc đời lão. Hoàng hôn đã đến. Một ngọn nến tàn hiu hắt. 

Lão Đệch chờ đợi và kiệt sức. Lão mong người cháu họ từ thành phố trở lại để kể với anh nỗi trăn trở đang dày vò của lòng mình rồi có thể thanh thản ra đi. Loài chim di trú bay trên đầu thị trấn kêu lên thất thanh, quang quác. Thời trẻ của lão cũng dữ dội như tiếng kêu của những con chim kia. Lão không ước ao có đủ thời gian để làm lại nhưng cầu xin đừng ai hoang phí, lầm lẫn như lão. Lão mong được sám hối. Được tha thứ. Thế giới bên kia công bình và thanh thản. Lão khẩn cầu điều ấy.   

Một đêm khuya khoắt, mưa âm thầm rền rĩ, gió lướt thướt than vãn. Cả khu vườn rung lên xao xác. Chúng vừa tiễn biệt sự ra đi của một chiếc lá khô.

Bấy giờ là mùa thu. Đêm lấn qua ngày. Bóng tối bịt bùng hun hút. Vòm trời tràn ngập tiếng kêu xao xác của bầy chim di trú…

 

Hội An - Quảng Bình, 8.1993

 

 

NGÕ HẸP

 

Khoảng bảy giờ tối con hẻm thâm u rung lên trong kinh động. Bắt đầu là tiếng chửi rủa, tiếng đập phá và cuối cùng là tiếng rú. Hầu như đêm nào cũng vậy nên cũng nhàm. Ôi giời, mặc chúng nó. Có thân thì lo. Lại vợ chồng Thẹo què chứ ai mà lạ lẫm. Cái thằng thật lạ! Đêm nào cũng chịu khó quật vợ bằng chổi đót còn cô vợ thì cứ rú lên hời hời. Con đàn bà khốn nạn gặp thằng chồng khốn nạn. Thế là tha hồ nện nhau. Cũng cái cảnh như vầy: Thằng chồng cởi trần phơi từng dẻ xương cá mòi, thở khò khè, nấc cục lên trong giận dữ. Hắn đứng chàng hảng, một ống chân cụt lủng lẳng vắt lên trên nạng, còn lại chân kia khẳng khiu rung lên từng đợt. Miệng sùi đầy bọt mép căm hận. Hai tay hắn nắm chặt cây chổi lăm lăm vung vẩy chực quật khắp mông, lưng, toàn thân thể của thị những đòn liên hoàn chính xác cực điểm. Vợ hắn thì lăn lộn vật vã trên giường. Cứ làm như những đòn dính vào thị là đau lắm, thấm thía và tủi nhục lắm rồi la hét lên. Đôi khi thị cố giãy đành đạch. Chiếc cúc áo bật tung bao giờ. Thế này còn gì bực hơn kia chứ? Thẹo rít lên: “Này con bò cái kia! Mày khiêu khích ông ư? Rõ ràng là phơi bộ mặt lăng loàn ra rồi nhé. Đã thế, ông nện cho biết tay…”

Thị cứ rú lên hời hời. Con hẻm xôn xao ồn ĩ bước chân người chạy tới. Giọng cười nói. Tiếng khịt mũi cầu nhầu. Đôi cái đầu xỏ qua cửa sổ giăng đầy mạng nhện và bồ hóng láo liên khoái trá.

- Mặc áo vào! Tao bảo mày có chịu cài áo lại không? - Thẹo què hớt hải và bất lực kêu lên.

- Định giở hết hoa quả trên người cho chúng sinh nhìn đấy hả?

Vợ hắn được thể mặt thì càng dày ra. Môi vêu lên cong cớn. Thị xổ tung tóc tai. Bộ ngực vốn đã khổng lồ lại càng nhoay nhoáy tợn. Bọn trẻ thích chí cười hê hê. Mấy thằng chũm chọe cười nhếch mép, bộ ria con kiến cứ nhích lên, nhích lên. Lập tức Thẹo què quay phắt lại quật mạnh cây chổi về phía cửa sổ. Mặt khoặm lại.

-Cút mẹ hết đi! Ông mà tóm được đứa nào thì toi mạng. Vợ chồng ông có chuyện đóng cửa dạy nhau thá gì đến chúng mày?

Tụi nhóc buông tay khỏi cửa sổ rơi bình bịch xuống đất giống những con nhái bén rồi cắm đầu bỏ chạy. Tiếng cười còn loang dài cuối xóm. Vợ hắn bưng mặt nấc lên rưng rức. Còn Thẹo què cảm thấy vô cùng rệu rã và buồn ngủ. Cổ khô rát, miệng nhạt hoét. Nhưng chắc chắn nếu kết thúc như thế này vẫn chưa được yên thân đâu. Hắn lọ mọ chúi đầu xuống gầm giường lôi toẹt ra một cây chổi khác dí vào tận mặt vợ.

- Híc! Khóc! Rõ là nước đái bò. Mày có câm mồm đi không? Đồ con lừa cái!

Tiếng thút thít nhỏ dần rồi im hẳn. Đêm vẫn đen ngòm như âm phủ. Nghe rõ tiếng sóng ì oạp quật lên bãi cát. Biển mưa.

***

Vậy là Thoa ngoại tình. Thẹo cảm thấy đau khổ. Làm thằng đàn ông mà không lo lắng được cho vợ con thật hèn. Vợ nó theo trai là đúng! Kêu ca làm gì? Khốn nạn ở chỗ Thoa tưởng Thẹo không biết, một dạo cứ đi về đêm hôm. Thứ đàn bà buông tuồng. Thị lẹo thẹo với thằng Ba Chệt bán mắm tôm ngoài chợ. “Ông mà bắt được thì ông cắt chim”, Thẹo cứ gầm gừ như thế! Nhưng rồi hắn tự biết bây giờ mình chẳng làm được cái thá gì!

Thẹo âm thầm rấm rức chịu đựng. Hắn vẫn yêu Thoa, thương các con, ra sức vun vén hạnh phúc gia đình nhưng rồi chuyện lăng nhăng xé tung khắp xóm Bãi. Thằng Ba Chệt thì Thẹo biết. Hắn độc thân. Mắt lé. Có nhiều tiền. Chủ một hàng bán mắm tôm gia truyền. Đàn bà con gái dễ bị hắn quyến rũ, một phần cũng vì đồng tiền làm lóa mắt. Thẹo đi đến đâu cũng nghe người ta xuýt xoa xầm xì. Thằng đàn ông bị con vợ cắm sừng. Chẳng còn nhục nhã nào bằng. Có người còn nói như dao đâm vào họng: “Xứng quá đi chứ! Ai đời con vợ ngon mắt lẳng lơ thế kia mà thằng chồng què lại bất lực! Mèo nào cắn mỉu nào...”.

Thẹo què tan nát ruột gan. Có một cô vợ xinh xinh một chút là khổ thế đấy! Làm việc gì thiên hạ cũng ghé mắt vào. Kể ra ngày xưa Thoa thuận lòng yêu Thẹo chứ hắn xấu trai, nhút nhát đâu dám tán tỉnh ai. Ngày ấy Thẹo sớm mồ côi cha mẹ phải sống với bà nội. Một tuổi thơ vất vả, lam lũ. Cho đến khi bà nội chết Thẹo mới tập tò hiểu được cuộc đời này là gì và cần gì. Thất học, nghèo túng lại nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của ông chú họ, hắn bán phăng mái nhà rách toe, dựng trên miếng đất hương hỏa. Có chút vốn, Thẹo bắt đầu đi buôn. Những chuyến nhảy tàu từ Bắc vô Nam nằm trong những toa tàu giấu toàn thuốc lá khiến cho Thẹo lo âu khấp khởi. Kiểm soát viên phát hiện ra không chịu ăn chia thì có mà xong đời. Dần dần Thẹo sành đủ ngón nghề. Hắn có thể bám theo tàu chạy lịch huỵch rồi co giò nhảy vút lên. Khi tàu chạy tốc độ cao hắn liều mạng xả van hơi an toàn cho tàu khựng lại để đồng bọn tuồn thuốc lá lậu xuống. Thẹo quen Thoa từ dạo ấy. Thoa mập mạp, tròn trĩnh. Đôi mắt đa tình lả lơi. Thoa làm xiêu lòng nhiều anh chàng lái tàu cứ tưởng bở, nhưng mó được tay vào quả cấm thì đừng hòng. Thoa thích gã buôn chuyến lầm lì ít nói, sức vóc như vâm có vết thằn lằn bẩm sinh chạy dài trên má phải. Hai đứa yêu nhau, ngủ với nhau trên con tàu rùng rùng xé gió, còi rền rĩ băng qua những phố thị nghèo nàn, bầu trời xám xịt giăng qua ô cửa âm u, mùi ẩm mốc lưu cữu bốc lên hôi hám. Còn tâm trạng hai đứa chơi vơi lâng lâng như bay trên mây vậy. Khi Thẹo kéo người yêu về ra mắt ông chú họ thì cái bụng thị đã tròn căng. Bà thím ngoa ngoắt chửi như tát nước vào mặt đứa cháu mồ côi vì sợ hắn lấy vợ thì sẽ hăm he đòi lại miếng đất hương hỏa mua rẻ như quỵt điêu của nó ngày nào. Ông chú nhu nhược không chịu đứng ra tổ chức lễ cưới. Còn nói rằng đồ gái chửa hoang, biết đúng là con ai mà dám rước về không khéo thối cả họ. Thế là Thoa nhảy xổ vào lão chú thối mồm nắm tóc tru tréo. Thẹo cắn môi bật máu. Hai đứa dắt díu nhau dạt về xóm Bãi từ đấy…

Cái xóm biển nghèo nàn, dập dềnh đầu sóng. Ánh nắng mặt trời chói chang dội lửa xuống đám rau muống biển lá vàng quăn. Dăm mái nhà lè tè dựng lên buồn bã và tạm bợ như chờ đợi một ngày tận thế. Đàn ông xóm Bãi theo nghề biển nhưng phần lớn nghèo nàn không đủ tiền đóng tàu lớn. Họ ra khơi bằng ghe thùng và lưới đôi những thứ chỉ bắt được lũ cá lòng tong lạc bầy. Đàn bà xóm biển chẳng làm gì. Xõa tóc vô hồn bắt chấy rận cho nhau và ngồi xổm trên cát chờ đợi chồng về. Trong lúc chờ đợi họ cắt phăng mái tóc dài rối bù như lưới, cạo trọc đầu vì nóng và ngứa ngáy điên loạn vì chấy. Càng lúc họ càng già nua và khô héo khủng khiếp. Bọn trẻ đen nhẻm như những con cá trích. Chúng đuổi nhau dọc biển và nhặt con sò, con hến bỏ vào cái hom đeo lủng lẳng bên người theo sóng đánh tạt lên. Đôi mắt chúng buồn vô tội. Lúc mặt trời xuống chân núi chúng trở về bằng những tiếng hú rền rĩ.

Thẹo què dựng căn nhà giống hệt cái chòi canh dưa trên thẻo đất lở. Rất nhiều đêm vợ chồng hắn mất ngủ vì tiếng sóng ì oạp vọng lên. Qua sóng và vị mặn của gió biển Thẹo linh cảm một biến cố sẽ xảy ra trong đời mình nhưng chưa biết là gì? Rồi ngày ấy cũng đến. Thoa khóc nấc, tưởng mình có thể chết đi được khi thị có mang đứa thứ hai thì nhận tin dữ. Trong chuyến nhảy tàu theo đồng bọn không may Thẹo sẩy tay, trượt chân vào đường ray. Đoàn tàu rùng rùng giận dữ đã nghiến đứt phăng một chân của Thẹo. Hắn ngất đi cho đến ngày tỉnh dậy trong bệnh viện mới hay đã trở thành một gã tàn phế, chân trái cụt lên tới gối. Bên cạnh hắn là người đàn bà tóc tai rũ rượi, bụng vượt mặt, đôi mắt hoang hoải hóa dại, ngơ ngác đau khổ. Thẹo lại lếch thếch trở về xóm Bãi. Đêm đêm nghe bầy sóng man dại điên cuồng rượt đuổi nhau trên bãi cát. Hắn  bưng mặt khóc ngất. Thế là hết chuỗi ngày Bắc Nam ngang dọc. Đời Thẹo đang mở ra những trang khác buồn vô cùng.

***

Ký ức của tôi còn hiện rõ mồn một khu vườn nhỏ trước sân nhà Thẹo. Ở đây yên ắng, hoang lặng. Cây dại tha hồ mọc lên. Bụi thài lài cứt chó, cây đu đủ cao nghễu nghệu đủng đỉu những trái đeo bám bé xíu. Dây mồng tơi xoắn xuýt rụng bời bời nhiều hạt tím mọng nước, bọn trẻ con thường hái về pha mực tàu. Thằng Tý Cơm, con bé Cúm vẫn lê la bất tận trong trò chơi buồn tẻ của chúng nó. Đống thân đót tươi rói Thẹo què mới chở về chẹt ngang góc sân trái vẫn còn bốc lên cái mùi thiu thiu rít ráy.

Tháng Bảy, giữa mùa hè nắng gắt, cuộc sống Thẹo què có vẻ dễ thở hơn. Đó là mùa đót lớn và trổ đòng. Bọn đi rừng trảy về xuôi đùn đùn từng xe bò kéo nghêng ngang mời bán khắp xóm Bãi. Thẹo què bàn với vợ bỏ tiền ra mua nguyên từng xe với giá hời. Từ ngày cụt một chân Thẹo bỏ hẳn nghề nhảy tàu buôn thuốc lá lậu. Vợ chồng hắn chuyển sang làm nghề quấn chổi đót. Cái nghề nhàn hạ vậy mà sống được. Đắt rẻ gì một cái chổi mà chẳng mua về quét dọn cho nhà cửa sạch sẽ?

Sáu giờ sáng, Thẹo tỉnh giấc và cắt đặt công việc. Tự tay hắn ôm từng phần đót lớn chia đều từng ô trên sàn cho con bé Cúm, thằng Tý Cơm. Chúng phải tập lặt đót, tự quấn dây buộc thành những lóng nêm nhỏ như bọn thạo việc. Sau đó Thẹo và Thoa sẽ căng dây đầu mút bó các lóng nêm lại với nhau. Những cây chổi đều đặn được hoàn thành. Buổi trưa có người mối đến lấy hoặc thị mang ra chợ đem bỏ cho các sạp quen.

Tội nghiệp cho hai đứa trẻ đệch ra trước tuổi. Lúc nào cũng úp mặt vào công việc, đống đót cao thù lù. Thằng anh lớn hơn con em hai tuổi mà bé choắt, chiếc quần thụng thệnh túm lại một búm trước bụng. Con em khuôn mặt bầu bĩnh sáng sủa nhưng lem luốc vì mũi dãi và chẳng được ai đoái hoài chăm sóc bao giờ. Cha mẹ chúng bận bịu tất bật suốt ngày vì những cây chổi và kế sinh nhai nên chẳng thể nào rút mặt ra. Con bé Cúm mắc thêm bệnh hen suyễn. Nó cứ ho khúc khắc suốt vì hít phải bụi mè li ti rũ ra từ những thân đót gặp gió chướng đang đùn lên ngất trời. Thằng Tý Cơm bị bệnh phổi rúm ró như con gà dịch. Thỉnh thoảng bố nó có việc đi đâu ra khỏi nhà là mắt hai anh em sáng lên. Nó bứt ra khỏi đống đót mon men đến bên bụi mồng tơi nhặt nhạnh những cái hạt nhỏ xíu mân mê một cách khoái chí. Một màu nước đen xỉn loang lổ ứa ra trên tay nó. Tuổi thơ thất học và lam lũ để Tý khát khao được như bầy trẻ lao xao sách vở với màu áo mới mỗi lần đi học băng ngang nhà. Trên tay chúng tòng teng lọ mực tím thẫm. Sao mà giống cái màu xanh ngát của trái mồng tơi kia thế.

Công việc mỗi ngày càng bị thu hẹp vì ế ẩm. Đến lúc chổi của Thẹo làm ra chỉ còn trông chờ bỏ được vài chục cái cho các sạp trên chợ mà tiền sỉ thu chật vật lắm mới lấy được. Xóm Bãi vốn đã nghèo nàn nay người ta càng tằn tiện đến mức khiếp sợ. Thẹo què đơn độc và loay hoay trong mơ ước của mình. Hắn thất vọng khi cái ngày khá khẩm vì lo toan và vun vén chí thú làm ăn mà hắn từng tưởng tượng đã không bao giờ đến mà mỗi lúc còn như càng lụn bại đi…

Hắn cảm giác mình bất lực như một kẻ mặc cảm, vô tích sự và cùng đường. Tính tình Thẹo càng lúc càng thay đổi thất thường và quái dị. Hắn tìm tới rượu. Những cuộc say sưa bí tỉ giúp hắn lãng quên. Hắn cất tiếng hát ồ ề như bò rống và vật vờ lang thang bên những diềm sóng biển với những gì đổ nát của tâm hồn. Thoa, người đàn bà của hắn thì mỗi lúc càng xa lạ và quá quắt. Thị chán gia đình, thường xuyên lấy cớ lên chợ để trưng diện và làm đẹp. Nhiều người bắt gặp ả và gã Ba Chệt tằng tịu với nhau. Cả cái xóm biển bắt đầu quen dần với sự lục đục, đay đả, cắn xé nhau triền miên của vợ chồng hắn. Tội nghiệp cho hai đứa trẻ. Nhiều đêm anh em Tý Cơm đứng ngoài bụi mồng tơi sợ hãi ôm nhau khóc. Bóng tối trùm lên bóng hai anh em nó. Mơ hồ và lặng lẽ. Những ngày ảm đạm buồn bã chăng đầy trong đôi mắt trẻ thơ.

***

Tôi trở về xóm Bãi trong một buổi chiều. Tất cả như lạ lẫm hẳn đi. Cả xóm vàng hoe trong một màu ngói mới với tường vôi trắng óng ả. Những con sóng biển vẫn đổ lên bãi cát như hát mãi bài ca về những ước mơ vô tận. Chỉ khu vườn xưa với căn nhà tuềnh toàng giống cái chòi canh dưa của vợ chồng Thẹo què là không còn nữa. Thay vào đó là ngôi nhà lầu ba tầng, cừa kính, tường ốp đá hoa cương đỏ thẫm. Khoảng sân trống ngày xưa bây giờ trồng hoa. Bên lối đi một hồ cá thần tiên với nhiều cây cảnh đắt tiền sang trọng. Ông chủ mới bụng phệ, đi đứng bệ vệ. Nói năng bặt thiệp, miệng luôn ngậm ống píp khói phá trắng. Tự dưng tôi thấy ngập trong lòng mình nỗi buồn nhớ. Còn đâu bụi thài lài cứt chó? Cây đu đủ cao chọc trời với tán lá vàng vọt nhưng đủng đỉu quả? Dây mồng tơi xoắn xuýt bên hàng giậu nhỏ rụng từng chuỗi hạt tím bầm? Lũ bạn ngày xưa của tôi bây giờ dạt về phương nào? Anh em Tý Cơm, bé Cúm? Vợ Thẹo một đêm trốn nhà theo gã Ba Chệt đi biệt tích. Thẹo cùng quẫn chuyện làm ăn, mưu sinh. Những ước mơ lụi tàn bên những cây chổi để cuối cùng bán luôn cái nhà tạm bợ trên rẻo đất hoang theo dòng đời cuốn trôi về phương khác?

Đêm yên tĩnh diệu vợi. Tâm hồn tôi thanh thản quá. Vậy mà vẫn không ngủ được. Ký ức chập chờn đồng vọng. Chợt nghe xủng xoảng những thanh âm đổ vỡ, giọng rượu đắng đót, bét nhè, câu chửi rủa cộc cằn, tục tĩu. Hoài nhớ một tuổi thơ vụng dại. Tiếng hát và tiếng khóc. Xa xa tiếng sóng vỗ. Đời người phải chăng là những gam màu đậm nhạt khéo bện và những giọt cường toan khác nhau?... 

 

1995

 

SA MẠC TRẮNG VÀ TRĂNG

1. Du bảo: “Mày là thằng tồi!”. Đạt cười: “Đôi lúc cần phải vậy! Tao không chịu được…”. Du chửi: “Mẹ, có gì xấu? Nếu bản chất mày tốt thì mày đừng tới! Đồ đạo đức giả...”. Đạt nóng mặt, máu bốc lên rần rần: “Mày câm đi! Đó là việc của tao!”. Du dịu giọng, cố móc thêm một câu: “Hèn!”. Rồi hắn bỏ đi.

Đạt úp mặt vào gối. Hoang mang không tưởng. Có lúc tâm hồn cứ trượt dài vô định như bất ngờ rơi tọt vào một cái hố sâu. Âm u và tuyệt vọng nữa. Giá có thể hét lên được hay phá cười man dại. Đằng này buồn. Câm.

2. Không giận được Du bởi hắn là đứa sòng phẳng, lấy việc tôn thờ đồng tiền làm lẽ sống của mình. Bởi thế kết cục ăn bánh trả tiền. Anh đường anh, tôi đường tôi. Thế thôi. Ngồi trong quán sang, uống cà phê sữa, hút Dunhill, nghe Beatles xem chừng lãng tử lắm. Vậy rồi khi một bàn tay người ăn xin chìa ra với ánh mắt khẩn cầu ban ơn, hắn nạt: “Đi làm mà ăn! Có đâu sẵn mà cho ông!”.

Đạt bỏ ít tiền lẻ vào cái mũ cho người hành khất, nhỏ nhẹ: “Người ta tàn phế, biết làm gì!”.

Du càu nhàu: “Mày cứ vậy! Thừa lòng thương người gớm nhỉ! Nói đại cho hắn đi phứt mắt! Xin với xỏ. Ngày nào cũng lặp lại cảnh như vầy! Ghét lắm!”.

Lúc gã hành khất chống nạng đi rồi, Du lơ mơ trong khói thuốc, dựa hẳn lưng ra sau ghế, vuốt mái tóc bồng bềnh nghệ sĩ. Bỗng hắn bật người dậy: “Mày có nghĩ gì không?”. “Không”. Du với tay chỉ theo cái bóng thất thểu: “Âm nhạc đấy?! Những dấu chân tròn trên cát đấy”. Ha ha ha. Cả bọn cười rộ. Hình tượng ghê nhỉ? Đạt đứng dậy tính tiền và ra về. Cô đơn. Lầm lũi. nỗi niềm không bày tỏ được. Cứ nghèn nghẹn vướng víu trong cổ. Câm.

3. Đạo đức ư? Chưa lúc nào Đạt nghĩ đến điều ấy một cách hoàn chỉnh và hệ thống. Nhưng nó thường hoài niệm về những số phận ít được may mắn. Họ chống cự lại cuộc đời này khắc nghiệt, trả giá bằng định mệnh. Họ là những con người bị tước đi chức năng làm người. Vậy thì có gì độc ác hơn khi vô tình giẫm đạp lên nhân phẩm, điều còn lại duy nhất của họ? Chỉ cần khoảng cách nhỏ thôi, bước qua sợi dây mong manh ấy chúng ta đã gây nên một tội ác mà đôi khi dễ dàng quên đi với những cám dỗ êm dịu.

Du cáu. Tối qua Đạt bỏ về, chẳng ra sao. Đơn giản buồn quá. “Đồ ngốc, trả tiền rồi” - Du gầm lên, ”mày cho không nó à?”. “Tao sẽ gửi trả lại mày” - Đạt nói. “Chó! Mày bóc lột sức lao động của ông bà già mày rồi ném qua cửa sổ hả?” - Du chửi. Đạt lạnh người. Bóng đêm hiu hắt ảo não. Công viên hoang vắng tĩnh mịch. Câm.

Đạt đấm mạnh tay vào cửa sổ. Miếng ván run lên. Bật ra. Ánh sáng ùa vào phòng. Buổi chiều nhạt nắng. Trên cao gió trời lồng lộng. Du đã bỏ đi vẫn với dáng vẻ to lớn lầm lì đó. Con thạch sùng tắc lưỡi tiếc rẻ. Như một mình nó đang uống cạn kiệt những giọt chiều.

Đạt mở nhật ký: "Nhà hiền triết bảo: Hãy đi qua cái Tôi của chính mình để đến được đỉnh cao. Hãy vượt qua chiếc bóng để định nghĩa một chân lý. Tôi bé nhỏ. Chỉ là một hạt cát của cõi vũ trụ...”.

4. Đêm. Đạt mất ngủ. Gần sáng thiếp đi mơ một sa mạc trắng. Mặt trời chói chang nóng bỏng. Cây cỏ trơ trụi bốc cháy. Máu trong người Đạt sôi lên, bốc hơi và khô đi. Nó kêu lên mê mải rồi bỏ chạy giữa cơn khát. Có lẽ nó chết. Bất chợt cơn mưa đến. Mọi thứ dịu hẳn đi. Nó thấy mình ngửa cổ ngậm từng giọt nước. Khát. Nó đã khát lắm. Những hạt mưa nhểu vào lạnh đắng cả tâm hồn.

Đạt tỉnh dậy không ngủ được nữa. Giấc mơ lồng lộn, vần vũ trong ký ức như loài chim báo bão. Nó đã lớn, đủ quyền công dân để tự do đi về với những giấc mơ. Sa mạc trắng rồi trăng. Có đêm Đạt lang thang lạc vào thảo nguyên bao la. Mênh mông những đường chân trời. Không có một bóng người ở đó. Chỉ thấy cỏ xanh mơn mởn và bầy ngựa hí hoang dã điên cuồng và phi như bay trên thảo nguyên. Trăng nằm chơi trên cỏ. Khuôn mặt trăng tinh khôi và kiều diễm. Ôi, sao mà giống cô bé Đạt đem lòng yêu ngày xưa thế kia. Hai mươi tuổi lòng ngập tràn thương nhớ. Nhưng rồi những lá thư gửi đi đã bị trả trở lại. Cánh diều khát vọng đứt dây giữa nền trời xanh thắm. Bây giờ trăng nằm đó. Đạt hú lên chạy đến. Giữa thảo nguyên mênh mông trăng biến mất ở chỗ này rồi lại hiện ra ở chỗ khác. Cứ thế Đạt đuổi theo. Cỏ bíu dưới chân, trượt té. Đạt úp mặt trên cỏ. Hàm răng của nó ngoạm sâu vào đất. Con dế gáy ri ri buồn tẻ. Máu và bùn bê bết trên môi.

5. Nhật ký: "Tôi đi ngược từ trong giấc mơ và quay trở lại. Người con gái tôi yê và, tôn thờ đã đi lạc vào bờ bến khác. Tôi bi kịch. Tôi đau đớn. Xin lưu giữ cho em những gì thánh thiện nhất, đẹp nhất. Cuộc đời làm tôi tầm thường, khuất phục tôi bằng những dự kiến tù mù. Phải chăng tình yêu là cuộc thương lượng thầm kín. Anh hãy biểu lộ cái anh có và tôi đang thiếu. Thì tôi sẽ đến với anh?...”.

Du đạt được mục đích. Hắn no nê mãn nguyện nữa là khác. Vóc người ngổ ngáo, lặc lè. Chiếc Dream bóng lộn. Lối sống phóng túng đúng mốt của một công tử con nhà giàu thời thượng cho hắn trôi dập dềnh trên đường tình ái. Du chinh phục được những vầng trăng cao vời, lộng lẫy nhất. Hắn chẳng cần đuổi theo trăng mà chỉ vồ nghiến trăng, làm thịt trăng. Du bảo, vẻ đẹp của trăng là ảo ảnh, nhưng trăng có thể ăn được, sờ mó được. Có điều sau mỗi lần va chạm trăng vỡ ra loảng xoảng nghìn mảnh. Có mảnh vỡ cứa vào tim bật máu. Lâu dần Du cảm giác trái tim mình lỗ chỗ vết sẹo. Dễ bị trật nhịp, hoán đổi. Trăng cũng tàn nhẫn và hiu hắt vô cùng.

Đạt vẫn đi về với giấc mơ sa mạc trắng mà không tìm ra được lối thoát. Nó khát khao vì cháy lên nhưng chưa bao giờ được uống? Chờ đợi những cơn mưa cho đến bao giờ? Thân thể Đạt cuồn cuộn sức trẻ bỗng muốn lả ra, kiệt cùng, muốn nức nẻ đi như cánh đồng vào mùa khô. Một đêm Đạt thấy mình đuối dần giữa sa mạc vì cuộc hành trình đi tìm Trăng huyền thoại. Máu tim bốc hơi, khô cạn. Có lẽ mình sẽ chết trước khi mùa mưa đến? Đạt vùng vẫy. Thân thể khô rộp, teo dần lại. Cuối cùng Đạt thấy mình biến thành một con tắc kè đầu nhọn. Nóng quá. Tắc kè lột vỏ và bỏ đi. Để lại bộ da luôm nhuôm trên cát bỏng. Miệng con tắc kè há hốc, phơi cái lưỡi đỏ, nhọn. Nó muốn kêu lên một tiếng gì đó âm u dục cảm nhưng không được. Câm!

6. Du cười đểu giả: “Mẹ, trăng với gió. Đồ dở hơi. Mày muốn biết trăng ra sao ư? Để đêm nay tao đưa mày ra với nó”. Rồi hắn chõ cái mồm thối rỉ sát vào tai Đạt: “Trăng mười sáu thượng tuần. Sướng nhé! Phiêu nhé! Trăng mơn mởn và kiệm lời. Tiền! Tiền! Tiền! Giá trị tuyệt đối của công lý đấy! Biết chưa?”.

Chiếc Dream phóng vèo đi ngạo nghễ. Những vòng khói tròn thả lại trên đường tan dần như những vòng xoáy nghệt ngã. Đạt cắn môi. Tự dưng nó nhớ hôm nào bỏ vào lòng bàn tay của người ăn xin một nhúm ngôn từ đẹp đẽ, tròn trịa. Và bây giờ thì...

7. Khuya vắng. Công viên heo hút. Chỉ còn nghe lời than van của những chiếc lá khô. Chúng rời cây xuống đất mang hình những trái tim lạc loài vô chủ lúc bị bước chân người dẫm lên. “Mình sẽ biết trăng”, Đạt mê đi. Chuẩn bị bước vào thế giới của cơn mưa u ám. Sa mạc trắng. Thảo nguyên hoang vu chân người. Con tắc kè lột xác, đầu nhọn, miệng đỏ. Mặt trời chói chang, bốc lửa. Đất đai cằn khô.

Du hùng hục vào trước. Hồng hộc thở. Quẫy đạp vật vã. Những tiếng rên dài dại đầy phấn khích của Du và trăng như vọng ra từ một thế giới nào đó mà Đạt chưa từng biết. Tiếng nấc nghẹn như khó khăn lắm chúng mới được đẩy thoát ra khỏi buồng phổi u ám. Xen lẫn tiếng hưng hức, rin rít nghèn nghẹn, tức tưởi. Của Du hay của trăng? Đạt chợt nghĩ. Hình dung và nhắm mắt lại. Nó không đủ hình ảnh để tưởng tượng. Trăng thượng tuần sừng sững. Đêm mờ đục. Lạnh lẽo. Vầng trăng như không còn bị treo lửng lơ giữa những cao ốc chọc trời trong thành phố mà giờ đây nó như máng tuyệt vọng trên cây thánh giá nóc tháp chuông nhà thơ đơn độc.

Du ra. Tóc bù xù. Mặt xám xịt, trơ tráo. Môi vẹo đầy dung tục thỏa mãn. Hai con mắt như lồi ra. “Xong rồi!”. Hắn nói vẻ chán chường và sành sõi trong cái ngáp muốn trẹo cuống họng. “Trăng của mày đang nằm thuồng luồng ở trong ấy! Tha hồ sướng nhé! Mày vào ngắm đi!”.

Tấm chăn nhàu nhò xộc xệch bốn góc trải trên bãi cỏ. Trăng ngồi quay mặt lại hướng nhà thờ. Chân Đạt bỗng tê cứng ngỡ không thể bước được nữa. Cảm giác cháy bỏng tan biến nhưng từng cơn điên dại dâng lên bỏng rát, tê tái ở cổ. Trăng mười sáu đây. Cô gái có đôi mắt ngơ ngác, thơ dại. Đạt ngồi xuống. Trăng nhếch một nụ cười đờ đẫn.

Đạt phá tan sự im lặng: “Này em, hãy nói một câu gì cho đỡ buồn đi!”.

Cô gái lắc đầu ngờ nghệch. Bất ngờ cô rú lên chồm hẳn về phía trước quật Đạt xuống bãi cỏ. U u u u! Cô gái xiết cổ nó. U u u u! Cô gái chụp cổ áo ngực nó xé toạc. Đôi mắt điên dại. “Đừng làm thế!” - Đạt thốt lên và chống cự yếu ớt, ”sao lại thế này?”.

Cô gái buông nó ra. Mắt long lên thù hận rồi điên cuồng bứt hết quần áo của mình. U u u u! Tiếng rú rít khe khẽ trong nụ cười tối tăm. Đạt rùng mình. Những cơn khát là con tắc kè đầu đỏ hả hê gặm nhấm trái cấm nhục thể. Đạo lý con người. Trăng đó ư? Tàn nhẫn quá! Không, không thể...

Đạt đứng bật dậy. Bỏ đi như chạy. Trên môi nó lõa máu vì nó hay vì cô gái. Phía sau loang loáng một vầng trăng lõa thể.

U u u u! Cô gái đuổi theo không nói được. Dù là một tiếng nguyền rủa. Một mảnh trăng câm...

 

Đại học Tổng Hợp Tp.Hồ Chí Minh, 2004

 

 

NGÀY LẠ

 

Mẹ mất. Huy không nghĩ là mẹ mất. Thế mới kinh hãi. Trước cái chết Huy như một tay mơ. Anh chưa chuẩn bị được điều gì cho chính sự dứt bỏ này. Lúc chiếc Boeing cất cánh, Huy cảm thấy nhói đau như bị ứ dồn lâu ngày và bây giờ màn lưới phơi phới biên sâu của tâm hồn bất chợt vỡ ra, rung lên ngàn âm thanh da diết của một dàn hòa tấu. Mọi thứ đảo chao dữ dội lướt qua cửa sổ máy bay rất nhanh. Thành phố nhỏ dần, xa dần. Từng mái nhà bồng bềnh nghiêng ngửa khuất mờ rồi hòa trộn linh tinh với những con đường nhạt nhòa gấp khúc trước khi tất cả chìm trong sương lạnh và mây trắng. Mẹ ơi, bây giờ mẹ ở đâu? Thật xa, xa lắm rồi. Nhưng tại sao như thế? Chết ư? Thế nào là một cái chết? Phải chăng đó chỉ là sự câm lặng, biến mất? Phải chăng phải cam chịu sự nhẫn nhục, chìm sâu? Rồi không còn gì nữa. Mãi mãi bặt tiếng không còn dù chỉ là một hơi thở nhẹ. Và kỳ quặc mọi người đều bị kéo vào đó một cách dối trá và bí hiểm. Rồi mưa gió phủ lên mọi thứ. Như chưa từng xảy ra bao giờ.  

Những đám mây thốc tháo dạt cả vào ô cửa kính mêng mông như sóng biển. Càng lên cao càng sợ hãi tự do. Huy nhắm mắt. Anh cảm giác chiếc Boeing đang chuồi qua khỏi mớ hổ lốn mỗi lúc một dâng cao của đời sống. Nơi đó mỗi gương mặt là một trái cây đau khổ trước những biến thiên cay đắng, những dời đổi se lòng. Nơi đó tình, tiền và vụ lợi. Cả nhiều thứ mà chính chúng ta cũng chưa thể hiểu nổi nữa. Như sự căm tức, trả thù, phản đòn và chửi rủa. Mê mệt qua hết ngày tháng này. Tất cả ngột tối, bị lừa vào một cái hố sâu. Lúc đó mọi người sẽ hiểu, bỏ chạy tán loạn nhưng không ai thoát được vì cú lừa đó điệu nghệ ngoạn mục và rất đau. Một chớp lóe đen ngòm.

Thế là hết. Mẹ mất. Mẹ cũng bị lừa như thế. Nhưng mẹ còn lừa cả anh nữa. Thôi rồi! Vô phương rồi! Tâm hồn Huy chết điếng. Anh hốt hoảng cứ ngỡ là mình nhảm nhí. Vậy chuyến bay cấp tốc này là cái gì? Bức điện vỏn vẹn đôi dòng nằm trong túi áo này là cái gì? Huy tuyệt vọng. Chết, một kết thúc đột ngột, hàm hồ và dối trá. Nhưng chết là chết. Không âm vọng gì cả. Thế thôi!

Tiếng loa phóng thanh léo nhéo điều gì Huy không rõ. Ở trên cao máy bay như đứng im. Chỉ còn mây như biển trắng rì rào vỗ quanh. Đèn Fasten Seat Belt bật sáng. Hành khách được lưu ý cần thắt chặt dây an toàn khi máy bay bay qua vùng thời tiết xấu. Áp thấp,  Huy cay đắng nghĩ. Mình cũng đang ở trong vùng như thế. Hệt như chiếc Boeing là con cá đang bơi ra ngoài khoảng không. Và mẹ cũng thế. Mẹ sẽ vút lên không lúc hồn lìa khỏi xác, cắt đứt mọi tín hiệu còn lại. Điều này đau đớn vô cùng. Khi mất liên lạc sự im lặng phủ đầy. Có thể tín hiệu đó vẫn phát nhưng chẳng ai còn nhận ra bởi những tần số có ký hiệu riêng và chính nó cũng đang nhạt dần, mờ dần trước khi mãi mãi trở về là bóng tối. Mây trắng phù du. Như biển đêm qua lúc Huy còn ở đó thôi. Cứ cuộn từng vòm cao ngất rồi vãi tung lên bờ điên cuồng, bất lực và giận dữ. Những ngọn sóng đã đánh vào những miền bóng tối, những hoa lá ngụy trang che giấu đời sống nhưng chúng vẫn còn mãi đó, chường mặt ra mà thách thức. Và biển trắng. Trắng không thể tả. Một màu trắng như khăn tang của thiên nhiên. Nhưng trước một ngày nhận tin mẹ mất mọi thứ còn quá đỗi êm đềm. Thật lạ! Rồi ngay chính những khoảnh khắc êm đềm ấy lại bị nuốt chửng, bị dựng đứng dậy một cách kinh hoàng chỉ bởi vài hàng điện tín.

Những ngày đó Huy đã theo Nhã về biển. Anh nhớ là chưa bao giờ buồn thế. Cái cảm giác mà đứa con trai muốn chết ngất đi vì tình phụ. Anh lang thang suốt đêm trên biển. Ở đấy anh nhen một ngọn tương lai trắng xóa theo tàu. Anh đã trải mình trên những đợt sóng xô vô nghĩa. Một thành phố xa lạ đến nỗi bây giờ Huy mường tượng lại anh vẫn còn nguyên cảm giác chếnh choáng của một kẻ bị ruồng rẫy. Tâm hồn anh không điểm sáng cho dù trong đêm ngọn hải đăng vẫn thắp để báo hiệu phương hướng, những mạch đá ngầm cho mỗi con tàu. Bóng tối dự cảm nhen tỏa trong anh. Anh yêu mà không cần biết có được đền đáp lại hay không. Để cuối cùng Huy bị Nhã lừa ra một quán cà phê vắng ngồi gục mặt ở đấy và nàng rong phố đi chơi với một thằng đàn ông khác. Khi Huy rời quán đã mười hai giờ khuya. Không khí như đầy hơi rượu dữ dội. Huy thả bộ dọc biển. Hải đăng vẫn lóe sáng giữa màn đêm mêng mông. Trời mưa nhỏ. Sóng vẫn đánh tơi bời vào mũi Ô Quắm. Biển vãi bọt trắng xóa và ào ào gào lên bằng cái giọng khàn khàn kinh động.

Đêm. Huy thức trắng trong phòng trọ. Cửa sổ vẫn hé mở ra biển cho đến khi những con hải âu kêu lên quang quác. Tim anh tràn đầy âm vọng xưa cũ, khắc khoải và đợi chờ. Những giác quan cuộn lên dâng trào, thức ngủ. Một nỗi niềm day dứt trong anh. Những sần sùi cằn cỗi. Huy đã viết điều này lam nham lên những trang giấy, lá thư gửi Nhã. Rồi xé đi. Rồi viết. Rồi tất cả gom vào một đốm lửa nhỏ. Những ngọn lửa tinh quái liếm mê mải trên từng trang giấy viết dở và mê cuồng nhảy múa. Lửa chết. Tàn cuốn. Đêm yên nghỉ bằng ngọn đèn phụt tắt nhưng vẫn còn sáng mãi vào hồn.

Và sóng thì vẫn thức ở ngoài biển. Hải đăng vẫn nhấp nháy suốt đêm. Rạng sáng, Huy mở cửa. Bình minh đã bắt xong một chiếc cầu không khí nối đêm và ngày. Những ngọn gió ùa vào phòng đem đi nốt những tàn tro cuối cùng. Huy khắc khoải. Anh không nghĩ được mọi điều đã kết thúc. Tất cả tràn đầy xa vắng. Tình yêu của anh là ngọn lửa hiếm hoi chìm dưới vực sâu. Trái tim chở đầy một niềm hối tiếc. Biển ở trong anh thấm vào tận hơi thở và kết thúc bằng hơi thở. Sự chết. Điều đã chiết ra từ tâm cảm đắng ngắt. Giã  từ. Không hiểu sao trong đêm đó anh lại nghĩ về điều ấy. Như những lá thư đã đốt đi vì dở dang. Nỗi cô đơn còn thắm hơn máu đỏ. Những ngày tháng buông trôi nhọc mỏi. Những đời người tạc mặt vào những phiên bản. Cho đến khi biến mất tiếp tục trả trái chín cho hư lãng và trả hư lãng cho cuộc đời. Chết vẫn còn là dang dở. Sẽ bắt đầu lại từ những phác thảo.

Nhã sẽ không bao giờ biết kết thúc của đêm trắng trước khi tạo dựng một ban mai hay tàn tro là biểu tượng cuối cùng của những lá thư gãy khúc đâu. Nàng ở biển nhưng có lẽ nàng cũng chẳng đoái hoài chuyện biển mãi mãi là sự gợi nhớ tươi tốt và vĩnh hằng. Tiếng nói của sóng là ngọc nguyên chất, là máu dạt dào. Đại dương đang dựng lên ánh sáng bằng những tiếng ré điên cuồng bởi nỗi đau thổn thức muôn đời vì những điều đã mất. Một biên giới đầy kim từ đây sẽ vây bọc trí nhớ. Huy sẽ không quên. Không bao giờ quên. Nhưng điều đó chắc Nhã cũng sẽ không cần biết. Vì với nàng, Huy chỉ là một tên khờ tội nghiệp. Nàng đang bị quyến rũ bởi một gã thầu khoán và như thế đối với nàng hình như cũng đủ lắm rồi.

Buổi sáng hai đứa gặp nhau trên giảng đường, Huy nói: “Tối anh đến nhé?”. Nhã dửng dưng như không: “Đừng!”. “Tại sao?” - Huy lịm đi trong nỗi thất vọng cay đắng. “Em về nhà chiều nay!”. “Vũng Tàu à?”. “Vâng!”…

Đột nhiên nét mặt nàng dâng lên những dục cảm khó hiểu. Nàng lửng lơ nhìn Huy như nhìn một con mồi trọng thương chờ phát ân huệ cuối cùng. Đôi mắt nàng đầy tính toán và thận trọng: “Anh Huy! Anh đừng theo em nữa!”..Rồi nàng quay ngoắt, nện gót cao ngạo xuống cầu thang.

Trong Huy ngột ngạt những cơn điên. Anh lao ra khỏi giảng đường bằng cửa sau khi giáo sư còn chưa kết thúc tiết giảng. Trở về nhà trọ anh vơ vội vài thứ vào túi xách rồi chạy thẳng ra bến xe. Chuyến xe rời bến bồng bềnh như đang đi hay đang trôi trong giấc ngủ. Huy không hiểu điều gì bất thường đang khởi đầu, chậm chạp lăn đến với anh. Chuyến đi không hành lý. Nhã và gã đàn ông thầu khoán chăng? Không! Vẫn còn một điều gì khác đầy nghiệt ngã nữa. Nó hệt như những bóng mờ đến từ quá khứ và khắc khoải kêu gọi. Những giấc ngủ hầm hừ triền miên như đi qua một sa mạc lửa. Và giờ đây Huy chưa lý giải được vì sao mình lại có mặt trên chuyến xe đưa anh về thành phố xa lạ này. Thành phố âm vang sóng biển. Thổi gió bão bùng. Những con đường chạy dọc biển hướng về phía núi đột ngột mở ra một không gian bừng chói. Huy nghĩ đó chính là cửa vũ trụ. Biển sóng. Núi đá cao dựng đứng. Gió nghiêng ngửa thốc lên từ bốn phía. Mêng mông ánh vàng của buổi chiều tà và những con sóng ngự phủ lung linh dát bạc. Bao nhiêu mùa đã qua nơi đây. Đứng giữa sự cao cả của thiên nhiên Huy chợt nghĩ về năm tháng thực sự sẽ có của mỗi đời người thì chẳng là bao! Và phải luôn thay máu mặt để sống. Những ồn ào thấp nặng của cuộc đời. Những nỗi buồn thường đến như một bao trùm và xâm nhập toàn diện. Đã vậy còn lo âu trước tương lai, tuổi già, bệnh tật. Thật quá đỗi nghèo nàn. Anh ghé vào nhà trọ thuê một căn phòng nhỏ. Đã qua mùa biển, căn phòng tối và đầy không khí cũ. Cũ đến nỗi không thể thở được nữa. Cửa mở. Những con dơi bay vù vù húc đầu vào lớp ván mỏng. Biển chồm lên cuốn sóng phía xa. Những ngọn gió cuốn vào phòng đem theo những hạt nắng cuối cùng của một ngày úa tàn. Những hạt nắng hắt hiu mãi trong ký ức Huy khi anh kết thúc một chuyến về biển đầy nỗi nhớ.

Buổi sáng Huy đến lớp trễ. Anh không muốn gặp Nhã. Chỉ cần hình dung nàng đứng quây quần bên mấy cô bạn, loài đỏng đảnh phù du, tíu ta tíu tít chuyện trò gì đó ngoài hành lang là tim Huy co thắt lại muốn vỡ ra vì như không thể chịu nổi. Trong đầu anh tiếng sóng ré, còn đó! Huy muốn mình chìm khuất đi để không ai nhận ra. Anh men theo cầu thang dừng lại giữa khúc quanh đốt thuốc lá. Hơi khói tỏa mù mịt trấn an một nỗi đặc quánh mơ hồ đang chen lấn tràn lên trong lòng anh. Huy ném điếu thuốc. Chỉ một làn khói. Tất cả tan đi như ảo ảnh. Như ngọn hải đăng đã chết giữa biển cả. Những con tàu tha hồ húc vào đá ngầm vỡ toang từng mảnh. Những phiên bản cuối cùng của con tàu dập dềnh đầu sóng, xô dạt trên đại dương…  

Từ xa, nhận ra Huy, Quang mừng rỡ hối hả chạy lại: “Huy ơi! Mấy ngày nay cậu đi đâu? Ra đây mình có chút việc muốn nói với cậu...”

Cả lớp nhận ra anh. Ai cũng nhìn xuống đất hoặc quay đi. Huy hoang mang. Những khuôn mặt câm nín. Quang nắm tay Huy thật chặt. Cố nhìn sâu vào mắt Huy nhưng dường như cũng không thể chịu nổi cơn choáng váng, Quang bật ra từng tiếng ấp úng, rời rạc: “Cậu phải thật bình tĩnh, mình mới nói... Huy ạ... Có điện tín... Mẹ cậu mất rồi...”

Tất cả sụp đổ dưới chân Huy. Tiếng Quang mỏng thôi sao Huy nghe như tiếng sóng. Mắt anh cũng không nhìn thấy gì nữa ngoài những đợt sóng cao ngất, dị dạng cuốn vào bờ. Lưỡi sóng chạm đến đâu đất cũng rùng rùng sạt lở đến đấy. Ngọn sóng đuổi kịp Huy khi đó đang bỏ chạy thục mạng trên biển. Mẹ mất. Đỉnh sóng hất tung Huy lên cao trước khi Huy muốn vùng vẫy, thất thanh la hét cho thỏa uất ức nhưng không còn kịp nhận mặt điều phi lý đó. Tất cả chỉ còn là những tiếng nấc mơ hồ…

***

Đó là đám tang đầu đời buộc Huy phải lưu ý đến từng chi tiết của sự việc. Mọi thứ rối bung cả lên. Huy cứ thấy mình bồng bềnh trong màu áo tang may vội bằng thứ vải sô. Tấm khăn chít vội trên đầu Huy bị xổ tung chảy tràn xuống như một diềm sóng biển. Lúc mẹ mất anh đang ở đâu kia? Lang thang cuối một bến bờ xa lắc. Mà cũng không có bến đỗ. Anh kiệt sức. Lũ sóng như bầy ngựa điên réo ầm lên. Tiếng vó của nó khua lao xao. Hơi thở giận dữ của nó phì phì trỗi bọt trắng xóa. Có thể cái nhìn hé mở lần cuối cùng của mẹ vẫn đợi anh, vẫn hướng về anh. Để lý giải một cách vô thức rằng không phải ngẫu nhiên anh trôi lạc về một thành phố biển. Ngồi viết và đốt những lá thư cho một tình yêu không đầu không cuối. Tình yêu của anh và người con gái lạ mặt ư? Có sự liên hệ nào không giữa mẹ với một thời thanh xuân xanh biếc như thế? Những phiên bản rực sáng. Tất cả rập rờn như biển biếc. Giờ đây nắp quan tài đã đóng kín. Một khung hình sống động đã bị tháo xuống vĩnh viễn. Mặt đất lạ lùng này luôn chờ đón những cuộc hội ngộ cho sự trở về cũng như bắt đầu cho một chuyến hành trình mới. Đời sống vẫn tiếp diễn không ngừng và dẻo dai. Những bền bỉ tiềm tàng cho đến hơi thở cuối. Như tiếng rì rào của biển huyên náo dội trên bãi đêm khuya. Đó là sự nhắn gửi của con sóng triệu triệu năm sinh sôi nảy nở. Những chân sóng mải miết đi tìm bờ đó với bao khát vọng và nỗi cô đơn trường cửu. Cho đến lúc vỡ tan trên bãi nó vẫn kịp hóa thân trong muôn ngàn con sóng khác thầm thì tìm kiếm những ước mơ… 

***

Huy trở lại thành phố vào sáng sớm. Trong sương lạnh anh nhìn thấy ban mai thắp trên đầu mỗi tòa nhà cao ngất như bóng hình của những phác thảo ngổn ngang đổ qua ngày tháng. “Cuộc sống vẫn phải trôi đi” - Huy nghĩ, ”như chính những nỗi buồn rồi cũng sẽ qua. Giống như một mùa cây rụng lá. Nhựa sống sẽ tiếp tục hóa thân từ một chặt đứt. Hoa lá sẽ trào dâng một mùa trái mới”.

Huy đến giảng đường sớm. Tiếng bước chân gieo trên bậc thang tịch mịch, uể oải. Những ngày rời đã qua.

Nhã đến trước mặt anh lúc nào chẳng biết. Huy muốn kêu lên.

“Anh Huy!” - Nhã nói, ”em thành thật chia buồn cùng với anh. Em có lỗi... Em không biết... Không hay biết gì cả…”. Cô nói rồi òa khóc.  

Huy nhìn sâu vào mắt Nhã. Anh vẫn chưa hiểu. Đôi mắt ngập nước và đỏ mọng. Hoàn toàn không phải ướt át một cách đầy hàm cớ. Có nghĩa là cô đã khóc nhiều rồi. Nhưng dường như cũng chẳng có gì cho anh ở trong đó cả. Nó mêng mông như một hồ thu. Khẩn cầu và rỗng lạnh.

 

Vũng Tàu, 9.1995

 

 

GIÓ VẪN THỔI HOANG VU

 

Có những câu chuyện mà chúng ta đã dự định cầm bút lên để viết nhưng lại không viết nổi. Như một ám ảnh không nguôi. Mỗi lúc một đầy lên. Ngọn lửa đó thiêu đốt trong ta miên man và khô trụi. Thật kỳ lạ! Không viết nổi nhưng trong giấc ngủ nhọc mỏi những hình ảnh thi thoảng hiện về như một niềm hy vọng không bao giờ tắt. Và chúng ta lại cầm bút. Những con chữ như những vân đá ong khô cứng.

*

Trước khi lưu lạc vào phương Nam tôi đã có một thời gian ngắn đi làm gạch cho A Lìng, một tay người Mèo trắng ở Đà Sơn. Vùng đất thượng du năm sát dưới chân núi Chúa. Đó là một con người cô độc và u buồn. Hắn đã kế thừa một gia tài khổng lồ từ tay của người chú họ mà không tốn một xu ngoại trừ việc cần phải trộn vào rượu của ông ta món thuốc cực độc chiết từ là cây Êđớp. Đó là tất cả bí mật của A Lìng mà tôi thu thập được khi được hắn thu nhận vào trang trại. Và từ đó trong đầu tôi luôn chuẩn bị những chiếc lá Êđớp cho hắn. Ôi tuổi trẻ, dám có những suy nghĩ thơ ngây và lạ lùng. Cứ như tất cả mọi thứ đều có thể đạt được một cách dễ dàng. Như cái trang trại hùng vĩ, uy nghiêm trên ngọn đồi cao kia. Và tại sao tên A Lìng béo lùn, mắt một mí buồn rầu người Mèo trắng ấy lại cai quản được cơ ngơi đồ sộ nhiều tiền của đến thế mà không phải là tôi?

Năm ấy tôi vừa tròn hai mươi tuổi. Như một ngọn gió hoang. Và cũng đồng nghĩa như thế ngọn gió hoang thổi bạt tôi đến miền thượng du.

Công việc của A Lìng giao cho tôi lúc đầu cũng chẳng có gì phức tạp. Tôi giúp hắn làm toàn bộ sổ sách, ghi chép một cách tỉ mẩn những khoản thu chi hàng tháng. Tất cả bằng văn bản chẳng có một xu nào đến túi tôi. A Lìng là một tay đáo để. Hắn chưa bao giờ chịu thiệt dù rành rành trong con người hắn nhiễm nặng dòng máu dâu tộc bán khai và hắn cố gắng đánh tan dòng máu đầy mặc cảm đó một cách đáng khen ngợi. Hắn tinh quái như một con cáo. Hắn biết mọi thủ tục làm ăn với người Kinh. Dưới bàn tay hắn, A Lìng  không trừ một thủ đoạn nào để có thể nới rộng cơ ngơi và danh tiếng của mình. Hắn buôn thú quý, hương liệu từ rừng về thành phố. Và từ thành phố hắn học của người Kinh cách làm gạch đưa về miền đất này để rồi nhanh chóng phát lên một cách xứng đáng. Tôi mải mê với bí quyết của những chiếc lá Êđớp. Công việc tiến triển êm thấm và thuận lợi. Tưởng như chẳng bao lâu nữa tất cả cơ ngơi mênh mông của hắn lọt vào tay tôi thì một đêm bất ngờ A Lìng trở về đột ngột trước khi đã báo cho biết là sẽ vắng nhà trong thời gian dài. Hắn gọi tôi ra ngoài trong ánh lửa bập bùng ma quái của những ngọn đuốc trên tay bọn đàn em. Hắn bảo tôi chẳng cần tìm kiếm lá Êđớp nữa. Công việc ấy vừa khó khăn, vừa buồn chán mà biết đâu khi chưa đến đâu cả thì cổ tôi đã bị treo lên một ngọn cây nào đó không chừng. Còn bây giờ thì tôi nên giúp hắn. Tất nhiên, sẽ không được đồng xu nào cả để tẩy sạch máu, như ý hắn nói.. Tôi bị ném lên chiếc xe trong đêm sâu.

***

Cuối tháng Bảy tôi hoàn toàn tuyệt vọng với cái nghề làm gạch. Tôi phải trả giá đắt cho giấc mơ Êđớp không bao giờ thành. Chu kỳ tẻ nhạt quay nặng nề mỗi ngày vắt tôi kiệt sức. Buổi sáng dậy thật sớm, mắt cay xè sưng húp. Bàn tay mềm mại hồng hào ngày nào đã chai sần vuốt lên khuôn mặt trai trẻ sớm cũ kỹ vì bụi bặm. Đã bao lần tôi úp mặt khóc trong bàn tay ấy. Tuổi trẻ của tôi đây sao? Mắt lồi, cằm nhọn lởm chởm râu ria, những cơ bắp đầy gân vì làm việc quá sức. Có kịp mơ mộng gì khi những chiếc xe tải rùng rùng nổ máy, cả bọn bước lên ảo não như tù binh bị cưỡng bức đưa ra pháp trường. Bao giờ Sơn cũng là kẻ đi cuối cùng. Miệng hắn còn hôi rượu. Suốt đêm qua hắn dùng rượu để đốt cháy nhọc nhằn. Dáng người khật khưỡng, toát lên vẻ u ám hằn học. Đôi mắt đục ngầu dữ tợn, bộ râu xác xơ tàn úa. Sơn ngủ li bì khi chuyến xe rùng rùng lăn trên đường, sương mai còn quyện chặt nồng nàn. Một ngày mới bắt đầu bằng chiếc xe chở cả bọn đi bốc đất sét trên cánh đồng Đà Sơn.

Những cánh đồng không giam giữ ngày tháng mà còn bít bùng giấc mơ của tôi nữa. Ôi, những chiếc là Êđớp báo hại và tên A Lìng mập lùn. Nhiều đêm thao thức tôi biết rằng mình chưa thể thoát khỏi cái màu vàng ảm đạm và não nùng. A Lìng đã cười vào giấc mơ tôi. Còn đâu sự tự do của tôi với những đồng tiền chính đáng mà tôi làm ra từ công việc sổ sách? Và tôi có thể ra đi như từ giã một công việc mà mình không ưa thích. Còn giờ đây biết bao giờ A Lìng tuyên bố tôi đã rửa sạch máu?

Bây giờ xung quanh tôi chỉ có những ngọn gió phóng túng thổi từ trên đỉnh núi Chúa. Đôi khi chúng thét gào lồng lộn trong đêm sâu. Sau đó ít ngày là mưa rát mặt. Có thể một cơn bão lớn tràn về. Hay vẻ hoang vu của một vùng đất đỏ, sự lặng câm bí mật của khu mộ công giáo mênh mông thập tự giá nhấp nhô bên sườn núi. Tiếng chiêng trống ảm đạm rợn người giữa chiều gió mưa khiến lòng tôi tràn ngập nỗi niềm hoang vắng đầy mặc cảm của một kẻ xa lạ. Sự cô độc đó dâng trào khi một đêm khuya khoắt tiếng chiêng đổ dồn. Cọp về đèo ông Gấm. Sáng ra mọi người chỉ cho nhau thấy những dấu chân, nhiều bụi cây bị dẫm nát. Một con chó bị vồ đi. Sương loang mãi trên đỉnh núi Chúa. Người và cảnh vật đều buồn.

***

Công việc mỗi lúc một nặng nề hơn. Nếu như cái lò gạch làm đầy túi tiền A Lìng bao nhiêu thì chúng tôi bị vắt kiệt sức lực bấy nhiêu. Tôi đã gặp Sơn là một người Kinh như tôi tha dạt lên miền núi. Hắn là đứa mà A Lìng hoàn toàn tin tưởng. Và là kẻ duy nhất được nghe tôi kể bí mật về chiếc lá Êđớp. Tất nhiên mọi chuyện về sau này, khi chúng tôi đã thực sự hiểu nhau còn bây giờ tôi biết sau A Lìng, Sơn chính là kẻ theo dõi sít sao mọi công việc của tôi. Từ sáng sớm cho đến tối mịt chúng tôi phải làm việc ngoài đồng để lấy cho được hàng chục chuyến xe tải đầy đất sét và đưa về lò gạch. Thật không dễ dàng tí nào. Đối với một kẻ thạo việc đã đòi hỏi lòng nhiệt thành và sức chịu đựng bền bỉ. Còn thằng con trai đầy hão huyền như tôi úp mặt vào đống bùn là chuyện xảy ra gần như thường trực. Có điều mỗi lần như thế Sơn kéo đầu tôi dậy chứ không cười hô hố giống như những thằng cặn bã khác. “Làm đi!”. Hắn ra lệnh. Tiếp tục những tảng đất sét lớn từ dưới cánh đồng được cắt ra ném lên và tôi chuyền cho Sơn trước khi hắn hất vào thành xe. Hôm đầu tiên tôi loạng choạng rồi ngất đi không còn biết gì nữa.

Đêm ấy tôi mơ thấy một mặt trời đè mặt và lặn sâu trong ngực. Tôi thấy chiếc lá thiêng hiển hiện, nay nhòe trước mặt nhưng cố với mà không tới. Gương mặt A Lìng câng cáo thỏa mãn. Rồi mọi thứ bị chìm trong tiếng hổ gầm, mưa gió heo hút trên đèo ông Gấm và những thác nước tiếp tục đổ rền rĩ xuống dưới chân núi Chúa…

***

Tôi chẳng thấy ai như Sơn. Ít nói đến khó hiểu. Dáng vẻ to lớn thù lù của hắn thô vụng trong từng cử chỉ đơn điệu. Sơn đã ở lò gạch này gần sáu năm. Suốt quãng thời gian lưu lại đây hình như tôi chưa hiểu được người bạn đồng hành của mình. Hắn quán xuyến mọi việc khi vắng mặt A Lìng nhưng dường như cũng chẳng thích thú lắm vì điều đó. Khi A Lìng đi khỏi trang trại ai nhắc đến thì môi hắn chẫu dài như một cái ống.

Ban ngày nóng bức bao nhiêu thì ban đêm càng lạnh lẽo bấy nhiêu. Vào lúc ấy không biết làm gì để tiêu phí thời gian. Tôi thường ngồi rất lâu để nghe tiếng ếch nhái kêu chuộc chuộc một cách tuyệt vọng. Những đám khói lan tỏa mù mịt xa mờ trên các cánh đồng. Bọn thợ làm gạch tụ hợp lại hát những bài ca lâu khốc mà chúng nghĩ ra. Mắt của người đang hát bao giờ cũng chỉ hé mở tràn ngập một nỗi buồn tuyệt đẹp. Sơn đã bỏ đi đâu tôi không biết. Còn tôi cẫn chưa hòa nhập được với bọn họ. Cảm giác như mình vẫn bị sự dèm pha rẻ rúng đeo đuổi. Hình như tâm trạng ấy vẫn còn mãi tồn đọng ở một nơi sâu kín nào đó thăm thẳm trong tâm hồn.

Và Sơn đêm nào cũng bỏ đi rất khuya. Sau này tôi biết hắn lê la với những quán rượu nhỏ bên ngoài thị trấn. Nơi đó phải đi bộ hằng cây số và thường nhìn thấy những ánh đèn quạnh hiu, khuya khoắt. Tôi đã vài lần tìm xuống con đường ấy vào chiều tối. Đôi khi không phải tìm một thứ gì nhấm nháp mà thường phải tập đánh hơi như người thợ săn thú. Mùi rượu vodka mới ngửi  đã cay sộc sóng mũi. Sơn say khướt. Hắn nằm úp mặt, tay cào lên đất, nôn ra chua lè. Chúng tôi nhặt xác hắn về lều khốn nạn và ì ạch như mang một con chim lớn bị gãy cánh. Trong buồng nhỏ của Sơn lăn lóc toàn vỏ chai. Chiếc màn vàng ố, bẩn thỉu. Ở dưới gầm giường cũng toàn vỏ chai. Cái nứt toác. Cái sứt cổ. Những con gián vô tình nghiện rượu khi sục sạo và liếm khô đến giọt cuối cùng. Từ đó lũ gián không còn đi đâu nữa. Chúng đê mê với thứ nước thượng thặng đó. Sơn cũng không chịu nổi sự quấy rầy đến mức dạn dĩ của bọn khốn kiếp. Hắn cáu kỉnh đập chết từng con gián rồi cũng chả buồn hất ra cửa. Thế là vài hôm sau bầy kiến đen lết thết đông đảo như đoàn quân dàn trận cõng những cái xác đen lùi lũi kia đi.

***

Trong đêm cuối cùng trước khi chia tay nhau chúng tôi đã ngồi rất lâu bên ngọn lửa. Những con dơi kêu ngoài trời và quạt rất mạnh đôi cánh của nó. Lần đầu tiên Sơn nói về mình bằng một giọng trầm buồn, lạc nhiều dấu để tôi nhận ra âm thổ của đứa con miền biển. Sơn kể về những ngọn thủy triều phóng túng trên bãi cát. Biển xanh lấp lánh xác những con cá kiếm chết khô dưới mặt trời tanh nồng. Tuổi thơ Sơn đơn điệu đến nỗi khi hồi tưởng lại hắn chỉ nhớ những dấu chân bấm nhòe trên cát trong khi từng đợt sóng tung vào bờ chợt cuốn phăng tất cả đi. Năm Sơn mười sáu tuổi một cơn bão lớn thốc vào làng cá. Nhà tốc mái. Xác thuyền đắm. Những xác người dạt vào bờ trương phồng, mặt mày nhàu nát vì cá rỉa. Sơn bỏ làng đi từ ấy. Hắn chạy trốn sự đói nghèo và bất hạnh. Nhưng cứ mãi bị ám ảnh vì những tiếng hú như là sự rượt đuổi. Đó là hình bóng của những người đàn bà tóc tai rũ rượi, chân trần chạy dọc biển cầu hồn cho những người đàn ông không bao giờ trở về. 

Bây giờ tất cả đã trở thành dĩ vãng. Màn mây lạnh lẽo trùm trên đỉnh núi Chúa kia và cơn lốc bụi đỏ triền miên trong Sơn. Rượu làm lãng quên mọi thứ. Sơn sẽ uống mãi, uống mãi cho đến khi mắt mờ đẫm, rượu chảy ướt hết râu, đầu gục hẳn xuống. Lúc đó có tiếng gió rít trên mái lều hoang vắng, sương tràn về. Tiếng những con chó sủa lạc lõng. Mùa đông hâm hấp lụi tàn. Trong giấc ngủ, Sơn nói nhiều câu ngớ ngẩn về một ngày rã rời khô khốc. Tôi nhận ra bóng của mình trong đấy với vị đắng ảo tưởng chiết ra từ lá thiêng Êđớp.  

***

Chiếc lá thiêng mãi ám ảnh trong kỷ niệm tôi, khi tôi trốn khỏi lò gạch mà không bị một sự truy đuổi nào của A Lìng. Có lẽ tên người Mèo trắng kia vẫn xem tôi là đứa trẻ con trong mắt hắn. Tuy nhiên, Sơn không giống A Lìng, bởi anh đã giúp tôi trốn thoát. Và Sơn vẫn ở lại. Vẫn rượu. Vẫn bụi với lò gạch đỏ. Vẫn say và vẫn để lại những giọt rượu cuối cùng cho những con gián. Những ước mơ tan vỡ. Một cuộc đời đã khép. Tháng ngày như một ngọn gió hoang vu…

 

Lò gạch Quảng Thắng, Hòa Khánh - Đà Sơn

Mùa hạ, 9.1996

 

 

MẮT MÈO XANH

 

Viên quản lí nhà hàng con tàu nổi có dáng vẻ hoàn toàn không cân xứng với vị trí quyền lực cao quí của gã. Ngay từ ban đầu tôi đã có cảm tưởng như vậy. Sau đó thì phải trả một cái giá ê chề. Với khuôn mặt thỏa mãn no nê bia rượu gã ngước nhìn bọn tôi bằng cái nhìn lờ đờ của một kẻ trải đời, thôi thì bây giờ chẳng còn ăn thua chung đủ gì nữa. Để tránh đơn điệu với cái nhìn he hé, gã dùng ngón út khẩy nhẹ vào mép trái, gãi hàng ria được chăm bón tỉa tót cẩn thận, bộ ria chun lại như con sâu, run rẩy và dâm đãng:

- Chơi nhạc hả? Ở đây đang cần tuyển thêm một tay guitar. Nếu được thì nhận việc đi! Có thể bắt đầu ngay tối nay!

Ánh mắt Phan run lên. Tôi nhìn ngọn lửa nhảy nhót trong đó. Hắn đang căng hết người ghìm lại cơn cảm xúc ngột ngạt như ghìm một cơn ho và biết đâu lại bật ra vài giọt máu tươi. Con tàu chòng chành bởi những làn sóng nhẹ táp vào. Giữa cảm giác bồng bềnh tôi phát hiện ra mùi quyến rũ của thịt nướng. Như có nghìn con ong chích trong cổ họng. Bỗng nhiên hiện sừng sững trước mắt tôi một lò than hồng, những cái xiên làm bằng sắt dài cắm ngập qua những đùi thịt vàng óng. Mỡ réo chảy óng ánh, nhỏ từng giọt khiêu khích vào mắt lửa. Ngọn lửa sôi sục bùng lên. Mùi thơm có thể làm tôi chết vì thèm thuồng. Tôi nhìn qua Phan. Như cùng với trí tưởng tượng của tôi, tôi thấy hắn thè lưỡi liếm quanh vành môi khô bóng. Bất ngờ cái đầu ủ rũ như đang cố nén cơn buồn ngủ của viên quản lí lắc mạnh một cái. Hai đứa giật mình. Thì ra con mắt ấy không ngủ như tôi và Phan tưởng. Nó đã tinh quái nhìn thấy tất cả. Bây giờ thì nó như cặp đèn pha chong vào chúng tôi. Viên quản lí dằn nhẹ từng tiếng, dò dẫm ra đòn một cách liều lượng, hiệu quả và thận trọng:

- Nhưng chơi nhạc trên boong tàu này sẽ không được trả tiền, rõ chưa? - Mặc chúng tôi ngơ ngác, gã gật gù cái đầu nhẵn thín như một quả dưa tây như để xác minh điều đó là hoàn toàn đúng, chẳng có gì là phiền trách hay ngạc nhiên cả.

- Các anh sẽ hưởng tiền boa của khách, nếu có - Gã dừng hẳn lại, chăm chú nhìn vào đôi mắt lạc thần của Phan, soi mói vào đôi môi đang đói khát của tôi.

Rồi như đã nắm chắc phần thắng trong tay, gã hạ gục đối phương bằng một đòn chậm rãi:

- Làm hay không tùy các anh!

- Tôi làm, tôi làm! - Phan kêu lên the thé như sợ cơ hội lại tuột mất. Chẳng còn sự lựa chọn nào khác. Trên cổ hắn mồ hôi bắt đầu rịn ra như tắm. Có lẽ trong nghề chơi nhạc chưa lúc nào Phan có quyết định dứt khoát đến như vậy.

Hai chúng tôi bước ra boong. Buổi sáng biển trong xanh, có thể nhìn thấy lũ cá đuổi nhau tung tăng, lấp lánh từng cái vây nhỏ. Con tàu như khối đơn độc khổng lồ còn ngái ngủ. Mấy cột buồm chọc lên trời li ti những dải cờ sặc sỡ phần phật buồn bã. Cứ như dải cờ góp một tiếng nói và tiếng nói đó chẳng nhằm nhò gì so với tiếng những ngọn gió mất dạy và bỗ bã. Nó xoáy vào cánh cửa của buồng vệ sinh cho một mùi hôi thối thổ tả bốc lên rồi ngay chính nó cũng phải cuống cuồng bỏ chạy. Phan phấn chấn hẳn. Hắn mơ màng thả cặp mắt lồi vì thức đêm và rượu vào những bóng hải âu đang vờn nhau trên sóng nước:

- Có việc rồi! Dù sao thì cũng tạm có việc rồi! Hy vọng mọi điều sẽ tốt lành... - Hắn thầm thì.

***

Đó là giai đoạn khó khăn nhất của chúng tôi. Tôi lien tục nhận những bi kịch. Mẹ tôi mất đột ngột. Chị gái tôi, sau bao ưu phiền thì đã hóa điên dại ở bệnh viện. Tôi thả dài nhiều ngày và rất nhiều ngày. Tôi kiệt sức vì những con gián bởi suốt nhiều đêm không ngủ, tôi lắng nghe bọn gián bay lạo xạo trên nóc tủ và gặm nhấm vào tương lai tôi. Mọi cái chết và hoạn nạn đều phi lí, nó không tha thứ cho một cá thể nào nhưng sao lúc này toàn triệt vào tôi không để cho tôi một lối thoát? Tôi thấy chỉ còn nghệ thuật là có ý nghĩa. Mọi thứ rồi sẽ tàn phai trống rỗng như một cái chết, chẳng cần phải bằng mọi giá níu giữ cuộc đời này mà làm gì.Tôi nghĩ rằng cần phải làm cái gì đó cho những bài thơ của tôi. Tôi viết suốt đêm. Sau đó thiếp đi trong giấc ngủ đầy mộng mị. Ngay trong giấc ngủ hụt hơi đó tôi vẫn mơ thấy mình là nhà thơ lớn với những cách tân vĩ đại. Tôi sung sướng hài lòng cho phát hiện tầm vóc tương lai, khỏa quên đi nỗi buồn chán của mình và cái bụng luôn réo đòi cồn cào óc ách nước lã. Tôi đói dài ngày nhưng phải ăn tuân thủ theo chế độ khẩu phần nghiêm ngặt. Khẩu phần ấy kinh hoàng đến nỗi có bữa chỉ còn là khúc bánh mì và muối trắng. Vì vậy những cuốn sách yêu quí nhất của tôi đã ra đi. Tôi bán đi những cuốn sách của Albert Camus, Kobo Abe, Faulkner... và một lần vì quá đói, tôi tha luôn Zarathustra đã nói như thế của Nietzsche đi, nhưng tới nửa đường thì dừng lại. Thực ra Zarathustra có nói gì đi chăng nữa cũng không thể lấp đầy cái bụng đang đói cồn cào và thèm ăn như có thể chén sạch tất cả những gì đang có bán ở trong một cái chợ. Nhưng tôi căm thù hắn, gã đàn ông ngồi ở tiệm sách cũ ấy. Gã hói đầu, còn vài cọng tóc loe hoe thì lại nhuộm vàng ợt. Mặt gân guốc, bụng phệ. Chân gầy nhoẵng, mồm rộng. Gã đã trả cho tôi một số tiền rẻ mạt hoàn toàn không xứng đáng với những gì tôi có và nhìn tôi như thể tôi là một con mồi béo bở, đến nỗi mỗi lần thấy tôi xuất hiện là gã lại ngửa mặt lên trời cười hí lên như ngựa. Nhưng gã đâu cười vào tôi mà là đang cười vào các thi pháp tượng trưng, siêu thực, đồng hiện, tạo sinh… đấy chứ. Trước khi nó trở thành phong cách tiêu biểu cho thời đại không ngờ đã phải tập đi vào đi ra ở tiệm cầm đồ đến độ nhẵn bóng. Và đó là cuốn sách cuối cùng của Nietzsche mà tôi giữ lại được. Để giữ được cuốn sách này tôi phải nhịn đói gần một tuần lễ. Khi tưởng chừng sắp lả, đôi mắt không còn nhìn thấy gì nữa thì tôi mới xoáy được một ít tiền từ Phan.

Qua một người quen tôi được giới thiệu với Phan. Tôi chưa từng gặp gã đàn ông nào lạ lùng như thế. Người thì cao lớn, tay chân dài ngoằng. Chỉ có gương mặt của hắn rõ ràng là gương mặt của thần chết đang ngự trị. Có cái gì ám trên gương mặt ấy vừa buồn bã vừa xa xăm, vừa triết gia vừa hủ lậu, vừa nhẫn nhục vừa thèm khát. Và tất cả như vừa nhúng vào một cơn kinh hoàng để lại thứ nước da trắng bệch, hố mắt trũng sâu, râu tóc trơ trụi. Phan vừa thoát chết. Hắn bị lao phổi. Bây giờ thì hắn héo hon, tàn tạ đến mức nhìn hắn người ta chỉ muốn vứt vào sọt rác. Hắn trọ trong một căn nhà tồi tàn, nằm bẹp dí giữa những đống sách vở hiện sinh, phi lí hệt một con gián. Xung quanh toàn mẩu thuốc lá hút dở ném tung tóe tận những xó xỉnh nào mà hắn thích. Hắn vươn mình trên cái nệm bẩn như một con sâu của Kafka. Dưới lớp nệm bốc ra mùi hôi thối chua lè của đôi bít tất xỏ hết mặt này được lật qua mặt khác chưa buồn giặt. Phan là nhạc công chơi guitar hàng đêm cho vũ trường. Hắn còn có mộng sẽ viết sách để trở thành nhà văn nổi tiếng. Trong căn nhà ám khí, thiếu ánh sáng và ghê sợ như cái nhà hoang vô chủ ấy, chúng tôi thêu dệt tương lai bằng nhiều ngẫu tượng. Phan hâm nóng tôi bằng thứ rượu có màu vàng khè mà mỗi khi rót tràn ra ngoài một chút thôi là hắn lại la lên như bị cắt cổ. Hai đứa la hét phấn khích kịch liệt và nằm ngủ. Phan thở phì phò khó nhọc như con ngựa leo dốc. Tôi rã hết từng bộ phận cỗ máy dệt thơ cách tân. Cả hai chìm vào đáy giấc ngủ phẳng lì khi lửa của thứ rượu cặn yếu dần, chỉ còn đủ sức làm mê mẩn những con vi khuẩn lao đắc thắng chiếm giữ man rợ nhảy múa.

Phan si tình và yêu đương đến tuyệt vọng. Ở con người hắn tràn đầy những uẩn khúc hầu như không thể tháo gỡ nổi. Hắn vừa mơ có tình yêu, vừa mơ được triết lí với người yêu, mớ kiến thức pha tạp nửa hoang tưởng, nửa suy đồi. Bởi vậy khi ở bên nàng hắn luôn có bộ mặt vừa hớn hở vừa rầu rĩ. Nàng là ca sĩ hạng ba ở vũ trường chuyên trị những bài hát bốc lửa lắc mông xòe váy nói chung là từ phần đùi trở xuống. Khi nàng hát mọi thứ trên người nàng chuyển động. Nàng làm không khí vũ trường chao đảo như một con tàu đi trên sóng dữ. Để rồi vài gã đàn ông tím tái, bụng phệ , xông thẳng ra sàn nhảy vừa hú lên một cách kích động vừa nhoay nhoáy tơi bời dưới ánh đèn màu một khuôn mặt, một cặp chân, một cổ họng. Nàng không hiểu bài lên lớp cao siêu của Phan. Nàng chưa bao giờ đọc trọn vẹn một bài thơ huống hồ bắt nàng phải thanh toán một cái truyện ngắn. Bởi thế khi nàng nghe hắn kể về giấc mơ sẽ trở thành nhà văn, dồn hết tâm lực để viết một bộ sách dày vài ngàn trang nói về cuộc đời tràn ngập hoạn nạn và ghẻ lở của mình, nàng vừa kính phục vừa buồn ngủ. Bộ tiểu thuyết chưa bắt đầu được trang nào thì Phan đã ho ra máu bởi cách sống quá buông tuồng. Từ lâu hắn đã nghi ngờ mình nhiễm lao nhưng hắn cứ trấn an và tích cực chữa trị bằng thuốc lá và rượu mạnh. Đến lúc này mọi việc đã quá muộn màng, không còn cầm cự được nữa. Phổi hắn đã bị xé nát, hàng triệu con vi khuẩn bâu xé. Mỗi lần một cơn ho đi qua là như một cơn bão lớn đập vào kẽ hở. Lâu ngày kẽ hở lớn dần. Bây giờ thì nó bị phá sập hoàn toàn. Bão gió tha hồ cuốn vào ném thốc tháo ra ngoài những gì như còn có được trong căn phòng. Phan mất việc. Hắn bỏ về quê chữa trị, sống nhờ vào bà chị góa chồng ngớ ngẩn bị trụy tim. Bằng cố gắng phi thường, sau một năm bà chị lại trả hắn về thành phố với hai lá phổi tương đối bình phục. Bác sĩ cấm hút thuốc, uống rượu và thức khuya, đều là những cấm kị ngược lại với nghề kèn trống của hắn. Và hắn muốn chữa trị ra trò thì phải giải nghệ kiếp đàn ca. Điều này thì Phan hoàn toàn không muốn tí nào. Sống mà không ôm một giấc mộng lớn thì sống làm gì! Hắn phải là một cây guitar ngoại hạng với những cú phiêu đầy ngẫu hứng dưới ánh đèn màu quay cuồng của sàn nhảy. Hắn phải sống tháo đáy để có thể thành một nhà văn hiện thực tầm cỡ như tôi vẫn thường mơ tưởng tháo được những cái hộp rỗng vô hình đang chụp lên đầu mỗi bài thơ thiếu sinh lực của mình. Mà làm sao hắn lại không trở thành một nhà văn lớn kia chứ? Khi lúc này tình yêu đã bỏ Phan đi. Hắn mất việc, thân xác vàng vọt héo úa bởi dấu tích hung bạo của thần chết để lại vừa qua thời kì đầu tập dượt. Trước đây tình yêu giúp Phan hy vọng bao nhiêu thì giờ đây làm Phan tuyệt vọng bấy nhiêu. Trong mỗi cơn say hắn chìm vào một hải lộ đầy đá ngầm và sóng lửng. Mà làm sao nàng lại không chạy trốn hắn kia chứ, khi giấc mơ mong muốn trở thành nhà văn mỗi lúc càng thiêu đốt Phan. Khiến hắn trở nên phi thường, ăn nói hổ lốn và buông xả hơn bao giờ hết. Cơn bệnh đang mon men trở lại. Mỗi lúc hắn thở vào không trung nhiều vi trùng hơn. Phan kiệt sức kháng cự. Hắn lại quay về với thuốc lá và rượu mạnh. Chúng tôi uống nghiêng đêm cho những phác thảo ngổn ngang của mình. Thứ rượu pha nhiều cồn ngấm vào dạ dày cào xé. Trong đêm tối có thể đốt lên từ đó ngọn lửa mắt mèo xanh.

Một mùa đông dài dằng dặc buồn tẻ đã tới. Tiền bạc hoàn toàn khánh kiệt. Phan vẫn liên tục từ chối những sô diễn mà hắn cho rằng rẻ tiền, hạ thấp danh dự của hắn. Thường thì nhạc công vẫn được phân loại thành nhiều đẳng cấp. Phan thuộc đẳng cấp cao. Nằm giữa những hạt rượu hắn chờ chực một cơ hội lớn hơn. Tôi thì chẳng biết đi đâu về đâu. Những bài thơ cách tân đã gửi thẳng đến các tòa soạn bặt vô tăm tích. Có lẽ họ cho tôi là một thằng điên. Thỉnh thoảng một tờ báo rẻ tiền vì lòng thương hại mà in cho một bài vô thưởng vô phạt thế là tôi và Phan cuống cuồng chạy đi lấy nhuận bút. Với số tiền còm cõi, chúng tôi cũng say được vài chầu và tranh thủ ca ngợi tài năng nhau. Phan bảo bây giờ thì chưa nhưng rồi hắn sẽ viết. Không chỉ viết cho một thực tại ung nhọt mà phải viết với một cái nhìn tiên tri thấu thị cho thế kỉ tới. Hắn sẽ giải mã tình yêu, tìm ra một mẫu số chung cho những cuộc tình bão táp. Còn cuộc tình dở dang nhiều vi trùng lao của hắn thì có thấm tháp gì! Hắn sẽ say sưa nghiền ngẫm, nếm náp một cách đau buồn để biến nó thành chất liệu sáng tác cho những cuốn sách hoàn mỹ có giá trị vĩnh cửu.

Giấc mộng văn chương làm tôi và Phan suýt chết đói trong những ngày gió mưa ẩm ướt. Càng thả dài chúng tôi càng chìm ngập vào biển chán chường mêng mông, thiếu thốn khủng khiếp không dễ gì rút ra được. Rượu cặn cũng không còn một giọt trong chai. Những mẩu thuốc hút dở vứt ngổn ngang khắp phòng và giờ thì đến lúc chúng tôi thay nhau bò vào các xó xỉnh tìm lại từng cái để hút cho đỡ thèm và chống lạnh. Phan ho lồi cả mắt. Co gập hai đầu gối, những hạt máu tươi bắn lốm đốm trên nệm.Trong giấc ngủ lờ phờ trôi dạt tôi mơ thấy bóng ma văn chương đi lởn vởn đầu giường chạm những ngón tay lạnh lẽo phát lên từng chùm tia sáng lên chúng tôi. Bóng ma sờ sẫm khắp người tôi rồi bật lên từng tràng cười khoái trá và biến mất. Tôi giật mình chồm dậy. Gió đông vẫn rít ngoài cửa sổ. Chúng tôi sẽ tiếp tục sống như thế này ư? Trận gió cuồng hú lên khoảng trống của một khung kính đã vỡ. Chúng sẽ hú như vậy bao lâu? Đến khi nào mới mở được bóng tối dằng dặc thiên thu để thắp lên một ánh bình minh nhợt nhạt ư? Không, cả hai đứa bị phân loại, cạn kiệt sức lực rồi! Văn chương đang tồn tại trong chúng tôi hay văn chương đang réo cười trong cái chết? Đây là cửa ngõ để tạo dựng một nhà văn tầm cỡ và phơi mở biên độ không trọng lượng của một nhà thơ cách tân đây sao? Rượu cặn, bao tử cồn cào và phổi thủng.

Với căn phòng tồi tàn lạnh giá này và nỗi hoang vu ghẻ lạnh gớm ghiếc đang tràn lan trên gương mặt người bạn đồng hành của tôi kia, chúng tôi sẽ phải trao trả cho lưỡi hái thần chết với thời hạn không còn bao lâu. Chúng tôi sẽ chết trước ngày mới huy hoàng đang đến. Và những con gián nhớp nháp bẩn thỉu sẽ đánh chén một cách ngon lành tàn nhẫn trên những trang giấy trắng tinh còn ấp ủ bao ước mơ kì diệu về khát vọng sống và nghệ thuật viết của chúng tôi.

***

Tàu đã nhổ neo. Hai chúng tôi chạy dọc trên boong tàu tràn ngập ánh sáng của những ngọn đèn cao áp rực rỡ. Tôi nghe tiếng va đập loảng xoảng của chiếc mỏ neo đang được những nhân viên điều khiển tàu kéo lên. Tiếng nước ì oạp trỗi bọt trắng xóa. Con tàu ầm ì chuyển động. Phan nắn lại dây của cây guitar. Những nốt nhạc êm dịu chảy tràn xuống mặt biển làm những con sóng bừng tỉnh và rì rào mơn trớn trỗi dậy. Chúng lao xao nhún nhẩy. Mắt Phan rưng lệ chìm đắm. Hắn thả hồn lang thang tìm một vì sao định mệnh đơn độc trên nền trời thăm thẳm. Vì sao chiếu mệnh giấc mơ nghệ thuật nào là của hắn và của tôi? Đâu thể biết được. Trên trời lấp lánh muôn ngàn vì sao đấy chứ!

Viên quản lí quả là tay chịu chơi. Trong bóng tối hắn lộ nguyên hình là con người của công việc, không còn vờ vịt ủ rũ nữa. “Vào đi!” - Gã chỉ tay về phía phòng ăn của các nhạc công và ca sĩ, ”có khẩu phần lót nhẹ cho các cậu trước khi làm việc. Giờ ra sàn diễn cũng sắp bắt đầu rồi!”.

Được ăn ư? Chỉ cần nghe hai tiếng thân yêu đó toàn thân tôi đã run rẩy. Tôi nhìn qua Phan. Bộ ria xác xơ tàn úa của hắn đánh hơi được mùi thơm ngọ nguậy liên tục mấy cái. Dù cố trấn tĩnh Phan vẫn thè lưỡi liếm vội hai vành môi khô nức đang bóng dần lên của mình. Sắp được ăn ư? Hình như chúng tôi chờ đợi hai tiếng đó từ lâu rồi. Cũng như chờ đợi cuốn tiểu thuyết đi xuyên thời đại và những bài thơ đập hộp rỗng vươn lên hết chiều kích của nó có.

Con tàu vẫn ì ầm chuyển động mỗi lúc một xuyên thủng qua bóng đêm dày đặc. Chúng tôi đã ra khơi.

 

Tàu Mỹ Nhân Ngư,

Sông Sài Gòn, mùa đông 1997

 

 

CHẤT ĐỒNG

(Lưu ý: truyện có kèm minh họa số 01 của họa sĩ Bùi Tiến Tuấn)

 

Phải có một chất đồng lóe sáng trong tình yêu và phải nuôi giữ chất đồng đó trong sáng tạo. Cho dù bị rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo nhất. Một hôm tình cờ bạn gặp lại một người quen. Thật ngạc nhiên, bạn thấy y không còn quyến rũ nữa. Đôi mắt nhiều ánh lửa ở thời điểm nào đấy của quá khứ tràn trề uy lực chinh phục bạn giờ đây có nét gì đó hèn nhát, đầy dao động biến chuyển trong mắt y. Y run rẩy nhìn trước sau xem có ai mai phục mình không? Y hoàn toàn miễn cưỡng khi buộc phải phát biểu và đó chỉ còn là những lời lẽ cáo già rỗng tuếch. Thực sự y đã kém phong độ. Y không còn đủ tự tin vào mình để bắt kẻ đối thoại phải nghe giọng nói vang, sắc như chuông. Y không còn quyến rũ được ngay chính bản thân y.

Đôi khi, đọc một tác phẩm cũng vậy. Tại sao bạn không có cảm giác thích thú nó? Phải chăng, nó chỉ là một truyện ngắn với trí tưởng tượng tầm thường. Tình tiết thiếu chọn lọc. Câu chữ buông tuồng nhạt nhẽo? Hay đó chỉ là bài thơ với sức gợi mở thô thiển, nhàn nhạt vay ý mượn tứ từ những tác giả khác? Nó là sản phẩm cằn cỗi trước một sự tham vọng không ngừng và ngôn từ như đã hóa đá xâu chuỗi đeo xủng xoảng trên cổ nhà văn. Chẳng còn cảm xúc nào tuôn chảy trong nó. Sự trơ lì của một ngòi bút với nghệ thuật nghiêm trọng hơn cả một cái chết.

Tôi thường mơ tưởng những tố chất đồng vẫn luân chuyển trong người bỗng một đêm nào đó quần hợp lại biến thành cây kèn đồng. Những âm thanh nhức buốt, khản đặc điên mê được rúc lên lay chuyển cả bến bờ nghệ thuật. Cho dù chỉ trong khoảnh khắc hồi kèn báo thức ấy đã phân rã nhưng chắc chắn ý nghĩa đời sống và trang viết của bạn đã đổi khác.

Tại sao tôi lại có giấc mơ về chất đồng và cây kèn huyền nhiệm ấy? Tất cả bắt đầu từ người bạn tôi tên là Thi Tenor. Hắn là một nhân vật có thật, sống mạnh mẽ ngoài đời, thổi kèn saxophone trong bar rượu. Chắc sẽ có nhiều người thắc mắc là sao tôi hay viết về đời sống của các nhạc công, thế giới màu sắc về đêm ở các vũ trường? Xin thưa, vì ngoài những câu chuyện riêng tư và tẻ nhạt đó, ngay bây giờ và chính lúc này đây, tôi không còn biết viết gì nữa. Tôi hoàn toàn không muốn trở thành một nhà văn và tất cả những gì tôi để tràn ra giấy chỉ là những mảnh của đời sống tôi. Tôi biết Thi Tenor sau Phan - một nhân vật tôi từng kể cho các bạn nghe trong truyện ngắn trước đây, và hắn sẽ còn liên quan ít nhiều đến câu chuyện này như một kỷ niệm, một dấu vết tang thương mà có lẽ còn lâu nữa tôi cũng chưa thể quên được. Suốt thời trẻ, có một giai đoạn tôi chỉ mê làm thơ và mong trở thành một thi sĩ trứ danh. Và Phan - biệt hiệu Phan Lao, bạn tôi, mơ trở thành một nhà văn hiện thực tầm cỡ thời đại. Rồi tiếp theo sau đó là những năm tháng với quá nhiều biến cố của đời sống, tôi trôi dạt lang thang tự biến mình thành con ma cà bông, du thủ du thực. Cứu cánh duy nhất bấy giờ của tôi vẫn là viết. Mội bài thơ phải là một tiếng thét lớn vào mặt thời đại. Nhưng thực sự trong sự trôi dạt mất hết ý nghĩa, mỗi lúc tôi viết càng nhạt nhẽo và càng bế tắc hơn. Những ẩn ngôn rời rạc, vô phương hướng, thiếu sức sống. Đời sống hiện thực, tôi đã không tìm ra mình, đến đời sống nghệ thuật với những trang viết dụng công cũng ngày càng trở nên xa lạ, thoắt hiện thoắt biến. Tôi trôi lạc mãi trong một con đường hầm triệt tiêu hết ngày tháng. Cuối con đường tối mù ấy tôi đã gặp Thi Tenor.

Cuộc chia tay giữa tôi và Phan xảy ra từ khi chúng tôi chơi nhạc không có tiền boa trên con tàu biển. Hợp đồng show diễn chưa được bao lâu Phan đã bỏ dở vì ngã gục. Bệnh lao lại tấn công Phan vào giai đoạn cuối. Phan đã cầm cự đến lúc không thể cầm cự được nữa. Phan ho bật ra từng búng máu. Hắn đổ dài trong nhà trọ với một chiếc khăn bông chẹn ngang họng thấm đầy máu. Quê nhà và bà chị ngớ ngẩn bị trụy tim lại là nơi chốn bình yên cuối cùng để Phan lại quyết định tìm về. Cố hương xa dằng dặc. Không hiểu sao trước cuộc chia tay này tôi dự cảm toàn những điều không lành. Đời sống phiêu lưu, phiêu bạt, biết đến bao giờ chúng tôi mới lại được gặp nhau? Tử biệt Phan rồi tôi sẽ đi đâu? Về đâu vào giữa cái mùa mưa mỗi lúc một mê man cùng tận như đe dọa một thế giới sắp bị sụp lở này và bản thân mình thì không còn một xu dính túi? Khi tôi và Phan cắt rời nhau, tôi sẽ tiếp tục như con tàu bị đứt neo không còn tín hiệu liên lạc và hải cảng sóng gió nào là nơi con tàu tôi xô dạt tới? Những bất an tràn ngập tim tôi. Tôi hình dung cơn đói vào những ngày mưa thường quyết liệt hơn. Ban đầu nó thả những bong bóng màu vàng vào mắt. Màu vàng đó chạy mãi thành những vệt xanh đậm, nhạt loang lổ xung đột triền miên với nhau. Cuối cùng tất cả bùng nổ thành một trận hỗn chiến giữa các sắc màu dìm toàn thân vào cái đáy sâu vô tận. Cứ thế tôi sẽ mang cơn đói đi dọc mỗi con phố. Thơ ư? Chưa lúc nào tôi thấy nó nhảm nhí thế! Nhưng thật kỳ quặc, vào chính giây phút ấy, ý chí sáng tạo của tôi lại bừng thức mãnh liệt. Bởi ngay lúc này khi không còn một xu dính túi tôi còn có quyền hạn gì ngoài những bài thơ? Trong cơn đói những bài thơ no đủ hơn. Đó là sự kết hợp của một tâm hồn bi thương, ánh sáng mê hoặc của bánh mì và sự phẫn nộ gớm ghê của một thiên tài bị bỏ quên! Và những khuôn khổ hình thức không còn quan trọng trong những bài thơ ấy. Một tiếng nói hỗn mang sơ khai tự hình thành giữa chúng. Chúng khai chiến, phạm vào giới cấm. Những bài thơ bị chảy máu. Thế đấy, để được đắm chìm tận cùng gốc rễ và hoa lá nghệ thuật, thi sĩ phải chịu sự đe dọa của một hố thẳm. Nhưng tôi đã quá chán sự tàn bạo của những bài thơ kêu thét vào mặt thời đại ở tư thế quỷ dữ đói khát như thế rồi. Nhưng bài thơ là cứu cánh của tinh thần nhưng là một phần phân rữa của thể xác. Những bài thơ truy tìm bằng được gương mặt quỷ của nó rồi xung đột man rợ với đời sống không thể nào hòa giải nổi. Nhưng những khi lâm cảnh cùng khốn, chỉ còn ít bạc lẻ để nhét bánh mì và muối trắng vào dạ dày, tôi lại yêu cuộc sống này biết bao. Không cần làm thơ tôi vẫn sống được kia mà. Có khi lại đàng hoàng hơn là khác. Nhưng sống và cũng chỉ để sống phất phơ diêm dúa như thế thì những ngày tháng này của tôi cũng thậm vô nghĩa lý. Thật kỳ lạ! Tôi đã bị xô dạt giữa những thác ý nghĩ rối rắm, mâu thuẫn chồng chéo như thế trong buổi chiều tiễn Phan. Trước mắt tôi không còn chân dung của người bạn đường nữa mà là hình ảnh của một con sâu thật sự. Một con sâu Kafka. Bởi căn bệnh hiểm nghèo làm Phan hoàn toàn biến dạng. Hắn đã méo mó một cách khủng khiếp. Thật cảm động, đáng thương thay vào giờ phút cuối gương mặt ấy vẫn còn nghĩ mãi về một tình bạn, vẫn cố tìm ra con đường sống và chốn ẩn náu cho tâm hồn người bạn đường cô đơn phiêu dạt. “Hãy bảo trọng vì sự nghiệp thi ca trường thiên và vĩ đại của mày. Gặp nguy hiểm tức thời phải tìm đến địa chỉ này. Thi Tenor sẽ giúp đỡ. Hắn là một người tốt đấy…”.    

Tôi đã tìm Thi khắp thành phố. Khó khăn như vậy là bởi hắn theo một show đi đánh nhạc ở tỉnh lẻ suốt hai tháng ròng. Cuối cùng chúng tôi đã gặp nhau. Khác hẳn Phan, Thi đọc nhiều, hiểu biết sâu rộng nhưng hoàn toàn không ham mê dấn thân làm nghệ thuật. Với Thi, đời sống là làm việc và hưởng thụ. Cái gì mà đời sống là một dòng sông và những kẻ sáng tạo viết lách phải lặn ngụp sâu xuống dưới đáy sông, khổ thế để làm đếch gì? Chết uổng! Sống và chơi lơi khơi thế thôi! Việc gì phải xơi quả đắng rồi lại kêu lên sao mà đắng thế! Ai biểu tọng nó vào mồm. Thi cao 1m 75, tóc dài thả bờm ngựa, răng bịt vàng, áo jean, quần loe… đó là những ấn tượng ban đầu của tôi về Thi. Tình yêu ghê gớm nhất của hắn là thổi kèn và sưu tập tài liệu nghiên cứu về một trăm hai mươi loại kèn trên thế giới. Tôi chưa thấy ai yêu kèn như Thi. Hắn ôm ấp cây kèn dịu dàng như ôm ấp một người đàn bà. Hắn có thể ngồi cả ngày phân tích không chán về âm vực, quãng, lưỡi gà, trường độ nhiệm vụ thiêng liêng, chức năng của mỗi cây kèn cần phải thổi vào mỗi thời điểm, khoảnh khắc nào của đời sống. Bất cứ nơi nào bạn bè yêu cầu, Thi sẽ chĩa cây kèn lên trời mơ màng biển diễn ngay tại chỗ. Có điều Thi có một nguyên tắc là không bao giờ thổi kèn đám ma. Hắn tối kỵ điều này và coi đó là sự xúc phạm nghề nghiệp. “Cuộc sống dù tệ hại đến mức nào cũng không phải là xác chết” - Thi lập luận. “Dù bức bách, đói ăn thế nào tao cũng không thể đồng lõa với thần chết, thổi kèn cho những con ma nhảy múa. Mày đã thấy bọn ma “nhót” như thế nào chưa? Khủng khiếp lắm! Như thế này này…” . Thi lấy tay lật ngược mí mắt, phồng má thổi một tấu khúc vui nhộn. Hắn giang rộng hai chân. Mông ngoáy tít, bước cà khêu, cà khêu dờ dật tiến về phía trước. Nom rất buồn cười.

Những ngày lang bạt cùng Thi tôi rút ra được nhiều bài học. Không cần làm nghệ thuật, chỉ để tồn tại kiếm sống thôi cũng chẳng phải là một điều đơn giản. Như Thi, dù không muốn thổi kèn cho bọn ma chết thì hắn cũng phải phục vụ cho tụi ma sống. Nói chính xác hơn là ma cô. Nơi Thi làm việc, thường xuyên chạm mặt với các băng đảng đầu gấu anh chị, các thế lực đen của xã hội. Bọ nó ngầm khống chế mọi hoạt động xa hoa, rửng mỡ, điếm đàng của thế giới về đêm. Tất cả đều sợ chúng. Anh Cả chia địa bàn ra cho bọn đàn em cai trị. Mà anh là ai thì lờ mờ không rõ mặt. Khi có lệnh của anh Cả, các bar, vũ trường, nhà hàng gần như phải phục tùng không được chống đối. Vì thế những cuộc thanh toán lẫn nhau tranh giành vị thế diễn ra gay cấn và khá thường xuyên. Thi cũng là nạn nhân của nhiều trận đụng độ bất đắc dĩ đó. Một lần trong phi vụ làm ăn không sòng phẳng, anh Cả buộc Thi phải nghỉ thổi kèn ở QueenBee và chuyển sang Đêm Biếc hòng làm tan rã ban nhạc trứ danh. Nhưng ở Queenbee, Thi là nhạc trưởng, là linh hồn của nhóm lại chưa hết hợp đồng nên Thi rất phiền muộn. Hắn đang chần chừ, miễn cưỡng trước sự dàn xếp của anh Cả. Vậy là tai họa ập đến. Một đêm, sau giờ diễn, bọn ma cô tấn công Thi. Chỉ kịp chộp cây kèn đeo vào cổ, Thi thoát ra ngoài bằng cửa sau và leo lên chiếc Lambretta cổ lỗ sĩ của mình chạy cố mạng. Thi nẹt pô rồi phóng điên cuồng trong đêm tối. Khốn nạn tiếng nổ như đạn bắn, như bò rống của chiếc xe hết thời lại chỉ đường cho bọn đầu gấu phóng đuổi theo. Quả là một cuộc chiếc đấu không cân sức. Tụi nó tóm lấy Thi đập móp cây kèn và tẩn cho hắn một đòn hội chợ ra trò. “Đây mới chỉ là món tráng miệng cảnh cáo” - Một thằng du đãng hách dịch đe dọa, ”món tiếp theo nếu mày vẫn không chịu nghe lời thì bọn tao sẽ lấy lưỡi hay tai của mày. Rõ chưa thằng chó dái…”. Rồi bọn chúng ngang nhiên phóng xe đi.

“Dây vào bọn đó chỉ rách việc” - Triết gia kèn vừa khạc nhổ máu trong miệng mình vừa khóc nấc lên giận dữ khi nhìn thấy cây kèn yêu quý bị phá hỏng. Sau này hắn thường lên lớp với tôi: “Mưu sinh khốc liệt như thế đấy! Ai dám bảo là dễ dàng nào? Lưỡi gà hay lưỡi thối đều phải trả giá ngang nhau…”.

Thi rời QueenBee về Đêm Biếc. “Chả biết sao được. Ở đời ai chẳng mong muốn bình yên. Rốt cuộc tất cả đều phải sống! Cần phải kiếm một món gì không quá khó nhai để nhét vào bụng khi đói. Với nỗi cô đơn của dạ dày thì ai cũng giống nhau cả. Dù thánh thần hay quỷ dữ. Có điều khác nhau, chúng nó giải quyết nỗi cô đơn bằng nắm đấm. Tao giải quyết bằng kèn. Thế thôi!”.

Và nghệ thuật đối với Thi cũng đơn giản dễ hiểu như thế. Một lần Thi bảo tôi: “Tao không rành lắm về những triết lý rối như mớ bòng bong mặc dù có thể rất cao siêu hay lạng quạng của tụi mày. Nghệ thuật của tao nếu có là thổi kèn và bao tử. Trước khi nhận một show thổi là tao nghĩ về cái bao tử đang co thắt và khi đã no cứng rồi thì tao phải ra sức thổi kèn…”.

Rồi bỗng nhiên Thi khạc nhổ giận dữ: “Việc gì phải thơ thẩn, tác phẩm để đời rồi đói ăn như mày kia chứ? Hay mộng nhà văng để lại kiệt tác như thằng Phan lao?” - Thi lắc đầu ngán ngẩm như không thể tin nổi có một bọn người lạ lùng quái đản như thế. “Rốt cuộc như nó thì hơn được gì cuộc đời này nào? Một lá phổi mục ruỗng của nó chắc?...”.

Nói là nói vậy thôi chứ kiếm ăn được bằng nghề kèn không phải là chuyện đơn giản. Thi thổi sacxo có tiếng. Hắn yêu đời sống, thường sợ những bóng ma, xua đuổi những ám ảnh về cái chết nhưng tiếng kèn lại liêu trai ma quái. Tôi đã từng nhiều đêm ngồi trong bóng tối ẩm lạnh của quán bar đợi Thi hết giờ làm và nghe hắn thổi. Quán vắng ngắt. Gần như không có ai. Tiếng kèn mê man rời rã. Những ngột khúc phù thủy. Tiếng kèn làm toàn thân phơi mở, mất tự chủ. Nhấn chìm tất cả vào cơn mê phiêu lưu không hiểu nổi. Cứ như đời sống của chúng ta lơ lửng trên ngọn khói, hư ảo trên đỉnh phù du và bất chấp mọi sự bộc lộ buồn tẻ và nhàm chán của hiện thực vậy. Càng thổi, tiếng kèn Thi càng đê mê biến ảo. Nó ngột ngạt, u ám và soi mói. Như đưa một hơi thở tràn trề nhục cảm vào tận những ngõ ngách ẩm ướt trên cơ thể. Tiếng kèn làm những con điếm ế không tìm được khách nhảy, nằm đè lên nhau ngủ quên, khép chặt hai cặp đùi nây nây khoái lạc. Mắt nhắm nghiền. Ngực ưỡn lên. Môi mở ra. Tiếng kèn như hơi thở dài, khêu gợi một chất đồng rỉ máu từ lâu đã ngừng chảy trong tâm hồn những kẻ giang hồ phiêu bạt. Và trong đêm tối tiếng kèn Thi làm nhảy múa những trái lê hình tam giác, những quả cam la liệt trong ảnh tượng những bài thơ của tôi. Tôi nghĩ rằng cần phải nuôi giữ chất đồng huyền nhiệm ấy. Như nuôi giữ một ước mơ khả ái. Có lẽ rồi không bao giờ đi đến cùng giấc mơ ấy nhưng nó luôn luôn tạo cho chúng ta ảo giác sẽ khơi mở, sẽ chinh phục. Và như thế sự có mặt của chúng ta trong cõi đời này không quá phi lý và mất hết ý nghĩa. Còn chất đồng, chúng ta còn hy vọng, còn chờ đợi. Nhân danh tiếng kèn ấy, Thi chính danh là một nghệ sĩ thực thụ. Để kiếm sống tồn tại, để giữ nhịp đập trung lưu cho hơi thở thì cần phải biết đi qua định nghĩa Nghệ thuật vị Bao tử. Biết bao giờ tôi mới đi qua được sự cám dỗ phù hư của định tính Thi sĩ để chạm vào được ngôi đền của Thi ca?

Vào một đêm rất khuya, triết gia Kèn trở về nhà với gương mặt trầm tư và một chai Baileys trên tay. Khi hai đứa ngồi đối diện nhau, rượu đã rót ra đầy ly, Thi mới nói cho tôi một tin khủng khiếp: Phan chết rồi. Hắn treo cổ trong phòng vệ sinh của bệnh viện K. với hai lá phổi mục ruỗng. Phan không thể chống lại những cơn ho mửa máu, những ám ảnh về một thực tại quá đỗi nhiễm lậu. Hắn tự treo cổ mình bằng một sợi dây được tháo tung từ một cây đàn guitar. Toàn thân phình to ra đong đưa phi lý như một con bò bị đông cứng giữa không gian. Toàn bộ bản thảo của Phan cái bị thất lạc, cái thì đang viết dang dở, không có cái nào được hoàn thành nguyên vẹn. Phan đã cố gắng thay đổi cuộc đời mình đến phút chót mà vẫn không thể được. Hắn chết như chạy trốn cõi trần gian đầy bất trắc và bội phản.

Nhưng tại sao Phan lại chọn sợi dây đàn làm sự liên lạc giữa mình và cõi vô hình? Phan ước muốn vào giờ cuối trên cổ mình dây đàn vẫn hát ư?. “Cuộc sống dù tệ hại đến mức nào cũng không phải là xác chết”. Khó mà thuyết phục được chuyện đó. Có thể đơn giản hơn, đó chỉ là một sự tình cờ nhầm lẫn. Khi đã lựa chọn cái chết, chắc chắn không còn một chất đồng nào hoen gỉ trong tâm hồn ấy. Mọi thứ cạn khô máu.

Lần đầu tiên Thi ngửa cổ lên trời thổi hồi kèn dài niệm khúc cái chết. Tôi nghe trong đó có một hơi thở muộn kéo sụp đổ thành trì ngày tháng phiêu lưu buồn bã. Chất đồng nào đang rỉ máu lòng tôi?

 

Ga Sóng Thần, 10.1998

Thị Nghè, 3.1999  

 

 

RÁP XÁC

(Lưu ý: truyện có kèm minh họa số 05 của họa sĩ Bùi Tiến Tuấn)

 

Nhà văn phải ráp chữ như ráp xác.

Nghệ thuật: một cái chết.

Nghệ thuật: một cái xác.

 

I. Dẫn nhập của nhà văn K.

Một buổi sáng nhà văn K. bỗng nhận được một bưu phẩm gửi tới từ tỉnh X. Việc này làm ông rất ngạc nhiên. Thứ nhất, bưu phẩm không đề tên người gửi, dày và nặng, rõ ràng phải tính cước phí khá cao cho bưu điện. Thứ hai, K. vốn không quen biết ai ở X. cả. Đó là một tỉnh lẻ u buồn, đất đai cằn cỗi, khí hậu khắc nghiệt. Vài lần K. đến trong cuộc đời hành nghề văn của mình để tìm cảm hứng viết nhưng nó nhạt nhẽo vô cảm đến mức không để lại được dấu vết nào rõ rệt trong ông. Thứ ba, đã từ lâu K. cắt đứt mọi mối quan hệ, không giao thiệp với ai. K. quên hẳn mình là một nhà văn. Quên trang viết, sống đơn độc âm thầm như một cái bóng. Ông vừa khỏi bệnh tâm thần nhưng sức khỏe và thần kinh vẫn chưa ổn. Trước đây ông thường có những cơn điên bất thường nên bạn bè càng ngại giao tiếp với ông. Nói chung, K. đã cố gắng cắt đứt mọi mối liên lạc của mình với xã hội. Nhưng rõ ràng bưu phẩm sáng nay nhân viên bưu điện chuyển tới là được gửi cho ông: Nhà văn K. - Đường số 7 - Phố Hõm Ngoặc.

K. là nhà văn không nổi tiếng lắm. Như tự thú của ông trên một tờ báo, cả một đời văn của ông, thì “Viết, cuộc hành xác điên loạn nhưng không ai biết đến, không viết được gì và không đi tới đâu...”. Vào nghề từ năm mười bảy tuổi, cho đến giờ đã gần sáu mươi, K. chỉ xuất bản được vài cuốn sách mỏng. Trong đó có hai tập thơ ông nghiên cứu về Siêu hình và Ngôn Ngữ Học là có gây được chút ít tiếng tăm dư luận đương thời. Mới đó mà đã hơn bốn mươi năm, hành trình u khuất và khép kín của một con người. Sau này nhờ bạn bè, khi ông có cơ hội tái bản những cuốn sách một đôi lần, lần nào ông cũng chịu khó sửa chữa chi li, thật nhọc nhằn những vấn đề và quan niệm đã được viết ra trước đây của mình. Ông gạch bỏ từng phần hay phải tháo rời viết lại từng chương. Theo một nhà phê bình, K. là một nhà văn lập dị, theo trường phái khắc kỉ. Ở ông không có sự lưỡng ước. Trang viết là sự cộng hưởng của vô số mối tương liên để cuối cùng dẫn về một lộ trình độc nhất: Mở toang những mạch máu. Đọc K. tất nhiên là bạn đọc phải chọn một tình thế, một va chạm tàn khốc, và một tâm thế nặng nề. Đó chính là tâm thế của người nghệ sĩ hiện đại, theo quan điểm của nhà phê bình ấy. K. muốn tháo tung, đập vỡ mọi hình thức giới ranh của nghệ thuật để tìm cho bằng được tiếng nói của chính mình. Cho dù điều đó thật là mơ hồ. Và phải chăng, vì thế, K. đã thất bại. Tác phẩm của ông xuất bản hầu như không ai đọc. Có lẽ ít kẻ tiếp cận được. Kể cả sau mười hay hai mươi năm ông chịu khó tái bản lại cũng vậy! Ở nhà sách nó bị nhét vào những xó tối, giấy mốc meo ố vàng, bìa vương đầy mạng nhện và cứt gián. Một trong những trang bị tháo rời vì đứt chỉ đó người ta thấy K. viết: “Nhà văn, người phải biết bơi ngược dòng. Chưa có một thể chế xã hội nào mà lại chính là thể chế, là vương triều huy hoàng của văn chương. Thân phận người sáng tạo bao giờ cũng như đang đi lạc vào một thời đại tiêu tùng, không ai hiểu nổi và suy tàn. Những trang viết ộc ra từ đó như bất ngờ bị dằn ngửa ra cưỡng hiếp và bóp cổ...”.

Vào mé tuổi sáu mươi, K. xuất hiện triệu chứng tâm thần. Ông thường lảm nhảm giữa chốn đông người, tấn công những nhà phê bình, chỉ trích chế độ đương thời và nhiều lần từng bị nhà cầm quyền bắt giữ, quản thúc. Nhưng nguy hiểm nhất là ông vẫn ngồi bất động trước trang giấy không có một dòng nào cả. Nhiều lần để làm đầy nó ông chỉ còn biết đổ mực chảy lênh láng như một dòng sông nhỏ. K. thấy mình đã chết trên lộ trình lựa chọn khốc liệt của Sáng tạo và Dấn thân. K. muốn tìm được tiếng nói chung quyết, tận tâm: Nhà văn là ai? Nghề văn là gì?... Chỉ bằng một hình ảnh, một câu hay một dòng mà mọi vinh quang, khổ nhục, đau đắng dồn tụ hẳn vào trong đó. Nói cách khác, K. muốn tổng kết cuộc đời mình để rồi tống khứ, quên hẳn cái nghề khủng khiếp này. Nó không để cho ông một ngày bình yên. Nó bội bạc. Nó đã phản ông. Những gì ông viết, theo đuổi dốc kiệt cả một đời thực sự là không đi đến đâu cả. K. tuyệt vọng và đau đớn khi nhận ra điều đó. Nỗi ám ảnh đã làm ông mê sảng. Hoặc sẽ viết để tiếp tục làm sáng tỏ điều đó hoặc phải chết. K.đã bị tổn thương nặng. Vào chính thời điểm ấy, ông đã nhận được bưu phẩm dày gửi đến từ tỉnh X.

Bưu phẩm của người đã chết tên là P., một nhạc công chơi guitar hàng đêm cho vũ trường. P. chết vì nỗi ám ảnh căn bệnh lao vào giai đoạn cuối. Y tự treo cổ mình lên bằng sợi dây đàn trong một toilet công cộng của bệnh viện nơi y đang được chữa trị. Thời còn sống, P. mơ ước trở thành một nhà văn để viết những tác phẩm bất hủ cho thời đại. Nhưng bi kịch đã chỉ ra cho K. thấy “không có một thời đại thực sự nào cho văn chương” nên rốt cuộc chính thời đại mà y đang sống cũng đã nhìn y và công việc vạch trần lương tâm và lương tri thanh sạch của y bằng con mắt ghê tởm như một căn bệnh hạch, và cùng đường truy bức giết chết y như giết một con sâu. Tác phẩm của y chưa từng được biết đến thì chính y đã tiêu tùng, đã trở thành một cái xác thối rữa. Trớ trêu thay nhà văn mà P. chịu ảnh hưởng nặng nề nhất và quyết định sẽ đi theo chính là nhà văn K. Trong lá thư gửi kèm theo bưu phẩm P. viết: “Tôi lắng nghe từng ý nghĩa nhỏ nhoi thoát ra từ ông. Tôi bị vây bọc trong thánh địa ông như đồ vật ám ảnh linh hồn tăm tối. Tôi yêu K. bởi K. là một nhà văn không của riêng ai và phải vì ai. K.: một kiểu dáng độc lập. Phải chăng, nhà văn phải độc đạo trên con đường sáng tạo của mình. Tuyệt tự và tuyệt lộ. Không tiếng gọi bầy đàn. Viết như thoát ra khỏi nhà tù giam cầm và mật vụ của thời đại. Viết như phải chạy tung vào một con đường vắng vô tận...”

Theo ý nguyện của P. toàn bộ bản thảo của y sau khi chết sẽ được chuyển về cho nhà văn K. Lần đầu tiên K. thực sự rúng động bởi những gì đã từng được viết ra của mình. Nó không vô nghĩa, không phản bội như ông tưởng. Nó cướp đi một mạng sống. Nhưng tại sao P. lại chết? K. có vô tình đẩy thêm một nguyên cớ nào vào cái chết nôn mửa của y ta không - thắt cổ bằng dây đàn trong toi-let bệnh viện công cộng? P. đã từng mơ ước trở thành một nhà văn được tiếp tục phiêu lưu trên những mê lộ siêu hình và ngôn ngữ của K. Đã ước mơ thì tại sao P. lại tự hủy cuộc sống mình vào quãng đời trong sáng, tươi đẹp như vậy? Câu hỏi dằn vặt ấy ám ảnh khiến K. không thể yên ổn. Ông cảm thấy nghề viết khắc kỉ và vô vọng của mình thêm đầy tội lỗi. K. quyết tâm chế ngự cơn điên để lao vào xử lí đống bản thảo vôi vữa và đầy vi trùng lao của người chết. Ông muốn thử truy tìm câu hỏi của và lí giải gương mặt người bạn đọc vô hình đã chết ấy.

Toàn bộ bản thảo là mớ hỗn độn hay nói đúng hơn thuần túy là một đống giấy loại. Những gạch xóa ngổn ngang, dang dở. Những trang viết đầy lỗi và lỗi. Những ghi chú tận tâm vô tận. Chỉ nguyên một nỗi cô đơn đã thấm nhiễm vào máu đang tìm mọi cách bộc lộ và xé bỏ. Có thể thấy P. chưa bao giờ ý thức là mình đang viết văn. Y không chủ tâm xây dựng cốt chuyện mà chỉ cốt nghĩ ra một đề tài để đuổi theo lòng mình. Đó là sự phơi bày những cuộc chia ly không đầu không cuối. Những chiếc bóng, những cái thòng lọng đã được treo lên rập rình ma quỷ, chỉ còn chờ đổ ập xuống. Và thật khủng khiếp, những cái thòng lọng đó không đánh trả được những nan vấn, những câu hỏi. Nó run bần bật nhảy múa khoái trá. Nó đã chộp được và xiết cổ P.

Trong cơn u mê và tâm thần tối sáng, K. đã đọc P. Không còn khoảng cách của nhà văn và bạn đọc nữa mà đã hòa vào một nỗi ma nghiệt của văn chương, bản chất của nghệ thuật vĩnh cửu. P. là vật tế thần cho thế giới nghệ thuật đó. Đáng tiếc những gì P. viết còn quá dở dang và ít ỏi. Nhưng biết thế nào là đủ? Nhà văn lựa chọn tình thế nào để viết? Viết như một an vui tự tại hay như một sự bất trắc? Và độc giả chọn thái độ nào để đánh giá một nhà văn? Viết, một cái chết, một cái xác hay tiếng cười ói mửa phù dung? Đó là những điều liền lạc trong truyện ngắn sau đây tương đối hoàn chỉnh của P. Một cuộc gặp gỡ kì lạ của một nhà văn và một kẻ tắm rửa, khâu liệm xác chết trong nhà xác một bệnh viện. Bằng nỗ lực của mình K. biên tập, sửa chữa và cho công bố truyện ngắn này của P. như tấm lòng của một nhà văn đối với người bạn đọc trung thành và xấu số của mình. Nhưng sâu xa hơn, K. đã tìm thấy ở P. tiếng nói chung quyết của Nghệ thuật nói chung: Nhà văn bằng cái chết nguyên thể của mình đem đến những hương hoa và mật ngọt cho độc giả. Chết trong sáng tạo là một cái chết đẹp nhưng có ai là kẻ tri âm tinh tế để nhận ra rằng hình như vẫn còn một mùi hương thậm đắng vô hình đang lan tỏa trong văn chương?...


II. Bản thảo của P., người đã chết.

Anh còn thuốc lá không? Cho tôi xin một điếu. Cám ơn. Thế là hỏng toi cả buổi sáng rồi. Anh hỏi tôi đã làm nghề này bao lâu ư? Khoảng mười hai, mười lăm năm gì đó. Và có lẽ sẽ còn dài dài nữa. Còn anh? Một nhà văn ư? Hay đấy! Vậy là vô tình nghề của tôi và nghề của anh có chỗ giống nhau. Tôi ráp xác còn anh ráp chữ. Chữ nghĩa linh thiêng lắm nhá! Ông bà mình nói không bao giờ sai đâu! Một chữ đôi khi là cả một đòn cân não. Nghề tôi cũng vậy. Không tỉ mẩn như anh nhưng cũng phải chăm chút không kém đâu. Xương thịt của ai dù chết rồi cũng phải trả lại cho đúng của người đấy. Ráp của người này sang người kia là không được đâu. Hồn của họ ám theo mình họ đòi chứ chẳng chơi! Nghề nào chẳng xây dựng trên vinh quang và điếm nhục? Một câu hay ư? Anh nhầm rồi! Không phải của tôi. Của một nhà văn mà tôi rất yêu thích đó! Nhà văn cũng có nhiều loại. Nhà văn giả cầy, nhà văn kiếm ăn, nhà văn điểm chỉ... Nhưng tôi sợ nhất là loại nhà văn đồ tể. Y cứ múa may quay cuồng. Chữ nghĩa chập choạng lên đồng. Tham vọng thì vô cùng nhưng thể khí và nhân vật thì bạc nhược, thổi bao nhiêu sinh lực vào vẫn trắng nhợt như cái xác chết. Tôi sợ nhất là loại nhà văn hoạn quan. Vừa viết vừa cất lên tiếng gáy của bọn gà trống thiến. Tầm tư duy không vượt quá hai quả thận cằn cỗi và yếu kém. Tôi sợ nhất là loại nhà văn tô điểm. Y là nhà thông thái mắt lé. Đọc y để cuối cùng bạn đọc cũng chẳng hiểu chính y muốn nói gì? Y đã lạc lối ngay trên lộ trình mà chính y đã đặt ra cho mình. Tôi sẽ ném những cuốn sách đó vào xó tối. Chẳng thú vị gì khi phải nhớ về nó. Tôi cảm giác y gần với bọn bồi bút. Tất cả đã kiệt lực không đủ bản lĩnh và tài năng để đi đến cùng hay trình bày đến nơi chốn một vấn đề nào đó. Bọn họ mặc dù đã chịu khó khoác vào trang văn của mình đủ thứ xiêm y, áo xống của những văn hào, triết gia khác nhau trên thế giới nhưng có khác nào những cái xác thối rữa, chết lâu ngày, biến dạng không còn có thể nhận ra như thế nào là một gương mặt thật nữa. Trong những trường hợp như thế, đôi khi tôi nhận thấy quả không khác gì một cái xác chết trong trạng huống khó xử đã bị sắp lộn đầu của tôi. Vâng, từ từ rồi tôi sẽ kể cho anh nghe...

Anh đã có tác phẩm xuất bản chưa? Chưa à? Thật tiếc. Nếu không thì tôi đã được đọc anh. Nhưng là một nhà văn sớm muộn gì anh cũng phải công bố tác phẩm của mình chứ? Vâng! Khi đó là lúc chính anh tự định đoạt mình. Mà xin anh cũng đừng để ý đến tôi. Tôi cũng chỉ là một độc giả tầm thường. Trông coi nhà xác và khâm liệm những xác chết. Anh muốn biết kĩ hơn công việc của tôi ư? Tôi đã nói rồi! Chẳng có gì là thú vị và đặc biệt cả. Tôi ở bệnh viện Z., nhân viên tẩm liệm thu nhặt xác của những người chết xấu số. Thường thì phải làm việc với những cái xác chết chẳng trọn vẹn. Ví dụ như chết vì tai nạn, chúng tôi kéo họ ra từ bánh xe. Chết cháy thì tìm nhặt trong than củi. Chết vì chất nổ thì chúng tôi phải thu gom những mảnh còn lại sau đó xếp thành hình dạng để chôn cất. Tác phẩm của chúng tôi chính là nghệ thuật ráp xác đó. Tôi so sánh hơi ớn lạnh phải không? Nhưng đó là sự thật. Bây giờ đang thịnh hành nghề trang điểm dung nhan cho xác chết anh không biết sao? Nếu như tác phẩm của anh, một nhà văn có thể xuất bản hàng trăm cuốn đến với nhiều độc giả thì tác phẩm của tôi, một kẻ ráp xác, chỉ có một người độc nhất là lương tâm của chính mình. Chúng tôi sẽ không yên lòng khi lỡ xếp nhầm cánh tay của người này cho một người đã chết khác, một bàn chân, một mớ tóc, và ngược lại. Và chúng tôi gửi tác phẩm của mình vào lòng đất. Mặt đất im lặng giữ mãi mãi bí mật đó. Đến ngày nảy nở hoa lá xanh tươi.

Anh hỏi tại sao tôi nói năng hình tượng và có vẻ am hiểu về văn học phải không? Vâng, trước đây thời trẻ tôi có theo đuổi nghiệp văn chương nhưng không thành công. Hiện thực luôn có những ràng buộc khốc liệt của nó. Tôi tài hèn sức mọn, không đủ tài năng và ý chí để đi hết con đường đã thử lựa chọn của mình. Tôi biết nghề văn đối với cuộc đời cũng chỉ là chàng Donkihote đánh nhau với cối xay gió. Nhưng đam mê và tình yêu vẫn không dứt. Từ đó tôi đọc để tìm kiếm, lĩnh hội những hương thơm mà bọn nhà văn của các anh đã dệt nên và cũng như thử xem các anh viết như thế nào về chúng tôi, những người lao động, công việc chúng tôi làm và những điều chúng tôi nghĩ. Và tôi đã thấy dường như các anh vẫn chưa vượt qua được cái khung hiện thực mà chúng ta đang có. Có nghĩa nếu là tôi, một gã làm nghề ráp xác thì chắc chắn rằng cả cuộc đời hắn cũng chỉ biết ôm ấp những cái xác chết mà thôi. Hắn là đồ tể của giấc mơ. Không đam mê, không tình yêu. Và cái giấc mơ trở thành một nhà văn với những trang viết lộng lẫy là một điều xa xỉ và không tưởng. Thậm chí hắn không có quyền canh giữ hay nuôi nấng giấc mơ ấy. Với cách tiếp cận đó, các anh đã nhìn chúng tôi bằng con mắt lé buồn bã và xấu xí. Chúng tôi không cần cái hiện thực tởm lợm và buồn đau ấy. Chúng tôi muốn thoát ra để khai phá một con đường mới tuy gian nan hơn nhưng chắc chắn rằng sẽ độc sáng và thú vị hơn. Nhà văn các anh hiện nay thiếu hai yếu tố dấn thân và dũng cảm. Các anh thời thượng và sợ hãi. Các anh đánh tráo sự khôn ngoan vào hèn hạ. Đọc những trang viết của một hai nhà văn lớn ở Việt Nam gần đây tôi thực sự thất vọng. Họ nhai lại bã hư danh phù phiếm của một thời như chó nhai giẻ rách. Nhưng tôi không ngạc nhiên. Bởi cái bánh xe hiện thực quá đỗi khổng lồ và nhọc nhằn. Nhưng nếu cứ tiếp tục bám vào đấy biết bao giờ tôi mới được thoát khỏi những cái xác chết vây bủa quanh tôi?

Anh có muốn nghe tôi kể về một cái chết không tưởng của hiện thực trần trụi không? Đó là những cái chết khi vẫn còn đang cười, đang phơi phới tuổi xuân. Chết khi đôi môi như vẫn còn hé mở, vẫn còn đang muốn nói một câu gì đó. Bây giờ thì những gương mặt ấy đã ngủ yên trong hầm mộ tối. Những giấc ngủ không hình thù, bình ổn và vô sự. Mùa đông năm ấy tôi mới ngoài ba mươi tuổi. Bấy giờ tôi vẫn chưa biết như thế nào là hương vị người đàn bà. Với tôi họ là một cánh cửa thiêng liêng, là mùi hương đắng đầy quyến rũ và hạnh phúc. Tôi vẫn luôn ao ước và rắp tâm săn đón những cuộc tình nhưng dường như vẫn chưa có cơ hội nào đến với tôi cả. Dường như các cô gái vẫn thường khiếp sợ bọn người làm những công việc kì dị và lạ lùng như tôi.

Mùa đông năm đó lạnh lẽo kéo dài cho đến đêm Chúa giáng sinh. Tai nạn xảy ra tại đèo R. cách thị trấn chúng tôi ở hai trăm cây số. Đang ngủ, tất cả chúng tôi bị dựng dậy bởi một cú điện thoại kinh hoàng. Một chiếc xe buýt chở các cô nữ sinh vừa tốt nghiệp một trường cao đẳng đi tham quan trở về trong sương mù đã đụng một vào chiếc xe chở gỗ của lâm trường đang đổ trên đèo xuống với một tốc độ khủng khiếp. Hàng chục cái chết chỉ trong khoảnh khắc. Điều khó tin nhất là một cây gỗ lớn dài gần hai chục mét đã xuyên thủng cửa kính xe buýt làm đứt đầu tài xế và các cô gái. Khi chúng tôi đến, trong gió thốc và sương giá không còn có thể phân biệt được cái đầu nào là của thi thể nào. Tất cả bấy nhầy và hỗn loạn. Trong nghề, lần đầu tôi mới chừng kiến được tai nạn dị thường như thế này. Những cái xác mất đầu như vẫn còn ấm nóng và cựa quậy dưới tay chúng tôi.

Về đến bệnh viện chúng tôi bắt đầu rửa xác. Một tình huống lạ lùng đặt ra. Với những cái đầu đã bị đứt rời và dập nát, không còn nhận ra của thân thể nào thì chúng tôi sẽ làm việc như thế nào đây? Quả thật, lúc này nếu thân nhân của người chết kịp có mặt thì cũng còn rất khó phân xử huống hồ bọn tôi. Thôi thì cứ theo linh cảm nghề nghiệp mà làm vậy. Vậy là chúng tôi bắt đầu rửa xác. Một thằng đàn ông lần đầu chứng kiến thân thể tuyệt mỹ của các cô gái qua những cái xác không đầu. Hơn chín tiếng đồng hồ chúng tôi mới làm xong. Nhưng sự việc đến đó chưa phải là hết. Một người thân của nạn nhân xấu số đòi được nhìn mặt cô cháu gái yêu của mình lần cuối cùng bỗng kêu thét lên sợ hãi. Gương mặt ấy không phải là cháu của bà. Thế là mọi việc nghi kị bắt đầu rối tung cả lên. Chúng tôi đã ráp lộn vị trí của những cái đầu ư? Và như vậy một cuộc trao đổi kì lạ tiếp tục diễn ra ở nhà xác bệnh viện cho đến khi mọi người có thể tin là tạm ổn, không còn sự nhầm lẫn đáng tiếc nào nữa. Nhưng tôi vẫn chưa quên kỉ niệm đó. Là một người trực tiếp ráp xác tôi như vẫn thấy mình bị run tay. Làm sao có thể tin chắc là trong hàng loạt cái chết bất đắc dĩ như thế chúng tôi đã không để xảy ra một sơ xuất nào? Và đã trả lại đúng cho những nạn nhân xấu số gương mặt thật của họ? Đó là những cái chết không tưởng của một hiện thực trần trụi. Mùa đông ấy còn nguyên vẹn trong tôi là một mùa cầu hồn.

Nghề văn các anh vẫn thường gặp những tai nạn nghề nghiệp phải không? Vâng, những giây phút như thế thì thật là chán nản. Như cái nghề ráp xác của tôi thôi. Mệt mỏi, dằn vặt và nặng nề khủng khiếp. Các anh sợ nhất là bị kiểm duyệt. Bởi mỗi chữ mỗi dòng viết ra đều như chích thẳng từ máu mình. Còn chúng tôi sợ nhất là những ngày mưa. Anh còn thuốc lá không? Cho tôi xin một điếu! Cảm ơn! Những ngày mưa. Anh thử nghĩ xem được ở bên một cái xác vừa rời cuộc thế, trời đang mưa tầm tã thì buồn đến thế nào. Nhưng dù sao tôi cũng đã quen rồi. Bên xác chết ngày mưa tôi nghĩ về kiếp người. Thế là xong. Dù phải chết theo bất kì cách nào thì cũng là chết. Vĩnh biệt cõi đời ồn ã và bề bộn này. Nhưng những ngày mưa sẽ làm xác chết nặng mùi rất lâu. Dễ làm chúng ta ngỡ rằng oan hồn của người đã khuất vẫn còn vương vấn cõi trần gian, vẫn quanh quẩn đâu đây không thể rời đi xa được. Trong màn mưa trắng đục đôi khi tôi thấy đời sống thật buồn, thật trầm luân, chỉ muốn buông tay trôi xuôi tất cả. Và rượu, chỉ có rượu mới làm nguôi quên phần nào. Ban đầu thì chỉ uống cho đỡ bải hoải và quên đi những cảnh tượng không lành, can đảm lên để làm việc nhưng khi tỉnh rượu càng thấy hãi. Một cảm giác xú uế và phạm tội như chưa bao giờ quen. Lâu dần rượu là lẽ sống của chúng tôi. Chúng tôi nghiện rượu, tự nhấn chìm trong sự lãng quên mà như chính Chúa đã an bài đó. Vâng! Nhưng vẫn có lúc rượu tỉnh chứ! Như lúc này tôi trò chuyện cùng anh.

Mẹ kiếp! Thế này thì mất toi buổi sáng. Gã người Miên gác cổng nhà xác đêm qua say nằm ở đâu không tìm thấy mà chưa chịu mở cửa cho xe chúng tôi. Gã Miên ấy à? Anh muốn biết ư? Có gì đáng đâu! Cả một đời gã làm nghề canh cổng nhà xác. Thì cũng như tôi thôi, nhưng gã là bậc “tiền bối”, bậc “trưởng thượng”! Đặc biệt ở con người này ư? Gã say tối ngày và lúc nào cũng nói lảm nhảm một mình như đang cáu giận, điên tiết lên vì một nguồn cớ vô hình nào đó. Nói đúng hơn, bọn ma luôn bất bình vì gã và chính vì vậy, gã cũng thường gây gổ với ma. Thời trẻ của gã ư? Tôi cũng không rõ lắm. Chỉ biết khi tôi vào nghề là đã được tiếp xúc với gã rồi. Chuyện tình cảm của gã ư? Một người mặt mày hung tợn, nói năng như rắn độc thì thật là khó có cảm tình. Nhưng trước đây có một người đàn bà buôn hương bán phấn chẳng rõ phiêu bạt từ đâu đến đây chịu chung sống với gã. Ả cũng bí hiểm không kém. Khuôn mặt u trầm của một đời sống tan nát, thỉnh thoảng cái nhìn tối tăm như có lửa lóe lên và chợt tắt não nùng giữa đêm mùa hạ. Tôi chưa thấy hai người nói với nhau một câu. Gã Miên say tối ngày cả khi xe chúng tôi chở xác vào hoặc đến nhận xác chở đi. Tôi nhìn thấy người đàn bà ấy lần cuối cùng trong cảnh tranh tối tranh sáng của một buổi chiều bệnh viện khi đưa về đây mấy cái xác chết trôi. Vẫn chứng nào tật ấy, chiều đó gã Miên vẫn say bí tỉ không mở nổi cửa. Chúng tôi kêu ầm ĩ. Người đàn bà hỏa ngục ấy lặng lẽ xuất hiện phụ đẩy cánh cửa nhà xác nặng nề. Chúng tôi chuyển xuống từng xác chết. Đột nhiên ả rú lên, ngã lăn ra đất, giãy đành đạch, miệng trào bọt mép. Hình như ả nhận ra trong những cái xác ấy có một người quen. Thì ra bao lâu nay dù đầu gối tay ấp bên những xác chết nhưng ả vẫn không thể nào làm quen hoàn toàn được. Lúc này ả mới lộ nguyên hình bản chất yếu đuối linh cảm của một người đàn bà. Tôi chạy đi tìm mãi mới thấy gã Miên đang ngủ bấy nhừ bên đống vỏ chai trong một xó xỉnh tối tăm cuối hành lang bệnh viện. Nghe tôi trình bày câu chuyện gã choàng tỉnh, thoát khỏi cơn rượu quấn quýt bỏ chạy thục mạng về phía ả. Vừa kịp ôm cái thân thể dặt dẹo ấm nóng của tình nhân trên tay, gã gào rống, chửi rủa ầm ĩ hơn bao giờ hết: “Thế này là thế nào? Tại sao? Tại sao? Các người định cướp nốt đi tình yêu cuối cùng của Thượng đế dành cho tôi sao? Không đời nào...”. Gã vuốt mái tóc xõa ngược, đỡ cái cổ thõng qua một bên, bộ mặt vô hồn, chiếc mũi cứng đờ tưởng như không còn thở được nữa rồi áp mái đầu vào lòng mình, vừa khóc lóc, vừa dỗ dành, vật vã. Một kiểu mơn trớn tình yêu lạ lùng như chàng Quasimodo gù lưng với nàng Esmeralda xinh đẹp của Victor Hugo mà tôi từng đọc thấy.

“Tại sao em lại sợ những cái xác chết ấy? Những cái xác oan uổng sẽ chẳng bao giờ làm hại em đâu. Em sẽ không bỏ anh mà đi chứ? Em thân yêu! Nếu còn yêu anh thì em phải tập yêu lấy những cái xác này. Đó là công việc và đời sống của anh. Anh đã sống bên xác, thở bên xác và cũng sẽ khép trọn một cuộc đời bên xác. Nhưng anh yêu em. Chúng ta sẽ ở bên nhau mãi mãi kia mà. Ôi, khổ thân tôi! Em không còn nghe được gì cả. Khổ thân tôi...”

Rồi chẳng còn dịp nào cho tôi thấy người đàn bà ấy nữa. Có lẽ vì không thể chịu nổi, ả đã bỏ đi. Gã Miên sống một mình từ đấy. Những cơn say vây lấy gã. Nhưng tôi đã một lần chứng kiến tâm hồn kì lạ của người đàn ông này khi gã giải thoát con tim mình ra khỏi bể rượu. Đó là mong ước, tình yêu lương thiện của con người. Một lần để rồi không còn bao giờ được nhìn thấy nữa. Anh biết không? Nghề của tôi không thích những cơn mưa là vì thế. Mưa gợi nhớ và bao phủ những gì tôi chỉ muốn quên trong kí ức. Nhưng phải chăng cũng trong mưa mọi thứ trở nên tươi mới. Để chúng ta có thể yên lòng bắt đầu cuộc hành trình trở lại với nhiều hy vọng còn đâu đó những khám phá bất ngờ và mới mẻ.

Anh hỏi tại sao tôi lại chọn cái nghề này ư? Một câu hỏi khó trả lời đấy. Có bao giờ anh lý giải một cách tất yếu rằng nguyên cớ nào đã khiến anh phải cầm cây bút viết văn không? Tại sao anh phải ráp những trang đầy chữ và vắt cạn linh hồn mình vào trong đó? Tại sao khi ngoài cửa sổ bóng đêm đang rụng dần, bình minh một ngày mới đang lên, riêng anh chỉ còn lại nụ cười dở sống dở chết? Nhà văn phải ráp chữ như ráp xác. Nghệ thuật: một cái xác. Nghệ thuật: một cái chết. Anh không cắt nghĩa được ư? Nếu tôi trả lời tôi yêu nghề thì hóa ra tôi lại yêu những cái xác chết hay sao? Nhưng còn nếu như tôi trả lời không thì chắc anh sẽ thấy ngạc nhiên vì khó hiểu bởi như thế thì tôi còn ở lại với công việc kì dị này mà làm gì? Cuộc đời còn biết bao công việc khác. Xin lỗi anh, tôi không thể trả lời rành mạch được. Mơ hồ. Rất mơ hồ. Giống một nhà văn không thể không lắng nghe lời thì thầm của trái tim trong lồng ngực cũng như không thể rời cây bút trên tay. Như ranh giới mỏng manh giữa sự sống và cái chết, giữa cái ác và cái thiện. Chúng ta mong manh đi tìm hoa lá xanh tươi giữa hai thái cực đó. Trong chừng mực nào đó tôi yêu công việc của tôi. Cũng như một nhà văn yêu trang viết của họ. Cho dù phải mổ xẻ đến tận cùng nỗi buồn phi lí vẫn với mục đích duy nhất: Ca ngợi cuộc sống! Và nếu như nhà văn các anh vẫn còn miệt mài nỗ lực với từng con chữ thì chúng tôi vẫn còn âm thầm nỗ lực với từng xác chết. Chúng tôi trang điểm dung nhan, trả lại thần sắc cho họ cho dù họ đã từ giã cõi trần với bất kể tình huống nào. Thanh thản, đau đớn, mãn nguyện hay sợ hãi. Để khi bước vào lòng đất họ chỉ mang một gương mặt an nhiên không vui không buồn. Dấu vết hội chợ phù hoa cũng không còn. Cứ thế họ chìm sâu, ngậm cười mơ hồ, im lặng qua ngày này tháng khác. Hàng thế kỉ trôi qua trên đầu họ không tiếng vọng. Những mưa lũ hay hạn hán. Chia rẽ hay hòa hợp, hòa bình hay chiến tranh. Những dự án tìm kiếm trên không trung hay xuyên thủng vào lòng đất, họ mặc tất. Chỉ hoa lá xanh tươi nở từ thân thể họ. Ồ, gã Miên thức dậy kia rồi. Y đang chuẩn bị mở của cho xe chúng tôi đấy. Tạm biệt anh. Sao? Anh muốn có một bô ảnh của tôi để kỉ niệm ư? Ồ, tôi không thích đâu. Tôi không muốn chường bộ mặt râu ria thiếu ngủ này lên bất cứ khuôn hình nào. Một lẽ nữa, anh thử nghĩ lại xem, làm sao trong một khoảnh khắc chớp lên của máy ảnh lại có thể lưu giữ tất cả mọi góc cạnh thâm trầm biến cải của gương mặt tôi? Của chứng nhân thời gian? Làm sao khắc họa được gương mặt không vui, không buồn hay không quá dị hợm của những kẻ làm một công việc vẫn còn nhiều người khinh bỉ, rẻ rúng và hắt hủi? Gương mặt của tôi phải là cuộc sống...

...

(Bản thảo truyện ngắn của P. đột ngột dừng ở đây.)

Biên Hòa, mùa mưa 7.1996

Sài gòn, tháng 9.1999

 

 

MẶT ĐẤT IM LẶNG

 

Trong khu vườn rậm rạp mà Quân cứ tưởng là cái bãi hoang đó có con rắn lục thường xuất hiện. Nhiều lần bà ngoại nói ông đập nó chết đi nhưng ông không chịu. Nguyên nhân là một lần dọn bãi, bên cạnh cái hồ nước, ông phát hiện có một ổ rắn. Ông đã đập chết hết nhưng không hiểu sao vẫn còn sót một con. Con rắn này nom rất hiền, gặp người thường nem nép bò đi thật nhanh. Bởi vậy ông ngoại không nỡ giết chết nó. Trên chiếc võng đu đưa buổi trưa hè giữa vườn một lần Quân nhìn thấy. Nó lén nhìn anh bằng con mắt rất dữ. Quân bật ngay dậy thì nó đã biến mất. Quân nói với Ngọc: “Có phải con rắn mà bà ngoại hay kể không? Sao ông ngoại không giết nó luôn cho rồi?”. Ngọc cười phá lên: “Nó hiền khô à anh ơi! Ông ngoại nói đã định giết hết cả ổ rồi. Con rắn này không chết thì cứ để nó sống thôi!...”.

Mà phải nói vườn nhà ngoại rộng thật. Con rắn lẩn đi rất nhanh cũng khó mà tìm thấy. Từ ngày yêu Ngọc thỉnh thoảng hai đứa về quê nàng, buổi trưa thường rủ nhau ra đây. “Ủa, vườn đẹp vậy mà sao ngoại không chăm sóc gì em? Bỏ hoang hả?” - Quân hỏi. “Ừm! Cũng cả năm rồi cậu Mười không cho ngoại làm vườn nữa. Cậu nói ông ngoại già rồi. Làm lụng chi cho mệt”. “Đất thì để canh tác. Giữ làm chi em?”. “Anh hỏi đúng là nhà thơ. Vùng này đất đang lên. Sốt lắm! Cậu Mười chỉ đợi thời cơ là bán!”. “Ông ngoại cũng chịu để cho cậu bán hả?” - Quân tò mò. “Bộ anh không biết hả? Ở nhà này cậu Mười làm trời mà! Từ nhỏ xíu đã vậy rồi! Cậu muốn gì, làm gì mọi người phải chịu nghe hết…”.

Gọi là ông cậu vì vai vế trong gia đình chứ về tuổi tác, Mười nhỏ hơn Quân gần mười tuổi. Cậu là út mót. Là con cầu tự của ông bà ngoại. Bà ngoại sinh chín người con tất cả đều là gái. Ông ngoại lấy cớ không có con thừa tự nên lẹo thẹo thêm bà thứ. Bà này chồng chết trận, không hiểu có nghề, có ngón bùa mê thuốc lú gì mà ông ngoại mê tít. Không những giật chồng người ta mà còn dụ ông về đánh đập bà ngoại. Đã thế, còn sinh ngay cho ông ngoại đứa con trai là cậu Ái. Sau cú đó, bà càng lên mặt dữ. Ông ngoại bỏ nhà đi biền biệt. Bà ngoại cứ đi tìm đến nhà bà thứ lại bị đánh đập. Vì chuyện đó mà sau này bà hận đến già vẫn không tha. Rồi bà đi van vái tứ phương. Lời nguyện đó được thánh chứng. Bà sinh được cậu Mười. Ông ngoại vui, nguôi ngoai mới quay trở về. Từ nhỏ đến lớn cậu Mười được cưng như trứng mỏng. Muốn thứ gì được thứ nấy. Ai đụng tới ông cậu là bà ngoại nhảy vào cào xé, bênh chằm chặp. Quân chợt nhớ đến bữa rượu hè năm ngoái. Lần ấy Quân mới về ra mắt nhà Ngọc. Ổng cậu đã tỏ vẻ không ưa vì Quân lớn hơn Ngọc đến mười tuổi. Ông cậu cũng bằng tuổi Ngọc. Ngọc kể hồi bé, hai cậu cháu chơi trốn tìm. Ổng thua ổng khóc hu hu. Đi tìm bà ngoại để mách. Ổng học dốt đến độ bài tập cứ nhờ cô cháu giải dùm nhưng mỗi tháng vẫn đứng chót bảng. Sau này ổng đi lên được nhờ biết đá bóng. Ổng tham gia hết đội ấp lên đội huyện và tỉnh. Nhờ có đôi chân quỉ khóc thần sầu nên ông lượn dắt bóng vượt qua hết đối thủ này đến đối thủ khác để đưa vào lưới. Cuối cùng, ổng được vào biên chế, tăng cường về đội bóng Điện lực của huyện. Cưới được cô vợ xinh đẹp là nhân viên thu tiền điện. Được nuông chiều từ bé, lớn lên lại nổi tiếng và thành công bằng đôi chân, không phải bằng chính cái đầu của mình nên suy nghĩ lối sống của ông vẫn kiêu căng, cao ngạo. Muốn gì được nấy. Coi trời bằng vung. Bây giờ ngồi trước mặt Quân ổng muốn dò đối thủ chịu được bao nhiêu lít. Mà rượu thì ổng vẫn được xem là hũ chìm của nhà này. Một trận nhậu khiếp đảm, ai nấy trong bàn ngả rạp, quắc cần câu. Riêng cậu Mười vẫn tỉnh rụi dù mắt đỏ quạch. Ổng gườm gườm nhìn Quân như lượng xem thằng tán con nhỏ cháu mình liệu còn bao nhiêu sức. Quân uống ít từ trước giờ. Mấy vòng xoay chừng đủ làm anh liêu xiêu. Cuối cùng ông ngoại xen vào không cho uống nữa. Cậu Mười có vẻ tức nhưng không dám cãi.

Ông ngoại đang muốn bàn với anh làm tập gia phả của dòng họ Trần, nhánh từ Bình Định vào. Chẳng là mấy năm gần đây ông thấy sức khỏe mình xuống dữ lắm. Nỗi nhớ quê hương càng da diết. Trong gia đình, chỉ ông ngoại là người có nhiều chữ nghĩa nhất. Thời trước nghe đâu ông làm đến quản lý Hành chánh cho một đơn vị huyện. Ngày trẻ, ông cao to, đẹp trai và hào hoa. Bao nhiêu cô gái mê ông. Cái chất lãng tử đó bây giờ vẫn còn phập phồng dưới mỗi mạch máu cạn. Nhưng lúc này ông muốn trích hết cho bút mực. Quyển gia phả Trường Định quê hương, phổ lục Trần tộc ông viết từ rất lâu và mỗi lần sửa chữa một ít nên ai nhìn vào đều thất hồn. Mực đỏ, mực xanh, chữ chi chít dập xóa uốn bò, bao biện như thân rắn. Mà ông lại hà tiện, viết chữ lăn tăn, li ti. Người thường nhìn đã muốn oải, huống hồ ông già đã trên bảy mươi tuổi. Quân hỏi ông: “Ủa, sao ngoại không viết chữ to lên cho dễ đọc?”. Ông cười: “Ngày trước học hành chánh ngoại được dạy viết như thế. Có nghĩa là chữ vừa sít giữa hai dòng kẻ. Không ai có thể thêm bớt vào, không ai có thể tẩy xóa được…”. Thì ra thế. Quân nhận lời gõ lại vi tính cho ngoại bằng laptop anh thường mang theo. Anh thấy mình như đang đi trong một khu vườn lăn tăn những giống cây kiểng cằn cỗi. Ngoại viết từ ký ức những làng Chùa, đình miếu.

***

Giá đất vẫn đang sốt dữ dội. Hôm qua có thông tin từ trong ủy ban xã ra, khu vườn nhà ngoại nằm trong dự án khu công nghiệp cao là chiến lược quan trọng của huyện. Tự nhiên mấy ngày đó khách đổ về nhà ngoại tấp nập. Thậm chí có kẻ đi xe qua trước nhà dừng lại ngó nghiêng. Ngoại đang đọc cho Quân mấy chỗ khó trong cuốn gia phả viết tay cũng buộc dừng lại để tiếp khách. Thì ra là Năm Hoằng, một tay cò đất từ ngoài xã chạy vào. “Lâu quá em không vào thăm anh Bảy” - Gã giả lả,  “anh khỏe luôn chứ hả?”. “Tôi già rồi. Cũng hòm hòm vậy” - Ngoại nói, “bộ hôm nay có mối làm ăn gì rồi tạt qua đây thăm tôi hả?”. “Đâu có, em vào cốt để thăm anh thôi” - Gã nhanh nhẹn nẫng trong túi ra một bọc trái cây vàng ươm, “em có tí quà biếu anh. À, anh Bảy ơi, chuyến này anh giàu to nhen! Cái vườn của anh nằm trong dự án xây dựng khu công nghệ cao. Anh có muốn bán không, để em tính…”. Ngoại cười hiền lành: “Nghe thì nghe vậy thôi chứ dự án còn nằm trên giấy, lúc nào mới quy hoạch thì phải hỏi ông trời… Đất vẫn hoàn đất nằm đó thôi…”. Năm Hoằng cười hí hí: “Thì anh có muốn bán cho em biết, em làm giá cho. Bây giờ tính là vừa đó anh…”. Vườn của ngoại rộng hơn ba mẫu rưỡi cũng được mấy tỷ. Một con số mà cả đời ngoại không ngờ tới. Năm Hoằng liến thoắng một hồi rồi đi. Bỏ lại hai ông cháu với những trang gia phả cồn cào sột soạt trong gió. Chữ nghĩa bỗng dưng mất hồn vía. Chẳng ai còn đủ kiên nhẫn để có thể lần về với một vùng quê hương mù mờ xa khuất nào đó hàng hàng lô xô buồn nản trên giấy, trong khi mà cả huyện cả xã như sốt ngập lên giữa cái giá đất ngút trời.

Chuyện chỉ thế thôi mà cả xã đồn rần rần cứ như ông ngoại tỷ phú đến nơi. Các dì, dượng hóng hớt ở đâu tập trung về. Tay bắt mặt mừng cứ như là hằng mấy năm không gặp. Ông ngoại thấy mệt. Bỏ đi nằm. Đêm khuya mà cả nhà vẫn còn nhao nhao nói cười như chợ vỡ. Bà ngoại được mấy dì chăm sóc kỹ lưỡng đến nỗi trong một ngày từ mái tóc, chiếc khăn rằn, vòng đeo cổ, cẩm thạch đeo tay, áo mỡ lụa, quần bà bà xám… cho đến đôi dép mang dưới chân cái nào cũng như mới kít, vừa “đập hộp” cả. Rồi cậu Mười về. Quân chỉ nghe tiếng xe máy dựng bờ rào ngã cái rầm. Ông cậu bò lổm ngổm dưới đất, say tít trời mây. Mấy dượng ào ra đỡ. Cậu Mười hất tung hết. Mắt trợn ngược, tay chỉ trỏ, miệng lảm nhảm: “Ai bảo bán đất? Ai cho lệnh bán đất? Tôi nói là không bán. Giá đất còn lên, còn lên nhiều nữa, nghe không? Ai cãi lời tôi là tôi cắt cổ…”. Mấy bà dì hớt hải dạt ra mỗi người một góc. Trong lúc các ông dượng lăng xăng người nâng cái tay, kẻ xốc cái chân mang ông cậu đang giãy giụa chòi đạp vào nhà. Ổng lầu bầu, phun nước bọt phèo phèo. Một lát sau Quân đã nghe tiếng ổng ngáy khò khò, thi thoảng gầm gừ trong cổ…

Người về cuối cùng thăm ngoại là cậu Ái. Bấy lâu nghe cậu lưu lạc làm ăn ở đâu trên Kom Tum. Bây giờ không hiểu bằng cách nào cậu lại về thăm ông ngoại đúng vào lúc giá đất vườn lên. Trong mấy người con trai, phải nói cậu Ái là người giống ông ngoại y hệt. Cả cách ăn nói, khoa chân, khoa tay. Giống như được đúc ra từ một khuôn vậy. Cậu Ái về mấy bà dì dạt ra rầm rì ở ngoài. Bởi cậu mắc bệnh hám gái. Ở đâu có gái cũng tìm cách xáp vào. Đi đâu cũng cặp bồ cặp bịch lung tung. Nghe kể con rơi con rớt đùm đề. Nhưng ông ngoại vẫn rất thương cậu. Bởi cậu là đứa con trai đầu của ông sau bao ước mơ hy vọng. Có điều gần như  cả đời ngoại cũng không lo lắng gì được cho cậu hết. Trong xa thẳm ngoại cũng muốn bán được mảnh vườn này cũng sẽ giúp cho cậu một ít. Nhưng đó phải chăng chỉ là những suy nghĩ chập chờn thoáng qua?

***

Hơn một tháng lu bu công việc ở thành phố, Quân không về quê. Một hôm Ngọc gọi điện bảo ông ngoại ốm, nhắn anh về gấp. Chuyện tình cảm đã được hai bên gia đình đồng ý. Quân cũng đã dự tính giữa năm sau sẽ tổ chức đám cưới. Cuốn gia phả anh cũng đã tranh thủ đánh gần xong. Chỉ khó nhất là bảng liệt kê chi thứ, các dòng phả hệ từ thuở ông tằng ông tổ khai sinh từ Thanh Hóa vào Bình Định. Các sơ đồ ngoại kẻ tẩy xóa nhiều lần khiến Quân không cách nào đọc ra được. Anh cũng định chuyến này về hỏi, làm luôn một lần cho xong. Từ khi làm cuốn sách, Quân cũng hiểu thêm quá khứ hào hùng của tộc Trần cũng như sự thăng trầm, truân chuyên của cuộc đời ngoại. Ông thuộc nhánh chính và là con trưởng của tộc Trần Văn. Việc phải từ bỏ quê hương ra đi đối với ông là việc thời thế nên trong lòng luôn trĩu nặng gánh tổ tiên. Khi ông dẫn cả bầy con chín người vào Xuân Lộc ông không nghĩ vùng quê mới này có thể giữ mình lâu thế. Như câu hát “Đất thương người đất níu bàn chân”. Quẩn quanh, lo toan với việc mưu sinh làm ăn, ông cũng ít có dịp hồi cố. Thi thoảng trong giấc ngủ, tiếng trống chèo những đêm hội vọng về làm ông nước mắt đẫm gối. Là người có trí lực, một tay ông dựng vợ gả chồng cho bầy con rồi gây dựng nên một cơ ngơi lớn như bây giờ. Chỉ có cậu Ái làm ông lo. Trong gia phả, ông cũng đã lập và xóa mấy lần về nhánh chính - phụ, trưởng - thứ về cậu Ái. Cậu Ái trong gia đình không được ai công nhận hết. Tuy là con bà thứ không giá thú nhưng lại là con trai trưởng của ông. Đứa con cho ông nhiều niềm vui, mơ ước. Ông hãnh diện khi ngồi nhậu với bạn bè không còn bị xếp “chiếu dưới”, là không có con nối dõi, chỉ rặt một lũ “vịt giời”. Nhưng cuộc đời lao đao. Niềm vui này cũng đưa đến cho ông bao nỗi đau vì con trong, con ngoài, sự đánh ghen tanh bành giữa hai bà vợ. Ông cũng không chăm sóc cậu Ái được nhiều. Cuộc đời cậu như một gã du thủ du thực. Lang thang giang hồ cùng trời cuối đất. Nếu như cậu Mười được ông tạo điều kiện nhiều thì ngược lại, cậu Ái chẳng được bao nhiêu. Cứ tưởng sau những trường chinh tìm kiếm con trai, có được hai cậu ấm là ông mãn nguyện nhưng thực ra không phải. Hai bà trưởng và thứ cứ gầm ghè nhau như hổ cái. Sau giải phóng, ông bị đưa đi cải tạo một thời gian ngắn. Ra trại thì mọi thứ đã thay đổi. Bà thứ lẹo tẹo theo một gã buôn bò bỏ cậu Ái vất vơ. Ông đưa cậu về nhà nuôi nhưng chỉ được một thời gian bà ngoại không chịu vì ghen tuông với con chồng, thường xuyên kiếm cớ xào xáo, gây gổ. Nhà cửa lúc nào cũng căng như có chiến trận. Bà ngoại nói với mấy dì dượng: “Tao không hận gì nó nếu như nó chỉ bỏ bùa giật chồng tao. Đằng này nó còn xúi ổng về đánh đập tao không biết bao nhiêu trận tàn khốc, chết đi sống lại. Sao nó cũng là phận đàn bà mà nó ác như thế...”. Tình cảnh đã khó vậy, cậu Ái còn sinh tật hay ăn cắp vặt, chim gái, nhậu nhẹt. Không hiểu cậu nhiễm những thói xấu ấy ở đâu? Có lẽ thời gian bà thứ lẹo tẹo với gã buôn bò chăng? Ở với ông ngoại được hai năm, chịu không nổi cảnh tàn tệ, cậu Ái bỏ gia đình đi từ đó.

Làm gia phả, ông ngoại lập cây phả hệ quyết định đưa vào hết mọi chi trên dưới. Với ý nguyện sau này ông chết đi, con cháu biết trình tự mà phân biệt và tìm về với nhau. Bởi vậy, ông càng thấy day dứt với đứa con ông từng ước mơ, hy vọng nhưng chưa lo lắng được đến nơi đến chốn. Lần này giữa giá đất lên, ông muốn bán đi để giúp cho cậu Ái một phần để cậu an cư lập nghiệp. Tuy nhiên, ông biết để thực hiện được ý nguyện ấy vào cuối đời là hoàn toàn không dễ. Không khéo léo sẽ tan nát cả gia đình, anh em tương tàn. Với bản tính hiếu thắng, hẹp hòi như cậu Mười thì ông còn lạ gì! Vì vậy cây phả hệ ông gạch ra rồi đưa vào phân vân không quyết. Chỉ có Quân khi gõ lại bản vi tính, mới đọc được ý nghĩa của những dòng chữ gạch xóa chi chít đó. Quân cũng lâm trận lưỡng lự. Không rõ cuối cùng ông ngoại quyết định ra sao? Chuyến đi này Quân sẽ tìm cách hỏi ông.

Nhưng Quân cũng không ngờ đó là chuyến trở về định mệnh. Anh vĩnh viễn không bao giờ còn gặp lại ông ngoại nữa. Ông ngoại ra vườn làm cỏ. Ai dè con rắn lục ngày xưa không chịu buông tha ông. Con rắn có con mắt dữ nhìn anh đăm đăm từ trong vô hình trưa nào. Ngày xưa nhiều lần bà ngoại đã bảo ông tìm cách giết nó đi nhưng ông không nỡ vì đã lỡ diệt cả ổ rắn mẹ lẫn rắn con rồi. Nhiều lần trong vườn, ông thấy nó đang hé nhìn, quan sát ông từ xa. Cái nhìn lạnh lẽo biết thân biết phận. Ông chợt liên tưởng đến cậu Ái.  Ông đã thấy nó rồi. Ông muốn làm một cái gì đó thay đổi nhưng sao mọi thứ rối rắm và khó khăn thế. Thử thách này ông cần đối đầu nhưng có cái gì mơ hồ cản lại làm chậm trễ mọi thứ. Còn bây giờ thì quá muộn. Ông hoa mắt. Con rắn từ đâu xuất hiện khè khè nọc độc. Ông vội chụp con dao sắc lẻm bổ phập xuống đầu nó. Con rắn uốn mình, lách qua, mổ một phát chí mạng vào tay ông trước nhát chém thứ hai chính xác đến nỗi đứt lìa đầu nó. Cái thân phù sinh uốn éo, giãy đành đạch. Con rắn chết, ngoại cũng ngã ngồi xuống đất...  

***

Đám tang của ông ngoại được xem là lớn nhất trong vùng năm ngày năm đêm không dứt. Lần đầu tiên toàn bộ con cháu tộc Trần khắp nơi, con bà trưởng bà thứ… tề tựu về đầy đủ than vãn khóc thương. Cậu Ái đón một chuyến xe đêm ngược từ Kom Tum chạy về. Tới đầu ngõ đã khóc rống lên, dập đầu lõa máu bên quan tài. Lúc đó cậu Mười đang được ông thầy pháp bày cách quấn khăn xô, đội mũ gai, tay cầm gậy là khúc roi dâu đi bên quan tài, vừa giựt vừa khóc. Đó là cách tiễn mà không muốn tiễn, đưa mà không muốn đưa, xưa bày nay làm vậy. Quân chở Ngọc từ Sài Gòn về đến nhà vừa đúng giờ nhập lễ. Anh thấy Năm Hoằng dẫn đầu một đám đàn em cò đất cầm một vòng hoa to tướng lăng xăng rẽ đất đông, miệng hô to “Cậu Mười đâu, cậu Mười đâu? Nghĩa tử nghĩa tận. Bọn tui đặt vòng hoa ở đâu cho phải đây?”. Cả một vùng đồi núi trong mưa lạnh toát. Lần đầu tiên Quân hiểu được thế nào là miền đất thiêng. Có điều gì đó huyền bí mà người thường không thể giải thích. Liệu có đúng không? Như anh, quê ở tận miền biển xa một ngày yêu người con gái miền đất đỏ ở đây. Rồi sẽ thành vợ thành chồng. Sẽ hiểu thêm cái huyền bí của núi đồi. Gia đình anh sẽ là một tán lá mới quấn quanh cây phả hệ. Cái cây dòng họ bao đời lớp lang chằng chịt ấy, biết vậy mà bao điều khó nói. Nó âm âm, u u như tiếng khóc uất ức mắc nghẹn trong phổi của cậu Ái. Tiếng quát tháo trịch thượng của cậu Mười cùng bao chuyện bí ẩn lạ lùng về con rắn thiêng. Những trang gia phả định viết sẽ không bao giờ được viết. Những trăn trở một đời người sẽ được mặt đất im lặng nuôi giữ.

Chẳng hiểu sao có ý kiến di quan ông ngoại cần phải đưa vòng qua khu vườn hoang rộng mênh mông lần cuối để ông được ngắm nhìn toàn bộ gia sản đất đai chắt chiu dành dụm cả cuộc đời ông. Quân ngạc nhiên. Bởi lẽ từ nhà ngoại ở ra tới vườn phải ngược lên gần cây số. Mà cỗ quan tài thì nặng. Sau rồi Quân mới biết là ý của cậu Mười. Khi đám ông công nhập lễ, líu ríu gõ lốc cốc hai thanh tre vào nhau, vái trước bàn thờ thổ địa xin đưa người chết đi, các bà dì ngã vào nhau dúi dụi. Tiếng khóc hờ như ri. Góc bàn thờ như nổi gió. “Cha ơi, sao cha đi vội thế!”. “Về đi, về đi, hờ hờ, ngoại ơi!”. “Cả một đời cay cực hết đất đến đai! Giờ để lại hết mà đi hai tay trắng! Có hưởng được gì đâu hu hu…”. “Đất với đai mà làm chi cha ơi! Một miếng ngon cũng không dám ăn...”. Nến tắt, tiền giấy âm phủ, cờ hoa phúng điếu như bay dựng tan tác. Hai chiếc đũa của ông công gõ vào nhau tong tóc. Theo hiệu lệnh, chiếc quan tài nặng nề lay chuyển. Từng nhịp một cứ côm cốp dội vào khoảng không. Chiếc quan tài được nhấc lên trên các ông đội. Đám đông xô dạt nhường chỗ cho những ông công đi ra. Quân chợt thấy rúng động. Cậu Ái vừa bưng đèn bát đi trước vừa ngã dúi dụi, vừa khóc rống. Cậu Mười khua khua cây gậy mở đường, vừa đi vừa giật lùi. Lít rượu đầu hôm giờ vẫn còn như lâng lâng. Cậu mỉm cười mãn nguyện chấp chới như đang đi trong mơ. Tất cả bây giờ như thuộc về một tay cậu. Đất đai ông ngoại để lại lớn bao nhiêu, lát nữa mọi người sẽ biết! Bỗng có tiếng quát: “Dừng lại. Dừng lại. Đi sai đường rồi! Phải rẽ phải! Đi qua đất ông Bảy…”. Đó là tiếng thét của Năm Hoằng. “Trời, trời! Qua đó mà làm gì! Quan tài nặng lắm! Cho lên xe tang thôi!”. “Không được! Lộ trình thầy cúng đã vẽ rồi! Bùa chú rồi! Cứ theo thầy mà đi! Đừng cãi nữa!...”. Ông thầy áo vàng thong thả đọc kinh, thỉnh thoảng lại bốc một nhúng giấy vàng xanh đỏ tung lên, đầu không gật không lắc. Đột nhiên ông chuyển hướng. Cả đám đông rùng rùng chuyển theo. Cái hòm bất ngờ xoay ngoặt như bão xối. Có tiếng người la bai bải: “Nặng quá! Nặng quá!”. Tiếng thanh tre lốc cốc, sừng sộ: “Người đâu, thế vào!”. Một hai thanh niên nhanh nhẩu ké vai. Tiếng khóc bỗng vang lên to rất to: “Cha ơi! Đang đi qua phần đất của cha nè! Đất lớn quá! Một đời lao lực dành dụm! Cha về đây mà chia?”… Một cơn mưa lớn từ trời xối xuống. Bóng cậu Ái ngã rạp phía trước.

Quân bám tay vào thành xe. Quan sát khu vườn lần cuối. Ngày xưa bao lần Quân và Ngọc ngồi đây sao giờ anh thấy thật xa lạ. Sốt đất vẫn rì rầm đâu đó cuối trời. Đột nhiên anh bâng quơ nghĩ: “Liệu có đúng con rắn đã chết?”. Sao cái nhìn sắc lạnh của nó hôm nào, nhớ lại, vẫn làm hồn anh nở gai. Cái gai đó cũng thoảng trong ánh nhìn cậu Ái và tiếng cười của cậu Mười. Trong ngọn gió xới tung những trang trắng của cuốn gia phả mà chắc chắn từ nay về sau Quân biết, sẽ không bao giờ kết thúc được. Như cuộc sống chảy dài, tiếp nối với bao điều phía trước. Khi mặt đất im lặng… 

 

Xuân Thọ, 4.2010 - Sài gòn, 9.2010

 

 

NGHỆ THUẬT MÈO

 

Giới hội họa thành phố đang xôn xao hẳn lên về phòng tranh sắp triển lãm của một nữ tác giả. Tên nàng hoàn toàn xa lạ với những gã mồm lúc nào cũng lép bép từ trong quán cà phê ra ngoài phố rồi tự phong cho mình là nghệ sĩ nhưng thực chất lại vô công rồi nghề. Nghe đâu nàng chưa từng học qua ngày nào về hội họa. Các trường phái Nabie, dã thú, trừu tượng, lập thể… nàng mù tịt. Nhưng thôi! Nghĩ cho cùng điều đó cũng chả quan trọng gì. Biết đâu tranh nàng lại vượt qua được khuôn khổ cứng nhắc do lớp đàn anh đi trước đã đặt ra thì sao. Nàng sẽ mở đầu cho một thời kỳ mới. Điều dễ thông cảm hơn nữa là nàng là vợ sắp cưới của một họa sĩ hạng ba chuyên kẻ bảng hiệu quảng cáo. Anh chàng tốt nghiệp trường Mỹ Thuật đàng hoàng lại chưa bao giờ vẽ nổi một bức tranh. Bây giờ thì đang rối rít chuẩn bị tài chính, các mối quen biết của mình cho cô vợ tương lai triển lãm. Điều đó thì đáng trân trọng quá đi chứ! Những gã tán chuyện còn cho rằng mối tình của họ thuộc loại mối tình đẹp nhất trên đời. Nàng vốn là một gai[7]. Một lần đưa khách du lịch đi mua hàng lưu niệm thì quen chàng. Rồi họ yêu nhau. Nàng tự nguyện nghịch màu, dấn thân vào cuộc kiếm tìm màu sắc. Cả hai từng đèo nhau trên chiếc Win 100 chạy xuyên Việt từ thành phố biển đẹp nhất của miền Trung vào tận Sài Gòn truy tìm cảm hứng nghệ sĩ. Chẳng biết chàng có vẽ được không mà lần nào trở về cũng phờ phạc như cái vỏ chanh vắt hết nước. Còn nàng luôn phơi phới một tình yêu không bao giờ cạn. Tình yêu nghệ thuật dễ khiến một người bình thường trở nên phi thường lắm. Chỉ có điều lạ. Tại sao nghệ thuật lại biến nàng đường đường trở thành một nữ họa sĩ trong khi một người tình nguyện suốt đời làm nô lệ cho màu sắc như chàng thì nàng nghệ thuật lại ngoảnh mặt đi?

***

Ngày khai mạc đã tới. Mọi người đổ xô đến. Họ ngắm nhìn nữ họa sĩ với con mắt của những nhà giải phẫu học. Đây là chân dung nàng nghệ thuật mới đây sao? Khối kẻ vui mừng và cũng khối kẻ thất vọng. Có một cái gì ở nàng vừa lẳng lơ vừa điếm đàng. Người gầy choắt. Mắt lươn. Mũi hếch. Đôi mắt ướt át dục tình phơi phới mời mọc. Chỉ tiếc là đôi mắt thì sâu tận đáy hồ thu thế kia mà cặp mông lại hơi bé. Nó lép kẹp một cách đáng thương. Bù lại, nàng có một bộ ngực cao lớn, nảy về phía trước một cách đầy tính toán. Cứ như thế, mỗi khi muốn gây sự chú ý của ai nàng ưỡn ngực lên, chọc cái đỉnh vú lừng lững kia vào mặt thiên hạ. Ưỡn ẹo và mơn trớn. Hứa hẹn món quà tặng bất ngờ nhưng sẽ hoàn toàn là hào phóng và tự nguyện nếu nàng thích...

Còn bây giờ gallery của nàng, chao ơi, toàn mèo là mèo. Nàng vẽ mèo. Như dốc đổ, chuyên toàn tâm toàn lực cho con mèo. Dưới những nét cọ hơ hớ nguệch ngoạc những con mèo hiện ra mất đầu, mất đuôi, thiếu chân thừa móng đang cùng nhau nhảy múa phô diễn một cuộc hoan vũ ra trò. Lũ mèo phơi đủ các tư thế rình mồi, chụp mồi. Con phóng lên cao, con nhào xuống đất, con đánh đuôi sang một bên, con lênh đênh sầu mị. Chưa bao giờ trong làng hội họa có một bộ sưu tập về mèo đầy đủ, linh hoạt và phong phú như vậy.

Đặc biệt nàng vẽ loạt tranh mèo với khuôn mặt đàn bà. Người xem như lạc vào mê hồn trận. Trong tranh nàng, người và thú như nhập vào nhau. Đàn bà là mèo hay mèo chính là đàn bà? Câu hỏi không dễ trả lời. Nhưng rõ ràng khuôn mặt linh miêu trong tranh dấp dáng gương mặt nàng. Và đây, nàng õng ẹo tấm thân khiêu khích. Nàng khoe bộ ngực lớn. Nàng nằm dài phủ phục chờ đợi. Mỗi bức tranh nàng rắp tâm mô tả một tư thế, uy lực, một phong dáng, một quyền năng. Trong tình huống này chọn ra một bức tiêu biểu nghệ thuật hơn cả đúng là tiến thoái lưỡng nan. Bởi không thể biết mèo nào cắn mỉu nào!

Các nhà sưu tập tranh muốn có những bức tranh tiêu biểu cho trường phái mèo của nàng không chừng phải mua cả phòng tranh bởi vì một bức không thể nói lên đầy đủ ý nghĩa của nó. Nhưng mua hết một phòng tranh là vấn đề quá lớn. Cần phải suy nghĩ và xem xét lại. Có lẽ cứ nên để từ từ. Đường còn dài, còn dài! Không có gì phải quá vội. Vì thế, rốt cuộc ai cũng gật gù khen ngợi. Cười cười nói nói bình phẩm nhưng chờ mãi không có một chiếc visit đính hoa nào cài lên. Giới chuyên môn cho rằng chưa có tài năng nào quá cỡ thế! Chỉ trong vòng một tháng, như lời giới thiệu in trang trọng trong catalogue, nàng đã vẽ xong phòng tranh mèo hơn trăm bức đủ cỡ lớn, nhỏ. Nếu như không phải là kẻ háo danh, hỡm đời thì quá trình này có thể đã được nàng chiêm nghiệm ấp ủ không chừng cả hai mươi năm về trước. Cho đến khi gặp chàng, một họa sĩ chuyên vẽ biển hiệu quảng cáo thì phát tiết tinh hoa. Thật đáng buồn nếu như vì sự chuẩn bị toàn triệt này mà nàng lệch lạc cả giới tính hay lớn không nổi. Các số đo vòng ngực, vòng eo, vòng mông nảy nở chệch chuẩn, thiếu cân đối. Các nhà sưu tập tranh gọi nàng là nữ họa sĩ Mèo Đen bởi nàng sử dụng phần lớn gam màu đen, chỉ có điều họ tiếc rằng nàng không được ngon lành như tranh nàng vẽ. Nàng chỉ nhỉnh hơn một chút so với con mèo khổ lớn nhất trong bức tranh treo giữa phòng. Nếu như các số đo các phần trên thân thể xê nhích thêm một chút xíu nữa thôi thì họ quyết định mua hết cả phòng tranh mà không hề so đo tính toán. Quả đúng là như vậy. Tiếc thật. Biết đâu…

***

Duy nhất có một người ra sức ca ngợi phòng tranh nữ họa sĩ Mèo Đen là họa sĩ Mèo Hoang - chủ trương trường phái Thơ Linh miêu Đổi mới. Ban đầu chẳng ai nhận ra gã nhưng dần dần gã trở thành quen thuộc như người nhà của phòng tranh bởi ngày nào cũng có mặt ở đó. Gã có khuôn mặt gầy choắt ốm đói như mặt chuột. Dường như gã chỉ chuyên làm thơ và sống bằng móng tay mình. Hắn luôn gặm chúng đến chảy máu. Gã thường ca ngợi thơ ca với đàn bà. Có vẻ như gã rất hám đàn bà và hay kể chuyện về họ. Vừa nói gã vừa chép miệng một cách ngon lành, lộ rõ vẻ háo hức với thân hình phờ phạc run lên bần bật. Mèo Hoang là người nhàn rỗi. Trước đây chuyên ngồi lê đôi mách đấu đá về thi pháp ở quán cà phê bây giờ gã và bầy đoàn chuyển về phòng tranh Mèo để tiếng nói của mình có hiệu lực và sang trọng hơn. Toàn bộ sự nghiệp thơ ca của gã chủ yếu xuất bản bằng nước bọt, chưa hề có một bài công bố trên báo chí. Nhưng không vì thế mà Mèo Hoang lại khiêm tốn tới mức lưỡng lự khi có cơ hội đọc thơ, hắn luôn sẵn sàng chiếm lấy diễn đàn khi có cơ hội. Những lúc đó hắn thường xúc động như một con mèo khi bắt được chuột. Rồi hắn buông tuồng hàng loạt bài cổ vũ, la hét, bảo vệ quảng bá thi pháp Thơ Linh miêu Đổi mới của mình. Gã luôn đề cao sự tuôn chảy xuyên suốt cho dù đó là dòng chảy li ti ngứa ngáy của các cô gái vào tuần kinh nguyệt. Gã làm những câu thơ bằng phương thức nhào trộn Walt Whitman vào Marquez, Lorca vào Rimbaud, Tagore vào Henry Miller... và ra sức tôn thờ truyền bá chúng. Gã lảm nhảm với phát hiện pha tạp thơ vào văn xuôi. Nấu chảy văn xuôi vào thơ. Trộn hiện sinh vào hiện thực. Và tuyên chiến sẵn sàng đổi mới thơ cho đến hơi thở cuối cùng. Mà kể đáng tội gã chẳng còn bao nhiêu sức lực và hơi thở để làm chuyện lớn lao đó. Bởi có được bao nhiêu sinh lực gã đã chăm sóc tận tụy từng chân tơ kẻ tóc những cuộc tình trôi nổi mà gã với được đến cạn tàu ráo máng rồi!

Bây giờ đứng giữa phòng tranh thuộc trường phái Mèo gã ra sức tán dương. Rằng, từ bao lâu nay gã nghĩ là chỉ có mình gã âm thầm làm cuộc chuyển kênh nghệ thuật lớn lao. Nay gã không ngờ có một họa sĩ là nàng Mèo Đen cũng đã tiếp cận được lối tư duy "động giao" này. Suy cho cùng Thi ca và Hội họa có nhiều điểm giống nhau. Nó là hai anh em sinh đôi. Một bên vẽ nên các xung đột dữ dội của nội tâm bằng sắc màu, còn một bên diễn tả độ thẳm sâu đó bằng ảnh tượng ngôn ngữ. Cứ thế nhà thơ Linh Miêu đứng giữa phòng tranh, đôi mắt trồi trợn lên sau gọng kính, giọng nói the thé gà mái và nắm đấm liên tục bủa lên trong không khí. Có hôm những hạt rượu làm mềm gã, thi sĩ xúc động đấm tay vào đầu, mắt ứa lệ, quỳ một đầu gối xuống nền úp mặt dưới váy của nữ họa sĩ Mèo Đen mà nấc lên rằng, nàng đã cho gã một đời sống khác. Một không gian Thi ca mới mà suốt cuộc đời vật lộn rách bươm của gã tưởng như không thể tìm ra... Chỉ có nàng mới hiểu được gã. Cũng như chỉ có gã mới hiểu được nàng. Hai tài năng nghệ thuật đích thực bị cuộc đời rẻ rúng. Thi sĩ Mèo Hoang quả quyết rằng chẳng còn bao lâu nữa sẽ là thời đại của trường phái động giao Mèo và tất cả báo chí của thành phố đều tràn ngập thơ gã. Thật là một viễn cảnh huy hoàng cho ngày lên ngôi của trường phái Linh miêu. Khi ấy gã có toàn quyền quyết định thơ mình sẽ in ở đâu. Những tờ báo lá cải có trả nhuận bút cao gấp mười lần gã cũng chả thèm đoái hoài tới. Chứ đâu như bây giờ thơ thẩn gởi đi các báo không tờ nào chịu in. Gã thường xuyên bị bỏ đói, khuôn mặt tím tái như xung huyết. Mái tóc rễ tre luôn được cào lên bằng chiếc lược năm ngón tay bẩn thỉu và vàng ố vì thuốc lá. Nhưng không sao, đó là cái đói chuẩn bị cho những ngày no đủ. Cũng như phòng tranh mèo của nàng thôi. Những ả mèo ca ngợi những trò mèo trong nghệ thuật. Cái  cảnh ế ẩm như chợ chiều này chỉ thức thời thôi. Tại sao báo chí đã không đả động gì đến phòng triển lãm này.? Đó chỉ là một vết dơ của sự xuẩn ngốc, tị hiềm tài năng trẻ. Để mà xem! Trong một ngày gần đây khi các nhà sưu tập quyết định xong, họ sẽ mua cả phòng tranh lúc đó bọn nhà báo đói ăn sẽ đổ xô đến phỏng vấn và lăng xê ào ạt. Đừng hòng mà nàng trả lời. Nghệ thuật đích thực thường vẫn gặp gian nan mà. Thiên tài tầm cỡ như Van Gogh  còn lầm lạc cả một thế kỷ huống hồ trường phái động giao mới của nữ họa sĩ Mèo Đen trẻ và lẫm chẫm táo bạo mới xuất hiện. Bị bỏ quên là điều dễ hiểu thôi...

***

Có lẽ chẳng còn gì đáng nói về phòng tranh và trường phái động giao Mèo nữa nếu không có một sự việc xảy ra. Môt đêm khuya, người ta nghe thấy tiếng rượt đuổi, đập phá loảng xoảng náo động cả khu phố. Rồi tiếng vật nhau ậm ạch. Tiếng thở phì phò, tiếng kêu the thé như gà mái. Tiếng ục vào mặt nhau bình bịch, và thoáng bóng thi sĩ Mèo Hoang từ cửa gallery phóng ra. Vừa chạy vừa kêu cứu, quần áo tả tơi. Đuổi theo sau là chàng họa sĩ đã tốt nghiệp trường Mỹ Thuật nhưng lại chuyên kẻ chữ, bảng hiệu quảng cáo.

Thì ra hắn đã lừa chàng. Cứ ngỡ hắn là thi sĩ bẩm sinh không thể cải hồi chàng đã hoàn toàn không đề phòng... Nào ngờ hắn lại chủ trương tìm kiếm bản thể của nghệ thuật động giao. Với sự lọc lõi của gã đàn ông trác táng đầy kinh nghiệm, hắn biến thành con linh miêu từ khi nào không biết. Hắn đánh hơi được vẻ lả lơi suồng sã trong đôi mắt giả dối vờ trong sạch của nàng họa sĩ Mèo Đen. Hắn và ả vồ nhau như hai con mèo bị kích động hoen ố trên những khung vải. Chưa lúc nào bản chất mèo trỗi dậy hoang dã và cao độ thế này. Cứ như lâu nay chỉ truy tìm gương mặt đồng lõa giữa trường phái mèo để bây giờ hắn và ả đã phát hiện ra. Quấn xiết vào nhau trở thành một hợp nhất nguyên thể.

Trong đêm tối khi những con mèo đực vào mùa động dục, phóng roàn roạt đam mê trên mái ngói, kêu lên những tiếng tanh rền khắc khoải, thảm thiết đi tìm bạn tình của mình thì dưới gallery thi sĩ Mèo Hoang và nữ họa sĩ Mèo Đen chụp lấy nhau. Hơi thở dồn dập, tiếng rên rỉ. Hai thân thể lắc lư chuyển động nhịp điệu… Những hình ảnh sáng tạo hoang sơ điệu nghệ nhất của nghệ thuật Mèo.

Chàng họa sĩ vẽ quảng cáo như lên cơn động kinh. Thế là tan tành giấc mơ khói. Phải nhóm người khỏe mạnh nhất mới ghì chàng lại được cho thi sĩ Mèo Hoang tháo chạy để bảo toàn tính mệnh. Trong phòng triển lãm mèo có một con mèo cái lõa lồ bưng mặt khóc. Trên mái ngói bầy mèo đã tìm ra nhau. Chúng lao vào cuộc truy hoan, kêu lên kích thích và tanh rợn. Ám nỗi đam mê vào những giấc ngủ.

Chàng họa sĩ vẽ quảng cáo đau khổ. Quyết định tháo tung cả phòng tranh mèo ra và đốt hết. Từ lâu chàng không hiểu vì sao nàng lại thích vẽ mèo, bây giờ thì chàng đã hiểu. Linh miêu Đổi mới, Hội họa Bản thể... Chàng điên tiết lồng lộn, muốn nhổ toẹt vào những thứ đó. Thi sĩ Mèo Hoang, nếu tóm được chàng sẽ giết chết hắn!

Buổi sáng, mang theo búa rìu chàng một mình tiến đến phòng tranh. Thật kỳ lạ! Không còn gì ở đó cả. Không tin ở mắt mình chàng tới sát chân tường để nhìn thật rõ. Trên tường chỉ còn lại những khung hình trắng xóa như chưa từng chạm màu lên đó. Bỏ lại sự im lặng choáng ngợp của ban mai đầy nắng.

Và nghệ thuật như chưa được bắt đầu, mở cửa mênh mông vô tận... 

 

Đà Nẵng 1997        

 

 

DƯ CHẤN BIỂN

 

1. Lần đầu tiên anh cùng người yêu vào bệnh viện lại là đưa nhau vào khoa khám thai. Quyết định tìm đến cái địa chỉ xa lạ này làm cả hai đắn đo lưỡng lự hơn cả tuần. Cứ nghĩ đến số phận thiên sứ đang nằm trong bụng là Như lại khóc. Đông cũng chẳng biết làm gì! Anh hơi bỡ ngỡ khi Như nói đã có sự cố xảy ra sau chuyến du ngoạn biển. Nếu thế thì đúng hơn một tháng trước. Vậy sao Đông lại thấy như vừa mới hôm qua. Hồi ức còn lại trong Đông chỉ có miên man tiếng sóng. Những con sóng kỳ vĩ, chồm đuổi nhau bất tận. Hai làn môi đắm say ngây dại. Và hai thân thể tươi trẻ ghì xiết, quẫy trên cát. Một ngọn lửa khi bốc cháy lúc lạnh giá tắt hiện trong anh. Đông không nhớ mình đã tìm kiếm những gì. Bão táp. Âm u. Thỏa mãn. Đắm đuối. Mệt mề và hân hoan như thế! Khi những con còng gió nửa đêm xuất hiện. Chúng kéo nhau chạy thành đàn, rê những cái chân lóng thóng trên từng rìa cát, dấu tích của những con sóng ì oạp đổ vào bờ, rút ra khơi, để tìm mồi là những con cá nhỏ. Anh kéo tay Như đứng lên. Nàng yếu ớt, mong manh như một đốm đèn nhỏ từ một chiếc thuyền đánh cá nào đó lạc trên biển khuya. Đàn còng gió thoáng thấy bóng người chạy dạt ra rùng rùng. Tự nhiên Đông thoáng nghĩ đến một cái bóng đen ký ức từ lâu như đã ám vào hồn mình. Điều đó chính xác là gì thì anh chưa rõ. Như cặp chân dài của Như ưỡn lên để cơn thủy triều từ thân xác ngột ngạt dung nham của anh bùng nổ trút vào đó. Từng đợt. Từng đợt. Rời rã. Họ lặng lẽ áp sát nhau tìm về nhà nghỉ. Biển sớm. Bầy hải âu bay táo tác. Nước cạn sâm sấp dưới chân. Đôi mắt của Như mở to. Ngây dại. Ngân ngấn nước. Đông nhìn thấy trong đó bờ thủy triều đã rút, để lại những vệt muối khô cạn. Một dấu vết non tươi mở đầu sự hoang phế từ nay về sau không phai nhạt. In bóng tâm hồn.

2. Đông nhìn vào những bóng người lố nhố trên hành lang bệnh viện. Để có mặt ở đây, anh và Như đã trải qua cú vượt barie tâm lý không đơn giản. Cả hai cứ lòng vòng, ngơ ngác trên con đường mà đáng lẽ nên chạy thẳng một mạch vào bãi giữ xe. Nhưng thực ra anh đã không thắng nổi lực cản. Nỗi lo lắng hay hoài nghi mơ hồ chế ngự đâu đó dưới đáy tim. Muốn vào. Hãm thắng. Le lách ngang dọc những chiếc xe trên đường rồi không đủ tự tin, lại phóng qua. Đó là chưa kể trước đó mấy ngày trước đó Đông giấu Như chạy xe một mình đi “tiền trạm”. Thật kỳ lạ! Anh vẫn nói có thể cùng nàng đi cùng trời cuối đất nhưng chưa bao giờ nghĩ trên con đường ấy sẽ rẽ vào khoa sản. Để rồi đập vào mắt anh là tấm biển báo màu đen, chữ trắng, thật dữ dội: “Cảnh giác bọn cò mồi dụ dỗ khách! Nguy hiểm tính mạng”. Và cũng bởi mấy chữ nguệch ngoạc như đạn bắn này mà anh chế ngự được sự ngại ngùng đỏm dáng của mình. Đông trố mắt ngạc nhiên vì không nghĩ ở khoa sản lại lấp ló nhiều đàn ông như thế! Ai cũng nở trên môi nụ cười thơ dại. Lạ thật! Tất cả như đã từng gặp nhau ở đâu. Những gã đàn ông được thượng đế nặn bằng đất thó. Bắt đầu từ chiếc xương sườn E va.

Bây giờ thì các nàng E va cùng ngồi với nhau trên một băng ghế dài chờ đọc đến tên. Khuôn mặt ai cũng ngơ ngác một nỗi âu lo. Tất cả như có chung niềm riêng từ một hơi thở nhẹ, một cử động quẫy cựa giấu kín dưới làn áo. Sự sống đang phục hiện ở đâu đó. Có điều cách biểu hiện của họ khác nhau. Nàng xanh xao muộn phiền nhưng cũng có nàng hân hoan rạo rực sức sống. Họ đang thực hành sứ mệnh thiêng liêng của mình. Đông thấy họ cao cả, lớn lao lạ lùng. Có ai đó đã nói đàn bà là chủ thế giới, quả đúng thật. Họ mang những bí mật không thể chia sẻ. Trong khi ấy các chàng A đam thì bỗng thừa thãi. Họ quá vụng về khi lạc vào đây. Gần như mặt ai cũng đỏ ửng. Ngượng nghịu, tẽn tò hơn các cô gái. Khi cái nhìn vấp nhau, họ vội vã quay đi. Có chàng còn cúi gằm như đang tìm kiếm một thứ gì vừa đánh rơi trên mặt đất.

Đông cảm thấy khó thở. Anh đứng dậy, tách ra khỏi khối đông đi dọc hành lang, tìm đến trước một cửa sổ. Trên tầng cao, anh nhìn xuống. Cuộc sống ồn ào, náo nhiệt hiện lên bên dưới như cuốn phim quay với góc máy toàn cảnh. Hoàn toàn không ai để ý hay biết đến cảm giác bấn loạn rối ren của những chàng trai và cô gái chưa vào làm lễ cưới ở nhà thờ mà đã lén lút đưa nhau vào nhà hộ sinh. Anh bất lực khi muốn diễn tả lại tâm trạng bưng kín, rối ren trong tâm hồn mình. Dâng ngợp trong anh mặc cảm mình là một tội đồ. Anh thoáng một ân hận khi nghĩ đến đôi mắt thâm quầng vì sự lo lắng của Như. Một cái bóng đen ám vào hồn sau cơn hoan lạc. Một sự cố đã xảy đến. Anh và Như đều bần thần khi nghĩ đến một bí mật thiêng liêng đang tựu thành và nảy nở trong bụng nàng. Đó là bầu thai, là đứa con ư? Một hạt mầm đã tách mọc đâu đó trong thân thể.

3. Hai bàn tay Đông cứ lồng vào nhau. Mấy ngón tay, bíu chặt, vặn đi vặn lại e cũng sứt mẻ hết rồi. Thậm chí, nếu mỗi ngón là một cái cây thì nỗi lo lắng đã khiến anh bứt trụi hết lá rồi.

Như xuất hiện sau cánh cửa, nơi cách đây nửa tiếng vừa nuốt nàng vào đó. Trên tay nàng là một biểu đồ siêu âm ba chiều. Cả hai rẽ sang một phòng khác đi tìm một bác sĩ tư vấn. Tiếp họ là một bà bác sĩ già có cái nhìn cú vọ. Cầm tờ giấy siêu âm trên tay, săm soi một lúc, bà nói, thiên thần đã xuất hiện được một tuần. Tử cung có dấu hiệu lạ xâm nhập. Tuy nhiên, đây là thời kỳ đầu y học thống nhất với nhau có sự cố lạ. Nếu phá đi thì cũng như khai phóng một dòng kinh nghẽn tắc. Vẫn chưa đủ ngày tháng để niêm định nó là một đứa bé. Nếu không muốn giữ lại thiên sứ thì đây là thời điểm tốt nhất để quyết định chuyện này. Như khóc. Làm sao nàng có thể có một quyết định lớn lao như vậy vào lúc này. Cả Đông cũng không thể. Điều hòa kinh nguyệt. Nghe nhẹ như không. Nhưng phía sau nó là tình yêu và một khung trời trống vắng. Như úp mặt lên vai Đông. Họ khóc trong lặng lẽ giữa một hành lang vắng rợn người.

4. Và hai đứa quyết định đành vậy! Tình yêu thì chẳng có gì suy suyển hết. Nhưng sự thật thời điểm bây giờ thật khó khăn. Cả hai đang chuẩn bị ra trường. Cũng chưa ra mắt giới thiệu với gia đình. Như biết tính mẹ mình. Mẹ không bao giờ chấp nhận cái tin như biển động này. Cuộc đời khó nhọc của mình, bà đã hy sinh hết vì những đứa con. Như là cô con gái cưng duy nhất. Là niềm hãnh diện của bà. Bà thường kể ước ao lớn nhất là nhìn thấy cô con gái mặc đồ cưới. Điều đó cũng che giấu sự khát khao đầy mặc cảm của mẹ, vì mẹ vốn là vợ lẽ của cha không cưới xin vì không môn đăng hộ đối. Vì ám ảnh đó, Như không thể để mẹ biết mọi chuyện. Một thiên thần hay thiên sứ không mong đợi. Và cũng chính Như đưa ra quyết định đó. Đông bần thần mấy hôm. Đêm nào anh cũng thức gần như đến sáng vì khó ngủ. Thuốc lá ám ố vàng cả hai bàn tay. Rồi mọi việc cao trào. Một sáng Như ngất xỉu trong giờ làm bài thi. Cả đêm tự dưng nàng thấy cơn đau dâng lên âm ỉ trong bụng. Nước bọt cứ chực trào lên miệng. Có một cơn đau lâm râm như kiến bò từ từ tỏa lan, quặn thắt. Mùa thi cuối cũng đã đến. Như cùng Đông dự tính sẽ tổ chức đám cưới. Nhưng còn thiên thần chắc chắn phải chờ thêm thời gian nữa bởi hai đứa muốn làm lụng tích lũy. Ngoài tình yêu, họ chỉ có hai bàn tay và hai trái tim mơ mộng. Như cũng không hình dung được nếu giữ lại cái thai, thiên thần sẽ nằm trong bụng nàng ra sao? Cảm giác chật chội như thế nào? Làm sao nàng có thể chịu đựng được những chín tháng mười ngày? Cái thân thể thắt lưng ong tuyệt bích của người yêu mà mỗi khi có dịp nựng, Đông say mê long lanh từng ánh mắt. Anh ngây ngất trong hương lửa và u mê với từng nhịp điệu. Nghe Như ngất xỉu, Đông ập đến, đưa nàng trở lại bệnh viện. Anh bàng hoàng. Lần đầu tiên nỗi sợ hãi thức tỉnh choáng ngợp và dày vò anh. Anh nghĩ đến cái chết. Về đôi mắt nhắm nghiền lộng lẫy của người yêu mãi mãi không còn mở ra nữa. Một tia nhìn hé cũng không còn. Tim anh nhói đau.

- Phải quyết định thôi em - Đông nói.

Như im lặng. Nước mắt bết tóc.

5. Bà bác sĩ khẩu trang  bịt kín, chỉ thấy hai con mắt, ngước lên cái nhìn dò xét, từng trải: - Quyết định bỏ hả? Suy nghĩ kỹ chưa?

Như quay lại nhìn Đông. Đông cũng lúng túng như chỉ muốn độn thổ ngay lúc này. Cứ như anh đang buộc phải tiếp tục xem đoạn kết không có hậu của một cuốn phim mà chưa từng muốn bao giờ.

- Nếu đã đồng ý rồi thì anh đi ra ngoài đi! - Bà bác sĩ quay sang ra hiệu cho Đông.

Một hộ lý giúp Như nằm lên một chiếc băng ca. Cô dặn dò gì đó trên chuyến kết thúc đưa thiên thần về trời và đẩy xe đưa Như vào cánh cửa khép hờ bên trong. Mắt Như đẫm lệ. Nàng quay lại thoáng nhìn anh, tuyệt vọng. Đông nở nụ cười gượng như để an ủi nàng. Anh chìm ngập trong trạng thái cô đơn và bẽ bàng. Một mình chậm chạp từng bước nôn nao trên hành lang vắng. Có thực là mình không có gì lo lắng hay tuyệt vọng? Tại sao có những lúc môi nhoẻn miệng cười trông nhạt hoét và vô vị như vậy nhỉ?

Thành phố bụi bặm, xô bồ chìm khuất ở phía xa kia. Đôi khi tâm hồn yên tĩnh đến mức, Đông nghĩ, chỉ cần một giọt mưa rơi xuống cũng vang động. Đó là tâm trạng anh lúc này. Rất nhiều cặp tình nhân đã đưa nhau đến đây. Trông gương mặt ai cũng buồn thảm. Lo âu. Giống anh và Như. Những giọt nước đã vỡ và khô đi trên hàng lang vắng, sâu và dài hun hút. Như tâm hồn anh, một cái ngách trổ ra chơ vơ hẻo lánh giữa hành lang bệnh viện. Tiếng hát và tiếng khóc thầm. Điều gì đang diễn ra sau cánh cửa?


Sài Gòn, mùa mưa 10.2010

 

 

Ổ THIÊN ĐƯỜNG

(Lưu ý: truyện có kèm minh họa số 04 của họa sĩ Bùi Tiến Tuấn)

 

Mọi con đường đều dẫn về nhà của mình. Không biết ai đã từng nói câu đó mà Phong thấy thật có lý. Đó là chốn bình yên. Nơi mình được chính là mình nhất. Cho dù chật

hẹp thì nó vẫn là một ổ thiên đường.

***

Vậy mà phải mất hai mươi năm lang bạt ở Sài Gòn Phong mới tạo dựng được cái ổ thiên đường đó. Gọi là ổ vì nó hơi khiêm tốn, căn hộ ba mươi mét vuông trên tầng bốn của cư xá lao động bình dân. Nó ở xa thành phố tới mức mỗi ngày đi làm đủ cho Phong cảm giác rã rời. Ngày đầu tiên anh chở Uyên về, họ gặp cơn mưa lớn. Cơn mưa chào đón người mới đến tàn bạo đến mức anh ngỡ thiên nhiên đang phẫn nộ, bừng bừng tạo tác lại mọi cảnh giới theo ý nó. Từng dòng nước xé phăng, trút xuống giữa trời như thác đổ. Những cái bong bóng to như nắp xoong, vặn xoáy bập bùng, sôi réo ùng ục trước khi bị nuốt chửng vào họng cống. Đoàn người nhích tới từng bước. Đo đếm con đường dài. Nhiều kẻ lo âu ngửa mặt nhìn trời. Nước từ từ ngập lên dưới chân. Phong không nghĩ mưa lớn và nước có thể dâng lên nhiều đến mức ấy! Gần như hệ thống cống rãnh tê liệt hoàn toàn. Đoạn đường gần ray xe lửa, dưới bảng hiệu “Coi chừng tàu hỏa” trũng xuống, nước từ các nơi đổ về lênh láng cuộn xiết như một dòng sông. Muốn đi tiếp phải băng ngang nên hầu hết các xe rơi tõm xuống đó gầm rú, giãy giụa, vượt thoát. Có chiếc may mắn thoát được. Nẹt pô chạy cố mạng, tháo thân. Nhưng phần lớn nối đuôi lũ lượt tắt máy. Nước cứ tiếp tục dâng lên. Sâm sấp mắt cá chân. Liếm lai quần. Và ngập quá ống pô. Những cái áo tơi sấp ngửa bay lồng lộng trên đường. Đường về nhà sao quá xa! Phong chờn chợn nghĩ cái ổ hạnh phúc của anh khuất mờ sau màn mưa giá lạnh kia. Những ngày đã qua là ở trọ ư? Vậy hôm nay là gì? Ổ trọ. Hay hình tượng diêm dúa, ổ thiên đường. Thì cũng lang thang loanh quanh một kiếp mượn thôi mà. Phong như bỏ quên Uyên. Anh đắm chìm vào dòng suy tư khi cả hai tấp vào trú dưới mái hiên. Thời gian thực ra là gì nhỉ? Rất khó định nghĩa cụ thể. Mới đó đã năm năm sau đám cưới. Phong đi hết thời trai trẻ và đã có một cậu con bốn tuổi. Rồi thuê mướn, vạ vật hết hang cùng ngõ hẻm. Một Sài gòn của những cửa hiệu u tối. Của kiếp trọ. Những cực nhọc đó là thực hay ảo ảnh? Thuê trọ không chỉ khốn đốn bởi tiền bạc đóng hàng tháng réo đuổi mau chóng dập dồn như trống trận mà còn ngàn lẻ một lý do khác. Khi rối boong như mê lộ, lúc trùm úm sấp ngửa giống lật bàn tay. Hãy hình dung thế này, vui chủ nhà cho ở, buồn kiếm cớ đuổi đi. Như cái chặng cuối cùng đẩy Phong đến quyết định phải làm cú liều mạng vay tiền mua nhà là bởi không dưng trong vòng tám tháng vợ chồng anh buộc phải chuyển đổi chỗ ở đến bốn lần. Lần nào cũng vào thế chẳng đặng đừng, bất đắc dĩ. Để lại sự ngơ ngác trong mắt con trẻ. Thằng bé vừa chuyển tới chỗ mới, chưa kịp làm quen với bạn bè đã phải chuyển đi. Lần thứ nhất căn hộ mướn trên tầng ba của một chung cư cũ kỹ, hai vợ chồng bàn nhau sửa sang lại. Uyên  buôn bán áo quần nhì nhằng qua mạng. Công việc buôn bán đang khá khẩm thì đột nhiên chủ nhà “nhảy” hợp đồng, lấy lại nhà. Thế là hai vợ chồng méo mặt bấm bụng dọn đi. Lần thứ hai mới ở được một tháng, thì chủ nhà vớ được một khách sộp muốn mua nhà nên vội vàng bán luôn vì trước đó treo biển rao quảng cáo hàng năm chẳng ma nào ngó tới. Lần thứ ba chủ hộ cho thuê để rồi đi mướn lại chỗ khác tiện nghi, gần trung tâm hơn. Nhưng nửa chừng không ký tiếp được hợp đồng buộc phải lấy lại để ở. Và lần thứ tư thì lý do có vẻ lạ. Phong là nhà báo. Một hôm anh và nhóm cộng sự vô tình viết vào một lĩnh vực chống tiêu cực. Loạt bài vừa đăng thì lập tức anh có chuyện. Có một quyền lực vô hình nào đó trên anh xoắn xuýt như một cái lưới. Bằng những mối quan hệ, đối thủ này triệt phá, cản trở anh, không lối thoát. Khi bị lấy lại nhà, anh ngớ người chẳng hiểu sao! Tay chủ nhà mặt cứ thơn thớt, cười nói, hai tay vung vít. Miệng xoen xoét xin lỗi: “Thật phiền quá! Tình huống bất ngờ. Mong ông anh thông cảm!”. Sau này khi tình cờ gặp lại nhau, y mới cho Phong biết rằng y bị ép lấy lại nhà để cho Phong văng ra đường, đi đâu thì đi, lao đao cùng quẫn. Cảnh tỉnh anh đừng có xớ rớ vào những đề tài nhạy cảm.

Đúng là lúc đó Phong căng muốn nổ óc. Vợ dại, con thơ. Đồ đạc ngùn ngụt chất đống. Oải nhất là sách. Có cả ngàn cuốn. Mỗi lần di chuyển mọi thứ tung tóe như giáp lá cà một trận tử chiến. Nhìn mà cám cảnh. Đó chưa kể lại phải làm một loạt việc khác như ra phường đăng ký lại tạm trú, thông báo bạn bè thay đổi địa chỉ, số điện thoại bàn, liên hệ với các đối tác để tiếp tục nhận bưu phẩm, thông tin từ nhà bán bảo hiểm, ngân hàng cho vay trả góp. Rồi đến chỗ mới đâu phải ngã ra mà ngủ được. Phải thuê bao lại điện thoại, internet, truyền hình cáp… những phương tiện gắn chặt, liên quan đến công việc và đời sống hàng ngày của Phong. Rồi dọn dẹp, chùi rửa, sắp đặt bàn thờ, cúng kiếng… đôi khi cả tuần cũng chưa xong. Cứ tái diễn đi lại cảnh này không biết còn xô dạt tới bao giờ nữa. Bởi trong hợp đồng soạn cho thuê nhà, sau khi kỳ nheo đủ thứ như tiền đặt cọc, thời gian niên hạn được ở, tiền trả vào ngày đầu hay cuối tháng… thì bao giờ chủ nhà cũng thòng thêm một câu đắc địa chết người: “Trong trường hợp khẩn thiết cần phải lấy lại thì chủ hộ sẽ báo trước một tháng” (!?). Và sự thật thì có trường hợp nào lấy lại nhà mà không phải đặt vào tình thế “khẩn thiết”? Tất cả các điều khoản tưởng như rành mạch, tươm tất, khó bắt bẻ, không bên nào chơi khó bên nào được đến khi va vào “trường hợp khẩn thiết” này mọi thứ đã đổ nhào!

***

Hôm về nhà mới, trong lúc Uyên làm cơm chiều, tự dưng hưng phấn, Phong hỏi: “Có bao giờ em thử tính từ khi vào Sài Gòn đến giờ đã sống qua bao nhiêu nhà trọ không?”

Uyên nghĩ ngợi một lúc. Hình như nàng đang nhẩm đếm. Rồi nàng nói nhẹ ơ: “Chừng hơn chục cái gì đó! Mà em thấy việc đó cũng bình thường mà! Sài Gòn là đô thị lớn, nơi người từ bao nhiêu nẻo tụ về! Rồi ai cũng phải lo cuộc đời của mình!”.

Đúng là bình thường thật. Vì vợ chồng anh cũng phải sống qua đó thôi. Mọi thứ cần phải tự cân bằng để đi tiếp. Nếu cứ thường xuyên thất bại, triền miên buồn bã thì đố ai chịu nổi. Đôi khi cần trấn an bằng sự bông đùa và tập lãng quên trong những giấc ngủ. Hai vợ chồng lại quay qua dọn dẹp, lục tục trong căn hộ mới. Một ổ hạnh phúc mà từ nay thực sự là của họ. Tha hồ trang hoàng bày biện. Không còn sợ ai gõ cửa, thương lượng đòi nhà ban sớm hay nửa đêm nữa. Tự nhiên nước mắt Phong chảy. Anh vụng về nhấp nhoen con mắt chùi vội vào tay áo không để Uyên biết. Và kỳ quặc. Liên tục những ngày sau đó Phong mất ngủ. Tối qua, Phong chợp mắt được một lúc. Anh mơ và la hét loạn xạ. Uyên sợ quá phải lay gọi mãi Phong mới tỉnh. “Anh làm gì ú ớ khiếp thế?” - Uyên lấy khăn chườm nước lạnh lau mặt cho chồng, lo lắng. Mồ hôi còn dâm dấp trên mặt Phong. “Anh mơ giấc mơ lạ quá, thấy mình cứ loanh quanh hết đường tắt ngõ hẹp mà không tìm thấy lối ra. Rồi toàn thân tự dưng biến thành nhựa dẻo. Ấn vào chỗ nào lún lụt chỗ ấy. Nhưng chỉ cần buông tay một phát, chỗ lún lại phồng lên…”. “Người nhựa” - Uyên nhoẻn cười, ”chắc anh nhớ mấy vụ căng thẳng vì dọn nhà chứ gì? Em thấy anh lúc đó như đơ ra. Bảo gì làm nấy. Gần như không còn suy nghĩ gì được cả…”. Phong nằm lơ mơ trong chăn ấm. Nếu Ngọc đã sống qua chừng chục cái nhà trọ thì anh phải đến bao nhiêu nhỉ? Rồi Phong bỗng ngủ thiếp đi…

***

Phong thấy mình không đủ tiền thuê một chỗ tiện nghi hay lớn hơn mười sáu mét vuông. Anh đã bỏ cái hầm rượu ra đi. Đó là căn nhà trũng, thấp hơn mặt đường, anh ở chung với bạn bè. Gọi là hầm rượu vì cái phòng trọ ngột ngạt, không gian ẩm thấp, lạnh lẽo mà chủ nhà còn bán một quán cơm bình dân. Không hiểu sao ông có một hầm rượu quốc doanh quá đát lạc tem cả chục năm. Đó là những chai vodka, nếp mới, hồng đào… sản xuất từ những thập kỷ tám mươi thế kỷ trước. Trong một lần cao hứng khi nhậu, ông kể, khi từ miền Tây lên Sài gòn thuê lại căn nhà này để bán cơm ông đã “tiếp quản” hầm rượu từ một tay buôn tạp hóa. Những chai rượu như tặng không vì hết hạn sử dụng chẳng ai dám uống nữa. Đó là giai đoạn sản xuất bao cấp, gọi là rượu nhưng là nước đường, men hóa học đóng chai thì đúng hơn. Tay chủ nhà đùa, nếu muốn tẩy rửa hay lộn trái bao tử thì cứ dùng! Cho không đấy! Nhưng rồi thành thật. Một lần cả bọn vã quá, không có tiền để kéo nhau ra quán cóc nên mò một chai uống thử. Nó có phong vị đặc trưng. Một dòng nước đo đỏ như sắt gỉ, bốc một mùi thơm như quế lâu năm. Uống thử một chút nhạt thếch đầu lưỡi. Sau đó hơi cay cay. Uống nhiều vẫn còn khả năng nóng người, mê mẩn các xúc giác. Nói chung là dễ chịu cho một bọn đói tiền đang muốn tìm hơi men. Thế là tưng bừng tụ họp nhậu nhẹt. Những chai rượu cứ đập bôm bốp nát đầu vào tường. Mấy lần có đứa còn bị đứt cả ngón tay vì mảnh chai sắc lẻm cứa vào. Cái hầm rượu quá đát cứ thế vơi dần. Nhiều ngày không có hạt cơm nào trong bụng, bọn Phong vẫn say lê lết. Có đứa vật vã nôn mửa. Không thằng nào chịu nghĩ tất cả đều sẽ bị đau bao tử khi uống mãi thứ rượu cồn công nghiệp đó. Mồ hôi, mùi người, mùi thực phẩm cặn bã của quán lâu ngày quyện lại thành một thứ mùi khăm khẳm ngây ngấy. Chua lè và buồn nôn. Và một câu chuyện quái dị xuất hiện. Những con chuột cống nửa khuya theo thói quen, đánh hơi từ dưới rãnh nước mò lên. Bóng đêm là thế giới của chúng. Bầy chuột lết thết hoang đàng, hung dữ. Bốn cái chân chĩa ra những móng cứng như sắt, khi di chuyển, kéo vẹt cả mặt bê tông. Cứ thế, chúng vững chãi kéo lê chiếc đuôi dài, lừ đừ dấn tới. Hình như chúng không còn sợ ai. Đôi mắt như hốc tối, phả ra cái nhìn lành lạnh, rờn rợn như sẵn sàng lao vào xé toạc bất cứ đối thủ nào nếu cản trở bước tiến của chúng. Trong cái biển đen nhức ấy, điểm thêm mùi lông hăng, như chấm một vệt đỏ loang mãi bơ vơ trong đêm tối. Bầy chuột vục đầu vào những chai rượu cặn nếm náp say sưa đến hạt cuối cùng. Có con lướt khướt lăn kềnh ra chổng bốn vó lên trời. Thở khì khịt như đàn lợn. Phong hé mắt nhìn. Trước những con vật khổng lồ ấy, Phong thấy mình quá nhỏ bé. Anh cảm giác bất lực, không thể chống lại. Đàn chuột lổm ngổm, mặc nhiên bò qua người anh. Để lại phía sau một mùi hôi thối tanh tưởi, nồng nặc…

***

Cả linh hồn và thể xác Phong đều đầy những vết thương vuốt sắt. Anh muốn tìm một không gian dễ thở hơn. Cần có thời gian để làm lành sự mưng mủ. Anh thấy vây bủa quanh mình ngột ngạt cơn điên. Anh cần ở một mình. Và quyết định rời hầm rượu. Nhưng thời điểm này anh hết tiền, trong túi không còn một đồng. Đành phải điện thoại mượn người bạn. Anh cũng phải nhờ đến một công ty giới thiệu môi giới nhà cửa để tìm một chỗ ở mới. Như yêu cầu của anh, một nơi rẻ nhất thành phố. Chọn lựa của Phong có được lúc này là một chỗ ngủ đêm an toàn, tránh mưa gió rồi sẽ tính tiếp. Tay dắt mối bảo anh đóng tiền khi mở gói dịch vụ. Y sẽ đại diện công ty dẫn anh đi xem các nhà trọ, cho đến khi anh thuê được mới thôi. Bây giờ thì tên cò phóng xe chạy trước. Phong bám càng theo. Cả hai đang lượn lách ngoằn ngoèo trong một xóm lao động nằm phía sau ga xe lửa. Đã nhiều lần Phong đi qua nơi này nhưng chưa hình dung được những con hẻm ngoắt ngoéo, lắt léo chạy dài phơi phóng ô hợp một đời sống lao động bình dân. Hai bên con kênh Nhiêu Lộc cằn khô, ngút mùi cống rãnh. Những người đàn bà phờ phạc, hết nhan sắc, mặt mày cau có dữ dằn như những con cá kiếm lúc nào cũng ở tư thế săn mồi. Còn những gã đàn ông cởi trần, ngực lép, phô những dẻ xương sườn cứu Chúa, tay chân toàn hình xăm. Họ tụ tập trước cửa, săm soi những kẻ tình cờ đi lạc vào xách mé như nhìn những tờ bạc lẻ. Đó là thế giới riêng mà cuộc đời thuê trọ của anh đã đụng độ không ít. Anh thấy đám văn nghệ ở một khía cạnh nào đó có nét gần với bọn du đãng. Nhà thơ và tướng cướp. Đó là phiêu lưu bay lượn trong mê lộ của mình. Hôm nay tẹt ga sống đến tận cùng cảm giác. Không lối thoát. Ngày mai có thể chết vì không còn cái gì ăn.

Đi mãi rồi cũng đến. Cuối cùng, tên cò đưa Phong băng qua cây cầu nhỏ, có mấy miếng ván mục ruỗng do thời gian và mọt mối rệu xuống. Bên dưới lờ đờ dòng nước chảy đen kịt. Bên kia cầu là một căn nhà gỗ tuềnh toàng. Một người đàn bà có khuôn mặt choắt, ranh ma như một con cú đánh hơi thấy mồi thơm: “Cậu thuê nhà hả? Vào xem đi! Mà không phải lúc nào cũng có để thuê đâu nha! May cho cậu đó! Có người mới trả chỗ hôm qua! Chỉ năm mươi ngàn đồng một tháng thôi!”.

Nói đúng, giá này gần như không phải thuê nhà mà chỉ như cho thuê chỗ trọ tá túc qua đêm. Một cái ổ chật hẹp để có thể nằm ngủ, không bị ai quấy rầy. Từ đó, có thể đến thiên đường hay bắt đầu cho những cuộc phiêu du hoang lộng. Mọi người thuê chỗ ở đây đều là dân lao động. Đi làm suốt ngày. Tối về vật ra ngủ. Tất cả đều sinh hoạt chung, toilet, phòng tắm và sàn gỗ. Chỉ có một thứ riêng, hồn ai nấy giữ.

“Ở đây giá thuê giá rẻ nhất thành phố. Cậu tin tôi đi, không thể tìm được một chỗ nào rẻ hơn đâu!”- Con cú nói, môi dẫu ra như cái ống. Phong biết chắc đây không phải chủ nhà mà mình đang đụng thêm một mụ bẻ cò[8]. “Ban ngày đâu ai ở nhà làm gì! Chỉ tối về cần một chỗ để ngủ thôi!”.

Phong quan sát tấm sàn mà mình sẽ được ngả lưng khi bắt đầu là một thành viên mới. Nó khoảng ba mươi mét vuông. Được đóng bằng thứ gỗ tạp, rẻ tiền. Theo thời gian, với nhiều tấm lưng và nhiều vệt mồ hôi, sàn gỗ đã nâu bóng lên. Nhiều cái nẹp đóng chèn bị mối mọt ăn, đã gãy. Những nhát búa gia cố, đóng vội vàng. Nếu nằm một phía thì ổn nhưng khi xoay mình sẽ nghe kêu những tiếng ọp ẹp. Căn nhà ở cuối hẻm cụt. Tối tăm khủng khiếp. Chỉ có khoảng trời nhỏ nhô ra trước mái hiên lỗ chỗ vết tôn thủng có cây trứng cá là tương đối dễ chịu. Phong đã quyết định ở lại đó. Anh cần phải cố gắng tìm việc làm thật nhanh để thoát khỏi cảnh này. Nhưng bây giờ thì chưa.

Trên cái sàn gác mười bảy người nằm ngổn ngang như những dấu trừ. Phong cũng không biết cụ thể ai là ai. Ban ngày tất cả tan đi khắp thành phố tất bật với công việc mưu sinh kiếm sống. Hình như ai cũng làm lao động tay chân cực nhọc với đồng lương ít ỏi, mỏi mòn. Bởi nếu kiếm được khá khẩm thì họ sẽ ra đi để tìm một chỗ nương náu tốt hơn. Đó cũng là cách chọn lựa của rất nhiều người trước đây. Như Phong, với tấm bằng vừa tốt nghiệp, anh bươn bả nộp hồ sơ xin việc ở các công ty đang tuyển dụng. Anh biết mình không thể sống mãi với một kiếp xô dạt như thế. Nhưng vận may vẫn chưa đến với anh. Rời khỏi cái ổ trọ từ sáng sớm, đến tối mịt Phong mới trở về. Căn nhà đón anh với niềm vui sống và nỗi hy vọng ngày mai. Có nhiều đêm đang ngủ, Phong bật dậy. Xung quanh anh khung cảnh lờ nhờ, lặng im như một mặt biển. Phong nhìn quanh quất. Không nhận ai ra ai. Và dường như từ ngày đến đây anh cũng chưa làm quen hết. Mỗi mặt người thanh thản lặng sóng. Nhưng nỗi lo âu hình như vẫn lảng vảng đâu đây. Trong những hơi thở rách, yếu ớt hay tiếng phì phò khó nhọc như kéo bễ. Dưới ánh đèn vàng vọt, tất cả hiện lên nhạt mờ như những con cá ướp muối. Đó là không khí biển những ngày mùa đông. Giấc ngủ lạnh không tìm ra bờ. Những con cá nằm im hơi bên nhau. Sợ hãi. Đuối sức và vô vọng. Mỗi ngày qua lại đối mặt với bao gian khó mà đôi khi vượt qua rách toạt cả mang. Máu rướm trong bọt phổi li ti. Phong nằm bẹp, dí sát vào một góc. Mồ hồi tứa ra rít rẩm. Ngủ bên cạnh anh là một người đàn ông mù, bại liệt hai chân. Ông vẫn được một người đàn bà chăm sóc. Họ có phải là hai vợ chồng không thì Phong chưa rõ. Chỉ biết mỗi đêm về ông lầm bầm, miệng nồng nặc hơi rượu. Người đàn bà mập ú, gương mặt đăm chiêu như một câu kinh chưa tan, chùi rửa ông như tắm táp một đứa bé. Vừa bỏ lên sạp là ông đã lăn đùng ra ngủ. Trong mơ, ông ú ớ nhiều nhất. Có thể ông mơ thấy quê nhà nghèo khó với những đứa trẻ lam lũ hiền lành như đất. Ông ra đi cũng là để tìm cách nuôi bầy trẻ đó. Chỉ có rượu mới giúp ông kéo gần lại viễn cảnh sum họp đầm ấm. Rượu xoa dịu, an ủi ông. Để rồi  một ngày mới thắp, bà béo lại lên gác ẵm ông xuống xe lăn. Đẩy qua các con phố mời chào vé số. Bán từng tờ hy vọng…

Đêm tối đã thuộc về thế giới khác. Cùng những viên thuốc ngủ, Phong thường cất cánh bay thoát khỏi hiện thực buồn tẻ, tăm tối và nghèo nàn. Anh thấy mình ít ra vẫn còn có một ý nghĩa, giá trị hơn. Không bị những con chuột điên cắn vào chân hay những con gián mù bay loạn xạ đâm vào mặt. Chỉ còn hơi thở rấm rít của những con cá muối cần lao. Rồi Phong thấy mình đi theo chiếc xe lăn của ông mù bại liệt để lạc vào con hẻm đầy ma cô mặt mày hung dữ. Sự lam lũ làm tất cả vêu vao, sinh tử, khẳng khiu. Vây quanh Phong còn đám gái non nhưng đã hết đát như đàn bướm xuân tàn tạ nhan sắc. Chẳng khác gì hơi rượu cặn quá niên hạn sử dụng ủ bệnh bao tử. Tất cả như vừa thức dậy sau một đêm dài với những ước mơ khát khao trong xanh. Những cánh bướm xà vào gánh hủ tiếu lốc cốc. Những cô khác gọt dũa móng chân, cãi nhau chí chóe. Thấy anh cả đàn bướm vụt bay lên rập rờn hương sắc, kêu gọi…

***

Phong tỉnh giấc. Thì ra tất cả những gì anh vừa thấy đều diễn ra trong giấc mơ. Bên cạnh, Uyên vẫn ngủ say. Trên môi nàng như đang nở một nụ cười đầy mãn nguyện và hạnh phúc. Căn phòng mới hoàn toàn yên tĩnh. Ánh đèn dịu vặn nhỏ trên bàn khiến Phong càng nghi hoặc không rõ là mấy giờ? Cho đến khi Phong nhìn thấy tấm ảnh cưới của hai vợ chồng vừa treo lúc chiều mới tin đang ở trong căn nhà mới của mình. Một cái ổ hạnh phúc đầy mật ngọt từ giấc mơ thiên đường. Vậy là anh đã thoát khỏi kiếp trọ? Có chắc chắn vậy không?

Điều lạ là mãi Phong vẫn chưa quen được với cảm giác tinh khiết đó. Bao giờ anh cũng ở trong cảm giác thảng thốt là sắp hết tháng. Mình như con thằn lằn xéo giữa vòng vây nợ. Những gương mặt bí hiểm, đầy chiêu chước của những bà chủ cho thuê nhà hôm nào. Định đoạt cho những cuộc ra đi bầu đoàn thê tử giữa Sài Gòn hoa lệ và nước mắt. Anh bỗng nhớ mùi mồ hôi mặn của những con cá muối. Từ biển khơi nó bị dạt lên bờ, búng bẩy, vô vọng. Con cá rách mang bị câu thúc hay lèn chặt trong những cái ổ khít khắm. Những sàn gỗ bóng nhoáng mồ hôi. Nó chỉ còn biết tin vào đường bơi và hơi thở của chính mình. Hơi thở của một ngày mới. Bởi không có niềm tin bao kẻ vẫn còn lạc chốn và mất dấu trên thiên đường…

 

Sài Gòn, 1.2011

 

NHAI NHỰA

 

Một nửa cái đầu hắn thường xuyên đau nhức như bị chảy máu. Bán cầu trái đã ẩm dột trầm trọng. Có vấn đề. Nó giống trần thép trong một hố cầu bị han lở. Những con gián bẩn thỉu náu mình trong những ngách tường ẩm thấp. Những hình ảnh, bài báo, thông điệp, những cuộc bắt bớ, giăng cài bẫy luôn dội về trong hắn. Có sự liên kết nào giữa gián, trần thép lở, phân người và những bài báo nhị trùng? Hình như chúng trộn vào nhau hoăm hoắm, nhời nhợt khó giải thích. Chúng ghê ghê. Bẩn bẩn. Tanh rợn. Cò mồi và láu cá. Máu. Đôi khi những giọt máu nhễu xuống hữu hình như bệnh trĩ hay vô hình như chảy máu não. Một thân-phận-trí-thức mọc vảy và ghẻ lở.

Phía bên trong vẫn tiếp tục lở loét. Điên dại. Những cơn bệnh chồng lên trên những cơn bệnh. Một sự thoái hóa lũy thừa bắt vít khảm vào bản chất thâm căn cố đế. Bề mặt của che đậy sự mục ruỗng. Thối nát.

***

Tôi biết là tôi đang mắc phải một căn bệnh kỳ lạ mà không thể chia sẻ hay giải thích được với ai. Từ ngày những vết sần đụn lên cái vảy đầu tiên tôi sợ hãi đến muốn ngất đi nhưng cho đến nay căn bệnh không có xu hướng giảm mà vảy đang tiếp tục đùn đùn lên từng lớp. Hôm qua lớp vảy bắt đầu có nguy cơ lan rộng bao lấy dương vật. Những cơn ngứa điên cuồng thống khoái làm tôi muốn bất tỉnh. Cảm giác hống hứng này đột nhiên làm tôi muốn nổi cơn điên bất tỉnh hay muốn làm tình. Muốn làm tình. Làm tình điên loạn. Cần đâm thủng một ai đó. Một cái gì đó. Một lỗ trinh càng tốt.

Ám tượng tôi thường trực là máu. Máu đen và đỏ. Rịn ra từ vết thương, tuôn trào như dòng suối. Máu của gái trinh, đám người, của tập thể. Của những tên huấn luyện không đầu. Da thịt y nham nhám như lớp vảy con rắn đẻn nhưng cắt ra không có máu. Chỉ một dòng nước xám xịt đổ xuống. Và trong những lớp thần kinh choãi ra căng thẳng và hoang vu của y là linh hồn của những người đã chết oán hận chất dày, nổi lềnh phềnh như rong tảo thềm lục địa. Y nói thở ra những chữ O trọc lóc. Từng lớp biểu bì trên da mặt liên tục co giật và đổi màu. Cái lưỡi gỗ lập bập bốc cháy. Những mớ ngôn từ khét lẹt. Máu hay nước? Đen hay đỏ? Ộc ra hay phụt ra? Không sao. Càng nhiều càng tốt. Mới rửa sạch những vết thương rách ra từ tâm hồn tôi.

Tôi bất chợt lắng nghe tiếng chim hót trong vết thương. Giật mình. Chữ nghĩa vã hết mồ hôi. Một nỗi gì đó u uẩn bưng thức tăm tối mà tôi không bao giờ biết rõ làm tôi càng đau đớn hơn. Tiếng chim làm cơn điên nở hoa. Một đóa hoa lạ, vật vờ thôi miên hoang vu mọc trên đỉnh sầu của ngày tháng này. Người tôi nóng hầm hập. Tôi đã biến thành một kẻ khác từ ngày mọc vảy. Chẳng lẽ đời sống tôi là một tiến trình thoái hóa ngược?

***

                                                                              
Giấc ngủ làm hắn chìm vào một biển vảy nặng nề. Hắn muốn quên đi thực tại. Một cuộc sống bản lề bắt con người oằn vào thành những khung vít. Hắn là một con bu loong bắt vào cánh cửa hiện thực chủ nghĩa vừa khớp. Nếu chưa vừa thì nện thêm mấy búa cho nó lún sâu. Càng biến dạng càng tốt. Biểu hiện cá tính mà làm gì! Tê sần, chai dại cả đi. Cần phải khuất phục sợ hãi. Từ bao giờ hắn buộc phải làm quen với “thượng đội, hạ đạp”. Trước tay đồ tể, chân lý thuộc về y. Bất kể đúng sai. Giống như y sản sinh và quyết định sự thật vậy. Y là kẻ mạnh. Làm chủ cuộc chơi. Kể cả đầu độc và cưỡng hiếp. Những tay sai thuộc quyền y cần câm điếc và ngu dốt. Y khéo léo tuyển chọn toàn bọn pê đê, đồng tính dễ bảo. Từ đây y phân quyền lực hoành hành từ trên xuống để dễ dàng giựt dây, cai trị như những con rối. Từ những gã này một bộ máy hoạt động ram ráp. Phía dưới bộ thuộc hạ toàn quyền sinh sát. Ăn chơi, truỵ lạc đến bùn! Hắn làm quen từ bao giờ mà nhất nhất một cử chỉ, một giọng điệu. Cố gắng bảo tồn và bảo trì sự sống thớ lợ, nước đường. Một cuộc sống tiến thoái lưỡng nan. Nhai lại những cục xương chó gặm. Những cái vảy mọc ra biểu hiện cố nhiên thích ứng với cuộc tồn tại. Một cái. Hai cái. Một lớp. Nhiều lớp. Ùn ùn soằn soặt những lớp. Những cơn ngứa những vết thương lở. Lành. Nhưng không! Sự tự trị trở thành những pháo đài cố thủ. Chia cắt giấc mơ thành những ốc đảo. Những trang viết co giãn như dây thun. Độ đàn hồi chỉ còn quắn queo xả, nén lại sự thối hoắm.

Lần đầu tiên hắn sử dụng mọi cam đảm quan sát quan sát cơn bệnh hắn. Đúng hơn là hắn xem những cái vảy biến dạng và khốn khổ đã mọc ra đến đâu. Khi dự định đó xuất hiện đã làm hắn lo lắng. Mất ăn mất ngủ. Trong đầu nổi lên những cơn sóng chống đối vừa đau đớn vì nỗi thiêng liêng là người đang dần bị xâm thực lở loét và sự ruồng rẫy, bất cần, khinh bỉ thân xác của chính mình. Hắn chưa bao giờ có ý nghĩ quan sát những vết thương. Những ung lở không còn chịu âm thầm quặn thắt trong tim, trong máu mà bây giờ đã bộc phát, vỡ ối tràn ra ngoài da. Những vết thương như con rắn xé thịt mình vì sự chật hẹp, sức chịu đựng đang tỷ lệ nghịch với sự lớn dần của những niềm khủng hoảng, phi lý và đau đớn. Hắn chỉ muốn trốn chạy sự lở loét bằng sự phỉnh dụ đặc trị êm dịu của niềm lãng quên và những cơn mê. Giấc ngủ phi thời gian, phi trọng lượng xóa mù của con số là phương thuốc hữu hiệu. Nhưng rồi chính trong lúc ngủ hắn cũng đã bắt đầu phân hóa và mọc vảy. Một cuộc xâm thực phi lý từ hiện thực vào huyền ảo. Giấc mơ hắn với từng lớp vảy kỳ đà khổng lồ va động lóe lên từng đốm sáng. Hắn phải khám nghiệm vết thương như cần phải giải phẫu một giấc ngủ. 

Vảy. Ám. Sống dở. Chết dở.

Hắn tưởng tượng nỗi sợ sau mỗi cơn ngứa bần tiện và thống khoái thì vết thương hắn lại tướm máu lở loét. Sự suy sụp và suy đồi ân vong toàn trị. Hắn men theo lề và đi. Đi dật dờ ảo vọng không hy vọng gì vào ý nghĩa cuộc sống này. Hôm qua hắn gặp một thằng chó điếm. Đó là nguyên cớ làm vết thương hắn mưng mủ.

***

Y là một thứ chó già, một thứ quả chín héo. Một giống ăn tạp. Là lừa đảo, xống xếnh vì miếng ăn gần hết cuộc đời. Ăn tình, ăn tạp, ăn uống, ăn nhậu, ăn bẩn. Ăn cơ học, hiện thực và ăn cảm giác, phi thực. Y sẵn sàng làm chó vì sự lừa mị của bao tử và những cơn dục vọng. Cái lưỡi thối của y luôn nổ lép bép và hai súc môi trơn tru nần nẫn. Thỉnh thoảng khi rướn cổ cố khạc một cơn ngứa vô hình loang nhểu trong cổ họng. Một thứ nước lọng bọng rin rít qua kẽ răng vàng ệch trông y vừa bẩn thỉu vừa điếm loạn. Y là một cơn bệnh truyền nhiễm.

Trên một thực tại trơ mục y tìm mọi cách trục lợi cho mình. Bất kể tả khuynh hay hữu khuynh. Cộng sản hay cộng hòa. Y là một thứ cộng sinh để trục lợi phè phỡn và tồn tại. Cho dù bản chất cuộc tồn tại đó làm chính y chán mứa, khinh tởm cái lưỡi gỗ của y vẫn phải nổ lép bép. Y cần một người tình để ăn trưa nay.

Y viết những tác phẩm phiếm dụ. Những trang viết mưng mủ, ung nhọt của tay làng chơi bị bệnh tim la. Y là tay láu cá, thằng điếm chữ. Y thiến chữ như hoạn lợn. Toàn thân y luôn bốc ra một mùi khăm khắm tởm lợm. Một thứ nước hoa đĩ thỏa và rẻ tiền. Băm càng vào hư vô.

***

Những thứ của y viết ngai ngái một mùi chó mà chính tôi không bao giờ chịu được. Mọi thứ chập vào nhau một cách rẻ tiền. Dân tộc và dân chủ hí hoách chập choeng tum tủm như phèng la. Y hiện thân vừa lưu manh vừa hiền triết. Vừa chặt chém vừa du đãng. Vừa hề chèo vừa nhăng cuội. Rồi y hoắng tất cả. Nẫn tất cả cho luôn vào túi. Biến. Một cái vảy vỡ toác. Trong y luôn hiện diện sự thịnh nộ kém kiềm chế của những cơn điên. Chạm đến y là xúc xiểm đến sự dzấy bẩn cuối cùng! Một trò hề!

Y muốn một ngày nào đó tác phẩm y để lại là một con chó đá canh giữ cổng làng văn học. Sướng! Chó đá! Tha hồ sủa.

Một ngày của tôi đã mất. Vết thương nảy thêm một cái vảy. Tôi vẫn không làm được gì hết ngoài việc chế ngự những cơn ngứa. Ngứa điên loạn. Ngứa khủng hoảng. Ngứa lở vực. Một cái hõm vô hình có hằng triệu triệu chân con vi khuẩn nhúng vào đó. Những cơn ngứa và những cái chân vây cuộc đời tôi thành một mê cung. Cầm tù miếng ăn, sống, nghĩ. Nhai nhựa. Bị chăn dắt bởi sợi dây vô hình. Thoát ly là roi vọt phủ đầu. Nhà tù. Họng súng. Cái chết. Làm sao thoát khỏi cơn ngứa cá nhân và thần tượng lũy thừa. Tất cả chỉ để giải thoát và giải tỏa cho chính mình vẫn còn không đủ. Ngu. Ngứa. Tởm lợm. Một vòng không lối thoát. Giống như thần chết đang ngự trên chiến trận. Một cuộc tan bại thoái hóa, rỗng rụi tâm hồn. Niềm tin mơ ước là những phiến cặn bã. Và thân thể mục đuỗn âm thầm.

***

Nghiện ngứa như nghiện ma túy và sợ ngứa như có thể chết bất cứ lúc nào khi bứt đứt những sợi thần kinh cảm giác cầm trên tay. Sợi thần kinh bị dứt đứt đó còn hoang hoải một cảm giác ngoáy một cái lông ngựa vào trôn lỗ và cơn điên tưởng nổ tung chỉ còn phập phồng trong một đốm nhỏ.

Hắn bắt đầu lên cơn ngứa khi bước vào công việc buôn bán chữ nghĩa. Hắn thiết lập những bài báo ngợi ca để bán cho một tay đồ tể. Tay đồ tể to lớn. Có gương mặt bì bì như một cái xác chết. Y không nói một tiếng nào, ngồi giữa một bàn giấy chất đầy những bao thư. Xung quanh y cũng ngập đầy bao thư. Những bao thư đủ kích cỡ và hình dạng. Đa chủng màu sắc. Có cái xé rồi, cái chưa xé. Nhưng hắn cảm thấy tay đồ tể dửng dưng và hoàn toàn không quan tâm. Cứ như mọi sự buộc phải thế, không là vậy thì vì sao có thể khác. Và hình như việc y có bóc tách hay không những bao thư chính là ban phát những ân huệ.

Nét mặt y vô cảm không một biểu hiện của sự sống. Hắn chỉ gặp y có một lần khi ký hợp đồng và từ đó về sau mọi công việc đều thông qua những đàn em y. Công việc mòn nhẵn và phức tạp như bước đi trong vòng kim cô của một cái mê cung. Loắn xoắn, lầy nhầy những bậc thang chữ. Thời gian đầu hắn bị té liên tục các kiểu xuống một cái hố sâu hoắm. Tùy theo mức độ nặng nhẹ, tổng lực của cú té mà hắn chúi nhào xuống, hút sâu vào để hắn phát hiện đó là cái túi có một đáy sâu khôn cùng. Có thể đàn hồi ngoạm lấy một phần đời, nửa cuộc đời hay cả cuộc đời hắn. Từ công việc này hắn mới biết trong kho công cụ mà còn được gọi là thư viện của tay đồ tể có đủ sắc loại chữ để hành nghề: cướp giật, sám hối, phỉnh gạt, dọa dẫm, mơn trớn, dụ vào tròng… Mỗi chữ một sắc màu. Khi đỏ rực như máu. Lúc bạc thếch như cái chết. Khi bầm tím mắt hoang thú giãy giụa phút cuối cùng tuyệt vọng. Lúc xanh lè như ánh lân tinh. Mỗi chữ như một cái thòng lòng chực câu rút con mồi lên. Trước khi họng súng ngắm vào và dao búa bủa tới.

Hắn luôn mài bút để viết theo một mệnh lệnh nào đó. Dưới những ngón tay sần sùi chột lé của hắn lần gõ những cái chết. Định dạng những kiểu chết. Từ lâu tim hắn không còn run rẩy mỗi khi gõ vấp hay gõ nhầm một hình dung từ, một ám chỉ, một ngộ nhận đe dọa hay trừng trị con mồi hắn. Tự vấn là một từ sa xỉ. Những nghĩa địa từ với các hành lang ngỡ như thông thoáng nhưng tất cả đều dẫn về buộc tội và cái chết. Hắn gạch xóa trong bộ nhớ của hắn những thông tin, những định nghĩa bất lợi cho công việc vấy máu chữ nghĩa của mình. Càng viết hắn càng tinh quái dụng chữ thành một mê lộ. Khi con mồi của hắn rớt vào thất điên bát đảo như lạc trong một trận đồ bát quái không lối thoát. Càng chạy chân cẳng càng ríu. Bơi quấn quíu trong cái nhấm nhẳng của mạng nhện.

***

Cái nghề này thật kỳ lạ. Khi bước vào hắn tràn ngập niềm tin và đam mê. Hắn viết như cuốn lấy, chụp lấy, bóc trần sự thật. Cứ như thể sợ tội ác, sự thật bị chìm khuất lãng quên. Hắn hoàn thành bài viết tràn đầy khoái trá như một chiến binh. Rồi tất cả những háo hức của hắn dần dần rụng cánh rụi tàn. Bài vở của hắn gửi lên ban biên tập bao nhiêu thì được trả về bấy nhiêu. Hắn mới phát hiện ra sự thật không phải lúc nào cũng viết được. Tòa soạn báo đôi khi là một con quái vật nuốt chửng sự thật đó và im lìm, chìm xuồng không dấu tích.   

Hắn đã bước vào một cuộc chơi tay đôi với Thần Chết. Phần thưởng chiến thắng của hắn là cháo hầm. Ngày nào hắn cũng được ăn cháo. Ăn để cầm hơi. Ăn để không chết. Ăn để tồn tại hy vọng một ngày qua một ngày. Cái món cháo hầm này cũng lạ. Ngon không ngon. Dở không dở. Thớ lợ. Nhưng không có nó thì chết. Vậy chỉ còn cách làm sao ngày nào cũng có nó để ăn.

***

Cơn bệnh hiểm trở. Khởi điểm nó không lây lan. Lớp da sần sùi nổi mẩn đỏ.

Y ngồi đó. Vô hồn và không đầu. Hắn còn nhìn thấy sợi khói buồn bã bốc lên từ thanh quản bạch kim lõa lồ của y.

Biểu đồ bốc hơi của sợi khói uốn éo, ma quái, lằng nhằng và khó hiểu. Ám ảnh một cách gây nghiện. Một nỗi sợ vô hình cùng với khích thích giăng bủa ở đâu đó. Trong vòng kiểm soát của sợi khói. Và hình dạng chập chờn của nó thật quái đản. Đôi khi trông nó bùng nhùng như một cái lưới, thi thoảng lại giống như cái thòng lọng thít chặt cái đầu khổng lồ. Nhưng cái nhìn của hắn xuyên thủng qua não sọ. Một lỗ thủng vô hình ngắm thẳng vào bản chất thật của sự sống!

Hắn không thể chịu nổi những hình ảnh vảy. Hắn kinh sợ đến óe mửa. Căn bệnh càng nặng hắn càng sợ. Trên phố bất chợt gặp một hình ảnh nào liên hệ trực tiếp đến vảy là hắn buồn nôn. Có thể gục xuống một cống rãnh bẩn thỉu nào đó nôn thốc nôn tháo. Để dễ chịu hơn đôi khi hắn lại muốn dúi luôn đầu mình và cả con chim vào trong đó.

Hắn trần truồng ghẻ lở. Không! Những cái vảy đã “hóa trị” lở hết bờ mông, đùi bẹn và con chim hắn. Từ rốn trở xuống da sần sùi mưng mủ. Những lớp vảy sừng đã chết để lại những dấu tích trắng bạt, thoái hóa. Những cơn ngứa trầm thống tê dại mất bóng ở đâu đó. Nhưng âm ỉ đe dọa một cuộc trở lại ngứa điên cuồng. Dư âm của sự căng rợn và buông thả. Cái chết sủi bọt. Đời sống như một cái nhà tù ngột ngạt. Hắn thọc tay xuống để gãi. Sướng! Ngứa! Ngứa! Sướng! Làm hắn bần bật tê dại. Sự bần cùng đê tiện làm hắn thấy dễ chịu. Cuộc sống hắn có khác gì cái lỗ trôn của con điếm. Viết lách bẩn thỉu khốn nạn. Hoang hoải rờ rẫm giữa hai bờ tường hư thực. Đập chết từng con gián.

***

Hắn lõa lồ như một cây sáp ghẻ trong đêm tối. Lốm đốm da beo. Thực tình là hắn đang quên gương mặt mình. Cố viết lại một tiểu sử bản thân mà chính hắn cảm thấy hoang mang, phi lý, đầy tội lỗi. Hắn bắt gặp một nụ cười nhang nhác sinh sản vô tính, thụ tinh ống nghiệm. Những nụ cười vô cảm hay u huyền như đức Phật?

Phải chăng, thân thể của đời sống cũng đang đóng vảy?

Không hiểu tại sao gần đây hắn thường xuyên nghĩ đến cái chết. Hắn thấy mọi thứ đối với bản thân nhòa nhạt, hư vô hóa. Cuộc sống thối rữa tận chân tơ kẽ tóc. Có một cái gì đó hỗn loạn, bất bình thường đang xuất hiện mỗi lúc một nhiều xâm thực vành đai đời sống này. Đó là tội ác, mất nhân tính, sự đe dọa, gầm gừ, áp lực vô hình cố khống chế một quả bom khổng lồ có thể nổ tung bất cứ khi nào. Những quả bom với hằng triệu, hằng tỷ cái chân của những con vi khuẩn đang nhúng, đang khoắng. Đôi lúc dự cảm căng thẳng làm hắn thấy thực tại như một con nhện cái khổng lồ đang mang vác, kiệu điệu cả một thành phố ngập nước bức bối chuyển đi trong cái bụng của nó. Cái tổ hay cái mạng cũ nó không còn yên ổn. Rách, thủng và đầy đe dọa. Nhưng nó vẫn muốn khống chế tất cả. Muốn lặp lại một trật tự an bình như xưa. Nhưng điều đó là gần như không thể bởi sự phẫn nộ, căm uất đang cao trào dâng lên ngập ngụa. Con nhện với giấc mơ âm u đồ tể và những cái chân cà kheo tật nguyền di chuyển chậm chạp mất phương hướng trên mạng lưới rách. Niềm tin duy nhất còn sót lại lúc này là nọc độc của mình. Chỉ cần chích vào ai thì lập tức kẻ ấy sẽ chết. Cái nọc độc mà con nhện tu luyện di truyền mấy kiếp đời nắm quyền lực. Trong cơn khủng hoảng này con nhện sẽ điên cuồng cắn xé thỏa thích. Nó sẽ tha hồ tiêm nọc độc vào những tội đồ nào muốn chống, muốn thoát khỏi vòng cai trị của hắn. Cái chết sẽ là lá bài hiệu lực. Nhưng lúc này đây mọi thứ  kiểm soát, trấn áp gần như vô hiệu. Thành phố hầm hập ngột ngạt như một cái lò chảo khổng lồ. Những tin tức bắt bớ hỗn loạn tràn đầy mặt báo. Và trong bóng tối những tay đồ tể đang điều khiển cuộc chơi bằng những cái điều khiển với những nút bấm sáng loáng.

***

Có những đêm đang ngủ hắn bừng tỉnh. Đối diện với khoảng không đêm tối rờn rợn. Hắn ngồi bó gối. Mắt trợn trừng nhìn bóng đêm. Những con dơi bay điên cuồng trong bóng tối. Những con chuột kêu chạy lít nhít đâu đó. Trên cao ốc hoang vu dội lại những tiếng còi xe về đêm. Không gian tịnh vắng vẻ. Tiếng thở của vợ con hắn vẫn đều đều. Đó là rễ cây trồng hắn vào cuộc sống vô cảm này.

Một con dơi chột với những đường bay mù lòa cảm giác. Hắn đã nhiều lần ngồi trong bóng tối quan sát con dơi đó. Một đôi cánh giãy giụa vần vũ trên không. Con dơi bay qua tấm thảm mền mùng rồi liệng một đường chớp ngang tường. Đôi lúc nó húc đầu vào bức tường ngã rụi xuống. Trên căn phòng đồ đạc ngổn ngang như những lô cốt.

Hắn gườm trong bóng đêm. Nghĩ về những cái vảy…  

Sớm muộn gì thì cũng sẽ chết nhưng hắn muốn tự kết thúc sớm. Hắn không thích những cái vảy tự chủ và ám trị. Những cơn ngứa xen lẫn những cơn điên, cơn đau ngày càng lớn dần. Cả nhân cách và nhân dáng rách tả tơi. Hắn không thiết lập được gì cho mình. Và lúc này những giá trị hắn đã từng xây dựng bằng tác phẩm cũng sụp đổ không thương tiếc. Hắn thấy mọi thứ hư vô hóa. Chỉ có ngày hôm nay. Ngày mai mất tăm mất dạng.

***

Mà sự thật thì chính hắn không còn tin một chân lý nào của thời đại này nữa. Tâm hồn và thân thể hắn đã mọc vảy thế mà chỉ một cái vảy niềm tin lại không. Một vảy niềm tin là xa xỉ. Ô la la! Tất cả hóa rồ cả rồi! Trạng thái sống dở chết dở biểu hiện trong bất kỳ một công việc nào hắn làm. Và thường công việc đó bị cắt đứt đột ngột bởi sự phi lý không còn chịu đựng nổi. Những cơn đau làm vỡ tim hắn. Hắn vẫn cố bám giữ những trang viết như ánh lửa tuyệt vọng trước khi bị cuốn vào cảnh khốn cùng. Viết giữa vết thương loang máu. Những trang viết chống sự thoái hóa căn bệnh vảy đã ăn toàn thân. Trước cơn run rẩy hoang sơ cuối cùng khi vết thương khép miệng, đóng vảy. Những ý nghĩa còn ngậm kín máu trong con mắt chết hấp hối giữa vết thương. Thời cuộc đang đẩy cuộc sống này vào cái hố diệt vong và cáo chung. Cái chết ăn tất cả, ngoại trừ ta! Ngập ngụa trong mớ lý thuyết hỗn độn bẩn thỉu quên bàn tay thần chết đang rờ rẫm trên mặt mình.

Cái chủ nghĩa toàn trị tha hóa vô vọng...

Hắn không còn nghĩ được điều gì cho ra hồn ngoài sự ngứa ngáy và luôn thèm làm tình, thèm cưỡng hiếp gái trinh. Chỉ có gái trinh mới là ý nghĩa cuộc sống của hắn. Đó cũng là một cách giải phẫu cân bằng năng lượng và tâm sinh lý. Khi làm tình với một gái tân hắn lại sung sướng như tiêm một mũi nọc độc vào thân thể và tâm hồn một thiên thần trong trắng. Cưỡng bức các thiên thần và thú vui của hắn. Tại sao? Hắn muốn lây lan căn bệnh vô phương cứu chữa của mình để cuộc sống bị đầu độc và suy thoái nhanh hơn. Như vậy là hắn vô tình tiếp sức cùng cuộc chơi của Thần Chết. Một phản ứng bệnh lý. Thực ra thì hắn chưa bao giờ làm được thế. Hắn chỉ bị dày vò giữa hai thái cực tội lỗi và thỏa mãn. Nhưng đôi lúc đồng vọng trong trí não hắn: Cả xã hội lở loét như vậy thì tại sao hắn không làm như vậy?

Nhiều người sẽ bảo cuốn sách này của hắn là tăm tối, rối hoắng và dơ bẩn. Là mất nhân cách. Vô nhân tính. Vâng! Tôi biết thế. Nhưng tôi đang làm một cuộc đại phẫu, một phép loại trừ. Đừng tìm kiếm một ý nghĩa nào đó ở đây. Tôi tha hóa suy đồi khốn nạn từ lâu lắm rồi. Cuốn sách này đáng để vứt vào sọt rác. Nhưng liệu các ngươi có hơn kém gì y trong sự câm lặng khuất phục để giữ mạng sống cho cuộc tồn sinh này? Một hơi thở cũng giật mình vì thoáng bóng họng súng vô hình nào đó. 

Hắn đến Paris vào lúc mười giờ tối. Chuyến bay đầu tiên vào thế giới tự do làm mọi trật tự trong hắn bị chao đảo hỗn loạn. Mãi đến tận sau này hắn vẫn còn chưa tin nổi là mình đã đến được Paris. Thất lạc hành lý.

***

Có những ngày hắn thèm chết. Thèm một cách kỳ lạ. Sự cô đơn ngập ứa.

Hắn cảm giác bị theo dõi, bị rình rập ở đâu đó. Một cuộc sống cùn nhụt. Hắn đã nhắc đi nhắc lại là cuộc sống cùn nhụt không biết bao nhiêu lần. Theo dõi cái gì nhỉ? Con rận đang bò trong vết thương lở loét của hắn chăng? Và viết vô vị. Vật vờ. Trôi nổi buồn ngủ trên đầu các giác quan. Héo quăn. Buồn như những cơn điên nhạc rap. Hắn muốn trôi về một vùng biển nào đó lưu cữu một mình. Chết cháy và chết chậm trong vị mặn của mặt trời và của muối. Tháo vỡ một cái nút máu.

Hắn thử một động thái nào đó. Cho là còn sự sống. Nhưng rồi đó là động thái đơ. Động thái vô nghĩa. Như một cơn ngứa bùng loạn da cam ở đâu đó sâu xa rối rít trong nội tại. Nội tạng cũng bắt đầu có vấn đề. Phân hủy. Nổi u. Kết đặc. Loãng. Nhễu. Nói chung là sự chết âm u có mặt. Hắn thở nhẹ như cái chết. Hắn ý thức được một điều có một cuộc nội chiến đứt rễ và đau buồn đang diễn ra. Sự sống hắn chỉ còn biểu hiện trong động thái đơ. Có nghĩa là còn nghĩ và còn gõ xuống những câu vô nghĩa. Rồi ngay cả những ngón tay mù cũng sẽ không còn nhận dạng được bản mặt của bàn phím.

***

Rồi hắn thấy có bao nhiêu khát khao dằn vặt, khi ngồi vào bàn viết hắn đổ xuống chừng ấy. U uất. Buồn nản. Sợ hãi. Lo toan. Đói khát. Tại sao vậy?

Làm sao hắn bơi hay giải phóng ra khỏi những kềm hãm của con người và cuộc đời? Hắn viết chích máu. Máu trong văn. Trong thi tứ. Một lần hắn viết xong có gì ngập trong cổ họng. Đứng dậy khạc ra một bãi đờm đỏ. Thì ra hắn ngậm chữ mửa máu.

Hắn không hiểu nữa. Hắn sống những ngày buồn rã. Quắt quơ. Một thứ mặc cảm suy nhược. Âm u như đất đai âm thầm nuôi cái rễ cây ngôn ngữ. Một ngày cất lên tiếng nói man dại. Không rõ. Hãi hùng. Nói tới đâu đau tới đấy. Cảm giác bị rách toạc từng miếng. Tuy chỗ dày chỗ mỏng nhưng rách toạc. Có thể thò tay vào ngực bóp trái tim được. Ngày tháng lũy thừa trên thôi miên của nỗi đau. 

***

Những phức ngợp lợn cợn làm hắn bẫy một buổi sáng trong phin cà phê đen. Bên tai hắn là tiếng hát hóa rồ và một thằng cha lảm nhảm những điều chó đẻ. Những cái vảy ngủ yên như chết. Hình như nó biến mất khỏi sự tồn tại trong giây lát.

Viết một cái gì đó. Không! Không viết một cái gì đó. Rõ ràng có một cái gì đó đang giăng bẫy. Phố xá nghiêng ngửa những ống cống. Rác rưởi. Vô tội vạ. Tín đồ của rác. Rồi chết ngập trong mớ hỗn độn của phế liệu. Chất liệu.

Những cơn mưa áp thấp tối, ghẻ. Những ngày tháng sập hầm cầu. Đâu đó bão lụt rút vào những hốc tối hay chân cầu tận trong tâm hồn. Cũng đã đến lúc dừng những giới hạn. Nỗi đau như cái lưới câu rút. Vô nghĩa thật. Trôi đi. Trôi đi.

Những chân cầu tâm hồn. Đưa đến cái ngách tận cùng. Không còn nỗi tuyệt vọng hơn nữa. Dừng lại để stop. Để chế ngự cơn điên.

Viết lách làm quái gì phải là một công việc. Nó là một cái gì nhai nhách. Xám xịt. Như vén một bức màn tối và tình cờ chạm phải một thứ gì tởm lợm. Nghiện cái lạnh lẽo của...

***

Thật ra những tháng ngày này hắn không chờ đợi gì hết. Hắn trôi đi như rác rưởi thốc vào cống rãnh. Một không gian buồn nôn và hiện sinh vây chắn. Thời cuộc có nhiều dấu hiệu kỳ lạ. Mưng mủ, thác loạn vô tổ chức như một cơn bệnh. Hôm qua cảnh sát đã vào tòa soạn bắt các nhà báo chống tham nhũng bỏ lên trên những chiếc măng ca bít bùng chở đi. Những nhân vật cách đây không lâu là những người hùng trên lĩnh vực đấu tranh đến cùng vạch trần những quan chức chống tham nhũng. Bây giờ thì tên quan bị cho là tham nhũng đàng hoàng thoát ra khỏi nhà tù và thay vào đó là các nhà báo đã từng viết bài. Điều quái gở gì vậy? Thực sự hắn thấy buồn cười ngớ ngẩn ly kì như chỉ có trong tiểu thuyết.

Đời sống tinh thần của hắn tàn tạ, héo rũ. Sự căng thẳng, trí trá khốn nạn của đám diều hâu trong tòa soạn làm hắn ngột ngạt muốn chết. Hắn phải kéo doãi dây thần kinh để chịu áp lực và đối phó. Có một đấu thủ vô hình luôn bất ngờ xuất hiện và nện vào hắn những chùy búa tạ. Đó là sự nghi kỵ, phăng teo và kiểm duyệt. Một cái thòng lọng vô hình đã căng bẫy hắn cùng những thứ đã viết của hắn. Những con chữ nô lệ vô cảm, hắn đã cố gắng triệt hạ đến cùng những cá tính thả bơi tung tăng hệt những con cá mù trong bể chữ vẫn bị tiêm kích tìm nọc độc. Hắn làm gì đối thủ hắn cũng không tin. Lúc nào hắn cũng bị theo dõi từ phía sau. Cứ như hắn là một tên phù thủy chữ nghĩa giấu tà thuật khi viết vậy!

Một người bị một căn bệnh lạ là mỗi lần nói thật thì lưỡi chảy máu. Y tìm mọi cách chữa trị căn bệnh đó. Tuy nhiên từ đấy về sau khi y nói dối thì lưỡi trơ trơ và không còn nhỏ máu nữa. Vậy tại sao y lại nói thật?

Chất độc vẫn có trong mỗi chữ, mỗi dòng hắn viết. Đó là ánh thép xanh, nhựa của cuộc sống bị giết chết. Đè nén. Viết như sự tử thủ cuối cùng...

 

2005

 

 

Phần II

_______________

 

HÕM NGOẶC

 

 

NƠI TRÚ ẨN AN TOÀN 

 

Một người vì quá sợ hãi đã quyết định đào một cái hố nhảy xuống để trốn. Ban đầu chỉ là một cái lỗ nhỏ đủ cho y giấu hai tay mình cốt không ai biết y làm gì. Sau đó là một cái hốc lớn vùi hai chân để không ai thấy y đi đâu. Vẫn chưa an toàn. Y quyết định chôn toàn thân. Đất phủ rào rào lên mặt y. Thân thể y đã lọt thỏm bất động dưới cái hố.

Nhưng nỗi sợ hãi cứ tiếp tục dâng lên. Y thấy một họng súng vô hình đang ngắm vào giữa trán và đỉnh đầu y. Thế là y quyết định chôn luôn gương mặt. Đất xé ào ào, từ từ ngập lên cổ, lên cằm, lên miệng, lên mũi và lên mắt. Rồi y không còn nhìn thấy. Cả người y khuất vùi trong lòng đất.

Nhưng khi đã ở trong đất, y vẫn không hết sợ. Y tiếp tục đào loằng ngoằng những đường hầm liên thông ngoắt ngoéo để chạy trốn. Y đào đến đâu nỗi sợ hãi theo ngự trị đến đó. Không bao giờ y thoát ra phía bên trên hay bên ngoài nó cả.

Khi y chết bạn bè chỉ biết và chỉ thấy một miệng hố sâu thăm thẳm nơi y bắt đầu đào xuống. Nhưng không ai đủ can đảm thử thách độ sâu của cái hố sợ hãi để xác định biết y đang nằm ở cái ngách nào trong cái hố của mình mà móc xác y lên.

 

Sài Gòn, 12.2003

 

 

MÁY IN TÂM HỒN

 

F. là một thi sĩ nổi tiếng của thời đại X. Nhiều bài thơ anh viết được truyền tụng khắp xứ sở này như một báu vật của thượng đế qua F. ban tặng cho nhân gian. Nhưng rồi một hôm F. tắt tịt. Không còn viết được bài thơ nào nữa. Đó là mối lo lắng của anh.

Thật ra F. cũng thấy chẳng còn ý tưởng nào độc đáo để hứng khởi viết. Đầu óc anh cằn cỗi như đất bạc màu sau những mùa nuôi quả ngọt. Anh luôn bị choáng và nôn ọe khi nghĩ đến chữ. Tâm hồn anh tối tăm như màn đêm ngày tận thế. Vì thế, nếu áp đặt, có viết thì thơ cũng chẳng còn hay. Nhưng ngặt một nỗi anh không thể để đám đông trông đợi lâu. Từ lâu anh đã tạo cho họ một thói quen luôn có những bài thơ mới của anh để ca tụng như việc làm công ăn lương mà xứ sở này giao cho họ.

Đang tìm cách thoái thác thì một hôm khi F. còn ngủ, một gã nhân viên hai mặt tai tái, tay cầm ống sáo, tay cầm tờ lệnh ngoe nguẩy đi vào. Hắn dùng tay kéo cái mền đang đắp trên người anh, giọng nhừa nhựa như con gái:

- Ông F. phải không? Bao giờ ông có bài thơ mới giao cho chúng tôi đây? Mọi lần ông vẫn giữ đúng hẹn. Sao lần này trễ thế!

F. mắt nhắm mắt mở vì ngái ngủ, khum tay để nhìn xem là ai mà dám đi xộc vào phòng mình. Trông gà hóa cuốc. F. thấy nhập nhem một thành hai. Lúc loa lóa hai thành một. Đó là tay thổi sáo trúc và gã diễn viên ngâm thơ. Lâu nay những bài thơ của anh viết do chính hai tên này thực hiện. Cùng với tiếng sáo trúc du dương, đưa bài thơ ru ngủ hôn mê đi khắp trên thế giới.

- Tôi mệt lắm. Không viết được! - F. trả lời - Tại sao các ông bà không lấy mấy bài cũ ra xào lại?

- Nhà thơ thì phải luôn sáng tạo ra tác phẩm mới chứ! Ngâm hoài bài cũ mà ông không thấy chán sao? - Tên thổi sáo ngoe nguẩy.

- Ừ, thì các bác cứ đợi. Nhưng nói trước lần này hơi lâu đấy! - F. nói. - Máy in của tôi hết mực rồi!

- Cái gì? Ông bảo cái gì hết mực? -Tay diễn viên ngâm thơ giọng nhẽo nhừ không hiểu, ngạc nhiên hỏi lại.

- M-á-y i-n c-ủ-a tô-i h-ế-t m-ự-c!- F. dằn mạnh từng chữ - Các ông nghe rõ chưa? Rõ rồi thì cút xéo đi cho tôi nhờ…

Cả hai tên hớt hải đi xuống. F. tiễn khách bằng cách đá chân vào cánh cửa "rầm" một cái. Dưới khán phòng lố nhố một lũ người đang chuẩn bị quay chương trình. Thấy xuất hiện, tất cả nhao nhao:

- Thế nào? Thế nào? Có tác phẩm mới của F. chưa?

- Có đâu mà có! - Mặt hai tên nhòe vào nhau, xụi xuống. -Hắn nói máy in của hắn hết mực rồi!

- Máy in hết mực à? Máy in nào nhỉ? - Tay kéo đàn nhị tỏ vẻ ngạc nhiên. -Lâu nay chúng ta vẫn in chung một máy của cơ quan mà!

Bà nghệ sĩ trình diễn tay ôm tấm bằng ghi nhận ưu tú nộp hai mươi triệu, mặt bôi trét toàn son phấn. Trông như chảo màu khổng lồ. Dẩu cái môi lên:

- Thì tôi đã nói mà các ngài không tin. Cần phải theo dõi thằng F. Hắn có máy in riêng. Bây giờ hắn đổi giọng đấy. Các ông các bà thấy chưa? Thơ nghị quyết mới hắn không viết. Rồi mực in nữa. Hắn in cái gì mà đến nỗi hết sạch cả mực nào?

-À, thì ra thế! Tưởng gì! - Tay trưởng đoàn hom hem, luôn sủa khục khặc như thiếu hơi vì mê gái, khoát tay, -Máy in hết mực thì dễ lắm! Để tôi gọi giám đốc duyệt thay cho y một cuộn mực mới nhé!

 

Sài Gòn, những năm 2003

 

 

KHÁCH LẠ LÚC NỬA ĐÊM 

 

M. là một nhà báo nhưng rất yêu thích văn chương. Thường thì nửa đêm về sáng M. vẫn thức dậy để viết. M. cho rằng khoảng thời gian ấy tuyệt đối yên tĩnh để có thể tự do sáng tạo tác phẩm mà không bị ai quấy rầy. Nhưng khứa kinh hoàng khi biết mình đã lầm. Một tay mật vụ ngồi chờ sẵn ở đó từ bao giờ.

M. biết tay này do đã mấy lần vào phòng X. để thu thập tin. Hắn có khuôn mặt trắng bệch như sáp. Hai con mắt bé tí như hai hạt đậu. Còn cái cằm vêu vao như được vót nhọn hoắt chìm trong bóng tối thì đang ngoáy tít như vẫn mải mê ghi chép trên nền không gian đêm những câu chuyện bí mật gì đó.

- Ông tới từ bao giờ? - M. hỏi.

- Sở tôi đây mà - Y không ngước nhìn lên. Trả lời nhấp nhoẵng. 

- Sao đến khuya thế? - M. hỏi và chợt lạnh người khi không rõ đáy quần mình ướt từ lúc nào.

- Không đến nhưng muốn đến là đến. Muốn đến nhưng không đến vẫn đến - Y đáp trả uể oải vu vơ như đang chập chờn trong giấc mộng.

- Bất cứ lúc nào ư?

- Ừ!

- Mà tôi đâu có làm gỉ! - M. buột miệng rồi tự dưng cảm thấy lúng túng, - Vâng! Quả thật là tôi vẫn chưa làm gì mà!

- Ừ! Tôi xác minh cho ông đúng là cho đến giây phút này ông vẫn chưa làm gì! - Y nói trong khi cái cằm nhọn như cây bút vẫn khoát hoạt nghí ngoáy, - Chưa làm gì thì tôi mới ngồi đây! Làm gì thì đã có chuyện khác rồi!...

M. thấy những ý tưởng sáng tạo độc địa đã khiến khứa háo hức bật dậy ngay trong đêm bắt đầu từ từ rã băng hay như sắt thép nguội bị nung ở nhiệt độ cao từ từ tan chảy. Rồi tất cả chỉ còn là một đống nhão nhẹt. Tất cả trơ lạnh, bầy nhầy, hỗn độn. Không sắc màu. Không cảm xúc. Không mẩu tự.

- Thực ra tôi muốn viết một cái gì đó nhưng chưa kịp viết thì ông đã đến - M. kinh ngạc. Khứa không thể ngờ mình sợ sệt hay ngu ngốc mà bỗng buột miệng thốt ra một cách dại dột điều nguy hiểm, nghiêm trọng ấy. Mặc dù rõ ràng nó chỉ là mớ khái niệm vô nghĩa.

- Tốt lắm. Cứ nên nói sự thật - Y bàng quan trả lời. M. vừa dùng cái cằm nhọn khoanh một dấu tròn trên giấy. Rồi như vẫn chưa vừa ý, y lại lấy tay thấm nước bọt tẩy xóa. Cái cằm bị trì sát, vẹo hẳn qua một bên như gãy gập. Nhưng khi vừa bật ra khỏi trang giấy, nó lại nhọn hoắt lên.

- Tại sao ông vào nhà tôi lại không cho biết? - M. cảm thấy bực tức. Khứa bẽ bàng đau đớn. Toàn thân ớn lạnh. Thì ra lâu nay khứa vẫn bị theo dõi ư? Tai khứa đã nghe rõ từ đáy quần những giọt nước nhỏ long tong trên nền nhà.

- Nhà ông? - Đang chăm chú viết, y bỗng dừng lại, ngước đôi mắt bé tí như hai hạt đậu nhìn lên đầy vẻ ngạc nhiên. - Tôi đang ở công sở! Và vẫn đang trong giờ làm việc mà! Chẳng phải là ông vẫn đến và chúng ta đã từng quen nhau hay sao?

- Thôi, tôi mệt quá! Phải đi ngủ đây! - M. nói và cảm thấy đầu óc rối tinh rối mù. Chưa bao giờ khứa bị rơi vào trường hợp thế này.

- Tôi mở cửa cho ông về nhé?

Tiện tay, M. bật tung luôn cả hai cửa chính và cửa sổ. Nhưng chính khoảnh khắc ấy khứa càng ngạc nhiên không rõ tay mật vụ vào nhà bằng cách nào trong khi cửa vẫn đóng...

- Khỏi cần! - Ông cứ lo việc mình đi! - Y há miệng cười vừa tỏ rõ nham nhở vừa khinh bỉ, - Ngủ hay không ngủ gì cũng được! Nhưng nhớ phải thay quần...

Hàm răng hô của y mở ra trong đêm sáng loáng như cái gọng kiềm. Nụ cười duy nhất của y từ nửa đêm đến giờ.

M. tắt đèn, lặng im quan sát. Vẫn thấy y ngồi bất động, đờ đẫn trong bóng tối. Tại sao y vẫn chưa chịu ra về nhỉ? Khứa đã mở cửa rước y rồi mà!

Và M. ngủ thật. Lúc đó khứa mới thấy tay mật vụ đứng dậy. Hắn không đi ra cừa sổ hay cửa chính. Hắn bước tới dùng hai tay xé toang cái đầu khứa và bước thẳng vào đó...

Sài Gòn, Thảo Cầm, 2004

 

 

NGÀY CUỐI

 

Hôm nay là ngày cuối cùng anh ở trần gian.

Anh dậy sớm. Còn nhiều việc làm quá. Những năm tháng sống qua mình đã làm gì mà những việc quan trọng nhất của cuộc đời mình thì anh vẫn còn để dang dở nhỉ?

Anh định viết cho hoàn chỉnh một truyện ngắn. Rất ngắn thôi cũng được. Làm sao bao quát hết những trải nghiệm hay những suy tư của cuộc đời mình. Cuộc đời mà Thượng Đế ban cho anh quá ngắn ngủi và trầm trọng. Cuộc đời mà anh chỉ còn một ngày hôm nay nữa là kết thúc.

Anh bắt đầu ngồi vào bàn và viết. Bắt đầu như thế nào là phải nhỉ?

Ừ, thì tôi yêu cuộc sống quá. Nhưng cuộc sống này thì có yêu gì tôi. Những ngày tôi hiện tại quá đau khổ đến mức cả cuộc đời tôi chỉ đi tìm mãi một nơi an toàn để trốn. Sống mà sao lại trốn nhỉ? Ồ, vậy mà nó thế đó. Tại sao có những giây phút bối rối cực kì. Tôi chỉ thấy cái chết là có ý nghĩa. Ôi, cuộc đời tôi!

Tôi cứ tưởng là mình sẽ sống mãi mãi. Nên luôn dựng lên cho mình bao nhiêu là rào cản. Là bè phái. Tôi cứ chơi chúng sát ván và không ít lần chúng chơi tôi bật ngửa. Nhiều lúc mặt mũi ai cũng đỏ lòm. Bây giờ ngày cuối đến rồi! Tôi thực thấy mình bỏ phí nhiều thời gian quá!

Ngày cuối. Mà tại sao lại ngày cuối nhỉ? Vẫn sẽ còn nhiều ngày chứ! Nhưng những ngày ấy thuộc về thời gian khác, không gian khác. Những chiều kích không còn có tôi hay các anh. Một thế kỉ nữa sẽ mất. Chúng ta là những cái xác già nua và thêm nhiều thập tự giá dựng lên, bên những hàng tên tóm tắt một cách sơ lược và man rợ ngày tháng năm sinh của chúng ta.

Trong những năm tháng tôi sống, chuyện mưu sinh đã cướp đi của tôi nhiều sinh lực quá. Thế kỉ của tôi, những nhà văn vẫn còn đói ăn và đồng tiền có sức mạnh lôi kéo họ nhiều hơn con chữ. Những tác phẩm viết ra nguội lạnh ngay sau đó.

Anh không biết sẽ viết thêm những gì nữa vào ngày cuối của cuộc đời anh.

Thảo Cầm,18.3.2004

 

 

CHUYỆN Ở MỘT XỨ LẠ

 

Ở một xứ lạ đông dân, thiếu việc làm nên nhiều người thất nghiệp. Không có tiền tiêu, cách giải trí tốt nhất với họ là buôn chuyện. Những máy quay tọc mạch vào đời tư, công việc của nhau. Ban đầu thì chỉ để vui vẻ nhưng về sau thì lắm kẻ thấy có lời. Ví dụ như biết được chuyện hùn hạp làm ăn, hẹn hò tình nhân, đánh quả của kẻ khác.

Và mọi việc phức tạp khi một tay lõi nhận ra đây là cơ hội kinh doanh. Khứa lập đường dây đầu cơ để bán lại tin tức cho kẻ cần dùng. Lúc đầu chỉ một hai người cần đến nhưng sau đó thì rất nhiều người bởi tin tức liên quan đến công việc làm ăn và sinh mạng của họ. Nhân viên của khứa cũng sẵn sàng đáp ứng theo dõi một kẻ lạ từ đâu đến, đang làm gì và quan hệ với những ai? Công việc càng phát đạt, khứa càng phải cố cung cấp cho được những thông tin tuyệt mật, đắt giá, chi tiết và cụ thể. Ví dụ như, nó đã viết những gì trên giấy? Nhân vật X. nó gặp là ai? Sự thật tay áo đen đội mũ phớt kia là gì? Tại sao hắn đã ngồi trong toilet lâu như thế?

Thấy khứa kiếm được khá, nhiều kẻ khác cũng bắt chước khứa nhảy vào kinh doanh và tạo ra một cuộc cạnh tranh. Để tồn tại bọn cá đã phải mở những lò đào tạo chuyên nghiệp, bảo hiểm ngón nghề độc quyền và bành trướng quảng cáo. Một trong những bảng hiệu đỉnh cao, đạt doanh thu lớn nhất của thời bấy giờ là: Nó đang nghĩ gì trong đầu?

Bây giờ xứ lạ đó ai cũng có việc làm, nhưng lại rất thong dong, nhởn nhơ nhàn hạ. Thấy bất cứ ai cũng tay bắt mặt mừng. Cứ như lâu rồi không gặp. Nói chuyện được lần này có chết bất đắc kì tử cũng thỏa. Sau đó chúng lẻn ra một chỗ kín quay điện thoại hay mở cuốn sổ hí húi ghi chép, gạch xóa từng kí hiệu.

Chúng đang tính toán với cú úp máng hay đưa vào rọ này sẽ kiếm được bao nhiêu?

Cũng đâu có gì khó hiểu. Thì tôi đang viết một câu chuyện về xứ lạ mà!


Sài Gòn, 2004

 

 

NHÀ VĂN LỪNG DANH  

 

Nhà văn lừng danh thế kỷ hai mươi là người cả một đời viết ngay hàng thẳng lối. Những con chữ của ông thả xuống giấy chắc nịch như chôn xác người trong nghĩa địa. Chữ đã tắt thở trước khi ông kịp mơ mộng về nó.

Cứ thế sáu mươi năm. Ông viết những cuốn sách kiên nhẫn như xây những hầm mộ chữ.

Một hôm, ông biết mình đã già không cần phải cầm tù chữ nữa. Cứ để chữ loạn ra giấy như sự phóng đãng của trí nhớ xem sao. Và thật kinh sợ. Ông thấy âm binh chữ đã chết từ những năm xửa năm xưa bỗng kéo về rần rật vang động cả đêm. Hết đợt gió loạn này đến cơn bão lốc khác. Thì ra cả cuộc đời ông có biết viết văn đâu. Ông giết văn thì có. Để được an toàn ông bóp chết sự thật. Triệt tiêu cảm hứng. Những câu chữ giả dối, bịp bợm trơ khấc như những cái đầu lâu. Bây giờ từ hơn sáu mươi tác phẩm đã viết ra của ông tự xé toang những cánh cửa địa ngục cho ma chữ, hồn văn lần đầu tiên đội mồ sống dậy. Chúng dắt díu nhau đi vờ vật, khóc lóc oán than suốt đêm. Cùng với lũ mọt mối, chúng bắt đầu nhảy nhót bao vây tấn công căn nhà văn chương của ông. Chúng liên tục bắn vào đầu ông những mẫu tự alphabet sắc cạnh như lưỡi rìu. Những dấu hỏi (?), chấm phẩy (;), gạch ngang (-), cộng (+), trừ (_), hai chấm (:), ba chấm (…), thách thức, nghi vấn, khuôn mẫu. Những chấm than (!), ngoặc vuông ([]), ngoặc kép (“”), ô móc (@), phần trăm (%)… lạnh lùng, tù túng, trêu ngươi. Nhà văn choáng váng quay cuồng. Thấy đầu đau như búa bổ. Ngực ông bóp thắt lại. Ông gục xuống tại chỗ.

Nhiều ý kiến chẩn đoán nguyên nhân cái chết của nhà văn lừng lẫy thế kỷ hai mươi là tai biến mạch máu não. Nhưng bên pháp y của viện công tố thì không đồng ý. Bởi khi mổ cái đầu của nhà văn ra xem xét họ thấy hộp sọ ông rắn và cứng như đá. Những lớp nơ ron thần kinh xoắn choãi vào nhau như cốt thép dầm giáo bê tông. Não trạng thoái hóa gần hết. Dao lách vào vụn vỡ từng miếng loạt xoạt như cạo vôi trên bức tường lở.

Toàn tập của nhà văn gồm mười hai cuốn đã được in ấn và tổ chức phát hành sau đó nhưng nghe đâu đã gặp nhiều kiện cáo. Bạn đọc viết thư khiếu nại gửi đến ông giám đốc nhà xuất bản phàn nàn, kêu ca là tại sao họ đã bỏ số tiền lớn để mua bộ sách nhưng đem về chỉ thấy toàn giấy trắng mà không tìm thấy chữ nào…     

Thảo Cầm, Sài gòn, 4.2004    

 

 

ĐẦU VÀ ĐỈNH

 

Một nhà luyện ngôn đặt ra giải pháp vận hành là làm sao phải giải phóng mọi hình thức để tìm đường đi đến Đỉnh Chữ. Ông lí giải rằng, sở dĩ nhiều tác phẩm văn học, đặc biệt là Thi ca và Tiểu thuyết trong thế kỉ vừa qua, vốn xoàng xĩnh, tầm thường, lẩn khuất giữa các vị trí là do các nhà thơ, những nhà sáng tạo ngôn ngữ chưa biết được cách kéo chữ lên đỉnh, mà chỉ mới chỉ ở lưng chừng con dốc thời đại.

Thật khó mà kể hết mọi gian truân, kì bí, thử thách trên con đường tu tập đó của ông. Chỉ biết rằng một buổi sáng nhà luyện ngôn đã thành công. Ông thấy mình đang đứng heo hút trên Đỉnh Chữ. Xung quanh gió buốt phần phật hiểm hóc như chỉ chực lật nhào ông xuống. Dưới chân ông là hàng núi sách của thế giới rần rật sạt lở. Tất cả chuyển động xoáy tít vào một lỗ đen, rối rắm như một ma trận và mọi thứ rập rềnh như đang cuốn trôi đi, mất hút ở đâu đó trong đại dương.

Quá kinh hãi, ông ta lấy hai tay bưng đầu thì kinh hoàng nhận ra đầu ông đã mất từ khi nào. Làm sao có thể chính danh nếu như không có đầu? Lập tức nhà luyện ngôn nhảy xuống khỏi đỉnh quay ngược lại tìm đầu.

Thì ra trong lúc vận hành để băng lên đỉnh thời đại với một tốc độ khủng khiếp cái đầu ông bị chém đứt phăng, văng lông lốc, và chui tọt nằm sâu trong một ngách khuất lịch sử. Phải mất thì giờ xác định, đào bới dò tìm rất lâu ông mới xác định được đầu của mình để gắn vào cổ và chạy tiếp. Nhưng vừa đặt chân lên đỉnh thì ông lại bị rơi đầu. Quay lại loay hoay tìm đầu thì chân ông hụt đỉnh.

Đến bây giờ nhà luyện ngôn vẫn còn lẫn lộn không biết thế nào là đỉnh và thế nào là đầu?


SàiGòn,12.2003

 

CHỦ VÀ THUYẾT

 

Một nhà văn chủ trương thuyết ý niệm trong sáng tạo. Theo ông, mô tả sao chép hiện thực trong văn chương sẽ bị lẫn với loại hình báo chí hay các thể loại nghệ thuật sân khấu, điện ảnh, ca kịch khác. Văn học là phải ý lẫn vào ý. Thâm nguyên uyên cương kết hợp cùng bố cục giản dị. Sáng tạo thực thụ chỉ nên dùng thuyết ý niệm. Có nghĩa là mượn hình tượng này để ám chỉ một hình ảnh khác. Nói bóng, nói gió. Kích xa hiểu gần. Ví dụ bạn đọc thấy con chuột nhưng phải hiểu ý nhà văn gợi là con voi. Viết tầng trệt thiên đường nhưng thực ra đó là cái nhà ngục của đời sống. Khen có nghĩa là chửi. Căm thù thì nói là yêu thương. Bôi bẩn chính là cải cách xã hội.

Như một con thiêu thân, nhà văn say sưa đắm đuối thực nghiệm quan điểm ý niệm của mình trong cái thế giới sáng tạo mà ông đề cao chủ thuyết đó. Mặc cho thực tại ngổn ngang và bạo tàn.

Nhiều khi ông cũng quên luôn ý niệm mình là một nhà văn. Trong hang ổ biểu tượng ông trau chuốt và khảm những câu văn kì khu độc đáo như một người thợ kim hoàn. Ông biến con đường mòn thành cánh rừng. Dòng sông thành biển. Sự khổ nạn thành đặc ân cứu rỗi. Cái chết thành những huyền thoại.

Và rất nhiều bạn đọc qua văn ông cũng đã thấy ông tài ba đúng là một người thợ kim hoàn.

Cuối cùng thì trong nghệ thuật ý niệm của chính mình, nhà văn cũng chỉ là một ý niệm nhỏ.

 

Thị Nghè, 14.3.2004

 

 

MÙI THƯỢNG ĐẲNG

 

M. là một nhà thơ trẻ. Anh yêu cội nguồn ca dao và các thể thơ truyền thống. Sách giáo khoa giáo dục anh rằng dân tộc anh là dân tộc anh hùng. Quyết chiến quyết thắng. Vì thế M. luôn tự hào nòi giống mình là thượng đẳng. Có thể đứng trên đầu các dân tộc khác.

Năm đó, M. đi xuống Sóc Trăng, một vùng đất của miền Tây, nơi có rất nhiều người Miên sinh sống, để viết. Và anh đã tận mắt chứng kiến một sự việc như sau:

Trong lễ hội Ok om bok[9] hàng ngàn người Miên từ các phum, sóc đổ về thị xã để kịp tham dự đua ghe ngo, một cách tạ ơn thần thánh. Một niềm tin tối thượng giúp họ nổi lửa đi suốt đêm. Lần đầu tiên cái thị xã nhỏ vốn hiền lành và êm đềm bỗng trở nên hỗn loạn như sắp sửa bị đánh chiếm. Có một mùi lạ đang từ từ bốc lên. Nó len lỏi một cách kiên định và nhẫn nhục tràn qua mọi cửa sổ để chiếm lĩnh mọi ngôi nhà trong phố. Đúng một giờ sáng, cái mùi bất chính thống bất ngờ tấn công thẳng vào khách sạn mà M. đang ở. Đang viết một bài thơ lục bát, M. giật mình khiếp đảm không hiểu ở đâu ra một cái mùi khăm khắm như xác chết vậy. Anh vội vã đóng sầm cửa sổ. Đêm ấy, M. không ngủ. Cái mùi lạ chờn vờn lẩn khuất trong phòng như một tên phiếm loạn đã đột nhập và đang rình rập chực cắt cổ anh.

Nhưng rồi sáng hôm sau khi hòa mình vào dòng chảy của lễ hội, M. mới biết đó chính là cái mùi lưu cữu của mắm bò hóc[10] với vết chém cổ truyền Đôn-ta[11] cộng với thời tiết khắc nghiệt mục ẩm và không khí của xứ sở này đã quyện thành mùi kì dị đặc chủng đó. Lúc đầu M. liên tục khạc nhổ, chống đối lại điều đó. Bản năng mùi chính thống, mùi thượng đẳng vẫn cuồn cuộn bốc cháy trong huyết quản anh. Nó làm anh ngỡ có thể tuyên chiến, kháng cự đến cùng bất kể một thứ mùi lạ nào. Nhưng M. đã bị đánh hơi thấy. Anh bị nhận ra vì có một cái mùi bất chính thống trên cơ thể và bị nhìn bằng con mắt cảnh cáo, căm thù và nghi kị.

Ghe ngo đang lướt tới. Đám đông dẫm đạp lên nhau la hét điên cuồng và càng lúc càng hỗn loạn. M. bắt đầu cảm thấy ngạt thở. Hình như mùi của anh đang suy yếu và hấp hối trong khi có một mùi khăm khẳm cứ tiếp tục dâng lên. M. bỗng tru lên ăng ẳng như chó và anh bắt đầu nôn thốc nôn tháo. Rồi bất chợt, M. phát hiện ra một điều rất lạ. Hai chân anh đã tách khỏi mặt đất từ lúc nào và đang từ từ bay lên. Anh không còn cách nào khác để kiềm giữ trạng thái cân bằng mặc dù bài học về mùi thượng đẳng trong sách giáo khoa từng dạy anh về lòng tự trọng. Loáng một cái, M. đã bay qua khỏi đầu đám đông. Bồng bềnh trên biển mùi và mất hút vào trời xanh. M. tuyệt vọng. Anh đang bị nuốt chửng vào cái mùi lạ và bất chính thống ấy. Nó ném anh ra khỏi vùng ngoại biên dù còn hạ đẳng, bán khai và man rợ của nó.

Anh đã rơi xuống trên nóc chùa Mã Tộc[12] mà không bị sứt mẻ gì. Chỉ có những con dơi khổng lồ đang móc ngược mình đu đưa từ trên những ngọn cây cao tưởng anh ăn cướp với nó đã điên cuồng đập cánh một cách dữ tợn và la ó như sẵn sàng khủng bố…

Những ngày lưu lạc Sóc Trăng, 2002

 

 

CÁI LƯỚI

 

Một cái lưới từ trong vô hình trùm xuống một nhà văn mà ông không hề biết. Ông vẫn tưởng là ông rất tự do. Ông vẫn viết và sáng tạo những tác phẩm công bố trên báo chí trong tấm lưới càng ngày càng thu chặt lại. Kì thật là nhà văn không thể thấy rõ tấm lưới đó. Bởi nó được dệt bằng khối lập thể từ không gian ảo. Chỉ thi thoảng trong giấc ngủ những tấm voan thật mỏng thõng xuống từ cái lưới dài lướt thướt quệt lạnh lẽo vào ngực và mặt nhà văn mới khiến ông giật mình. Ông choàng tỉnh, thức dậy vẫn không thấy gì. Mặc dù cơn ớn lạnh vẫn đập bập bùng trong ngực. Dâng trào những đợt sóng nhiễm thể trên da ông.

Rồi một hôm nhà văn bị bắt. Ông không hiểu vì sao mình bị cuốn tròn trong một tấm lưới mắt cáo đan bện liên hoàn chằng chéo và toàn thân như bị miệng của một con thú dữ ngoạm lấy. Dù sao thì cũng nhẹ nhàng êm ả vô cùng. Những chiếc vòi bạch tuộc uốn rễ trên người ông. Thì ra là cái lưới. Lần đầu tiên ông thấy nó. Trông vừa vô thể vừa hữu thể. Cuộn trong nó cho ông tràn ngập một cảm giác vừa thân quen vừa xa lạ. Cố dụi mắt nhìn kĩ trong ánh sáng chói lòa của nó, nhà văn thấy có rất nhiều đoạn văn bện kéo chi chít dọc ngang trên tấm lưới ấy. Và nhà văn bỗng giật mình.

Thì ra tấm lưới đang thít chặt ông để nộp cho pháp luật ấy được đan bện bằng những câu văn ca ngợi tự do trong tác phẩm ông.

Sài Gòn, 17.3.2004

 

 

NGƯỜI ĐANG NÓI

Tặng Nguyệt Phạm

 

Một hôm tôi đang nói thì đã chứng kiến một chuyện lạ. Gương mặt kẻ đối diện với tôi bỗng nhiên chảy thệu méo mó rồi từ từ trương phình lên một cách kinh dị. Rồi cái miệng y bỗng há hốc. Từ trong đó bỗng phóng ra một loạt lưỡi dao nóng rực như lửa nhằm vào thái dương, cổ, ngực và mông tôi. Tôi nghiêng người qua phải, lách qua trái, nhảy lên, ngồi xuống, dạng háng để tránh. May mà thoát được. Nguy hiểm quá! Đối diện với một nhóm cử tọa có vũ khí thì thật nguy hiểm. Có thể họ sẽ sát hại tôi bất cứ lúc nào trong lúc tôi đang nói. Mà khi tôi chưa trình bày xong một vấn đề đã bị cắt đứt, bị loại bỏ nửa chừng thì sẽ không ai hiểu gì cả. Thật nguy hiểm vô cùng!

Vì thế miệng tôi vẫn tiếp tục nói. Nhưng tôi bắt đầu thấy thiếu tự tin. Lưỡi tôi đã nở phồng chật chội trong miệng mà vẫn cố sức tống đẩy ra phía ngoài những con chữ trầy trụa máu me. Tất cả bọn chúng đã bị thương khi rối loạn tự dẫm đạp lên nhau chen chúc để thoát qua vòm họng nhỏ xíu của tôi rồi. Nhiều chữ khi sổng được ra ngoài đã bị chính răng tôi ngoạm cho toác mặt, gãy mũi, dị dạng đến nỗi khiến cho đám cử tọa càng nghe càng kinh ngạc. Chiếc lưỡi gà của tôi vẫn chập mạch, gây nổ lép bép một cách điên loạn. Tuyến nước bọt kiên trì làm việc vẫn không chịu nổi công suất quá tải của yết hầu cao điểm đang chạy nước rút lên xuống. Đám đông bắt đầu sôi lên như đang ngồi trên biển lửa. Có tiếng kêu “Bắt nó đi! Khẩn thiết lắm rồi! Đừng cho nó nói nữa!”. Hết giờ ư? Thời gian của tôi ít đến thế sao? Vì thế tôi càng cố tranh thủ nói. Không! Tôi không thể chưa trình bày xong một vấn đề mà đã bị cắt đứt! Bởi vì thế sẽ không ai hiểu tôi nói gì cả. Mà không ai hiểu tôi nói gì cả thì điều tôi muốn nói không ra gì cả. Vấn đề cốt tử là chỗ đó. Thật nguy hiểm vô cùng.

Chữ nghĩa bắt đầu nổi xung, loạn xị, tràn lên chật cứng lấp họng tôi. Tôi vẫn nói trong khi rõ ràng hai tay tôi đã bị kẻ nào đó bẻ quặp ra phía sau kéo đi. Đúng lúc ấy, trong một khoảnh khắc nhỏ tôi đã tìm thấy cho vấn đề của mình một hệ thống trật tự mới chưa từng có trong các từ điển ngôn ngữ.

Nhưng tôi cũng đã nghe tiếng lách cách vang lạnh từ chiếc khóa sắt treo trên cánh cửa xà lim. Một đường hầm tối om dựng lên trước mặt tôi.

Tại sao vậy nhỉ? Thời gian của tôi ít thế thôi sao? Khi tôi chưa thể trình bày xong một vấn đề mà đã bị cắt đứt? Và như thế sẽ mãi mãi không bao giờ và không ai hiểu là tôi muốn nói và đang nói cái gì? Thật nguy hiểm vô cùng.

Trong xà lim bóng tối của thời gian, tôi vẫn tiếp tục nói…

Thảo Cầm, 8.3.2004

 

 

TIẾNG HÁT HAY CÂU CHUYỆN CỦA NG.

Bình thường thì tôi vẫn không tự tin lắm vào tiếng hát của mình nên chỉ dám khe khẽ ngâm nga trong thanh quản để không bị ai nghe thấy. Một hôm, vì quá cảm xúc, không kiềm được trào hứng, tôi đã hát thật to. Và hết sức ngạc nhiên, lần đầu tiên tôi phát hiện ra giọng hát của mình hay quá! Không giống ai. Hay hơn bất cứ một ca sĩ nào mà tôi đã từng được nghe qua trong thời đại của mình hay những thời đại đã thất lạc trước đó. Từ phát hiện có tính chất riêng tư ấy, tôi quyết định sẽ không bao giờ hát nữa! Để mãi mãi và vĩnh viễn giữ tiếng hát độc đạo ấy cho riêng mình!

Sài Gòn, 8.3.2004

 

 

HÕM NGOẶC

 

Một cái Hõm và một cái Ngoặc hiện ra trước mắt anh.

Bao giờ cũng thế. Khi anh ngồi vào viết là anh lún sâu xuống cái Hõm của mình. Dù anh có cố định hay bất định. Cái Hõm không rộng lắm, chỉ vừa đủ chỗ ngồi của anh. Nhưng nó rất sâu. Anh lặn sâu xuống cỡ nào cũng được. Càng chuồi xuống sâu, anh càng nhận ra lắm điều quen thuộc. Ví như thế giới từ vựng anh viết, những đặc dụng ngôn ngữ mà anh vẫn xài thường ngày. Lúc nào anh cũng thấy quen đến mức nhàm chán. Anh bỏ đó, tiếp tục lặn sâu xuống. Càng xuống càng tối đen. Và anh tìm thấy cái Ngoặc ở đây.

Ở một tâm điểm nào đó, cái Ngoặc như là một cái móc câu. Hay đúng hơn là cái mỏ neo. Nó cô đơn như biểu tượng của bưng thức. Cái ngoặc ba cạnh của nó bao giờ cũng chĩa lên, phóng hướng ra ngã ba đường nhưng sự thực thì mỗi bước tối tăm như cánh rừng. Phải cố mãi anh mới rẽ bóng đêm lần ra được một lối đi nhỏ trong Ngoặc phải. Nhưng cảm giác sợ hãi bao trùm lên anh. Bởi anh thấy một thế giới tối tăm và quá xa lạ. Từ đây lại rẽ nhánh dẫn qua một con đường khác đen hơn, sâu hơn. Rồi tiếp tục một rẽ nhánh sâu hun hút. Để giữ mạng sống của mình, anh hốt hoảng sợ hãi quay trở lại.

Bao giờ cũng vậy. Hai tâm thế cùng một lúc. Một cái Hõm và một cái Ngoặc. Anh không biết phải đi theo hướng nào. Anh lún sâu vào cái Hõm nhưng lần theo cái Ngoặc. Cuộc đời anh tàn từng ngày. Anh biết. Nhưng chưa khi nào anh thoát khỏi tâm thế bẽ bàng đứng ở ngã ba đường.

 

Thảo Cầm, 26.3.2004

 

 

MỘT CHUYỆN KAFKA

 

Tin M. đã bị bắt tràn về thành phố như một luồng gió lạ thổi xộc vào mọi ngõ ngách. Nơi M. ở hầu như ai cũng biết chuyện. Từ bà bán quán, ông đưa thư, cậu bé đánh giày đến viên cảnh sát khu vực. Chỉ có một người không biết. Đó là M. Lúc đó M. đang ngồi uống cà phê. Đọc báo. Trong tất cả các tờ báo mọi dòng tin, tít đều chạy bình thường. Đời sống vẫn an toàn và buồn ngủ. Không có tin tức nào đột biến nhảy vuột dòng sổng ra ngoài cả.

Nhưng đến khi M. gập tờ báo lại bước về nhà thì M. thấy cả khu phố hoảng loạn. Tất cả kinh hãi nhìn M. như nhìn một ác quỉ và nhốn nháo bỏ chạy. “ Phải M. không nhỉ? Hắn bị bắt rồi cơ mà!”. “Hay là hắn vượt ngục trở về?”. “Canh gác kiểu gì một tội phạm nguy hiểm như thế xổng ra ngoài mà không biết?”. “Kêu cảnh sát! Kêu cảnh sát mau thôi!”.

Từ xa viên cảnh sát bước tới.

- Anh bị bắt rồi kia mà! Tại sao lại quay về đây? - Viên đội hỏi.

- Tôi bị bắt từ lúc nào? Ai bắt tôi? - M. hết sức ngạc nhiên. - Chẳng phải tôi đang đứng lù lù trước mặt ông đây sao?

- Nhưng chắc chắn là ông đã bị bắt rồi mà! Tất cả mọi người ở đây đều khẳng định như thế!

Nói xong, rồi như chưa đủ tự tin, viên đội quay sang hỏi lại:

- Có phải không bà con?

- Bị bắt rồi! Bị bắt rồi! - Tất cả đều hòa lên một bản đồng thanh.

Mình bị bắt từ lúc nào mà lại không biết nhỉ? M. nghĩ. Có lẽ trong khi mình đi vắng thì có quyết định bắt chăng?

M. quay qua hỏi viên cảnh sát:

- Tôi bị bắt vì tội gì vậy?

- Ở đây ai có bằng chứng không? - Viên đội gào to. - Chẳng lẽ tất cả đều biết rõ tên này bị bắt mà không ai có bằng chứng?

Trong đám đông trỗi dậy tiếng xì xào to nhỏ. Ai có bằng chứng nhỉ? Tất cả đều lấm lét nhìn nhau rồi tảng lờ như đã bỏ quên đâu đó.

- Biết bị bắt là được rồi! - Có tiếng rít bực dọc. - Có tội mà còn ngang bướng! Tội càng nặng đấy! Dẫn hắn đi ngay đi, ông cảnh sát!

- Đúng rồi! Dẫn hắn đi đi!

- Dẫn hắn đi ngay đi!

- Ở chung với tội phạm thì thật nguy hiểm… - Đám đông ồn ào phẫn nộ.

- Nhưng tôi muốn biết là tôi đã bị bắt vì tội gì? - M. luống cuống, gào to. - Muốn dẫn tôi đi đâu là dẫn hay sao?

- Tất nhiên là có lí do! Nhưng tôi cảnh cáo anh đừng ngang bướng! - Một giọng cay cú sừng sộ. - Lí do gì thì cả khu phố này biết mà chưa tiện nói ra đấy thôi! Chúng tôi sẽ lập báo cáo riêng để gửi cho các cơ quan chức năng chứ không phải có trách nhiệm trả lời anh!

- Đúng rồi! Không phải ai cũng có quyền được biết sao mình bị bắt. - Một giọng hùa theo hỉ hả. - Nhưng tất cả chúng tôi cần an toàn anh có biết không?

“Chúng tôi cần an toàn! Chúng tôi cần an toàn!”. Sau câu nói đó mọi người nhao nhao lên. “Hắn là một người không an toàn! Cần bắt ngay! Cần bắt ngay!”.

- Tại sao các anh nghĩ tôi là người không an toàn? - M. hỏi.

- Vì tất cả mọi người đang đứng ở đây khi đối diện với anh đều có chung một cảm giác không an toàn. - Một gã thanh niên xán lại chỉ vào mặt M. phun vèo một bãi nước bọt.

- Anh không cần được biết điều chúng tôi đang nghĩ! Mà muốn biết ư? Thì đây! - Một lão già tiến lại tát bốp vào mặt M. một cái. - Anh đang xúc phạm chúng tôi tức là xúc phạm đến danh dự của tập thể đấy!

Viên đội rút súng ra, huơ lên, ngăn cản đám người đang nổi cơn điên tiếp tục hùng hổ xông tới. Bối rối một lúc, y quyết định:

- Anh cần bằng chứng phải không? Đám đông đã cho anh thấy rồi đấy! Ý kiến của một đám đông không quan trọng hơn một cá nhân hay sao?

Y lưỡng lự suy nghĩ một phút rồi quyết định: - Tôi cần phải có trách nhiệm với tập thể. Bây giờ thì chưa, nhưng có thể lệnh bắt anh đang trên đường về tới đây! Chúng tôi cần giữ anh trước thì hơn! Hãy đi theo tôi!…

Thảo Cầm sáng 10.3.2004

 

 

NỬA HAY MỘT VIÊN ĐẠN CHO CÁI TÔI

 

Một tay sát thủ được một người thuê bắn chết cái Tôi của một nhà văn chứ không được giết chết ông ta. Y đã thực hiện nhiều phi vụ dơ bẩn và phức tạp nhưng chưa có vụ nào khó khăn khó hiểu như vụ này. Cái Tôi là cái gì? Làm sao mà giết nó? Giữa nó và đối thủ cách nhau chừng bao xa? Lỡ bắn nhầm thì sao? Y hỏi lại chủ hợp đồng thì nhận được mệnh lệnh: “Không hỏi nhiều! Cứ bám sát theo đối tượng rồi kiểu gì mục tiêu cũng lộ. Lúc ấy sẽ biết. Tìm thời cơ hành động! Nhưng phải nhớ bắn trúng và phải chết! Đích vào chính giữa tim cái Tôi càng tốt!”.

Nhà văn cũng linh cảm có kẻ theo dõi mình nhưng ông chưa biết đối tượng đang giấu mặt đó là ai, tại sao lại muốn sát hại ông? Trong đám đông và tiếp xúc với các cuộc gặp gỡ, ông càng cố ít nói, cố thu mình lại để tránh gây sự chú ý cho cuộc săn lùng đang nguy hiểm. Đây là điều hiếm thấy của ông. Trước đây ông rất tự tin. Công bố tác phẩm, tranh luận và diễn thuyết. Bây giờ vẻ tự tin đó đã biến mất. Ông biết mình đang gặp đối thủ. Nghe đâu hắn lúc nào cũng kè kè bên mình một súng bắn tỉa chỉ chực ông sơ hở là hành động. Vì thế, ngồi ở đâu ông cũng phải quan sát thật kĩ. Ông thấy ngồi trước mình bây giờ sao toàn những gương mặt bí hiểm, xảo trá và đáng ngờ. Ai trong số đó đã chuẩn bị súng và đạn đã lên nòng nhỉ? Ông không dám ngoái lại nhìn phía sau nhưng luôn cảm thấy viên đạn nóng phập ngay sau gáy. Nguy hiểm quá! Không gian này thật trống trải. Thôi, tốt nhất là mình nên chuồn ra khỏi đây!

Tên sát thủ bám theo đối tượng không mệt mỏi. Nghề của hắn mà! Nếu hợp đồng bắt hắn bắn chết nhà văn thì chắc ông đã tiêu xác từ lâu rồi. Bởi vì súng hắn được trang bị là loại sung nổ không tiếng động. Êm như ru. Lại nữa, đối tượng thuê mướn hắn vời vợi ở trên cao ai mà dám đụng tới? Thế mà y vẫn sợ cái Tôi của anh nhà văn mới lạ lùng chứ? Vì sợ nên mới thuê hắn bắn hạ.

Tay sát thủ ngồi trong một góc tối, mang cặp kính đen cú vọ quan sát nhà văn. Hắn nghĩ: “Ốm yếu lèo khoèo như tay này đạn nửa viên cũng chết. Nhưng thôi, để chắc chắn, cứ hạ một viên là tốt nhất. Bao giờ cái Tôi xuất hiện đây? Có thể ngay bây giờ!”. Nghề giết người hắn rành quá  mà! Vì thế hắn cứ rê rê cái đầu ruồi xoay xoay ngay giữa tim nhà văn. “Nghe nói cái Tôi thường ở đây! Thì đã sao nào”. Chỉ cần thấy một nét gì khác thường xuất hiện là hắn lẩy cò. Nhưng chưa thấy dấu hiệu nào. Nhà văn đã đứng lên và chạy trốn.

Cứ thế, sát thủ và đối tượng cứ như chơi trò đuổi bắt. Nhà văn đứng lên thì tên săn mồi ngồi xuống. Súng đã chuẩn bị sẵn, điểm bắn trúng đích ngay tim, đạn nửa viên hay một viên không tiếng động. Kì lạ là từ khi hắn nhận hợp đồng này nhà văn chưa bao giờ hé lộ cho thấy cái Tôi của mình. Cả trên trang viết và đời sống. Người đọc tưởng rằng ông đã chết.

Nhưng tên sát thủ vẫn không trả hợp đồng. Hắn vẫn kè kè súng bên mình và mơ có ngày làm nổ banh ngực cái Tôi ở giữa tim nhà văn. Giá người ta trả cho hắn quá hời mà.

 

Sài Gòn, 3.2004 - 11.2009

 

 

ĂN CHỮ

Một nhà thơ mơ ước cả đời mình làm sao phải viết được một tuyệt tác nên ông rao thông báo sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả mạng sống của mình cho việc đó. Một hôm từ quán rượu trở về ông ngạc nhiên khi thấy nhà mở toang cửa. Rõ ràng là trước khi đi ông đã khóa lại rồi. Không hiểu kẻ nào đã mở ra như vậy.

 Khi bước vào thì ông mới biết có một con ma đang ngồi thù lù giữa nhà.

 - Tôi đã đọc thông báo của ông và bây giờ tôi đến đây - Con ma bảo. - Tôi có thể làm cho ông nổi tiếng bằng cách viết giúp cho ông một tuyệt tác. Có điều ông phải chịu chấp nhận một điều kiện của tôi…

 - Điều kiện gì tôi cũng đồng ý, kể cả cái chết, nếu có thơ hay! - Nhà thơ hăm hở.

 - Tôi muốn đúng điều như ông vừa nói! - Con ma chậm rãi. - Tôi sẽ đánh tráo linh hồn tôi vào thể xác ông. Còn ông hãy tạm thời rút ra khỏi căn nhà xương thịt thân quen của mình…

 - Hồn tôi sẽ tạm rời khỏi thân xác của tôi ư? - Nhà thơ bắt đầu lưỡng lự. Bởi ông chưa biết khi buộc rời khỏi chốn quen thuộc, linh hồn ông sẽ lang thang bay đi đâu. - Tôi phải thực hiện hợp đồng này trong bao lâu?

 - Lúc nào chính ông đồng ý là mình đã có một bài thơ hay! - Con ma nói. - Ông yên tâm đi! Điều này cũng nhanh thôi! Khi nào ông đồng ý thì chúng ta sẽ bắt đầu.

Nhà thơ thấy thật điều này thật phiêu lưu nhưng cám dỗ của sự nổi tiếng và vinh quang khiến ông không thể cưỡng lại được. Với một phép thuật nhỏ, sau một giấc ngủ linh hồn nhà thơ đã bị đánh tráo. Mọi thứ như đâu vào đó không một mảy may thay đổi. Chỉ có linh hồn nhà thơ bây giờ là một con ma.

Vì mang linh hồn của người đã chết nên con ma rất lười biếng. Nó chỉ ngồi một chỗ đọc và đọc sách. Nó nghiện chữ và chỉ ăn chữ. Còn linh hồn nhà thơ thì tự biến thành người dẫn đường. Suốt ngày đào xới ở thư viện đem về những cuốn sách dày cộp theo yêu cầu của nó.

Và đúng như hợp đồng thỏa thuận. Những bài thơ do con ma viết tuy vẫn mang tên của nhà thơ nhưng bắt đầu có một phong cách khác hẳn. Có một cái gì đó cuộn trào bên trong. Con ma viết về một thế giới xa xưa. Những triều đại một thời huy hoàng của nó. Nó ca ngợi xác chết và những nền văn minh cổ. Khác với những gì trước đây chính nhà thơ viết là ca ngợi cái hiện thực, hiện thời. Có lẽ vì sống lâu ở cõi âm nên không gian những bài thơ thường mô tả những chuyện từ cõi âm. Mọi người trầm trồ vì những tác phẩm thơ cho thấy cái lớn lao và vĩ đại của những điều vô hình hay những cái vắng mặt. Tên tuổi của nhà thơ đang chết trôi bỗng trở lại lừng lẫy trong giới giang hồ.

Nhưng bài thơ hay nhất thì chưa được viết. Con ma vẫn tiếp tục ăn hết sách của thư viện này đến thư viện khác. Càng ăn chữ linh hồn con ma càng khát, càng đói. Còn thân xác của nhà thơ bị bỏ bê không chăm sóc ngày càng tiều tụy. Thậm chí ngay chính linh hồn của ông cũng không còn nhận ra nó. Mỗi khi quay về nhà thơ cảm thấy xa lạ và xót xa ngay trước cửa căn nhà từng là của mình. Nó hoang toàn, ốm yếu, mục nát và rệu rã. Ông chỉ muốn con ma mau chóng kết thúc bản hợp đồng bài thơ hay nhất để trả thân xác lại cho ông trước khi quá muộn.

Và tác phẩm hay nhất cũng đã được viết xong. Thật khủng khiếp. Đó là bài thơ kì lạ và gây căm phẫn tuyệt đối trong dư luận. Ai cũng bảo ông là điên rồ, là xảo trá. Nhưng chỉ có nhà thơ và con ma biết đó là tác phẩm lớn nhất và trung thực nhất của phi vụ hoán đổi này. Đó là bài thơ công bố gương mặt của sự thật: Lâu nay, nhà thơ đã chết và không cầm bút nữa. Những bài thơ mang tên ông thực ra là của một linh hồn đã chết. Hay cụ thể hơn những tác phẩm nổi tiếng của ông được viết bởi một con ma.  

Nhưng không ai tin vào câu chuyện này. Mặc dù sau khi bản hợp đồng chấm dứt, khi linh hồn nhà thơ đã thực sự trở về với căn nhà nguyên ủy của mình, chính ông không muốn thiệt thòi cho con ma nên đã viết tiếp tục truyện ngắn Ăn chữ này để xác minh lại điều đó. Nhiều tòa báo đăng truyện này nhưng vẫn không ai tin. Chỉ có một sự thật là nhà thơ càng về sau viết lại càng dở đi. Hay nói đúng hơn, ông trở về con người công chức như xưa. Mẫu mực, đạo mạo, và khuôn phép. Nhiều khi tiếc rẻ, ông vẫn muốn mời con ma trở lại nhưng điều đó thật không dễ dàng và những phức tạp, rối rắm kinh hoàng trong những tác phẩm của con ma viết trong thời gian được mang tên ông vẫn còn làm ông hoảng sợ. Ông vĩnh viễn li khai từ đó.

Chỉ có một trớ trêu khi nhà thơ chết những tác phẩm đã sáng tạo của ông người ta quên hết mà chỉ nhắc lại một hai bài thơ viết trong một thời đoạn. Mà thời đoạn đó rõ ràng chính là thời gian ông kí hợp đồng hoán đổi với con ma. Và đó chắc chắn là những tác phẩm của con ma được viết dưới tên ông mà không còn giả thiết nào khác. Vì thế, có lẽ bây giờ bên kia thế giới vẫn còn những linh hồn chết gây gổ nhau, đánh nhau chí mạng về vấn đề bản quyền.

 Thảo Cầm, 11.3.2004

 

 

NHỮNG KẺ CHẾT CHẬM

 

Dân chúng ở thị trấn Z. vốn không được khỏe mạnh lắm. Trong các báo cáo gửi về chính phủ, Z. đứng đầu danh sách báo động đỏ về thị trấn không đủ tiêu chuẩn an sinh cộng đồng. Dân Z. thường còi cọc, trung bình cao khoảng 1m50. Đã vậy hình dáng trông rất dị dạng. Phần lớn đầu tóp củ ấu, mũi dài, bành to như mũi lân. Mắt lồi nòng nọc, tròng trắng nhiều hơn tròng đen. Tỉ lệ mù lòa càng ngày càng cao. Ở ngoài phố trông họ đi đứng rờ rẫm như những người dò đường.

Để khắc phục sức khỏe, chính phủ ra chính sách vận động tập thể dục cho dân Z.

Ban đầu gần như dân Z. không có ai hưởng ứng. Bởi phần lớn họ ít dậy sớm. Họ lại nghi ngại không biết tập thể dục có bị để ý và có thực sự tốt hơn cho sức khỏe không? Sau đó, chính sách khôn khéo, và bắt đầu có kết quả khi vận động tuyên truyền chỉ đạo tuyến trên từ các tổ trưởng dân phố trở xuống. Kèm theo một số quyền lợi cá nhân như được ăn cháo dinh dưỡng, uống nước lọc đóng chai, đánh răng bằng bàn chải dưa chuột không mất tiền… Dần dần chính phủ đã lôi kéo được phần lớn dân thị trấn Z. vào chính sách tập thể dục.

Mỗi buổi sáng dân thị trấn Z. đổ ra phố hùng hậu như những đội duyệt binh. Nào vòng, nào nón, nào gậy, nào kiếm... Bước, nhảy, chạy, hò hét, đi bộ... Tiếng hô "một... hai... một... hai..." vang lên hứng khởi dội khắp thôn cùng ngõ hẻm.

Và dần dần ai là dân Z. đều thấy khỏe ra thật. Cơ bắp căng cứng. Ngực ưỡn. Lưỡng quyền nhô lên. Mặt gân guốc, đôi môi xám xịt chì ra trên cái bệ đỡ là cái cần cổ phồng rộp vì gánh tạ. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn, sau đó tất cả bọn họ đều thở khò khè và teo rọp lại. Rồi một ngày bỗng nhiên người được đánh giá là khỏe nhất trong bọn họ lăn ra chết rồi một vào người khác sau khi tập thể dục buổi sáng xong cũng lăn đùng ra bất tỉnh tại chỗ.

Tiếp theo là một sự thật khó tin. Có hôm ở thị trấn Z. một ngày mười người chết. Mười người khác thì đưa đi cấp cứu ở bệnh viện.

Những thông báo mới nhất lại thay nhau dồn dập đổ về chính phủ.

Một ban chuyên án đã được khẩn cấp thành lập. Khi mổ khám nghiệm xác những người chết bác sĩ mới phát hiện lí do. Phần lớn phổi và gan của người dân thị trấn Z. bị nhiễm độc nghiêm trọng. Chúng sưng và mọc u lên sần sùi như vảy của những con cá nóc. Thì ra lâu nay họ sống trong vùng khí bị ô nhiễm mà hề không biết. Không khí độc làm họ thường xuyên ngạt thở, dẫn đến mắt kém, tim suy, phổi biến dạng. Những đứa trẻ mới sinh thì ra còi cọc, ốm yếu, đầu dài và mắt lồi. Thành thử khi chính phủ quyết tâm thực hiện chính sách tập thể dục buổi sáng để nâng cao sức khỏe cho họ thì chính là càng làm cho những lá phổi mau lao lực vì biến chứng.

Sau kết luận khám nghiệm đó, không còn thấy công văn chính phủ nào về thị trấn Z. thúc đẩy chương trình vận động tập thể dục nữa. Z. càng heo hút, vắng lặng như một ốc đảo đã trôi lạc ra ngoài quỹ đạo. Nghe đâu có một kế hoạch di dời người dân Z. ra khỏi vùng nguy hiểm nhưng không biết bao giờ và lúc nào sẽ tiến hành. Cũng không còn một ai ở đây, từ già trẻ, lớn bé... dám tập thể dục buổi sáng nữa! Bởi họ quan niệm rằng thà yếu đuối, bệnh tật, gầy mòn mà chết chậm còn hơn khỏe mạnh, căng cơ bắp dăm ba hôm lại đột ngột chết bất đắc kì tử (!?). Kì thực, phương án giờ đây tất cả bọn họ đều ấp ủ cho mình là, chết đằng nào chẳng chết, nhưng làm sao, những cái chết hãy đến thật chậm.

 

Thảo Cầm, 14.3.2004

 

 

Phần III

__________________

 

VẼ BÙA MÀ ĐEO

 

Nghệ thuật ngôn ngữ là gì? Bài thơ là gì? Một câu hỏi thường trở đi trở lại trong đầu M. Một hôm đầy ngẫu nhiên, M.viết được một dòng như sau: “Bài thơ là bao tử của những âm tiết”. Thật là khoái hoạt. Bao tử thường là trọng tâm và kết thúc của mọi vấn đề. M.thấy chữ như nhúc nhích và tuột sâu xuống trong một cái túi óng ánh sắc màu. Bài thơ trong túi hay trong bao tử thật quá là vừa vặn. Thường thì những gì vừa vặn là đẹp. Những âm tiết vang mãi trong cái bao tử thơ đó. Nó cho người thưởng thức vừa thấy ánh sáng, vừa thấy sự chuyển động. Bài thơ sẽ chuyển động tới đâu? Từ ánh mắt, chữ tạo thành âm vang và âm vang sẽ cất thành nghĩa. Nghĩa chưng cất trong mỗi chữ cái thật điệu nghệ. Bài thơ từ từ đi vào tâm hồn và cuối cùng ẩn vào một nơi sâu thẳm nhất của tâm hồn.

***

Hôm nay tôi đi đến một triển lãm đầu tiên của bảng chữ cái. Triển lãm A. Tôi chưa thấy ở đâu tấm áp phích vụng về và trơ độn thế. Một chữ A màu vàng chói chang. Từ đỉnh chóp nhọn nó thõng xuống hai cạnh như một người đàn bà đa tình mặc váy, trơ trẽn và chảng hảng hai chân. Đã thế, dưới hai chân trơ trẽn ấy lại như thọc vào giữa háng dòng chữ Avantgarde - Tiên phong. Nghệ thuật tiên phong. Cứ như tiên phong là đi đầu ngoáy vào giữa háng vậy.

Và thật không ngờ. Họa sĩ có gương mặt buồn như Đông ki sốt, mang một bộ đồ đen như sẵn sàng để tang trước cuộc triển lãm tranh của mình. Y trịnh trọng khom người, nhấc tay:

- Xin mời vào!

Phòng triển lãm dịu đi dưới màu vàng của những bóng đèn nhỏ. Các bức tranh với những kích cỡ khổng lồ đã chiếm hết diện tích bốn bức tường của căn phòng. Họa sĩ đã vẽ đầy ngẫu hứng. Cứ tưởng như những bức tranh phải căng mình ra mà chịu đựng khi y phang, phóng tới tấp lên trên đó những nắp bia, chai, gọng kính, mảnh thủy tinh… và đủ thứ hổ lốn khác.

Tôi bắt đầu lướt qua những bức tranh. Triển lãm A hay U? Avantgarde hay U60? Tôi không thấy họa sĩ biểu lộ một quan điểm nghệ thuật nào ngoài sự trơ trẽn của một tinh thần đã chết. Nghệ thuật đóng hộp không có lối ra.

- Thế nào? Có hiểu gì không? Không hiểu thì mời ra ngoài! -  Họa sĩ hất hàm.

Y bảo đó là hội họa Hậu - hiện đại. Nghệ thuật không giải thích. Không còn nghi ngờ gì nữa. Chính A. cũng không hiểu những bức tranh đã vẽ ra của y. Những cái tên kì dị “Ở nơi rất sâu của màu xanh”, “Tử thần vẫn sống”… đính chặt dưới những bức tranh như đang nổi loạn chống lại cái nội dung mà A. cố phô bày trong lòng nó. Cái cổ chai vỡ toác vẫn còn đeo lủng lẳng một cái nắp nhô lên trên bức tranh lười biếng như phà ra một hơi rượu. Cũng có thể A. đã vẽ trong một cơn địa chấn và bức tranh chỉ còn là một miền sa mạc trơ trụi.

- Phải hiểu hội họa Hậu - hiện đại từ bản năng gốc của nó. - A. nốc một hơi cạn vèo ly cognac - Tôi không có nhiệm vụ phải lí giải hay cắt nghĩa. Làm sao phải dạy lại cho người xem tranh từ chữ A căn bản của giáo trình. Chữ A đối với tôi bây giờ chỉ là Avantgarde, A tiên phong, A Hậu-hiện đại. A! A! A! Chỉ toàn A…

Bất chợt tôi hiểu hội họa A-văng-gạc. Tôi cũng cạn ly cognac, phấn khích hét vang: A! A! A!...

***

Nhưng chữ B thì cũng độc đáo đó chứ! Ví như mở đầu chữ Bảo Lộc. Chưa bao giờ M. đến một nơi buồn bã thế! Chúng không gần Đà Lạt để là nơi kết thúc chặng cuối cùng về phố núi. Cũng không là Đức Trọng để hiểu cái cảm giác chơi vơi của thị trấn nhỏ vuột ra ngoài âm hưởng phố thị. Bảo Lộc như sự lãng quên đồng vọng trong sương mù.

Đó là cảm giác lưng chừng khi M. không còn đủ sức để cố gắng nữa. Đó là băng hoại, băng giá. Trong suốt chuyến đi M. nghĩ về điều ấy. Xe qua đèo Bảo Lộc mưa như trút nước. M. quá sức ngạc nhiên khi thấy trọn vẹn những gì mình đã viết chỉ minh chứng cho một niềm tuyệt vọng. A, B, C hay U, những mẩu tự để dẫn tới ráp nối liền mạch một bài thơ. Kết cục là ý nghĩa của bài thơ vẫn còn bị bỏ lửng.

Một lần M. có cảm giác ghê tởm. Trong giấc ngủ M. thấy những xác chết của hồi ức. Nó phân rã tủn mủn. Nó tối tăm và… lú ám. Không thể nghĩ ra được điều gì quái gở hơn nữa!

Tại sao suy kiệt đến mức ấy nhỉ? Quả tình không có lúc nào M. cảm thấy thực sự mình được khỏe. Trước sự động khởi của những ý thơ, M. như thấy thân xác mình tan biến từng phần, mất từng bộ phận. Như bên ngoài chữ nghĩa, cuộc sống vận động ảo. Chưa từng có mặt là gì! M. thấy làm một bài thơ hưng phấn và rã rượi hơn cả một cuộc làm tình. Khi làm tình có thể thay đổi nhiều thế như thay đổi hình thức một bài thơ. Nhưng cuối cùng tan vụn từng mảnh nhỏ. Chữ nghĩa, ý tứ, tinh huyết. Nhào nặn bốc hơi trong trò chơi định nghĩa và tìm kiếm bất tử!

Những chữ cái đều mang một phiên hiệu nào đó. Gần như mọi việc trong cuộc đời gắn liền với bảng chữ cái và từ đây đọc ra những phiên hiệu. Đôi khi M. muốn thay đổi một hàm lượng ý nghĩa trong chữ cái thì bị cảm giác thói quen chống lại mãnh liệt từ vô thức. Một cái chuẩn là thước đo. Nhưng những thước đó trong chuẩn làm cuộc sống nghèo nàn đi biết bao nhiêu? Bản chất cuộc đời nghèo nàn với những trò chơi qui định trước. Nhưng anh thử thay đổi xem! Anh sẽ là người bị chơi "sát ván". Anh không còn được tham gia trò chơi mà đôi khi đổi vai trở thành tấm bia đỡ đạn của cuộc chơi!

***

V có nghĩa là viết. Là vận động, vận mệnh. Một nữ nhà thơ trẻ của thế hệ M. mô tả một cuộc làm tình như sau: “Anh cắm chữ V lên người em”. Mỗi lần ai nhắc lại câu thơ ấy trước mặt cô thì cô ta khoái chí cười lên hắc hắc.

M. đã nhiều lần nhìn thấy nhà thơ đó. Nom tội nghiệp. Cô ta ốm yếu như một con mèo nhỏ. Còn cô thì tự mô tả mình một cách tự hào là “một quả mướp luộc”. “Tôi làm thơ và vì hết mình cho thơ nên tôi đã tơi tả như một quả mướp luộc”. Thực ra thì cô ta luôn ở trong tình trạng hết xí quách. Cô đại diện cho nền thơ mới còn gọi là “Thơ phóng đãng” đấy...

M. nhớ lần nhà thơ nữ này vào tham gia một đêm "Thơ Hầm" ở Sài Gòn. Gọi thế bởi chương trình thơ được diễn ra dưới một cái hầm rượu đào sâu dưới đất của một nhà hàng nổi tiếng. Nhà thơ xuất hiện và nhảy tót lên ngồi trên cây đàn piano, lướt phờ phịt dăm ba nốt. Cây đàn kêu loe ngoe như tiếng mèo hen. Sau đó cô bặm trợn lướt phím bằng cùi chỏ cứ như nhạc sĩ thiên tài Văn Cao trong một bài báo xiển dương ông vậy! Và còn gì? Không ai hiểu nổi cô ta làm gì với cái trò nhạt nhẽo bỗ bã ấy! Thế mà cô nàng tưởng hay! Bắt đầu gào thét phẫn nộ những câu thơ của mình. Giống như cô đang chửi rủa khạc nhổ vào mặt của khán giả vậy! Thật không tưởng tượng nổi! Lố bịch và ngu xuẩn! Những cái đầu lắc lư ngả ngớn! Những khối rỗng…

***

M. đã nhiều lần ám ảnh bởi chữ T. anh viết trên giấy và lật ngược lại. Nó dựng lên ký hiệu một chữ I trên một cái khay. Hình ảnh đó đôi khi giúp M. nghĩ là  thế đứng của một người luôn cân bằng. Sống lý trí. Vuông vức. Cân đối. Luôn chủ động được tình cảm và tình thế của mình. Nhưng anh thì không. M. không giống chữ I lộn ngược đứng im, bất động đó. Bởi biểu tượng chữ T. đã là một phiên hiệu làm anh xáo trộn dữ dội. M. như lạc vào một mê trận.

T. là một người M. yêu. Một tình yêu kỳ lạ. Vì người đàn bà đó lớn hơn anh tới mười lăm  tuổi. Thật tình thì đó chỉ là khoảng cách của tuổi tác. Còn ngoài rắc rối đó, M. thấy anh và T. không còn khoảng cách nào cả. Mà nàng quý phái quyến rũ vô cùng. Nàng sống ở Paris, Pháp. Con gái của một diễn viên nổi tiếng của Sài Gòn trước năm một ngàn chím trăm bảy nhăm. Cha nàng toàn đóng những vai phản diện. Nhưng ông lại có vẻ đàn ông và đẹp trai chính diện. Vì thế mà làm không biết bao nhiêu cô nàng hồn xiêu phách lạc, sẵn sàng yêu chàng “hoàng tử một đêm”, sẵn sàng dâng hiến. Dường như điều này đã làm cho tuổi thơ và gia đình T. ít nhiều sóng gió và xáo trộn. Và chính M. cũng không biết T. là cô con gái chính thức, mẹ nàng đủ đầy “môn đăng hộ đối”, có cưới xin đàng hoàng của chàng minh tinh màn bạc hay chỉ là con rơi của ông.

Nhưng điều đó M. cũng thấy chẳng quan trọng. Vì đôi khi anh mơ làm một nhà văn nên tập suy luận, phân tích sự vật, hiện tượng, lý lẽ chút ít. Thế thôi. Chỉ có sự thật, anh thấy T. đã may mắn vì thừa hưởng rất nhiều nét đẹp quý phái, cộng một ít hoang dã trong cá tính chiết từ máu của người cha hào hoa. Và đúng nghệ thuật không thời gian, không tuổi tác. M. luôn thấy những vai diễn sống động, để đời của ông ta trên màn ảnh. Và hình như ông ta  cũng chỉ bằng tuổi của con gái ông ta  bây giờ. Thật vô lý nếu cứ buộc nghệ sĩ vào tuổi tác.

Và từ đây M. cũng suy luận rằng thật vô lý nếu chia cắt tình cảm với lưỡi dao tuổi tác. Nàng lớn hơn anh mười lăm tuổi cũng chỉ là hiện tượng luận. Điều đó có ý nghĩa gì? T. là một nhà thiết kế. Nàng đang làm đại diện cho một hãng thời trang lớn của Ý đặt tại Sài Gòn. Điều đầu tiên, nàng chứng tỏ tài năng của mình bằng cách tạo ra những bộ y phục sang trọng “không tuổi tác” cho chính nàng mặc. T. làm ngạc nhiên bất cứ chàng trai nào cứ một mực muốn dò đoán tuổi tác của nàng. Những sắc tố trẻ trung, những hoa văn, xếp ly, những đường chít bó eo tinh tế khéo léo đến nỗi nhiều đôi mắt tò mò nghía vào bỗng lẳng lơ xích thành một dây treo móc luôn ở đó. Nàng thông minh đến nỗi như dò xét được điều gì đang xảy ra với người đối diện.

Một run rủi nào đó M. gặp T. trong một triển lãm tranh. Ngay lần nói chuyện đầu tiên M. đã bị mùi nước hoa của nàng cưỡng bức thô bạo. Trước đây, M. chẳng bao giờ đánh giá cao nước hoa. Anh vẫn cho đó là thứ sa xỉ. Chỉ dành cho cô nàng nào nặng mùi, khéo che giấu. Để giờ đây, khi đối diện với T. anh bị mùi hương lấy mất lý trí. Một cơn ham muốn từ đâu len lỏi, chầm chậm theo mùi nước hoa bừng thức, dâng trào. Bugi của anh nóng máy. Đạn lên nòng. Chờ phát nổ. Hai viên bi cụ cựa. Bóp thắt. Dưới bóng râm của những ngọn đèn vàng kiểu cách gắn trên đầu những bức tranh lập thể, trừu tượng, bóng người đàn bà từng trải, sang trọng  phù lên to dần. Ánh mắt trí tuệ lẫn tinh quái của T. như đang cân lượng độ rướn có thể hay sức chịu đựng của gã trai lơ khát thèm tính dục đang vào  tuổi "chịu nhiệt" sung mãn nhất. M. biết. Nhưng đầu hàng chịu chết. Mùi nước hoa ám như một thứ hương chết chóc. Anh đang từ từ chìm vào một cơn sốt tím. Trái cây trong háng sủi bọt. Hai bờ môi giựt giựt đàng điếm. Cổ khô như một miệng cống cạn nước. Thế đấy! Thèm khát và chết chìm lả đi trong màu sắc đức độ khiêm cung giả tạo. T. khéo léo dẫn dắt những câu chuyện xoay quanh những mê lộ không chân trời, những điểm dừng không thời gian phiêu phóng hàn gắn trong mỗi bức tranh họa sĩ Tiền phong. Họ hẹn nhau sẽ gặp lại một một dịp khác. “Nếu có duyên chạy trốn cũng không thoát” - T. khuyến mãi ẩn dụ.

M. đứng đó. Anh nhìn theo bóng T. quay bước. Lòng tê tái. Và anh thấy cái bóng chờn vờn nóng nảy của họa sĩ A-văng-gạc. Một cái chớp mắt của tay “cao bồi già” nhiều ý tứ và lão luyện. Khi không yêu được, người ta sẵn sàng thêu dệt những cuộc tình huyền thoại...

***

Thời điểm đó họa sĩ Tiền phongcũng vừa chia tay với cô bồ là  một nghệ sĩ trình diễn tên Y. Cuộc tình cũng chẳng thơm.  Hình như họ xé bỏ thiệp cưới và tuyên bố hủy hôn khi đã thông báo chính thức đến với bạn bè, định ngày ra mắt hai họ. Thiệp bị xé khi vừa mới in xong. Những cuộc làm tình bò tót được A-văng-gạc lược thuật lại bằng chất giọng cổ điển buồn buồn như những chiến công. Nhưng đó cũng chỉ là câu chuyện trống mái được thuật lại từ phía y. Cô tình nhân chân ngắn, mặt lưỡi cày, dâm dật và kiểu cách. Khi làm tình sướng tru như chó gào. Còn Tiền phong, Y. đã cho gã nhục hứng bất cứ lúc nào. Thấy ngon miệng là đớp tới. Đặc biệt những ca trên xe hơi. Trong toilet quán cà phê hay bar. Quắn như thế hơi phiêu lưu nhưng cho y cảm giác mạnh. Một phựt đứt. Rã rời. Buông thả. Và ít nhiều điên loạn mang màu sắc cái chết…

***

Những mẩu tự. Thật tình thì M. không biết được mình đang viết gì. Hỗn loạn. Chưa bao giờ cuộc sống hỗn loạn như thế! M. cảm giác những ngày tháng này gần như ai cũng bị strees. Điên hoặc sốc nặng. Ai cũng gần như phát hiện bản thân mình đang bị lừa mị. Bị chơi xỏ, mắc nỡm. Một cái gì đó bất an bao trùm như một cái bong bóng bơm căng có thể nổ tung bất cứ lúc nào. Một cái ngủng ngoẳng hư vô. Một đuôi lý tưởng lơ lửng trên đầu ngự trị. Mọi lý thuyết cao đẹp chỉ là mớ cạo giấy suồng sã. Khi thực hiện mới thấy không thực tế. Ngắt đầu. Bẹo đuôi. Què quặt. Méo mó. Thảm hại. Những tên buôn lưỡi, bán nước bọt từ đâu tràn về đầy ngập thành phố. Những giấc mơ bắn lên trời hoa hòe hoa cải. Tương lai quăng lựu đạn. Lừa được ai thì cứ lừa. Sống chết mặc bay. Phù phiếm. Một sự hỗn loạn vô chính phủ. Khi người ta bị chiếm dụng niềm tin để cuối cùng không còn tin vào điều gì nữa.

Cũng gần với nỗi bức bối mệt mỏi ấy là cơn suy thoái kinh tế toàn cầu mà lưỡi búa của nó cháng vào mỗi gia đình không nhỏ. Miền Trung bão lụt tới tấp. Những cái chết giăng mắc đầy trên báo chí và truyền hình. Những đợt cứu trợ chưa đâu vào đâu thì thiên tai đã tiếp tục giáng xuống làm nỗi xúc động, cơn đau đớn phút chốc hóa chai mòn vô cảm. Như một tang thương tất yếu phải mặc nhận vậy! Trôi đi! Cũng phải trôi đi thôi!

Trong cái nóng nực, chật chội của Sài Gòn thì rước thêm đại họa của mấy ông quy hoạch là đào bới vỉa hè và lô cốt.  M. cũng không hiểu sao chỉ có cái vỉa hè mà năm nào cũng làm đi làm lại. Đào lên. Đặt xuống. Đập bỏ. Ốp lát. Rồi mọi việc diễn ra gần như tuần hoàn. Hết năm này đến năm khác làm rối loạn tâm trí người dân. Rốt cuộc rồi như thói quen, lâu lâu không thấy ông đào đường xuất hiện thì lại đâm nhớ (!?). M. đã từng đi qua nhiều lần vài góc phố quen thuộc. Quanh năm cứ thấy đám thợ băm bổ mặt đường. Mặt tay nào cũng sáng rỡ xem chừng thắng lợi lắm!  Chỉ có dân buôn bán là khổ. Vỉa hè luôn bị  đẩy vào "tầm ngắm" cần phải dọn dẹp! Bắn sới!

Chưa yên với vỉa hè thì tiếp đến vụ dựng lô cốt làm cống. Cả thành phố các trục đường chính nào cũng dựng đồn lũy, che chắn băng bó như bị thương. Nhìn phía nào đó Sài Gòn oi ép, sôi lên như đang bị nung đỏ. Mọi người nhốn nháo tìm chỗ chạy tháo. Ung mủ ngột ngạt như đang ở giữa căn bệnh dịch hạch. Cứ tưởng cũng chỉ chịu đựng một thời gian ngắn. Ai ngờ. Năm này qua tháng khác, lô cốt vẫn nghễu nghệu, dựng  nghênh ngang trên đường. Những buổi tan tầm M. ngập trong bầy người ngoằng ngoẵng sắp hàng dấn lên từng bước một. M. mong một cơn mưa cho bầu trời thấp dần xuống. Và nhìn biển người sau một ngày làm việc rã rời cạn kiệt sinh lực như một đàn cá giãy giụa, điên cuồng trong tấm lưới khổng lồ. Những con cá khôn vặt mưu mẹo nháo nhác băm càng lên vỉa hè ken dày. Hối hả  bơi đi chấp chới. Có chút hân hoan lẫn tuyệt vọng in dưới vũng đáy mắt.

Và để cân bằng tâm lý, cần phải kiếm một cái gì đó để xả stress. Nếu cần, sẵn sàng lao vào cắn xé. Trả đáp. Hận thù bốc lên từ câu nói, ánh nhìn, hốc mắt câm lặng. Chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể giết người. Càng trí thức, càng có học thì lại càng dễ nổi điên (!). Bởi sự lễ độ, chịu đựng đã gần như bị đẩy đến cùng rồi. Sự chịu đựng đến lúc quá tải gần như khật khùng. Ngồi đâu cũng chửi. Gần như kiệt cùng. Và vì kiệt cùng nên nó cũng gần như chán mứa. Những câu chửi lăm nhăm những mảnh vụn cứa vào lòng kẻ đối thoại. Lâu ngày trượt đi vô hiệu. Ngôn ngữ thoái hóa vỏ ốc.  

Nhưng cũng trong mớ hổ lốn tranh tối tranh sáng ấy, khi chân lý đúng sai lờ nhờ bất cần phân định thì cũng là nơi nảy sinh cho bọn cơ hội. Bọn bất tài. Điếm máu. Sẵn sàng cấu xé kiếm chác. Thêm một tí tiền, tí danh cũng tốt. Bọn dạng chân trên một biển. Láu cá. Khôn vặt. Chặt đớp. Chửi rủa. Nhặng xì. Những con cẩu hoang ấy nhá nhấu tập hợp lại thành một bọn thì càng khiếp. Gần như không có việc gì chúng không nhúng mũi vào. Không có việc gì mà không mưu mô đục khoét. Bọn chó điếm ấy tha hai hòn dái chạy khắp thành phố. Với mớ kiến thức biển lận tạp nham, hỗn loạn, nhân cách lốm đốm da beo chúng trưng bảng kiếm ăn và hớt gái. Mẹ cái trò đời! Lo gì ốm người! Lương tri, đạo đức! Nỡm tất! Quả đất quay mãi cũng đến lúc bại xại, rạc rời, nổ tung! Chưa kể trước công nguyên, từ khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá cũng hơn hai ngàn năm rồi còn gì! Bao nhiêu tội lỗi nhân thế, Ngài chịu nạn gánh hết rồi, các ngươi cứ thoải mái, hưởng lạc, ăn chơi! Nướng cả tất cả lên bàn nhậu đi! Trên báo chí nhan nhản những thông tin vợ ngoại tình, cha hiếp dâm con gái, giết người đốt xác phi tang, xả súng cướp tiệm vàng, cầu sập công nhân chết hàng chục, giàn giáo đổ đè bẹp xe hơi giết cả gia đình... không còn gì là cảnh tỉnh của cái barie cuối nữa.

***

C. nổi lên như viên tướng của đám ô hợp đó. Cả đời C. bây giờ nhìn lại chính y cũng không biết y làm gì? Chạy mánh. Lừa đảo. Vụ lợi. Và gái. Đầu cơ chính trị? Y cộng mọi thứ lại và vượt lên trên với trò bẫy người và bẫy cá…

Tôi biết C. từ lâu và từng ngưỡng vọng C. không kém. Bây giờ, khi nhớ lại, tôi vẫn ngạc nhiên tại sao có lúc dễ bị C. lừa mị thế? Và câu trả lời là thời điểm ấy tôi không thực sự biết C. làm gì. Một nhà báo? Nhà thơ? Nhà phê bình mỹ thuật? Một họa sĩ? Không! Hình như nếu tách rời từng phương diện thì C. không đủ yếu tố, uy tín, bề dày sự nghiệp để tạo tác, định danh rõ ràng là "nhà" gì. Và cuộc đời C. là một bản tập hợp những "chuỗi hạt của con cáo" ấy. C. là cái "chợ Cầu Muối" pha loãng các dung dịch hỗn hợp. Và chữ nghĩa C. tung ra mạ kiềm, inox sáng bóng, kêu rổn rảng như loa phóng thanh. Cũng bởi cái hấp lực liên thanh này mà khối em vén váy cho C. xơi. Điều lạ lùng rằng hình như C. chưa bao giờ hay cũng chẳng thèm quan tâm đến thứ "của nả" ấy. Người đời có chê bai, bịt mũi trước những thứ C. phóng ra và xắn tay áo dọn dẹp  như những đống rác, phế thải thì  C. cũng mặc kệ. Bởi C. cần nổi tiếng bằng mọi cách! Cần sự tồn tại chính y chứ không là ai khác. Cái gì sướng, khoái là C. đớp, C. phun. Ai không tránh kịp, dính phải nước bọt của y thì chết ngóm ráng chịu. Trong cái đầu trọc lóc vì những mưu mô lọc lõi ấy luôn giăng lên những cái bẫy mà người đời đùa là khiến cho y "không kịp mọc tóc". Nhìn cách C. nhai xé con mồi hay hả hê trước kẻ sập bẫy mình, người có chút lương tri ngạc nhiên không hiểu có gì hay mà C. hả hê đến vậy?  Nói cách khác, C. là Giuđa - tên phản Chúa. Cái cách nghiệm sinh trải đời để trả đũa, "lại quả" của y có vẻ gì đó man rợ, độc địa. Và tất cả được phủ phục trong cái bộ vó đạo đức giả, tri thức, hiền triết. Một tài năng bị cuộc đời vùi dập vẫn ngang nhiên chấp nhận chờ ngày ngả giá trước Chúa phục sinh. Ô la la! Cũng là một thứ quả khó xơi! Một thứ dạng háng chó má. Chân lý của C. là bao giờ y cũng nhân danh một trí thức, một danh nhân văn hóa cuối cùng còn sót lại. Đại diện cho văn hóa Sài Gòn Hòn Ngọc Viễn Đông cũ. Lạ!

C. luôn khăng khăng chứng minh một điều C. là bạn thân của nhạc sĩ S. nổi tiếng. Mà phần đông những thiện chí mà bạn đọc dành cho C. cũng bởi vì họ quá thần tượng S. vậy. Nói cách khác, vì yêu quý S. mà người ta cũng sẵn sàng sẻ bớt cho C. tí chút "mắm muối" tình yêu. Bởi vì như nhiều nhà phê bình mỹ thuật cho biết, họ cũng chưa biết xếp C. vào vị trí nào. Tất cả những bức tranh của C. đều nửa vời và nửa mùa. Nó lộn độn chấm phá "siêu thực" rồi lại "tượng trưng". Loay hoay giữa "tả thực" và "dã thú". Chưa thấy C. đi đến cùng hay "tận hiến", "hủy diệt" sáng tạo cho một trường phái nào... C. có vẻ hợp với trường phái "chấm mút" mà sau này phác vẽ chân dung C. mọi người đều thấy nhờ nhợ, nhờn nhợt như một xác chết. Ở đâu "đớp hít" được, "thịt thơm" là có C.!  C. chẳng dại gì "quyết tử" hay "dấn thân". Suy cho cùng, nghệ thuật, hội họa là gì kia chứ? Nó chẳng có ý nghĩa gì nếu không phục vụ nhu cầu của anh cả. Vẽ, viết chất đống như Vangogh để rồi cắt tai tặng tình nhân hay chết đi cho chó ngửi à?  C. đâu muốn làm vật hiến tế  hay tế thần. Cho em xin! Trong cuộc đời sóng gió.

Thậm chí, trong một lần không rõ do thiểu năng trí tuệ hay mù lòa cảm xúc tôi đã rơm rớm nước mắt. Ao ước nếu mình là thiếu nữ chắc mình sẽ yêu C. Sẵn sàng gục xuống dưới chân C. mà khóc: “C. ơi! Anh đừng quá đau buồn vì cuộc đời tàn nhẫn này nữa! Từ đây anh đã có em. Em sẽ cúc cung trọn đời để tận hiến phục vụ và hưởng khoái lạc cùng anh...”. Đó là buổi sáng tôi tình cờ nhặt được tờ báo có bài phỏng vấn C. từ bên kia đại dương. Đây là chuyện lạ. Bởi từ lâu tôi biết C. quanh quẩn ở Sài Gòn với đủ thứ chuyện thượng vàng hạ cám em út nhăng nhít. Bài báo có cái tít thật quá mùi mẫn: Tôi muốn trở về và chết ở Sài Gòn. Người xem nôn nóng, lướt một vòng thì hiểu vấn đề. C. đem tranh của mình đi triển lãm ở X. Tranh vừa treo xong thì C. phát bệnh ung thư. Bạn bè đưa C. vào bệnh viện thì bác sĩ lắc đầu bảo bệnh đã di căn, không còn bao lâu nữa! Muốn làm gì, trăng trối gì phải làm ngay hôm nay, lúc còn kịp. K của C. đã vào giai đoạn cuối rồi. Vậy là C. bắt ghế ngồi giữa phòng tranh, mắt ngấn lệ như một tượng đài cô đơn. Bạn bè tin cho nhau tới mua giúp C. những tác phẩm cuối cùng. Nói rõ tội! Đó là loạt tranh C. vẽ bừa phứa và vô trách nhiệm nhất. Nhưng mà ai cật vấn gì một người sắp chết. C. hốt một cú bẫm. Về Sài Gòn C. rũ bỏ ngay cái mặt nạ. Tiền bạc rủng rẻng. Ngay lập tức tươi hơn hớn. Chỉ có đám bạn thân bị lừa là tức tối điên cuồng. Quả là một cú trấn lột thần chết của một tên đồ tể ngoạn mục…

***

A-văng-gạc nhắn tin rủ M. đến khai trương phòng triển lãm mới. Lần này thì gã  ra mắt ở cà phê Hội quán trí thức. Nghe thì kêu vậy mà quán nằm ở đâu hỏi bạn bè chẳng ai biết. Hình như mới toanh. Đường đi thế đến nào cũng không ai hay. Quái đản! Sao chuộng cái mác trí thức quá vậy!

M. cảm thấy bây giờ người ta xài thứ gì, chữ gì cũng theo mốt thời thượng. Mà cái chữ "trí thức" là xôm trò hơn cả. Nói gì thì nói, nó vẫn có vẻ chịu học, hơn đời, là người có văn hóa. Nhưng từ phía nào đó thì "trí thức" cũng là từ rởm. Sân chơi trí thức, diễn đàn trí thức, nhân vật trí thức, hội quán trí thức… Có lẽ cũng cần có thêm một từ Điếm trí thức. Nó như cái vỏ bọc lọc lõi. Láu cá. Chưa ở đâu như ở đất nước này có nhiều trí thức đến như thế! Trí thức đào tạo ở Liên Xô cũ. Trí thức châu Âu, trí thức kiểu Mỹ… Hình như không hạng nào chịu hạng nào. Gần đây nhất một giáo sư nổi tiếng là “phông dáng” của kiểu trí thức "thứ thiệt", tận tụy, sáng giá đầu ngành khoa học đã góp ý trong một bài báo về cải cách giáo dục, khai sáng tuổi trẻ đưa ra ý kiến "giáo dục không phải để thử nghiệm". Đáng kể hơn, ông có ý nghi ngờ, coi thường những trí thức được đào tạo từ Liên Xô cũ vì cho là "mất nền tảng cơ bản". Chưa đầy hai bốn giờ sau khi bài viết được tung ra, sếp tờ báo điện tử đã bị "phế truất". Hay lắm! Các ngài cứ mặc sức mà phê với bình trí thức, trí ngủ cho lắm vào! A ha ha!

Kế hoạch đã lên của A-văng có vẻ sinh động. Những cô cậu sinh viên đến cà phê, nghe nhạc, trao đổi tri thức và xem tranh Hậu - hiện đại. Hình ảnh đẹp quá! Chẳng gì bằng! Nhưng nó có vẻ lý tưởng. "Chỉ có những tri thức trẻ tiến bộ thực thụ mới có thể xem và hiểu tranh tôi!” – A-văng quả quyết. “Tranh không thể dành cho bọn kính trắng mà chưa được một ngày khai sáng hay giáo dục về cách cảm thụ. Tại sao xứ sở này bao năm qua cũng không có nổi một nền hội họa đích thực? Tranh chỉ sao chép bề mặt sần sùi, vô cảm? Các bạn hãy tìm lời giải đáp trong thế giới nghệ thuật của tôi...".

Cái quán cà phê tri thức nằm ở cửa ngõ thành phố. Phía phi trường Tân Sơn Nhất. Từ trung tâm Sài Gòn để tới phải băng, tạt gần chục con đường, hẻm hút hôi thối, đầy bụi bặm. M. không thể một chiều tiến tới. Bởi giờ tan tầm từng đợt sóng người dội ra đường mang theo tất cả sự hung hãn, mệt mỏi sau một ngày cạn kiệt sinh lực vì công việc. Và giờ đây phải giằng xé nhau từng mi li mét  đường để nhích về nhà. Những chiếc xe hơi ậm ạch, rú ga, phì khói như muốn cán bẹp bất cứ ai để dành đường. Bộ mặt khắc nghiệt, đay đả của đám thị dân chó sói.

Khai mạc tranh không có một nhà báo nào. A-văng hể hả, vỗ mạnh bàn tay vào vai M.: "Em là nhà báo duy nhất! Còn chúng nó, anh mời vào toilet. Bọn chữ nghĩa rét rỉ thối khắm! Anh không thể đọc được em ạ! Làm sao có thể phê bình tranh nếu không một lần đọc hết một cuốn sách cơ bản nói về công việc khổ sai của người sáng tạo nghệ thuật và các trường phái trong hội họa hả trời?...".

Cũng có thể là A-văng vẽ quá cao siêu. Nhưng M. cũng không tìm thấy sự đột phá hay ý tưởng gì ghê gớm ở đây. Bởi thời gian qua anh đã sống cùng A-văng những ngày quá buồn. Cũng có thể là anh đã quá hiểu A-văng. Nỗi cô đơn u uất như bạo chúa. Dấu vết của những cuộc tình hung hãn và bế tắc như tràn trên mặt tranh. Những cô gái có gương mặt dâm đãng, cởi truồng, vết cọ tung lên chùm lông cáo. Vũ nữ vú to, háng rộng, đang ngửa tay dâng mời mọc quả cam. Người đàn bà ngồi dạng chân trong toilet. Cái vẻ âm u suồng sã ấy chất chứa nỗi oan nghiệt vừa thăng hoa vừa đau đớn của kiếp phù sinh. Những cái miệng há to cho tiếng thét chuẩn bị  cất lên. Có lẽ đây là đề tài thành công nhất của A-văng.  Phòng tranh quả thành công khi có nhiều em gái non tơ vừa đến cà phê vừa ngắm nghía như A-văng mơ ước. Nhìn các em mơn mởn xinh tươi, đùi dài, ngực vun, thật đối xứng với cái vẻ già khú, bợm bãi của tay cọ Tiền phong đã chớm rã đường đua, về già. Cuộc sống thật cân đối hài hòa. M. thấy vẻ tinh ranh, lọc lõi, cằn cỗi của một con cáo thật không nghĩa lý hay thấm tháp gì với cái mầm non tơ, trong trẻo, thây lẩy, hồn nhiên. Tuổi trẻ như một nguồn nước cuốn trôi đi mọi rác rưởi, toan tính bệnh hoạn được thua của đời sống. Ôi, tri thức trẻ! Tri thức trẻ muôn năm...   

***

Nghề chữ, múc máu não kiếm sống hay viết lách là một công việc khó. Bao năm M. dấn thân vào “tử lộ chữ nghĩa” cũng đã có khoảng mười mấy ngàn bài viết, tác phẩm in đủ dạng các thể loại. M. cũng tạo được chút ít tên tuổi nhưng nói là “quen” hay “thạo viết” lại là những từ gần như chưa hề có trong từ điển của anh. Đôi khi M. nghĩ nghề văn đâu có khác bác sĩ tháo khớp, nối xương co giãn cho các con chữ. Trang điểm cho nó một gương mặt suy tư ảo giác vô hình. Một cái nghề lượm nhặt, đong đếm, đôi khi tủn mủn, vụn vặt như đàn bà. Lúc triết lý, cao siêu, đạo mạo, khi tắc tị bí hiểm như cha cố. Một cuốn sách như cái khung trần cho nhà văn ném đủ thứ cắc củm, vô lại vào đó. Thực ra, M. không lý giải được tại sao anh lại yêu nghề viết và thích viết về chính nghề của mình. Cũng có thể tại vì anh vẫn còn dây dưa, còn quyến luyến với nó lâu dài cho đến hôm nay. Yêu thích sự nổi tiếng ư? Thối hoắng! Tiền bạc chẳng có. Sức khỏe bạc nhược. Khi mê lúc tỉnh. Già khoặm đi vì những thứ vớ vẩn trong đục cuộc đời. Chim gái ư? Mẹ kiếp. Chỉ có ngày xửa ngày xưa nhà văn mới “câu” được gái bằng cách đó. Khi một xã hội còn ở sau lũy tre làng, người ta ít học, ít có phương tiện giải trí, Khi đó văn chương có thể xem là thứ quá cao siêu “kính nhi viễn chi” không thể nào vớ tới hay là phương tiện duy nhất đến với quần chúng. Gái gú ôm vào là bởi ngưỡng mộ cái danh, gửi thân cho bậc cao đàm khoác luận. Chứ còn bây giờ văn chương như cái của nợ chết trôi. Bọn trí thức nửa mùa, gà mờ không còn biết làm gì khác ngoài tử địa vây hãm của đám chữ dở dói giữ một cái xã hội rần rật, bát nháo chạy long tóc gáy lên vì đồng tiền. Đong đếm mấy bài báo, bài thơ chút chít tí tiền còm, tí danh hão túm tụm ca ngợi nhau. Cuộc đời điên loạn hoang vu.  Gái gú ngày càng khôn như của nả yêu tinh. Nghe nhà văn, nhà thơ đã xách dép chạy té khói. Thế tại sao cứ băm càng theo chữ nghĩa nhỉ? M. nghĩ, có lẽ kiếp số đã sinh cả bọn ra vào giờ khắc thế nào đó để bị trời hành. Hoặc có thể sức khỏe, đầu óc có vấn đề. Tâm thần phân liệt chẳng hạn. M. nghĩ chắc hôm nào phải đi bệnh viện cho bác sĩ khám. Nhân tiện kiểm tra sức khỏe và tẩy rửa đầu óc tí chút. Sao nhìn thứ gì cũng như sau qua một “màn sương khói Nghi Tàm” thế này?

***

Nhưng đó là chuyện hôm nào. Thế còn bây giờ? M. vẫn cứ thích, vẫn khoái viết văn chương. Mẹ kiếp, chó đời! Ra thế nào thì ra! Bởi cuộc đời đâu cứ phải muốn hay không muốn mà được! Biết là âm u sương khói, là bên đời hiu quạnh nhưng cứ như ma đẩy, quỷ xô, nhấn vào chìm vào. Đắm đuối trong suy tư, khắc khoải đào bới, xây dựng mệt mề các hình tượng. M. luôn sống với thứ cảm giác mình sẽ làm, sẽ viết một cuốn sách ra trò cho cả cuộc đời rối rắm như canh hẹ và vô nghĩa của mình. Chỉ là những mẩu tự ghép vào nhau nhưng chắc chắn đó sẽ là cuốn sách hay. Các chương hồi sẽ vế vai, chằng chéo, tan biến rậm rịt vào nhau vì nội dung, câu chuyện M. đã xây dựng, đã ấp ủ chán mứa chín nẫu ra rồi. Văn phong, cà riềng cà tỏi, khoái hoạt hay dễ dàng. Ôi cái tiểu thuyết viết về mình, chính bạn bè, thời đại mình. Những gì mình đang sống, chứng kiến, vì mình đã ôm ấp, suy tư, dằn vặt, thân tàn ma dại đến như thế này rồi kia mà! Chỉ bật dậy. Ngồi vào bàn là viết thôi. Trong giấc ngủ anh mơn man với cái động tác nhất khoái đó. Và anh không kiềm được hưng phấn. Rũ bỏ cơn buồn ngủ đang nhét đầy mắt ra để ngồi dậy! Chao ôi! Toàn người ê ẩm, oặt ẹo như đá dần. Đúng là sự thật hung bạo. Đang ngủ cho dù muộn phiền lang thang không chân trời thì vẫn mơ là mơ. Vẫn là êm dịu hơn. Còn tỉnh, đi từ mơ qua thực chới với, chán mứa như đang bị ném xuống cái hố sâu, bây giờ phải tìm cách bò lên. Lúc đó, anh mới biết cái truyện ngỡ là viết dễ dàng lại khó như rã ra hết câu cú, chữ nghĩa để kết thành sợi dây thòng xuống kéo xác lên khỏi miệng hố. Những tình tiết sinh động, tiểu tiết cài cắm bất ngờ, lý thú, những phún nham chữ quyện chảy đỏ tươi, lăn tới đâu, chữ nghĩa ngon lành, long lanh đến đó như mẻ cá ngon chỉ có trong mơ! Một mình M. ngồi trong đêm với tất cả nỗi uể oải, vết thương rách cả tâm hồn và thể xác. Anh chìm đắm với nỗi chất ngất sương mù. Mà người viết như con thuyền không thể ra khơi, không thể lái về phía trước bởi màn sương lưu huỳnh dày đặc. Mà đôi khi sự vô ý đâm vào đá ngầm, vịnh nước xoáy tan tành tất cả. Ôi là sự hoa lệ phù phiếm! Con người mong manh, nhỏ bé và bất lực với thứ khải dụ văn chương huyền hoặc ma túy. Ý nghĩa một tác phẩm để đời, chôn vùi cả một thời đại vào trong đó và cái tên của mình đóng đinh sừng sững trước đường hầm mê lộ dẫn vào làm khối kẻ say sưa. Và bây giờ, khi M. càng tham lam như một bạo chúa thì càng ngồi trơ ì ra, bất động. Anh như hóa đá chôn trước trên bàn viết. Chữ nghĩa nát đìa, tan biến đi đâu hết. Như một ảo ảnh. Anh cứ bập bùng, dằn vặt bị quấn xoáy mê hoặc điếm phứa trong cái lưới cá chữ mê hồn trận…

***

Mấy lần A-văng-gạc định thịt con mồi ấy nhưng lần nào cũng trượt. Và lần này thì gã sáng mắt lên khi con mồi ngỏ ý muốn mượn gã một số tiền để lo việc gia đình. "Bố em đau nặng!” - Nàng nói. “Cả mấy tháng nay em ế ẩm không hộp đêm nào mời hát hỏng gì hết. Anh giúp em với!...". A-văng-gạc rung rung đùi với vẻ khoan hòa, kiềm chế, như đang hết sức tập trung chú ý lắng nghe đối tượng, đầy vẻ thông cảm. "Em cần bao nhiêu?". "Khoảng 5 triệu!”. Nàng nói, mắt ngước nhìn lên khẩn khoản: “Nếu chiều nay không có tiền đem về thì chắc bố em chết anh à...". Chíp nói bố nàng ung thư, cắt một phần hai bao tử. Phải chích thuốc ngoại, một ngày một ống, đơn giá thị trường là một triệu rưỡi. Nhưng có tay bác sĩ là người quen, lấy hàng xách tay nên chỉ hết một triệu đồng một ống. Phải chích ròng rã trong một tháng. "Anh biết thế! Nhưng bây giờ anh đâu có sẵn tiền” - Y dứt điểm, “hai triệu được không em?". Và y rút cuốn sổ ghi nợ lúc nào cũng bỏ hờ trong túi áo nghệ sĩ bảo Chíp ký vào đó. "Anh chỉ ghi để nhớ thế thôi!” – A-văng giải thích, ”chả nhớ hay chả đòi gì đâu! Em có tiền thì gửi trả lại anh. Không thì thôi! Đừng vướng bận suy nghĩ gì hết!...". Và số tiền “không thì thôi” đó dần dà được cộng lên thêm nhiều lần với giá khổng lồ. Hơn hai mươi triệu. Bây giờ y muốn thịt con mồi lúc nào cũng được! Thế nhưng Chíp cứ lần vần từ chối. Cơn ngứa thèm thịt non làm A-văng-gạc hung hãn. Nhiều lần y nhắn máy cho Chíp hôi là y muốn ngủ với cô nàng để trừ nợ. Nhưng ngủ bao nhiêu đêm thì y chẳng nói. Và Chíp bao giờ cũng từ chối: "Anh cho em thời gian đi!". Thời gian đó là bao nhiêu và để nàng suy nghĩ có thể ngủ với A-văng-gạc hay sẽ trả lại tiền. Những cái bẫy cài sẵn và chưa biết ai sẽ là con mồi, ai là thợ săn.

***

Tôi nhớ lại  buổi đầu  tình cờ trong Chu bar gặp Chíp do một tay bợm trong làng âm nhạc giải trí xun xoe giới thiệu: "Một giọng ca triển vọng đang lên. Chỉ chờ vào bài viết nhiệm màu của anh hai thì cuộc đời em nó sẽ thay đổi tất cả...". Vừa nói, gã vừa cười hê hê nhấc ly bia lên keng vào ly tôi một cái. Ngồi trước mặt tôi là một "con mồi" tơ thịt thơm hau háu e ấp như sẽ sàng. Chíp hôi sẵn sàng làm theo ý tôi miễn là lăng xê được Chíp trên các phương tiện truyền thông. Nhưng đâu bở ăn! Thử nhìn vẻ mặt sân cứng, tham vọng ẩn sau nét hiền lành, đầy toan tính xem. Và khi tiếng hát Chíp hôi cất lên khét lẹt thuốc chuột đủ khiến mọi tham vọng “nâng bi” đưa lên đặt xuống rã rời. Hồn tiêu phách tán. Ôi, đời! Chưa biết mèo nào cắn mỉu nào!...

***

A-văng-gạc thì gần như không có việc gì làm ngoài ý chí tiến công triệt để vào con đường hội họa tiền phong. Nhưng đó chỉ là ý chí thôi! Còn những tác phẩm y làm thì nhợt nhạt và cũ xì. Những màu sắc vô hồn u ám. Và khi chưa làm được thì kiếm gái “thịt” cho đỡ hoang vắng. Cái gia sản mà bố y làm đủ cho xài cả một đời dư dật, chẳng cần làm gì khác ngoài sự phán xét, khinh bỉ người khác. Với chóp đỉnh hoang tưởng phải là họa sĩ đứng đầu nghệ thuật tiền phong của hội họa Đông Nam Á, y say men hưng phấn đến phát rồ. Những dư chấn trào lên theo bọt bia, gái và xì gà Cuba trong những bar rượu say ngất, đổ đốn. Nhiều lần A-văng té lăn cu đơ trước khi được nhân viên quán rượu đỡ lên chiếc taxi phóng vội vú vù trong khuya khoắt.

M. bận rộn với những chuyện đi kiếm ăn. Càng ngày, chuyện viết lách nhăng nhít càng làm anh chán mớ đời. Người héo úa, chín nẫu. Mặt mày lúc nào cũng đau đớn, cau có. Cái mệt mỏi vô cùng tận. Nhưng nguy hiểm nhất là hư vô lý tưởng. Bọn viết lách thời này như chẳng tin bố vào cái gì. Trên lừa trên. Dưới lừa dưới. Thằng nào ngu sập bẫy, ráng chịu chết! Chạy loạn xị như con cung quăng. Những trang viết phần lớn là bịp bợm. Ví như ca sĩ hạng ba sẵn sàng “nâng giá” thổi phòng cho đứng lên hạng nhất. Là “tài năng siêu hạng”. Việc có nói không. Việc không nói có. Lộn tùng phèo. Làm sao có phong bì dày dày tí chút là mặt tươi. Buổi sáng giở tờ báo ra không dám đọc lại tin bài mình viết. Nếu căn cứ vào báo chí thì hình như xứ sở này đang vào mùa vụ thu cách tân nghệ thuật. Ở lĩnh vực nào cái mới cũng được thể nghiệm. Thành tựu chín đều.

***

Gái gú thì thằng đàn ông nào tránh khỏi nhưng cả ngày chỉ chăm chăm vào đó như A-văng-gạc thì M. hơi khiếp. Mà thực sự ngoài chuyện phỡn ấy ra y cũng chẳng biết làm gì! Sáng tạo ư? Vẽ ư? Nói mãi rồi cũng nhàm. Cứ vung tán tàn lên mà đếch khi nào làm được! Ấy mới đích thực là cái khó của nghệ thuật. Màu, toan, cọ mới vứt hàng đống trong xưởng vẽ. Toàn là màu ngoại nhập. Có ghé qua xưởng M. bao giờ cũng nghe Avăng giải thuyết hàng tiếng: "Màu này vừa gửi về từ Đức! Thằng Alex, bạn học trường Mỹ Thuật ngày xưa ở Berlin mới gửi cho. Toan, cọ này của cô bạn hiện chủ gallery nổi tiếng Hà Nội. Cô gửi và nhắn chỉ cần đổi một bức hậu hiện đại trong hàng trăm bức bùng nổ sẽ vẽ của anh!”. “Bạn bè sẵn sàng chiều từng chút để tôi vẽ. Vẽ xong căng tường treo tranh ngay… Nhưng mà tại sao tôi chưa làm? Tôi chỉ còn chờ cơn hứng! Một vài suy nghĩ lộn độn chưa ổn thỏa. Nhưng cũng đang đến ngày phán xét cuối. Hội họa thực sự chứ có phải trò chơi rẻ rúng của bọn công tử đâu. Cũng sắp chạm đến ngưỡng bùng nổ rồi! Có thể hôm nay! Cũng có thể ngày mai. Biết đâu đấy!!!"…

Cái cuộc bùng nổ sắc màu tưởng tượng ấy làm mắt A-văng-gạc sáng rỡ lên như trong một giây phút mê man bỗng chụp bắt tức thời được bức tranh vậy. Nhưng M. nghe A-văng thuyết giảng hoài mà chẳng thấy y làm gì. Buồn buồn như gãi ngứa. Thôi, kiếm em nào xinh tươi làm phát rồi ngủ! Thế mà sướng hơn! Tạm khuây chờ cơn vụt hiện Hiện đại tiền phong! Ở căn phòng A-văng mọi thứ bề bộn đến khiếp. Tất cả mọi thứ đầu tiên và cuối cùng cũng chỉ để phục vụ cho sáng tạo mà! Y tha về đủ thứ từ hoa trái, rau cỏ, tranh ảnh tạp pí lù… giăng mắc đầy nhà. Y còn "đào tạo" hay "chỉ huy" cả một đội binh vạn lí trường thành của Tần Thủy Hoàng bằng cách cho người làm hàng loạt tượng quân lính, voi chiến, ngựa mã… giống hệt nguyên mẫu binh lính, tứ tượng  mà các nhà khảo cổ học quật lên từ lăng mộ được cho là của Tần để xưa kia. Có cái y còn treo lủng lẳng trên trần nhà. Hễ có gió thổi vào là kêu lên leng keng. Nghe như những oan hồn ai oán hiện về từ ngàn xưa.

Mà cũng không hiểu do đâu A-văng tin là cuộc cách mạng hội họa sẽ diễn ra và gã là người được Chúa chọn làm tiên phong cho nền mỹ thuật mới thiên niên kỷ. Và khi thành công thì gã tha hồ chọn lựa các em xinh tươi. Có lẽ thời gian học tập ở Đức, được tiếp xúc nhiều với các trào lưu hiện đại của thế giới và giờ đây gã muốn bắt đầu cách tân trên xứ sở mình. Có điều ai cũng rõ ở Berlin cái thời Đông Đức khi chủ nghĩa xã hội vẫn còn toàn trị ấy thì những cuộc cách mạng trên màu sắc thực tế diễn ra được bao nhiêu? Với cái bức tường ô nhục chia cắt Đông và Tây Đức đó có lẽ cuộc trình diễn ấn tượng nhất với thế giới là phá vỡ bức tường? Và A-văng thực thụ là một tay đi buôn chính hiệu hay gã nghệ sĩ vô thực lang thang? Gã rêu rao rằng gã đã vẽ nhiều tranh bán tại Đức. Ngay thủ đô Berlin, tranh gã luôn đấu giá cao và được treo trong các gallery đẳng cấp, sang trọng bậc nhất. Thực tế có bao nhiêu người biết được bí mật của gã? Mà ôi thôi thôi! Điều ấy giấu giếm hay phăng teo cũng chả có ý nghĩa gì! Nếu quả thực A-văng đã chọn xứ sở này để quay về, để làm nghệ thuật.

Và cái Sài Gòn tuy không phải quá lớn này vẫn có thể dung chứa chấp nhận mọi trào lưu, mọi thể nghiệm, trường phái và nó cũng là sân khấu cười khóc cho bao nhiêu gã lưu manh giả danh trí thức nhảy tót lên bục múa may rao giảng cao đạo. Những dòng thác kiến thức giả hình như bọt xà phòng ấy vỡ tan ra theo sau y khi vừa bước xuống bục. Đám cử tọa vỗ tay như réo đuổi, như điên cuồng. Và rồi đến lúc mọi người ai cũng lấy xe ra về với vẻ dửng dưng khốn nạn. Họ vô can với cái bất chợt, cái thoáng qua xẹt ngang cuộc đời mình. Anh có quảng bá, múa lưỡi, thuyết giảng thì anh cứ làm. Được dịp, chúng tôi vỗ tay. Thế thôi. Ở đây không ai đi theo làm cái bóng thần tượng của anh. Cuộc sống nháo nhào, quay cuồng chóng mặt này sẽ không cho ai là trung tâm hay cái rốn của vũ trụ, không ai nổi tiếng quá ba mươi giây. Đó là chưa kể hãy nhìn thẳng vào thực chất ngày tháng này người ta quan tâm cái gì? Một xã hội “bựa” và “phựa” chưa từng thấy! Một cái gì trá hình, lở loét che đậy. Một lấp liếm, điếm đàng, giả dối. Những cái hố sâu tội ác được phủ dụ bằng những tấm màn lá chuối. Ngay cái vẻ cố tình làm ra tôi đây đang đầy nhuệ khí, thiện chí và có trí thức để tiếp thu cái mới. Ố là là! Đó là cái mũ phủ dụ ma quái vừa vặn đội lên đầu của những con cáo. Bọc trong chiếc áo trí thức để có thể vượt qua mọi khoảng cách đề phòng cảnh giới an toàn. Nhanh tay chớp xoắn những ngón trò, những cái hay của thiên hạ để ngày mai kia sẽ biến báo, nhào nặn thành một tác phẩm "hậu hiện đại" của chính mình. Nghệ thuật biến thành một trò múa gậy trong bị của kẻ cắp. Nhưng sự vô cảm đã biến tội ác thành mặc nhiên. Không ai nói. Không ai lên tiếng. Tất cả như toan rập, mưu cầu trong một sự thỏa hiệp không văn bản. Một màn kịch đời trên sân khấu. Và cuối cùng diễn viên không còn phân biệt được vai chính vai tà. Anh hùng hay anh hèn. Sàn diễn và cuộc đời. Con buôn đóng vai nhà giảng đạo và tài trợ nghệ thuật. Khua môi múa mép ba tấc lưỡi. Kiến thức ăn đong dồi chó. Nghệ sĩ lại biến thành binh sĩ lúc nào không hay. Khoa chân múa tay diễn thuyết và cuối cùng bị ghi tên vào sổ đen của bọn điểm chỉ, cai đầu dài văn hóa. Và bị cấm diễn, mất sân chơi, tống giam. Những tên hai mang đồ tể chực xẻ thịt nghệ thuật rao bán hiển nhiên bày trò cáo nhân danh tác phẩm đổi mới mà thực ra ăn cắp, thó ý tưởng kẻ khác. Một cái chợ đời xôm trò băm chặt như cái thớt thịt anh Trương Ba.

Bấy nhừ đảo điên trong cái chảo hổ lốn nhân cách và tha hóa ấy nghệ thuật còn định giá được bao nhiêu? Có thể rất nhiều tiền mà cũng có thể không tiền. Ăn cắp và sáng tạo như bện dây tời xoắn chuỗi vào nhau không phân biệt được nữa. Kẻ biết, kẻ hiểu nhân tình thế thái chừng như đau đời hơn. A-văng cũng không có nhiều bạn bè để chia sẻ. Chạm tay vào bất cứ cái gì y cũng thấy rắc rối và ràng buộc hàng trăm thứ hầm bà lằng mệt mỏi. Cuối cùng, y như rúc vào vỏ ốc lảm nhảm. Căn nhà của y hóa thành nhà mồ mai táng cái xác của chính y. Chia sẻ những mê lộ sáng tạo với đôi người bạn thân mà ai cũng thừa biết nếu không xả được thì y hóa rồ hóa điên. Chôn mình trong ảo giác của rượu, hơi men và gái. Đó là thực tại suồng sã mà dễ chịu, như được ve vuốt. Là những thứ mà ở địa vị và đẳng cấp A-văng lúc nào cũng có thể mua hay đổi chác được. Mà cuộc đời như thế cũng chả hại ai! Chỉ hơi buồn. Bất động. Lặp hết ngày này qua ngày khác. Những mưu toan bụp xịt, lột truồng bé này bé khác đến khi đạt được thì hóa ra chán ngắt. Trơ lõi. Sức người cũng chỉ thế! Hơi cay. Phù phiếm. Ngầy ngật. Lõa thể. Đi hết cơn mê này đến hỗn loạn khác. Một hôm, trong khi uống, M. thấy A-văng đổ gục xuống. Một cái gì đó đục ruỗng trong xương. Cạn nhựa rồi. Sáng tạo ơi là sáng tạo!

***

Thế còn C. thì sao? Cái mẫu tự này nếu soi rọi dưới lăng kính lịch sử thì quả có nhiều điều độc địa. Thực tình mà nói, C. sử dụng cái mác trí thức Sài Gòn cũ như một thương hiệu thế giá, cơ hội, đầy hiệu quả. Y đã kiếm lời khá bộn khi ranh mãnh đầu tư một cách cố ý vào chuyện này. Trong cái đầu khôn lõi, đớp hít, mưu mô không sợi tóc nào mọc kịp của y luôn tìm cách tấn phong, leo lên những vị thế cao mà người đời luôn ngưỡng mộ dù bị lừa bịp mà phong thánh cho y. Tài năng nghệ thuật bị đánh tráo trong trứng nước bằng chiêu thức bĩnh lậu, thiên tài đập phá hay nhân danh kẻ sẵn sàng tử đạo vì đi tìm lãnh địa, vùng đất mới. Vùng đất mới đó chỉ là thắt lưng eo thon của các em nhỏ, chíp hôi, mười sáu mười tám thịt thơm. Cả đời y chỉ mong cắm thánh giá khai phá trên đỉnh cứu thế là  tam giác vàng chùm lông cáo của bọn gái non. Y phải là kẻ tiên phong, ngụp lặn và uống tận nguồn dòng suối mát. Sẵn màu cọ, y sơn phết chiêu dụ âm mưu đó bằng đôi ba bức tranh siêu thực, tượng trưng trào lộng. Những gương mặt gái tơ trong tranh C. từa tựa như nhau, phổng phao như nhau. Chỉ khác nhau khi y gán đặt một cái tên X, Y, Z nào đó. Y bịp bợm, ranh mãnh, làm đục ngầu cả ý tưởng ngay cả khi cái suy nghĩ nghệ thuật mới vừa khai chớm, manh nha trong đầu. Nói chung, y cưỡng hiếp cái tơ non, hơ hé. Hủ hóa trong cả ý nghĩ. Nhưng tất cả những điều đó làm y sướng khoái khi dụ đưa được con mồi vào tròng và say sưa làm thịt điệu nghệ từ mi li mét chân tơ, kẽ tóc. 

Trong khi nửa thế kỷ qua, Sài Gòn với bao u trầm, thăng biến. Nó như một nốt giáng tháo tung tang tóc. Cá tính bản sắc triệt tiêu để vô hiệu hóa trong một xã hội mặc thường phục. Chẳng ai còn mơ hay dám nhắc đến nó - nền “văn nghệ sa lông” ngoài đám sinh viên thỉnh thoảng xổng chuồng, thoát ra khỏi trại giáo điều của nhà trường đi lạc ngút ngơ vào những tiệm sách cũ. Thật khó cưỡng lại cảm xúc khi từ đống sách bụi bẩn và mớ giấy úa vàng ấy, hương khói của một thời như vẫn ngát lên. Vẫn tỏa ra một thứ phong độ bây giờ như đã hóa thây ma. Văn nghệ Sài gòn là một cái mác đầy chất quyến rũ mà C. dựng lên để rù quyến những con mồi là bọn gái tơ, thích những gì phiêu lưu, to tát, nầy nẫy và phù phiếm. Cũng như đám thị dân trẻ học đòi mới lớn, ít chịu đọc sâu. Nền tảng giao tiếp và học vấn bị chặt đứt khỏi quá khứ. Cái mác mà người khiêm cung, văn hóa hóa cao lặng lẽ khiêm nhường không tỏ bày thì C. nồng nỗng vu vạ chơi tới. Ngay cả thứ thanh danh tanh lợm của y cũng chẳng bằng mấy đồng đô la. Kẻ đã mang thần chết vào cuộc chơi buôn thần bán thánh cho những bức tranh rởm thì há gì không thêm vài giọt nước mắt cá sấu mùi mẫn với sân khấu diễn tuồng khóc cười nhân loại?...

***

Hồ hởi và lọc lõi như C. là thi sĩ Dái Ngựa. Một thứ của nợ từ trên trời rơi xuống Sài Gòn. Chảnh chọe hơn, hắn còn trang bị thêm cái mác là trí thức Việt kiều. Đúng ra Dái Ngựa là một tay lang băm, nửa người nửa ngợm, thất nghiệp ở Mỹ và mài mình qua những bài thơ ấm ớ. Lúc C. đang rơi vào giữa cơn thoái trào bị tẩy chay vì bán độ Thần Chết thì Dái Ngựa xuất hiện khiến cả hai bu bám tung hứng lẫn nhau cao trào đúng độ. Từ ngày ở Mẽo về, Dái Ngựa đâm mê chơi. Ở Sài Gòn chẳng ai biết rõ bộ mặt thật của hắn nên hắn tha hồ nổ, tha hồ nước lên đời. Cái mác Mỹ làm hắn bự con lên, gồ ghề trông thấy. Cứ nhìn cái dáng hắn đi khuỳnh khuỳnh, hai tay đong đưa, dõng dạc chè bè ra hai bên ai cũng phải né và nể! “Không biết “thằng chả” làm gì ở “bển” mà về đây đi đứng nghênh ngang dữ! Chắc ít nhất cũng phải cảnh sát công lực!...". He he! Hắn nghe nhiều người xì xào, càng sướng, mắt trỏ rõ ra, cười he he. Sướng! Một bước lên đời! Cuộc đời như thế mới đúng như là hắn mơ ước.

Vừa xuống phi trường Tân Sơn Nhất là hắn quyết định cạo cái đầu trọc lóc. Hắn cũng không dám cạo ở Mỹ vì sợ làm thủ tục quá cảnh dễ bị chú ý là nghi phạm tiềm ẩn khủng bố. Còn qua không cảng thì đôi khi ách lại vì bộ mặt khó ưa. Hắn không muốn quả đầu trọc làm cản trở chuyến đi hay phiền toái với các nhà chức trách mà chỉ muốn cái đầu trọc tăng bộ dạng "ngầu" để dễ dụ gái. Ở đâu không biết, về Sài Gòn hắn biết "bộ tịch" rất quan trọng. Thêm cái mác Mỹ nữa là hốt đậm, dễ ăn tiền. Hắn trang bị kè kè thêm bên mình một cái túi dết căng phồng một cách bí hiểm. Các em xinh tươi nghĩ hắn có tiền cũng được hoặc luôn sẵn sàng nhiều quà, nhiều nước hoa ban phát cho các em nhỏ lại càng hay. Thực ra trong đó chỉ là mớ giấy lộn và cái máy chụp ảnh càng tàng cà tật nửa mùa. Hắn trưng ra bảng hiệu là nghệ sĩ chỉ xài chuyên dụng "máy cơ" để nâng tầm vóc và phong độ. Còn các loại máy tự động hay bán tự động chỉ dành cho bọn nhà giàu, công tử. Nghệ sĩ thứ thiệt như hắn có mà khinh vào! Thực ra máy mẽo gì hắn cũng chẳng có. Ở Mỹ vốn nhác, lại không thạo tiếng Anh hắn thường xuyên thất nghiệp, ăn bám vào đồng tiền trợ cấp ít ỏi. Tình cờ trước khi bay về Sài Gòn, hắn gặp một thằng bạn dân nhiếp ảnh. Thấy y có nhiều mẫu máy "độc" hắn năn nỉ xin luôn một cái tệ nhất. Chụp hay chọt với hắn nào có ý nghĩa gì! Chỉ cần đèn flash còn chớp nháy. Bấm sáng lòe lên rực rỡ là được. Vì hắn chỉ cần xòe, cần dzợt le thôi mà! Làm sao có cái mà dụ mấy em. Để lùa vào rọ. Mà bốc hốt. Chỉ cần vung máy xòe xòe chớp chớp tí chút. Cái màn xẹt bụp này hắn học được mấy tay mặt rô đi trước! Thế mà hiệu quả ra trò!

Ngày mai thế nào cũng được nhưng hôm nay hắn sẵn sàng bay diều giấy. Cho dù "con diều rơi cho vực thẳm buồn theo" mẹ chó gì đó không biết nhưng cứ phải cho thiên hạ lác mắt nhìn hắn ngông nghênhcái đã! Hắn chỉ cú một điều là ít ai nghĩ hắn là nhà thơ! Mà hắn đang cố gắng đấu tranh, đang thèm rỏ dãi và đang tranh thủ mọi cửa để xác lập cái tước vị đó! Hắn khoái người ta giới thiệu hắn bảnh thế này: "Thưa quý ông quý bà! Hôm nay chúng ta hân hạnh gặp kỹ sư Dái Ngựa, vừa từ Mỹ về! Anh còn là một nhà thơ hải ngoại!, từng có những bài thơ làm say lòng bạn đọc trong tất cả các cộng đồng người Việt Nam trên thế giới. Chúng ta hãy chào đón nhà thơ Dái Ngựa bằng một tràng pháo tay...". Ôi mẹ, sướng! Hắn thề rằng hắn sẽ không cần kiềm hãm cái sự sung sướng này lại!  Sẵn sàng thả phanh cho chết ngất. Chết vì nghệ thuật là cái chết đích đáng!

Dái Ngựa, nhà thơ! Hắn phải để lại đời kiệt tác cỡ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nếu không, cuộc đời hắn đâu hơn gì đống cứt nát. Trong khi hắn chưa viết được kiệt tác nào thì cứ tạm thời tìm cách chửi Nguyễn Du đã! Chửi cho thật ác! Chửi băm trò, tro mặt! Cứ tìm những cái dở, cái tắc tị mà phang tới! Bất kể thứ gì từ gậy gộc, đòn gánh, bút mực... đang sẵn có trong tay. Hiềm một nỗi, Truyện Kiều không có đoạn nào, câu nào dở. Câu nào hắn đọc rồi cũng ghim luôn vào trí nhớ. Cả cái dân tộc Việt này cũng thế! Ai cũng mê Kiều như mê một thứ di sản văn hóa tinh thần qua các thời đại. Cuối cùng hắn phát hiện chỉ có một lỗi nhỏ trong tác phẩm và tác giả viết truyện Kiều. Đó là cái tên Nguyễn Du dở quá! Tại sao lại không là Nguyễn Văn Du để thuần Việt hơn. Nguyễn Văn Du đọc lên nghe dài, du dương như Victor Hugo. Nhưng có Victor Hugo thì cũng không bằng Dái Ngựa. Giá thay vào tác giả của tác phẩm kiệt  tác đó là Dái Ngựa là hay hơn tất! Hắn luôn hân hoan dằn vặt những vấn đề lớn lao kiểu như vậy!

Hắn nhặt ả từ trong một quán lá. Lúc ấy hắn đang uống rượu. Và thế là hắn đặt luôn tên cho ả là Rượu. "Từ đây anh sẽ đưa em vào đời theo lối nhỏ văn chương thi ca. Anh yêu em! Anh khai sinh cho em. Em là cốc đắng cuộc đời buồn khổ của anh! Anh muốn ngủ với em! Rượu ơi! Hu hu!...". Vừa nói nước mắt nước mũi hắn chảy ròng ròng vì cảm động. Dưới ánh đèn mơn mơn nom Rượu ngoan lành quá! Một nửa khuôn mặt trắng, dâm dục hiện lên. Cái mũi hếch. Bờ môi dày. Hàm răng đều li ti hạt đậu. Nửa khuất trong bóng tối là mái tóc rủ xuống che phần khuất gương mặt. Hai bầu vú căng mởn phập phồng trong bóng tối. Nàng thơ của hắn đây rồi. Tại sao không nhỉ? Cái ổ điếm này vẫn có thể cho ra đời một nàng thơ chứ? Nàng Rượu. A ha ha! Không phải rượu, gái làm thăng hoa cuộc đời chăng? Cuộc đời có lang thang dặm dài cuối cùng cũng về lỗ nẻ. Cái xứ sở khốn nạn mà yêu thương này không phải cũng là một hợp chủng chăng? Tiền. Tình. Tội ác. Lưu manh. Trí thức. Nhà thơ. Ổ điếm. Cái cuộc đời thê thảm rách nát của hắn rồi cũng có ngày được chiếu cố, được nâng cấp xứng tầm chứ! Hắn phải làm thơ. Làm nghệ thuật để thay đổi. Tại sao không chứ.

Cả cuộc đời Dái Ngựa thiu đến nổi không ai biết hắn là ai. Lưu manh hay trí thức? Quê hắn, cội nguồn hắn ở đâu? Khi hắn có mặt trên cuộc đời này có ai mong đợi không hay chỉ là một thứ "xịt" đại vào lỗ nẻ mà thành kiếp? Thành thử hắn luôn dằn vặt, luôn lẩn thẩn với nỗi đau. Với kiếp nhân sinh. Hắn là tội đồ mà ngay cả Chúa cũng chối từ với ánh mắt thương hại. Cũng từ suy nghĩ thiếu vắng quê hương đó mà hắn căm thù Chúa, căm thù hết thảy những cái hắn nhìn thấy. Là cái cuộc sống mà hắn hiện diện này. Hăn không cầm nắm gì được cuộc đời này. Tại sao hắn bị sinh ra, bị vứt bỏ, bị ném đá và trôi dạt mà không hiển nhiên được chút thừa nhận hay chọn lựa gì cả? Chỉ duy nhất một điều hắn muốn là trả thù. Hắn phải làm anh hùng. Phải cho thiên hạ biết hắn là ai. Từ một lỗ nẻ chó đẻ nào đó dưới gầm trời này hắn cất tiếng. Hắn di tản hơi trái mùa. Khi Sài Gòn giải phóng, hắn và đám em út được gia đình thu xếp vượt biển mất lần. Lần nào hắn cũng bị bắt. Đúng là cái kiếp của nợ tận mạng. Đến khi hắn lấy vợ, đi theo diện đoàn tụ bảo lãnh của gia đình vợ thì mùa đã cớm nắng. Cái nước Mỹ không còn "ngon lành" bao nhiêu nữa. Mà hắn cũng đã lớn tuổi. Chỉ chực chờ một thức của nả từ trên trời rơi xuống. Nếu có kẻ ban ơn nuôi hắn xuống đời. Còn hắn thì nguyện dành cả phần thời gian sống còn lại chỉ để quỳ gối cầu nguyện mỗi một điều ấy.

Nhưng rồi Chúa cũng đâu có đoái hoài đến lời cầu xin ngớ ngẩn của hắn. Thiên đường đâu chỉ có hoa hồng. Thiên đường còn cần phải có bánh mì nữa chứ! Và muốn có bánh mì phải làm việc. Với cái vốn tiếng Anh thổ ngữ què quặt, tuổi tác quá đát, bằng cấp không, cộng thói lười biếng cố hữu của hắn đây là cực hình. Hắn biết không thể hòa nhập nổi với bộ máy khổng lồ của cái nước Mỹ tân tiến và quái vật. Hắn chỉ còn biết lang thang dưới những ga metro, đường hầm để mơ mộng, uống rượu và đọc lăng nhăng những bài thơ cóc chết. Mà cũng đâu phải hắn không cố gắng. Hắn cũng đã cố đến kiệt cùng rồi chứ! Hắn lang băm đủ thứ nghề chân tay từ chùi rửa bồn cầu, lao công, phụ thợ hồ cho công trường... nhưng khốn nổi không nghề nào hắn đủ sức theo đến cùng được. Ngoài mấy đồng tiền còm, hắn thấy cuộc đời thậm tệ và vô nghĩa. Và đau khổ hơn cái tâm hồn rách nát tả tơi của hắn luôn bị dằn vặt, chà xát. Tê tái, khốn cùng. Hắn đọc được vị cái nước Mỹ này không phải dành cho những tội đồ như hắn! Hắn không thể hiểu nước Mỹ, sống và hòa nhịp cùng nước Mỹ thì còn khuya. Hắn muốn lãng quên, tránh bỏ thực tại, làm thơ để giải thoát tất cả. Ít ra thảm kịch trái khoáy này không đến nổi xé vụn, triệt tiêu hết thảy mà vẫn còn chừa ra một chỗ cho một nhà thơ. Một con Người viết hoa theo đúng nghĩa nhất. Và hắn trượt vào đó. Trượt thơ, trượt chữ như trượt tuyết. Cho đến một ngày cô vợ của hắn cũng không chịu nổi một gã đần thối thiu như hắn nữa. Hắn khóc rống vì sự bội bạc của cô ả. Khóc vì niềm tin tê tái đánh cược vào con đàn bà chẳng khác gì cược vào một con bài phỉnh khi nước cờ đang đi xuống. Tình yêu của hắn ư? Lạnh lùng, phăng teo. Loài phù du và nhẫn tâm. Ngay cả trên giường hoặc xuống mặt đất. Rồi từ một buổi chiều “trượt chữ” hắn mò về nhà thì thấy thị ấp thằng Mỹ đen bóng trên giường. Cả anh cả ả quên phắt Dái Ngựa đã trở về bằng cái chìa khóa riêng và đang tận mắt chứng kiến tảng băng tan của kiến thiết thượng tầng gia đình theo lối sống tự do kiểu Mỹ. Nhưng hắn đâu có điên. Đâu có gì bất ngờ nếu như hắn không thấy vẻ dâm cuồng, được thỏa mãn hiện ra trong mắt vợ hắn. Một ánh dài dại của con cái khi bị khuất phục hoàn toàn bởi con đực. Hắn đau đớn nhận ra kể từng ngày hắn cưới thị đến giờ chưa bao giờ hắn khuất phục được nàng hoàn toàn và bất khả kháng như thế! Giờ đây khi phải chứng  kiến thang bậc cuối cùng của một gia đình sắp sụp đổ, hắn đau đớn nhận ra rằng thì ra từ bao lâu nay hắn vẫn bên lề. Hắn là khách qua đường dù ở trong một mái nhà, cái bóng ma nhân ngãi. Nghĩa là cuộc đời đâu đó, cuộc đời bên ngoài. Một cuộc chơi giữa những con đực mà giờ đây hắn hoàn toàn bị loại bỏ. Hắn âm thầm bước ra khỏi nhà. Như chưa bao giờ phải chứng kiến điều đó. Như một ảo ảnh thoáng qua vậy! Cuộc đời trầy xước thì nghệ thuật mới nên hồ cháo! Không phải AQ nhưng đôi khi hắn đấm ngực: "Thử thách như thế chưa đủ sao Thượng Đế nhân từ? Cứ tiếp tục cho vào tâm hồn ta mọi khổ đau nữa của nhân loại đi! Liệu còn có nỗi đau nào lớn hơn nữa không? Ta hứa với Ngươi rằng ta sẽ rút tỉa chất liệu đó để viết những bài thơ tuyệt tác! Cuộc đời ta rồi sẽ bất tử! Liệu hồn đấy! Đừng có mà mó dái ngựa!...".

***

Rượu chết mê bàn tay của Dái Ngựa. Hắn sục sạo đến đâu ả tê sần sướng ngất đến đó. Cái bàn tay đến lạ. Chẳng biết hắn làm kỹ sư, thợ hồ thợ cháo gì ở “bển” mà nó nổi u, nần và chai cục mà cạ vào thoảng tí đã rợn hết gai ốc. Ả cũng đếch cần biết những chuyện ấy. Cái ả cần là cảm giác đêm nay. Hắn lại vừa khai sinh cho ả cái tên Rượu Baby. Ả cũng đếch cần. Cái ả cần là tiền! Tiền! Tiền! Có tiền thì với ai, làm gì với ả cũng được, cũng xong chuyện. Chỉ kỳ cục là hắn luôn muốn ả xem hắn là nhà thơ. Và hắn gọi Rượu là nàng thơ của anh! Thơ là gì nhỉ? Làm thơ có sướng như sờ ti không? Mà sao Dái Ngựa sờ ti ả thì ả thấy sướng còn hắn đọc thơ thì ả thấy chối tai thế nào. Vậy mà hắn cứ đọc miên man, ồ ề. Đọc xong lại tự đắc hỏi ả: "Thơ anh sáng tác đấy! Nghe được không? Tuyệt không? Tài ba không? Rứt ruột cả đấy!...". Ả nói thật thì sợ hắn buồn vì ả thấy bốc mùi thum thủm. Nghe nửa cải lương, dân ca nửa là phim hành động bắn súng hai tay kiểu Mỹ. Như mắm nêm cho thêm cà cuống. Hắn tôn thờ và sống chết với thơ ca! Hắn tự hào rằng chỉ có thi sĩ hay nhà thơ hiện đại từ Mỹ về mới có được phong độ viết những bài thơ chớp nhoáng ấy. Cảm xúc vừa xảy ra là lập tức tái tạo bằng văn bản trên giấy ngay. Nhưng cũng phải có kỹ thuật, có năng lượng tích lũy mới "phi trọng" được. Bài thơ phải tức thì như cái tát giáng vào mặt độc giả khiến cho họ nổ đom đóm. Sau đó nếu cần thì hạ hồi phân giải. Đó chính là thi ngôn của trường phái Hậu ấn tượng. Đời là một thứ tạp chủng, lệch pha. Mùi hương là một thứ đay đả tạp chất cộng lại. Và thơ là tinh lọc tất cả những thứ mùi khủng khiếp ấy. Rốt cuộc, sau khi nghe những bài thuyết giảng cao siêu xen lẫn thực tế tạp chất kinh khủng ấy, nàng cũng không biết đích thực là hắn muốn nói gì! Thật mơ hồ. Nếu không muốn nói là ba lăng nhăng. Có thể mớ dây dợ thần kinh trong đầu Dái Ngựa có vấn đề. Nếu thơ đơn thuần là những câu lõng bõng ngô nghê như thế thì chắc là ả sẽ làm được và biết đâu là không thua hắn hoặc hay hơn hắn. Thật mà! Nhưng ả thích làm tình hơn. Nếu làm thơ mà thích hơn cả làm tình thì ả sẽ làm thơ. Ả sẽ không là nàng thơ của hắn mà sẽ là một nhà thơ...

Cái mác trí thức, nhà thơ Việt kiều Mỹ của Dái Ngựa là thế đó! Người biết chuyện bịt mũi cười. Ba thứ sách báo lá cải ba lăng nhăng. In chủ yếu là kèm theo quảng cáo. Khuyến mãi và phát đầy đường phố, mỗi ga metro xe điện ở nước ngoài. Mà cũng chẳng ai thèm lấy.

***

Mà phải công nhận là Rượu có nét hoang dã, dâm dật. Nhưng nàng cũng "khớm" lắm! Đâu có vừa! "Em đang buôn bán, tiếp khách, đi với anh ai làm? Để mất việc à?". Thế là Dái Ngựa lúc lắc cái đầu ra vẻ phẫn nộ, kiểu chàng hoàng tử nổi giận: "Em định cả đời em tối hũ nút như cái quán này sao? Em phải đi với anh! Anh sẽ phù phép cải số cho em". Ả ngúng nguẩy: "Gớm! Số với chả má! Mỗi ngày em làm ba trăm ngàn! Ăn uống, nhà trọ, con cái đâu vào đó! Không làm thì bốc đất mà xơi à...". Khi ả vùng vằng quá hớp, bắn ra cái tin đã có "con cái", Dái Ngựa ỉu xìu, nghe tanh rợn: "Thế em có con rồi à? Em còn trẻ thế này cơ mà?". Ả mới thẽ thọt cho hắn biết nàng bị cưỡng bức dù dưới mác lấy chồng, có một con trai vì cuộc hôn nhân đó hoàn toàn không có tình yêu. Thời thơ ấu của ả lớn lên ở cô nhi viện cùng với một người chị. “Em chẳng biết tại sao em có mặt trên cuộc đời này lạ lùng như vậy. Như một cơn ác mộng!". Khi ả biết thân phận của mình thì cũng đã chứng kiến biết bao đứa trẻ mồ côi chết ở nghĩa trang Đồng Nhi. "Em được các bà xơ bảo bọc sau đó cho đi học nghề. Trong một lần em bán nước giải khát ở căng tin hợp tác xã thì có quen một tay công an. Hắn cứ ngồi lỳ, ngồi đồng ở quán. Cưa cẩm tán em mãi. Rồi hắn trở thành chồng của em, cha đứa con em bây giờ. Nhưng ngay trong đêm hắn phá trinh em, em đã biết mình không tìm được tình yêu. Mình là một con vật trong tay của một khổ chủ thì đúng hơn! Rồi sau đó em không thể sống nổi. Em trốn về Sài Gòn...". Câu chuyện của Rượu làm Dái Ngựa cảm động. Hắn muốn an ủi, xoa dịu ả một câu nhưng hắn biết làm chuyện đó là thừa thãi và vô nghĩa, chi bằng lựa thế mò tay vào đũng quần nàng một cái. Cả hai cười rên, sướng!

***

Thực tình cái nghề ngỗng văn chương viết lách có thể là giời đày hoặc giời cho. Tùy theo quan niệm. Nhưng rõ ràng là không phải cứ muốn là được. Nhà văn cũng khác gì tay thợ cạo. Nhưng có bọn cạo nhà cầu, cạo tường, cạo ống khói còn nhà văn cạo rửa linh hồn. Cái linh hồn vơ vất âm u, lưu cữu như dòng nước bẩn tù đọng mấy ngàn năm. Đó là nỗi buồn thường trực, tiền kiếp sự quắt quay của con người sống, lưu lạc rồi chẳng biết về đâu. Nhưng trong cái đầu củ chuối của Dái Ngựa hoàn toàn không có suy nghĩ ấy. Hắn chỉ có sự căm thù và muốn trả thù cuộc đời chó má và ghẻ lở. Hắn thấy cần phải tút lại vỏ bọc. Hắn muốn vụt thoát thành một trí thức giả cầy cũng được. Còn Rượu, làm sao phút chốc cải lốt được từ một con vịt xấu xí để trở thành một con thiên nga xinh đẹp, nói gì đến việc trở thành một phu nhận học thức mỹ miều. Làm quái gì cái thứ bả rởm đời chó má ấy hắn chẳng cần biết! Nhưng hắn cần một vai để nhập trên sàn diễn cuộc đời. Hắn cần phải vẽ bùa mà đeo. Cái cuộc đời giết hắn chết trong thực tại thì ít ra vẫn còn giấc mơ để hắn lưu trú nẻo linh hồn sờn rách nát tả tơi này chứ!... Ô hô!...

Tấn tuồng của Dái Ngựa diễn khá ra trò. Giới trí thức Sài Gòn xôm tụ bàn tán về nàng Rượu và thi sĩ Dái Ngựa. Chàng, đại diện cho trường phái cách tân thơ nổi loạn bậc nhất của Hoa Kỳ và nàng, một tài năng ngựa chứng, dập vỡ các nền tảng giáo dục giáo điều ở gia đình và nhà trường. Sống buông thả. Tự do.

Diễn đàn đầu tiên mà hắn và ả ngo ngoe lạc vào là một hội thảo Thơ Hiện Đại diễn ra trong trường đại học. Buổi giao lưu diễn ra buổi chiều trong một giảng đường. Trước đêm đó, Dái Ngựa không ngủ được vì sướng. Hắn không ngờ hắn có thể trở thành một nhà thơ lớn giao lưu với sinh viên giữa một đại học lớn ở Sài Gòn hoa lệ. Cái thành phố mà cách đây gần ba mươi năm hắn ra đi bây giờ nghênh ngang trở về. Nói từ Sài gòn ra đi là có vẻ sang cho hắn. Nhưng hắn chả dại gì từ chối điều ấy. Để bước chân vào giới thượng lưu, giáo đường của nghệ thuật thi ca hắn sẵn sàng viết lại lý lịch của mình, cũng như việc móc cô tình nhân Rượu trong ổ điếm ra. Hắn sẵn sàng đổi tên, thay họ, thay luôn tên cha mẹ đẻ. Đối với hắn đó là cái chất quê kiểng, cái thành bao của văn hóa làng cần phải loại bỏ sớm ngày nào tốt ngày ấy. Phải lên đường. Một  bước ra đại dương. Hắn cần phải có một bút hiện Dái Ngựa để có thể lên tiếm ngai giáo hoàng văn học. Nếu cần học phí trả bằng máu thì hắn cũng sẵn sàng lao tới. Hôm qua còn quét rửa bồn cầu ở Mỹ hôm nay chiếm thi đàn diễn thuyết, lên lớp chỉ vẻ cho đám sinh viên thơm nức kia về nghệ thuật thơ ở Sài gòn làm cho Dái Ngựa sung sướng phát điên. Và chắc chắn từ bệ phóng này hắn sẽ đánh chiếm những lô cốt thơ khác. Cho đến một ngày tên tuổi của hắn vọng tới những giải thưởng lớn của thế giới. Nobel chẳng hạn. Tại sao không? Trên cái thi đàn lấp lánh và đỏm dáng tại sao lại không dành cho hắn? Vô lý! Trong khi hắn được mệnh danh là một thi sĩ hải ngoại, có thơ, tiểu luận phê bình, dịch dọt đăng đàn trên tất cả các tạp chí văn học nghệ thuật lớn nhỏ ở Mỹ, châu Âu và nói chung là toàn thế giới. Hắn đã trở về đúng lúc. Đúng thời vụ. Bây giờ tha hồ hốt....

***

C. ngồi ngáp vặt, cá ngão. Hắn thấy thời gian đang trôi đi vô vị và nhạt nhẽo. Những cuộc chơi nhân danh trí thức bằng cách viết tạch đùng, thối hoăng một sáng thức dậy sao nhạt thếch và chó má. Đu đưa và buồn ngủ. Cuộc tấn phong đêm qua dội tỉnh thức trong máu hắn.

Đó là cuộc ra mắt của nàng thơ, bí danh Rượu và ông hoàng thi ca hậu hiện đại Dái Ngựa. Lần đầu tiên, Dái Ngựa tố chức một bữa tiệc đêm để giới thiệu nàng thơ của mình. Như gã nói thì sau buổi thuyết trình gặp gỡ nói chuyện thi ca với sinh viên đại học, cả hai phê ngất với  tuần trăng mật ở Huế và bây giờ chính thức ra mắt với anh em vỉa hè văn chương Sài Gòn. Quả đúng là ai cũng lé mắt hết. 

C. tức tối. Hắn phải tìm cách chơi thằng chó một quả. Dám nổi tiếng hơn hắn ư? Thối hoắc. Viết lách loăng quăng bịp bợm dụ khị mấy em thịt thơm mới lớn rồi tếch đi ra nước ngoài để trốn. Dám bày trò để nổi tiếng hơn hắn ư? Nếu cần hắn lại mượn tay Thần Chết. Vì danh vọng hắn chẳng phải đã lừa Thần Chết một lần là gì?

Trôi đi một buổi sáng yên bình trong nắng vỉa hè Sài Gòn. Những cái vỉa hè tưởng yên ả nhưng đan lát bên dưới là những lỗ cống đen ngòm sẵn sàng nuốt chửng bất cứ thứ gì mà nó ngoạm được. Rác rưởi. Mưu mô. Tội ác. Danh vọng. Nhưng rồi tất cả sẽ trở nên trong trẻo khi chạm tới bờ lớn đại dương. Nơi những con hải âu chớp cánh…

 

Sài Gòn, 2003 - 2011

 

 

LỜI BẠT

 

“Ổ THIÊN ĐƯỜNG” - NGUYỄN HỮU HỒNG MINH NHỮNG GIẤC MƠ DANG DỞ

 

 

Viết tập truyện ngắn, Nguyễn Hữu Hồng Minh dường như không câu nệ vào mục tiêu “phản ánh luận” thông thường theo thói quen thời đại, vì thế đọc hết tập truyện, chúng ta không thấy tác giả “phản ánh” điều gì nhiều về hiện thực. Vẫn có những phận người cần lao khổ nhọc vùng bờ bãi châu thổ, những cuộc đời nông dân yêu đất đai nhưng bị “rắn độc” tước đi cả mảng sống lẫn giá trị tinh thần, những trí thức trẻ tuổi “sống mòn” trong sinh tồn, khiến trí tuệ, chữ nghĩa sáng tạo bị thương vong, tiêu biến… Song nhìn chung, các truyện ngắn chủ yếu tập trung vào phạm vi sáng tạo nghệ thuật hoặc các công việc liên quan đến sáng tạo, tập trung “phán ảnh” thế giới bên trong của con người. Nếu nhìn bằng con mắt của “phán ảnh luận” thì cái hiện thực trong tập truyện ngắn chính là đã dựng lên được, soi chiếu được ít nhiều trạng thái tinh thần thời đại, cái tâm thế bên trong của con người hiện đại. Một vài truyện viết theo kiểu hậu hiện đại, nhân vật mang tên ký hiệu, phi cốt truyện, hình tượng nhân vật được “bóp méo” để tạo nên khuôn mặt xộc xệch của con người hiện đại…

Đó là những phiến đoạn của đời sống, nói đúng hơn là những lát cắt tâm thức, nơi những phiền muộn lo âu, những ưu tư đau đớn, nơi những xung đột nội tâm, những sáng tối trong tâm hồn được phác lộ ra. Mỗi câu chuyện được viết như là sự bùng nổ ý thức, sự vỡ nổ của một trạng thái nội tâm bị những xung đột “giày xéo” đến mức tràn ra thành chữ nghĩa, thành chuyện kể… Tác giả dường như không để ý đến tuyến tính, cốt truyện, hành động, logic, những yếu tố liên quan đến truyện ngắn truyền thống mà trực diện để dòng chảy nội tâm, ý thức ào ạt hiện hình lên trang viết… “Sa mạc trắng và trăng” là một truyện ngắn tiêu biểu nhất cho kiểu truyện ngắn này. Không gian truyện đặc quánh, nhỏ hẹp như một hố sâu vô thức với những âm u và tuyệt vọng, những man dại và câm lặng. Theo ý thức, câu chuyện được kể với tiết tấu nhanh, nhân vật Đạt trượt theo chuỗi ý thức, đến vô thức, và đẩy đến cực điểm: “Cuối cùng Đạt thấy mình biến thành một con tắc kè đầu nhọn. Nóng quá. Tắc kè lột vỏ và bỏ đi. Để lại bộ da luôm nhuôm trên cát bỏng”.

Tập truyện ngắn Nguyễn Hữu Hồng Minh tập trung vào hai kiểu người: Những người trẻ tuổi, và những người hành nghề viết lách.

Ở nhóm truyện về những người trẻ tuổi, ta thấy họ bất an, mỏng manh trước dòng chảy đời sống. Có một sự bất định đè lên cuộc đời họ, họ không kiểm soát được ý chí, cảm xúc và số phận mình, họ nhận những kết quả ngẫu nhiên. Sự bất an ra đời không phải vì họ quá nhạy cảm để nhận thấy những biến đổi tinh vi và những tác động ngoại cảnh đến với họ, mà họ cảm thấy được những run rẩy của ý thức, một ý thức không hệ giá trị, không lý tưởng. Tựa như sự khủng hoảng ý thức…? Vì thế, đang sống, đang làm việc, Dương lại “linh cảm mơ hồ”, luôn mường tượng ra cái cảnh “con thuyền sắp đắm”, đắm trong một ngày đẹp trời. Đó là sự linh cảm một nỗi bất định của một trạng thái sống vô nghĩa trong một vẻ đẹp hào nhoáng đang bao phủ lên bề mặt xã hội giả dối… (Thuyền đắm ngày đẹp trời). Đó là những chân dung tuổi trẻ giàu mơ ước, giàu trí tuệ, giàu cảm xúc, hướng đến những lẽ sống cao đẹp, thao thức, băn khoăn, nhưng đường đời gập gềnh, cơm áo sinh tồn dúi sâu xuống mặt đất nên luôn vật vã đấu tranh nội tâm để vừa tồn tại, vừa giữ vững lẽ sống, nhưng lại chứa nhiều thất bại hơn là thành công… (Phong trong Ổ thiên đường, Đông trong Dư chấn biển, Quân trong Mặt đất im lặng, Hùng trong Tàu qua núi…và nhiều truyện khác).

Trong những câu chuyện về người làm nghề viết lách, anh ta có thể là nhà văn, nhà báo, hoặc nhà luyện ngôn… Anh ta thường vô danh nên được ký hiệu bằng một chữ cái F., M., T… Tất cả những nhân vật “sáng tạo” đều luôn có ý thức, luôn suy ngẫm về hành động văn chương của mình. Thế những gần như tất cả đều sống trong trạng thái sợ hãi, sợ hãi vô hình, bấn loạn giữa ý thức cao cả và hành động tầm thường, viết cẩu thả, viết kiếm cơm, viết trong sự cưỡng ép của dư luận, của bầy đàn đám đông… Vì thế họ sống trong mặc cảm sáng tạo. trong ý thức phản tỉnh không ngớt khi họ chỉ tạo ra một “nghĩa địa chữ” trong cuộc đời sáng tạo dằng dặc của mình. Họ lẫn lộn giá trị, viết trong mộng mị mờ mịt giữa tìm kiếm cách thức sáng tạo, giữa chữ và nghĩa. (Hõm ngoặc, Cái lưới, Chủ và thuyết, Đầu và đỉnh, Nhà văn lừng danh, Khách lạ lúc nửa đêm, Máy in tâm hồn, Ăn chữ, Những mẩu tự, Nhai nhựa…). Nhân vật của tập truyện hầu hết là nhà văn, hoặc có công việc liên quan đến chữ nghĩa, đến văn bản. Điều này thể hiện rất rõ hoài bão văn chương của tác giả.

 Ổ thiên đường của Nguyễn Hữu Hồng Minh tập hợp nhiều truyện dài ngắn khác nhau, có truyện vài ba trang, có truyện chỉ như là một nhát dao gồm một đoạn văn duy nhất, có truyện đậm cách kể truyền thống, có truyện được viết theo kiểu hậu hiện đại nhiều trang ròng rã…

Với những câu chuyện giàu chất thơ, được cấu trúc như tứ thơ, giọng kể thơ. cái đem đến cho độc giả là những hình tượng, đúng hơn là những biểu tượng mang tính ẩn dụ. Ẩn dụ dày đặc trong mô tả cảnh vật, con người hành động,… Dương, nhân viên chữa mo-rat của một tòa soạn Dương nhìn thấy cái chết của tờ báo, cũng là cái chết của những con chữ mà anh lọ mọ đánh vật sửa chữa từng ly. Đó là cái chết của những giá trị tinh thần trong một xã hội coi trọng vật dục, cũng là cái chết của những giá trị cá nhân trong sự đồng phục của xã hội (Thuyền đắm ngày đẹp trời). Đó là giá trị sáng tạo được sản sinh trong đôi mắt mù của T. (Nghệ thuật tương lai). Đó là một ẩn dụ chính trị trong tấm lưới thít chặt nhà văn ca ngượi tự do (Cái lưới). Đó là những kẻ vô hình, những vị khách lạ như những bóng ma lờn vờn quanh nhà văn trong sáng tạo nghệ thuật (Khách lạ lúc nửa đêm),…

Ẩn dụ làm nên 2/3 các tiêu đề của truyện: Cái lưới, Khách lạ lúc nửa đêm, Máy in tâm hồn, Thuyền đắm ngày đẹp trời, Tàu qua núi, Ăn chữ…

Ẩn dụ đầy chất thơ dường như được tác giả bày biện sẵn trên bàn cho bạn đọc, rất dễ cảm thấy, rất dễ đạt đến mục tiêu đến nỗi dễ khiến người đọc truyện ngắn dường như không cần suy tư… Nhiều truyện ngắn như một bài thơ văn xuôi. Người đọc quen với văn xuôi truyền thống sẽ không thỏa mãn với nhiều truyện ngắn trong tập truyện Nguyễn Hữu Hồng Minh….

Có hai loại truyện tập hợp trong tập sách, một được viết theo kiểu truyền thống, một được viết kiểu ngụ ngôn, phúng dụ hiện đại. Những câu chuyện mi-ni ngăn ngắn như là một phiến đoạn của nhận thức, như một luận đề được diễn đạt bằng hình ảnh văn xuôi. “Nơi trú ẩn an toàn” là câu chuyện về một kẻ sợ hãi đến mức đánh mất bản thân mình. Sợ hãi cùng cực trong tâm thức khiến con người tự đào hố chôn mình. “Nửa viên hay một viên đạn cho tôi”  là một phúng dụ hiện đại về giá trị độc lập, cá thể của nhà văn khi sáng tạo…

Một vài truyện ngắn hay thì được tạo dựng bằng cấu tứ hoài niệm. “Tàu qua núi” là một hoài niệm, từ một hình ảnh đoàn tàu qua núi, nhân vật Hùng đã nhìn, ngắm, nhớ và nghĩ về tình yêu, về hành trình sống. Không cốt truyện, tác giả đã thực hiện một phóng đại tâm thế để dựng lên một biểu tượng ẩn dụ về sự đời sống, nơi con người không có sự chọn lựa nào hết… “Mưa châu thổ” cũng được kể như một hoài niệm về một chuyến đi của nhà văn trẻ, và ở đấy, anh đã gặp Út Miêng, người con gái hẩm hiu phải vật vã chuyển dạ giữa một vùng đất xa ngái gần như lãng quên, trong khi người chồng Tư Đen qua đời, và viên bác sĩ thì lạc tận phía cùng trời của châu thổ…Và nhà văn đã kể lại hành trình tìm đến viên bác sĩ qua những kênh xáng phiêu lưu, vô định. Một hành trình như là đi tìm kiếm chữ nghĩa cho trang văn, như là đi cứu một hi vọng mong manh của những con người gần như sống ở một vùng đất bỏ quên của Chúa,… Những cơn mưa châu thổ che giấu những bí mật về con người và sự cống của một vùng đất.

“Những quả trứng trong mơ” là một truyện ngắn hay nhất trong tập truyện. Cái hay của câu chuyên là nó đậm chất thổ ngơi châu thổ Nam Bộ. Ở đây, con người, cảnh sắc, văn phong đều được thể hiện bằng một ngôn ngữ đầy màu sắc tự nhiên của hiện thực, với một giọng kể rặt chất đồng bằng. Mười Dửng, kẻ chăn vịt lùa đồng đem lòng yêu Hai Trâm, một đóa hoa trên đồng cỏ chát. Những trứng vịt ngon nhất, đẹp nhất của trời đất đã được Mười Dửng dành tặng cho người đẹp. Thế nhưng, vì những trớ trêu, tình yêu ấy bị bỏ qua, để lại Mười Dửng cô độc và trôi dạt thăm thẳm, vô định trong màn trời mênh mông, còn Hai Trâm gặp phải một anh chồng nhà giàu dở người, bại liệt, để rồi trở nên một đau khổ cùng cực. Không ai làm chủ được số phận mình, không ai được theo mơ ước của mình, tất cả là những giấc mơ dang dở, nhưng con người vẫn không thôi mơ ước,…

Nhiều đoạn văn trong tập truyện Ổ thiên đường được viết tựa như sự trào thoát của những dòng điện năng, những con sóng, những dòng nham thạch trong một ống kính vạn hoa… Văn phong bạo liệt, những tính từ được sử dụng ở mức độ cao nhất, những hành động được miêu tả ở trạng thái “khoa trương” nhất, ngôn ngữ tự sự đậm đặc chất thơ, câu văn miêu tả dày đặc hình thức so sánh, ẩn dụ (Nhai nhựa, Những mẩu tự)… Nhân vật được tập trung vào ý thức bên trong. Các nhân vật hay trôi dạt và đẩy ý thức, soi chiếu dòng ý thức đến tận cùng, ý thức dẫn nhân vật đi, đi đến cùng cực… Tiêu biểu như nhân viên Dương thấy con thuyền đắm trong bão tố, thấy rất cụ thể, như là rất thực đang diễn ra: “Có những lúc như hôm nay, Dương đã suy kiệt đến tận cùng niềm tuyệt vọng. Ngày mai không một điểm sáng. Con thuyền lắt lay quay khóc giữa biển cả…” (Thuyền đắm ngày đẹp trời).

Vẻ đẹp ẩn dụ về những giấc mơ đời dang dở của con người là nét cơ bản làm nên sức thu hút cua người đọc trong tập truyện ngắn “Ổ thiên đường” của Nguyễn Hữu Hồng Minh.

 

LÊ QUANG ĐỨC, Nhà phê bình văn học 

 

 

MỤC LỤC

Ổ THIÊN ĐƯỜNG

TẬP TRUYỆN  - NGUYỄN HỮU HỒNG MINH

 

 

*Lời giới thiệu

 

Trần Nhã Thụy, Đinh Bá Anh, Vương Huy,

Phùng Nguyễn, Nguyễn Một, Lưu Sơn Minh.

 

 

Phần I: Mưa châu thổ

 

1. Tàu qua núi

2. Mưa châu thổ

3. Những quả trứng trong mơ

4. Thuyền đắm ngày đẹp trời

5. Ám tượng đỏ

6. Tiễn biệt lá khô

7. Ngõ hẹp

8. Sa mạc trắng và trăng

9. Ngày lạ

10. Gió vẫn thổi hoang vu

11. Mắt mèo xanh

12. Chất đồng

13. Ráp xác

14. Mặt đất im lặng

15. Nghệ thuật mèo

16. Dư chấn biển.

17. Ổ thiên đường

18. Nhai nhựa

 

 

Phần II: Hõm Ngoặc

 

19. Nơi trú ẩn an toàn

20. Máy in tâm hồn

21. Khách lạ lúc nửa đêm

22. Ngày cuối

23. Chuyện ở một xứ lạ

24. Nhà văn lừng danh

25. Đầu và đỉnh

26. Chủ và thuyết

27. Mùi thượng đẳng

28. Cái lưới

29. Người đang nói

30. Tiếng hát hay câu chuyện của Ng.

31. Hõm ngoặc

32. Một truyện Kafka

33. Nửa viên hay một viên đạn cho cái Tôi.

34. Ăn chữ

35. Những kẻ chết chậm

 

Phần 3: Vẽ bùa mà đeo

 

36. Vẽ bùa mà đeo

 

Lời bạt

 

“Ổ Thiên Đường” Nguyễn Hữu Hồng Minh Những giấc mơ dang dở - Lê Quang Đức

 


[1] Vỏ lãi hay còn gọi là vỏ tắc ráng hay vỏ vọt, là tên một loại thuyền máy, hoặc xuồng, ghe nhỏ và dài hình thoi, thường làm bằng gỗ và gắn thêm máy, là phương tiện di chuyển chủ yếu và phổ biến ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, vùng sông nước Đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là vào mùa nước nổi.

 

[2] Nghĩa là chị, theo cách gọi ở miền Tây.

[3] Chỉ có một mình.

[4] Gabriel José García Márquez. Sinh ngày 06 tháng 03 năm 1928, là một nhà văn người Colombia nổi tiếng. Ông còn là nhà báo và một người hoạt động chính trị.

 

[5] Giỏ, sọt theo cách gọi của người miền Nam.

[6] Thành ngữ chỉ xa xôi, không dò đoán được.

[7] Tên gốc tiếng Anh là Guide (nghề Hướng dẫn viên du lịch).

[8] Mai mối, kiếm tiền, chia chác. 

[9] Là một lễ hội của người Khmer. Ok om bok là lễ cúng trăng, tạ ơn và cầu cho mùa màng tốt tươi theo tiếng Khmer.

[10] Còn gọi là prahok hay pro hoc, là tên một loại mắm làm từ nguyên liệu chính là cá nước ngọt, do người Khmer ở Campuchia cũng như người Khmer ở Nam Bộ - Việt Nam chế biến.

[11] Là lễ hội truyền thống lớn nhất trong năm của đồng bào Khmer, còn được gọi là lễ cúng ông bà (Píth-sên đôn-ta). Lễ có ý nghĩa giống với lễ Vu Lan của người Việt nên còn được gọi là lễ "Xá tội vong nhân".

[12] Hay còn gọi là chùa Dơi, chùa Wathsêrâytecho Mahatup. Được xây dựng cách đây 400 năm tại tỉnh Sóc Trăng.

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Sự kiện  

Lễ kỷ niệm 50 năm thảm họa da cam ở Việt Nam

VanVN.Net - Sáng nay, 10/8/2011 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thảm họa da cam gieo rắc trên đất nước ta. Đúng ...

Nhân vật  

Công chức Nga thời nào tốt hơn

VanVN.Net - Nhà văn I. M. Poliakov, Tổng biên tập Văn báo, ủy viên ủy ban Văn hóa phủ Tổng thống, ủy viên Đoàn chủ tịch Hội nhà báo Matxcơva, tác giả nhiều tiểu thuyết chống quan liêu như Tình trạng ...

Thư giãn  

Thấy, nghĩ và viết: “Từ đâu đến đâu”

VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...

Nhà văn đọc sách  

Mấy ai đã đến tận cùng chiều sâu của biển

VanVN.Net - Đỗ Kim Cuông vừa cho xuất bản “Sau rừng là biển” - cuốn tiểu thuyết thứ 12. Đọc những trang đầu, tưởng chỉ là một câu chuyện đơn giản và quen thuộc: ba người lính quê một tỉnh đồng ...