Thiên Sơn: Quốc kỳ được sáng tạo nên trong thời kỳ bí mật, việc xác minh chắc hẳn phải trải qua quá trình tìm hiểu nhiều hướng, suy đoán và lần tìm các đầu mối rất khó khăn?
Thời kỳ hoạt động bí mật, các chiến sỹ cách mạng và cơ sở của Đảng đều trong bóng tối. Không ai có tên họ thật. Họ giấu mật thám, và giấu cả người thân. Có người đổi tên hàng chục lần, đổi cả nghề nghiệp. Chẳng hạn như đồng chí Ngô Gia Tự đi làm phu khuân vác, đồng chí Nguyễn Phong Sắc làm nghề kéo xe…
Về lá cờ đỏ sao vàng thì, lần đầu tiên xuất hiện trong khởi nghĩa Nam kỳ tháng 11/1940, nhưng tác giả của nó là một câu hỏi lớn, phải mất nhiều thời gian và công sức mới có thể lần ra được.
Năm 1965, tôi gặp cụ Đặng Thai Mai, theo cụ kể, nhà báo Thép Mới có nói đồng chí Trần Phú đem mẫu cờ từ Liên Xô về. Nhưng cụ lại bảo: “Tôi không tin. Anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), anh Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) có biết không, tôi không dám chắc”.
Lại có người nói lá cờ đỏ sao vàng do Bác Hồ sáng tạo ra. Khi đọc hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tôi được biết: Năm 1940, Bác Hồ mang bí danh Hồ Quang cùng một số cán bộ từ Quế Lâm về làng Nậm Quang, huyện Tĩnh Tây, (Quảng Tây, Trung Quốc), sát biên giới Trung - Việt. Tại đây Bác mở lớp "Con đường giải phóng" huấn luyện cán bộ từ trong nước gửi sang để chuẩn bị thành lập mặt trận đại đoàn kết dân tộc. Các đồng chí Phùng Chí Kiên (Bí thư hải ngoại của Đảng), đồng chí Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), và đồng chí Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) trực tiếp soạn bài giảng cho lớp này.
Đồng chí Dương Hoài Nam được Bác giao nhiệm vụ phụ trách lớp và Bác trao cho đồng chí Hoài Nam lá cờ đỏ sao vàng treo trên bàn thờ Tổ quốc trong lớp học. Trong hồi ký Từ Pắc Bó đến Tân Trào của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn: “…Lễ tốt nghiệp tổ chức giữa một khu rừng vắng vẻ. Sau những ngày học tập, mọi người phấn khởi, náo nức hẳn lên. Anh em chúng tôi đứng vây quanh Bác, biết rõ ông cụ mảnh khảnh mặc bộ quần áo Nùng giản dị này là người gắn liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam.
Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh phấp phới bay trong gió lạnh như một ngọn lửa thiêng sưởi ấm lòng chúng tôi, khi đó còn là những người dân mất nước phải sống xa quê hương.
Chúng tôi ngoảnh mặt cả về phía Nam, hoan hô tinh thần khởi nghĩa Nam kỳ, thề sẽ thẳng tiến không lùi trên con đường cách mạng chông gai, một ngày kia sẽ đem lá cờ thiêng liêng này về nêu cao giữa thủ đô” (Sách Đầu nguồn, trang 50 - 51, NXB Văn học 1975).
Lá cờ ấy Bác mang theo về Nước. Ngày 19/5/1941, lá cờ được treo giữa hang Pắc Bó, khai mạc Hội nghị thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh.
Theo lời kể của của cụ Vũ Anh, cụ Lê Quảng Ba: Ngày 22 /12/1944, Bác tín trọng trao lá cờ đỏ sao vàng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ khai sinh Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Để làm rõ nguồn gốc lá cờ Bác mang từ nước ngoài về, cũng trong năm 1965, tôi tìm gặp được cụ Đặng Văn Cáp, một nhà nho người Hà Tĩnh, hoạt động cách mạng ở Thái Lan (nhân vật được tái hiện trong tập truyện Con người và con đường, tác giả Sơn Tùng) được Bác phân công theo dõi tin tức qua radio để báo cáo lại cho Người từ năm 1940.
Cụ Đặng Văn Cáp kể hồi ấy ở Quế Lâm, qua radio, biết ở Nam kỳ có khởi nghĩa. Bác lặng đi. Rồi Bác nói: “Dậy non rồi, tổn thất lớn”. Bác lại hỏi: “Trong khởi nghĩa Nam kỳ có gì mới nữa?”. Cụ Cáp báo cáo với Bác, trong khởi nghĩa Nam kỳ lần đầu tiên có cờ đỏ sao vàng.
Bác hỏi: “Sao mấy cánh?”. Cụ Cáp trả lời: “Họ không nói”. Bác lại hỏi: “ Sao vàng ở giữa hay ở góc?”. Cụ Cáp lại trả lời: “Cũng không thấy nói”. Bác lặng đi suy nghĩ. Rồi Bác bảo cụ Cáp ra phố mua cho Bác một tấm vải đỏ… Khi cụ Cáp mua về, Bác đã thửa lá cờ đỏ, sao vàng cắt bằng giấy vàng, có 5 cánh, dán ở giữa.
Từ năm 1955, tôi có duyên gặp và trở thành bạn tri kỷ với nhạc sỹ Văn Cao. Có lần tôi hỏi anh Văn Cao: “Khi viết Tiến quân ca, anh đã nhìn thấy cờ đỏ sao vàng chưa?”. Văn Cao trả lời: “Chưa. Mình tưởng tượng ra chứ chưa hề nhìn thấy”.
Vậy là, có một điều kỳ lạ làm tôi suy nghĩ. Bác Hồ chưa nhìn thấy cờ đỏ sao vàng, chỉ nghe cụ Đặng Văn Cáp báo cáo có cờ đỏ sao vàng trong khởi nghĩa Nam kỳ mà Bác đã thửa ra lá cờ.
Còn nhạc sỹ Văn Cao chưa hề nhìn thấy cờ đỏ sao vàng, nhưng đã viết trong Tiến quân ca: “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước… Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới. Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than”. Dường như ở đây có sự gặp gỡ về mặt tâm linh…
Câu hỏi: Ai đã vẽ cờ đỏ sao vàng tung bay trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ càng lúc càng thúc bách tôi. Nhưng tôi chưa thể có đủ tư liệu để trả lời thì chiến tranh phá hoại của Mỹ ném bom miền Bắc. Tôi trở thành phóng viên chiến tranh vùng Liên khu Bốn cũ, rồi đi B vào năm 1967.
Như có một cơ duyên, năm 1968, tôi gặp được đồng chí Năm Thái, một vị lão thành cách mạng, một chiến sỹ của khởi nghĩa Nam kỳ đang lâm bệnh hiểm nghèo điều trị tại Bệnh viện bà Thúy Ba làm giám đốc, trong rừng miền Đông Nam bộ. Cùng nằm trong một căn nhà “bán âm bán dương” với ông, những lúc giảm bệnh tĩnh tâm, tôi gợi chuyện được ông kể lại về ký ức của thời Nam kỳ khởi nghĩa. Chính ông được giao việc in bằng đá ly tô lá cờ đỏ sao vàng, lời kêu gọi của Đảng, truyền đơn và báo Tiến lên của khởi nghĩa Nam kỳ. Ông hé mở cho tôi, tác giả cờ đỏ sao vàng chính là người phụ trách cơ quan ấn loát, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ.Ông là người Bắc Kỳ, một yếu nhân đã sáng lập chi bộ đầu tiên của tỉnh Hà Nam, bị đày ra Côn Đảo, vượt Côn Đảo về đất liền, hoạt động bí mật ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với tên gọi Hai Bắc Kỳ. Vì ông thông chữ Tây, chữ Nho, biết sửa chữa đồ dùng có máy nên còn có tên gọi nữa là Hai kỹ sư… Ông thường dạy học. Những nơi ông mở trường dạy học, mọi người gọi ông là thầy giáo Hoài. Ông vẽ truyền thần cho các ông bà già nên được gọi là thầy Hai Họa Sỹ. Ông thửa một lá cờ đỏ, đính ngôi sao vàng năm cánh chính giữa, viết lời giải thích ý nghĩa lá cờ, đưa cho mấy ông lãnh đạo Xứ uỷ bàn với nhau. Rồi chính ông Hai họa sỹ vẽ lá cờ vào phiến đá, in ra nhiều gói cho chuyển đi xuống các cơ sở bí mật. Công việc in ấn gần xong thì lính kín ập đến. Không ai trong cơ quan chạy thoát. Ông Hai Bắc kỳ bị xử tử và bị bắn cùng một lúc với các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần ngày 28/8/1941 tại Hóc Môn.
Người chiến sỹ của khởi nghĩa Nam kỳ, ông Năm Thái còn đọc cho tôi chép bài thơ “Từ biệt” của ông Hai Bắc kỳ trước khi ra pháp trường:
Vĩnh biệt hôm nay có mấy lời
Nhắn cùng đồng chí khắp nơi nơi
Tinh thần để lại cho non nước
Thù hận ghi sâu giữa đất trời
Án chém Hà Nam đà rũ sạch
Khổ sai Côn Đảo đã qua rồi
Anh em đi trọn con đường nhé
Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai
Năm 1976, khi đất nước vừa mới giải phóng tôi quay trở vào miền Nam tìm tư liệu về Bác Hồ và tác giả Quốc kỳ… Tôi đã lần tìm từng điểm, từng chi tiết sự kiện trong các kho lưu trữ. Trong tay tôi cũng có cả một bức ảnh Nguyễn Hữu Tiến, do mật thám Pháp chụp. Sau khi ghép nối các bí danh của các thời kỳ hoạt động khác nhau…
Đối chiếu công văn số 4685 - S ngày 2/8/1940 của P.Aknoux - Chánh mật thám Đông Dương: “Kính gửi các ông Thống đốc Nam kỳ, Tổng thanh tra liêm phóng Đông Dương, Tổng biện lý bên cạnh toà thượng thẩm, Trung tướng chỉ huy trung đoàn Nam kỳ, Cao Miên, Đô đốc chỉ huy hải quân ở Đông dương; đồng kính gửi các ông Chánh mật thám Hà Nội, Huế, Phnôm pênh, Viên Chăn…”. Tôi thấy có nhiều điều trùng khớp, chính xác.
Tin tức đặc biệt của sở mật thám Sài Gòn cho biết: Hoạt động của cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai (tức cô Dung), Nguyễn Hữu Tiến (tức Giáo Hoài, tức Trương Xuân Chinh)... Một ổ cộng sản bí mật đã tổ chức ngay cạnh làng Chà Và trong bãi tha ma giáp nội thị Sài Gòn - Chợ Lớn. Tối 30/7/1940, đã bắt được Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Hữu Tiến - người bị toà án thượng thẩm Hà Nội xử ngày 6/6/1932, kết án 20 năm khổ sai, 20 năm quản thúc về mưu đồ xúi giục dân chúng đứng dậy chống nhà chức trách, tham gia cải tổ Đảng Cộng sản Đông Dương vượt Côn Đảo tháng Giêng năm 1935, sau lại bị bắt lần nữa…
Đến năm 1977, tôi tìm về quê ông Nguyễn Hữu Tiến. Tôi lần ra được người em ruột của ông Nguyễn Hữu Tiến là Nguyễn Hữu Uẩn. Ông Uẩn nguyên Phó bí thư tỉnh Thái Nguyên đang giữ chức Vụ trưởng Vụ Tư liệu lịch sử đảng bộ các địa phương. Tôi chỉ nhờ ông giúp đỡ về quê ông để tìm hiểu thân thế sự nghiệp của ông Nguyễn Hữu Tiến, một nhà lãnh đạo của Đảng thuộc lớp đầu tiên bị thực dân Pháp đày ra Côn đảo đã mất tích. Tôi không hé ra việc tìm tác giả Quốc kỳ.
16 lần tôi đi về làng Lũng Xuyên (Yên Bắc, Duy Tiên, Nam Hà (cũ). Trong đó có nhiều lần tôi đưa nhạc sỹ Văn Cao và nhà thơ Tân Trà, đồng chí Trịnh Chi - Trưởng ban biên tập và đồng chí Đặng Quang Vinh - Biên tập viên NXB Thanh niên cùng về.
Tôi đã ghi chép được nhiều mảng hồi ức về ông Nguyễn Hữu Tiến của những người thân thích, những người học trò và các bạn chiến đấu cùng vào tù ra tội với ông. Từ những tư liệu đó, tôi lại tiếp tục đối chiếu các tài liệu đã tìm được từ những nguồn khác và thấy các tư liệu trùng khớp, chính xác.
Thiên Sơn: Từ những tư liệu của ông đã sáng tỏ ra một Nguyễn Hữu Tiến, nhà cách mạng lão thành, nhà trí thức tài năng, am hiểu kỹ thuật, có tài làm thơ, có tài vẽ, từng phụ trách cơ quan ấn loát của Đảng trong Khởi nghĩa Nam kỳ. Nhưng còn có thêm chứng cứ nào nữa để ta khẳng định Nguyễn Hữu Tiến là tác giả cờ đỏ sao vàng?
Sơn Tùng: Ông Nguyễn Hữu Tiến còn để lại một bài thơ giải thích ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng. Bài thơ khá dài, ở đây xin trích một số câu tiêu biểu:
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì Nước
Sao vàng tươi da của giống nòi
Đứng mau lên! Hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh
Đoàn kết lại sức mình sẽ mạnh
Quyết đánh tan phát xít Nhật Tây…
Lời giải thích ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng này, đối chiếu với các tư liệu, các bài thơ của Nguyễn Hữu Tiến sáng tác từ trước đều nhất quán tinh thần đại đoàn kết dân tộc đấu tranh nhằm chiến thắng kẻ thù xâm lược. Những lời giải thích ấy cũng chính là sự triển khai cụ thể những luận điểm về con đường Kách mệnh mà Bác Hồ đã đưa ra từ trước và đang từng bước thấm nhuần vào các tầng lớp cán bộ, nhân dân.
Thiên Sơn: Khi ông đã có đủ bằng chứng để kết luận Nguyễn Hữu Tiến chính là tác giả cờ đỏ sao vàng, có cơ quan nào công nhận kết quả đó?
Sơn Tùng: Khi đã có đủ tư liệu để hình dung ra diện mạo và nhân cách nhà cách mạng Nguyễn Hữu Tiến cũng như có bằng chứng để kết luận Nguyễn Hữu Tiến là tác giả cờ đỏ sao vàng (sau là Quốc kỳ), tôi đã viết thành một cuốn truyện danh nhân. Bản thảo cuốn sách ấy được đưa lên Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TW, đồng chí Phạm Bình (tức Thế Tập) - Vụ trưởng Vụ Tư liệu Đảng và Hồ Chủ tịch đã đọc và hoàn toàn nhất trí (thời ấy chưa có Viện Hồ Chí Minh và Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Sau đó đồng chí Phạm Bình báo cáo lên đồng chí Trường Chinh, lúc ấy kiêm Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương và các đồng chí Phó ban Hà Huy Giáp, Lê Hy. Các đồng chí ấy đều nhất trí với kết quả nghiên cứu của tôi. Đồng chí Trường Chinh biết rất rõ Nguyễn Hữu Tiến, đồng chí còn nhớ rõ Nguyễn Hữu Tiến bị địch cắt gót chân nên đi thọt, có người vẫn gọi là “Tiến thọt”.
Báo Sài Gòn Giải phóng thời kỳ ấy đã đăng nhiều kỳ bản thảo cuốn sách của tôi với nhan đề Người vẽ cờ Tổ quốc.
Tại huyện Duy Tiên, đã có cuộc hội thảo và tưởng niệm Nguyễn Hữu Tiến -Người vẽ cờ tổ quốc. Cùng đi với tôi có nhạc sỹ Văn Cao, nhà thơ Tân Trà và đồng chí biên tập nhà xuất bản Thanh niên, Đặng Quang Vinh.Về phía địa phương, có đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nam Hà Phan Điền, các đồng chí chủ chốt của tỉnh Nam Hà và cán bộ huyện Duy Tiên, đại diện cán bộ các xã trong huyện và hơn 200 cán bộ xã Yên Bắc về dự.
Tấm chân dung Nguyễn Hữu Tiến, tác giả Quốc kỳ bằng sơn dầu do Văn Cao vẽ đặt trên bàn thờ nghi ngút khói hương. Tôi viết điếu văn cho lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Hữu Tiến và báo cáo kết quả nghiên cứu. Cả hội trường oà khóc khi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy mời cụ bà Nguyễn Hữu Tiến cùng người con gái gần 50 tuổi lên nhận bằng Tổ quốc ghi công và tiền tử tuất sau 39 năm ông mất hút trong lịch sử. Từ phía bàn thờ, cụ bà Nguyễn Hữu Tiến ôm choàng lấy anh Văn Cao và tôi, nước mắt chan vào tiếng nói: “Nhờ có hai ông mà tôi được gặp lại ông nhà tôi đã ly biệt hơn bốn chục năm trời”.
Năm 1981, Nhà xuất bản Thanh niên được sự đồng ý của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương đã ấn hành cuốn sách với tên Nguyễn Hữu Tiến là vì muốn xây dựng một bộ sách mang tên các nhà lãnh đạo của Đảng ta. Trước đó, năm 1980, Nhà xuất bản Thanh niên đã ấn hành cuốn Trần Phú của tôi cũng được xếp vào bộ sách này.
Tác phẩm Nguyễn Hữu Tiến từ đó đến nay được bạn đọc đón nhận và đã tái bản nhiều lần.
Thiên Sơn: Xin cảm ơn nhà văn!
Thiên Sơn: Quốc kỳ được sáng tạo nên trong thời kỳ bí mật, việc xác minh chắc hẳn phải trải qua quá trình tìm hiểu nhiều hướng, suy đoán và lần tìm các đầu mối rất khó khăn?
Thời kỳ hoạt động bí mật, các chiến sỹ cách mạng và cơ sở của Đảng đều trong bóng tối. Không ai có tên họ thật. Họ giấu mật thám, và giấu cả người thân. Có người đổi tên hàng chục lần, đổi cả nghề nghiệp. Chẳng hạn như đồng chí Ngô Gia Tự đi làm phu khuân vác, đồng chí Nguyễn Phong Sắc làm nghề kéo xe…
Về lá cờ đỏ sao vàng thì, lần đầu tiên xuất hiện trong khởi nghĩa Nam kỳ tháng 11/1940, nhưng tác giả của nó là một câu hỏi lớn, phải mất nhiều thời gian và công sức mới có thể lần ra được.
Năm 1965, tôi gặp cụ Đặng Thai Mai, theo cụ kể, nhà báo Thép Mới có nói đồng chí Trần Phú đem mẫu cờ từ Liên Xô về. Nhưng cụ lại bảo: “Tôi không tin. Anh Văn (Đại tướng Võ Nguyên Giáp), anh Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng) có biết không, tôi không dám chắc”.
Lại có người nói lá cờ đỏ sao vàng do Bác Hồ sáng tạo ra. Khi đọc hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp tôi được biết: Năm 1940, Bác Hồ mang bí danh Hồ Quang cùng một số cán bộ từ Quế Lâm về làng Nậm Quang, huyện Tĩnh Tây, (Quảng Tây, Trung Quốc), sát biên giới Trung - Việt. Tại đây Bác mở lớp "Con đường giải phóng" huấn luyện cán bộ từ trong nước gửi sang để chuẩn bị thành lập mặt trận đại đoàn kết dân tộc. Các đồng chí Phùng Chí Kiên (Bí thư hải ngoại của Đảng), đồng chí Lâm Bá Kiệt (Phạm Văn Đồng), và đồng chí Dương Hoài Nam (Võ Nguyên Giáp) trực tiếp soạn bài giảng cho lớp này.
Đồng chí Dương Hoài Nam được Bác giao nhiệm vụ phụ trách lớp và Bác trao cho đồng chí Hoài Nam lá cờ đỏ sao vàng treo trên bàn thờ Tổ quốc trong lớp học. Trong hồi ký Từ Pắc Bó đến Tân Trào của Đại tướng Võ Nguyên Giáp có đoạn: “…Lễ tốt nghiệp tổ chức giữa một khu rừng vắng vẻ. Sau những ngày học tập, mọi người phấn khởi, náo nức hẳn lên. Anh em chúng tôi đứng vây quanh Bác, biết rõ ông cụ mảnh khảnh mặc bộ quần áo Nùng giản dị này là người gắn liền với vận mệnh của dân tộc Việt Nam.
Lá cờ đỏ sao vàng năm cánh phấp phới bay trong gió lạnh như một ngọn lửa thiêng sưởi ấm lòng chúng tôi, khi đó còn là những người dân mất nước phải sống xa quê hương.
Chúng tôi ngoảnh mặt cả về phía Nam, hoan hô tinh thần khởi nghĩa Nam kỳ, thề sẽ thẳng tiến không lùi trên con đường cách mạng chông gai, một ngày kia sẽ đem lá cờ thiêng liêng này về nêu cao giữa thủ đô” (Sách Đầu nguồn, trang 50 - 51, NXB Văn học 1975).
Lá cờ ấy Bác mang theo về Nước. Ngày 19/5/1941, lá cờ được treo giữa hang Pắc Bó, khai mạc Hội nghị thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh.
Theo lời kể của của cụ Vũ Anh, cụ Lê Quảng Ba: Ngày 22 /12/1944, Bác tín trọng trao lá cờ đỏ sao vàng cho đồng chí Võ Nguyên Giáp làm lễ khai sinh Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân.
Để làm rõ nguồn gốc lá cờ Bác mang từ nước ngoài về, cũng trong năm 1965, tôi tìm gặp được cụ Đặng Văn Cáp, một nhà nho người Hà Tĩnh, hoạt động cách mạng ở Thái Lan (nhân vật được tái hiện trong tập truyện Con người và con đường, tác giả Sơn Tùng) được Bác phân công theo dõi tin tức qua radio để báo cáo lại cho Người từ năm 1940.
Cụ Đặng Văn Cáp kể hồi ấy ở Quế Lâm, qua radio, biết ở Nam kỳ có khởi nghĩa. Bác lặng đi. Rồi Bác nói: “Dậy non rồi, tổn thất lớn”. Bác lại hỏi: “Trong khởi nghĩa Nam kỳ có gì mới nữa?”. Cụ Cáp báo cáo với Bác, trong khởi nghĩa Nam kỳ lần đầu tiên có cờ đỏ sao vàng.
Bác hỏi: “Sao mấy cánh?”. Cụ Cáp trả lời: “Họ không nói”. Bác lại hỏi: “ Sao vàng ở giữa hay ở góc?”. Cụ Cáp lại trả lời: “Cũng không thấy nói”. Bác lặng đi suy nghĩ. Rồi Bác bảo cụ Cáp ra phố mua cho Bác một tấm vải đỏ… Khi cụ Cáp mua về, Bác đã thửa lá cờ đỏ, sao vàng cắt bằng giấy vàng, có 5 cánh, dán ở giữa.
Từ năm 1955, tôi có duyên gặp và trở thành bạn tri kỷ với nhạc sỹ Văn Cao. Có lần tôi hỏi anh Văn Cao: “Khi viết Tiến quân ca, anh đã nhìn thấy cờ đỏ sao vàng chưa?”. Văn Cao trả lời: “Chưa. Mình tưởng tượng ra chứ chưa hề nhìn thấy”.
Vậy là, có một điều kỳ lạ làm tôi suy nghĩ. Bác Hồ chưa nhìn thấy cờ đỏ sao vàng, chỉ nghe cụ Đặng Văn Cáp báo cáo có cờ đỏ sao vàng trong khởi nghĩa Nam kỳ mà Bác đã thửa ra lá cờ.
Còn nhạc sỹ Văn Cao chưa hề nhìn thấy cờ đỏ sao vàng, nhưng đã viết trong Tiến quân ca: “Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước… Đoàn quân Việt Nam đi, sao vàng phấp phới. Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than”. Dường như ở đây có sự gặp gỡ về mặt tâm linh…
Câu hỏi: Ai đã vẽ cờ đỏ sao vàng tung bay trong cuộc khởi nghĩa Nam kỳ càng lúc càng thúc bách tôi. Nhưng tôi chưa thể có đủ tư liệu để trả lời thì chiến tranh phá hoại của Mỹ ném bom miền Bắc. Tôi trở thành phóng viên chiến tranh vùng Liên khu Bốn cũ, rồi đi B vào năm 1967.
Như có một cơ duyên, năm 1968, tôi gặp được đồng chí Năm Thái, một vị lão thành cách mạng, một chiến sỹ của khởi nghĩa Nam kỳ đang lâm bệnh hiểm nghèo điều trị tại Bệnh viện bà Thúy Ba làm giám đốc, trong rừng miền Đông Nam bộ. Cùng nằm trong một căn nhà “bán âm bán dương” với ông, những lúc giảm bệnh tĩnh tâm, tôi gợi chuyện được ông kể lại về ký ức của thời Nam kỳ khởi nghĩa. Chính ông được giao việc in bằng đá ly tô lá cờ đỏ sao vàng, lời kêu gọi của Đảng, truyền đơn và báo Tiến lên của khởi nghĩa Nam kỳ. Ông hé mở cho tôi, tác giả cờ đỏ sao vàng chính là người phụ trách cơ quan ấn loát, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ.Ông là người Bắc Kỳ, một yếu nhân đã sáng lập chi bộ đầu tiên của tỉnh Hà Nam, bị đày ra Côn Đảo, vượt Côn Đảo về đất liền, hoạt động bí mật ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với tên gọi Hai Bắc Kỳ. Vì ông thông chữ Tây, chữ Nho, biết sửa chữa đồ dùng có máy nên còn có tên gọi nữa là Hai kỹ sư… Ông thường dạy học. Những nơi ông mở trường dạy học, mọi người gọi ông là thầy giáo Hoài. Ông vẽ truyền thần cho các ông bà già nên được gọi là thầy Hai Họa Sỹ. Ông thửa một lá cờ đỏ, đính ngôi sao vàng năm cánh chính giữa, viết lời giải thích ý nghĩa lá cờ, đưa cho mấy ông lãnh đạo Xứ uỷ bàn với nhau. Rồi chính ông Hai họa sỹ vẽ lá cờ vào phiến đá, in ra nhiều gói cho chuyển đi xuống các cơ sở bí mật. Công việc in ấn gần xong thì lính kín ập đến. Không ai trong cơ quan chạy thoát. Ông Hai Bắc kỳ bị xử tử và bị bắn cùng một lúc với các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần ngày 28/8/1941 tại Hóc Môn.
Người chiến sỹ của khởi nghĩa Nam kỳ, ông Năm Thái còn đọc cho tôi chép bài thơ “Từ biệt” của ông Hai Bắc kỳ trước khi ra pháp trường:
Vĩnh biệt hôm nay có mấy lời
Nhắn cùng đồng chí khắp nơi nơi
Tinh thần để lại cho non nước
Thù hận ghi sâu giữa đất trời
Án chém Hà Nam đà rũ sạch
Khổ sai Côn Đảo đã qua rồi
Anh em đi trọn con đường nhé
Cờ đỏ sao vàng sáng tương lai
Năm 1976, khi đất nước vừa mới giải phóng tôi quay trở vào miền Nam tìm tư liệu về Bác Hồ và tác giả Quốc kỳ… Tôi đã lần tìm từng điểm, từng chi tiết sự kiện trong các kho lưu trữ. Trong tay tôi cũng có cả một bức ảnh Nguyễn Hữu Tiến, do mật thám Pháp chụp. Sau khi ghép nối các bí danh của các thời kỳ hoạt động khác nhau…
Đối chiếu công văn số 4685 - S ngày 2/8/1940 của P.Aknoux - Chánh mật thám Đông Dương: “Kính gửi các ông Thống đốc Nam kỳ, Tổng thanh tra liêm phóng Đông Dương, Tổng biện lý bên cạnh toà thượng thẩm, Trung tướng chỉ huy trung đoàn Nam kỳ, Cao Miên, Đô đốc chỉ huy hải quân ở Đông dương; đồng kính gửi các ông Chánh mật thám Hà Nội, Huế, Phnôm pênh, Viên Chăn…”. Tôi thấy có nhiều điều trùng khớp, chính xác.
Tin tức đặc biệt của sở mật thám Sài Gòn cho biết: Hoạt động của cộng sản Nguyễn Thị Minh Khai (tức cô Dung), Nguyễn Hữu Tiến (tức Giáo Hoài, tức Trương Xuân Chinh)... Một ổ cộng sản bí mật đã tổ chức ngay cạnh làng Chà Và trong bãi tha ma giáp nội thị Sài Gòn - Chợ Lớn. Tối 30/7/1940, đã bắt được Nguyễn Thị Minh Khai và Nguyễn Hữu Tiến - người bị toà án thượng thẩm Hà Nội xử ngày 6/6/1932, kết án 20 năm khổ sai, 20 năm quản thúc về mưu đồ xúi giục dân chúng đứng dậy chống nhà chức trách, tham gia cải tổ Đảng Cộng sản Đông Dương vượt Côn Đảo tháng Giêng năm 1935, sau lại bị bắt lần nữa…
Đến năm 1977, tôi tìm về quê ông Nguyễn Hữu Tiến. Tôi lần ra được người em ruột của ông Nguyễn Hữu Tiến là Nguyễn Hữu Uẩn. Ông Uẩn nguyên Phó bí thư tỉnh Thái Nguyên đang giữ chức Vụ trưởng Vụ Tư liệu lịch sử đảng bộ các địa phương. Tôi chỉ nhờ ông giúp đỡ về quê ông để tìm hiểu thân thế sự nghiệp của ông Nguyễn Hữu Tiến, một nhà lãnh đạo của Đảng thuộc lớp đầu tiên bị thực dân Pháp đày ra Côn đảo đã mất tích. Tôi không hé ra việc tìm tác giả Quốc kỳ.
16 lần tôi đi về làng Lũng Xuyên (Yên Bắc, Duy Tiên, Nam Hà (cũ). Trong đó có nhiều lần tôi đưa nhạc sỹ Văn Cao và nhà thơ Tân Trà, đồng chí Trịnh Chi - Trưởng ban biên tập và đồng chí Đặng Quang Vinh - Biên tập viên NXB Thanh niên cùng về.
Tôi đã ghi chép được nhiều mảng hồi ức về ông Nguyễn Hữu Tiến của những người thân thích, những người học trò và các bạn chiến đấu cùng vào tù ra tội với ông. Từ những tư liệu đó, tôi lại tiếp tục đối chiếu các tài liệu đã tìm được từ những nguồn khác và thấy các tư liệu trùng khớp, chính xác.
Thiên Sơn: Từ những tư liệu của ông đã sáng tỏ ra một Nguyễn Hữu Tiến, nhà cách mạng lão thành, nhà trí thức tài năng, am hiểu kỹ thuật, có tài làm thơ, có tài vẽ, từng phụ trách cơ quan ấn loát của Đảng trong Khởi nghĩa Nam kỳ. Nhưng còn có thêm chứng cứ nào nữa để ta khẳng định Nguyễn Hữu Tiến là tác giả cờ đỏ sao vàng?
Sơn Tùng: Ông Nguyễn Hữu Tiến còn để lại một bài thơ giải thích ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng. Bài thơ khá dài, ở đây xin trích một số câu tiêu biểu:
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì Nước
Sao vàng tươi da của giống nòi
Đứng mau lên! Hồn nước gọi ta rồi
Hỡi sỹ nông công thương binh
Đoàn kết lại như sao vàng năm cánh
Đoàn kết lại sức mình sẽ mạnh
Quyết đánh tan phát xít Nhật Tây…
Lời giải thích ý nghĩa lá cờ đỏ sao vàng này, đối chiếu với các tư liệu, các bài thơ của Nguyễn Hữu Tiến sáng tác từ trước đều nhất quán tinh thần đại đoàn kết dân tộc đấu tranh nhằm chiến thắng kẻ thù xâm lược. Những lời giải thích ấy cũng chính là sự triển khai cụ thể những luận điểm về con đường Kách mệnh mà Bác Hồ đã đưa ra từ trước và đang từng bước thấm nhuần vào các tầng lớp cán bộ, nhân dân.
Thiên Sơn: Khi ông đã có đủ bằng chứng để kết luận Nguyễn Hữu Tiến chính là tác giả cờ đỏ sao vàng, có cơ quan nào công nhận kết quả đó?
Sơn Tùng: Khi đã có đủ tư liệu để hình dung ra diện mạo và nhân cách nhà cách mạng Nguyễn Hữu Tiến cũng như có bằng chứng để kết luận Nguyễn Hữu Tiến là tác giả cờ đỏ sao vàng (sau là Quốc kỳ), tôi đã viết thành một cuốn truyện danh nhân. Bản thảo cuốn sách ấy được đưa lên Ban nghiên cứu lịch sử Đảng TW, đồng chí Phạm Bình (tức Thế Tập) - Vụ trưởng Vụ Tư liệu Đảng và Hồ Chủ tịch đã đọc và hoàn toàn nhất trí (thời ấy chưa có Viện Hồ Chí Minh và Bảo tàng Hồ Chí Minh).
Sau đó đồng chí Phạm Bình báo cáo lên đồng chí Trường Chinh, lúc ấy kiêm Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương và các đồng chí Phó ban Hà Huy Giáp, Lê Hy. Các đồng chí ấy đều nhất trí với kết quả nghiên cứu của tôi. Đồng chí Trường Chinh biết rất rõ Nguyễn Hữu Tiến, đồng chí còn nhớ rõ Nguyễn Hữu Tiến bị địch cắt gót chân nên đi thọt, có người vẫn gọi là “Tiến thọt”.
Báo Sài Gòn Giải phóng thời kỳ ấy đã đăng nhiều kỳ bản thảo cuốn sách của tôi với nhan đề Người vẽ cờ Tổ quốc.
Tại huyện Duy Tiên, đã có cuộc hội thảo và tưởng niệm Nguyễn Hữu Tiến -Người vẽ cờ tổ quốc. Cùng đi với tôi có nhạc sỹ Văn Cao, nhà thơ Tân Trà và đồng chí biên tập nhà xuất bản Thanh niên, Đặng Quang Vinh.Về phía địa phương, có đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nam Hà Phan Điền, các đồng chí chủ chốt của tỉnh Nam Hà và cán bộ huyện Duy Tiên, đại diện cán bộ các xã trong huyện và hơn 200 cán bộ xã Yên Bắc về dự.
Tấm chân dung Nguyễn Hữu Tiến, tác giả Quốc kỳ bằng sơn dầu do Văn Cao vẽ đặt trên bàn thờ nghi ngút khói hương. Tôi viết điếu văn cho lễ truy điệu đồng chí Nguyễn Hữu Tiến và báo cáo kết quả nghiên cứu. Cả hội trường oà khóc khi đồng chí Bí thư Tỉnh ủy mời cụ bà Nguyễn Hữu Tiến cùng người con gái gần 50 tuổi lên nhận bằng Tổ quốc ghi công và tiền tử tuất sau 39 năm ông mất hút trong lịch sử. Từ phía bàn thờ, cụ bà Nguyễn Hữu Tiến ôm choàng lấy anh Văn Cao và tôi, nước mắt chan vào tiếng nói: “Nhờ có hai ông mà tôi được gặp lại ông nhà tôi đã ly biệt hơn bốn chục năm trời”.
Năm 1981, Nhà xuất bản Thanh niên được sự đồng ý của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương đã ấn hành cuốn sách với tên Nguyễn Hữu Tiến là vì muốn xây dựng một bộ sách mang tên các nhà lãnh đạo của Đảng ta. Trước đó, năm 1980, Nhà xuất bản Thanh niên đã ấn hành cuốn Trần Phú của tôi cũng được xếp vào bộ sách này.
Tác phẩm Nguyễn Hữu Tiến từ đó đến nay được bạn đọc đón nhận và đã tái bản nhiều lần.
Thiên Sơn: Xin cảm ơn nhà văn!
VanVN.Net - Sáng nay, 10/8/2011 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thảm họa da cam gieo rắc trên đất nước ta. Đúng ...
VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...
VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...
VanVN.Net - NXB Dân Trí vừa cho ra mắt tập truyện ngắn Hoa mẫu đơn của tác giả Lê Toán. Đây là tập truyện giả tưởng - cũng là món quà thứ tư, tác giả dành tặng cho thiếu nhi, sau ...
Tiếp tục chương trình hoạt động của kỳ họp thứ 4 (Khóa VIII), hôm nay, ngày 7/8/2011, BCH Hội Nhà văn VN đã có chuyến đi thực tế tại trại sản xuất giống tu hài của công ty TNHH Đỗ Tờ ...
VanVN.Net - Nửa đầu thế kỷ XIX là sự bắt đầu vương triều Nguyễn với cuộc lên ngôi của Gia Long vào 1802. Tôi muốn gọi đó là một thời “khó sống” khi viết về Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn