VanVN.Net - Trước, chúng ta cứ coi những Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Thụy Kha, Ngô Vĩnh Bình, Văn Chinh…là những “phóng viên văn học” với ý nghĩa là họ chuyên theo dõi / phản ánh các diễn biến chính nền văn học và văn nhân của nó trên các tờ báo mà họ tòng sự. Nhưng thực ra, Vương Trí Nhàn mới là người xứng đáng đứng đầu danh sách ấy, ở người này, với quá trình nghiên cứu tìm hỏi và ghi chép công phu, còn xứng đáng là một sử quan của đời sống văn học. Những quan sát “gần” để viết ra những nhếch nhác của ông từng gây nên những sóng gió, có lẽ do tập quán dân chủ ở xứ ta còn là quá độ, nhà văn mới chỉ quen với việc viết ra cái xấu xí của thế gian và có một thứ lệ bất thành văn là bảo nhau cùng che khuất cho nhau cái cần che khuất đi mà lại nhân danh lòng nhân ái? Chùm bài viết về mảng văn nhân tiền chiến ở Hà Nội của Vương Trí Nhàn mà vanvn.net giới thiệu sau đây có thể giúp bạn đọc hình dung lại một thời, giúp hiểu thêm cái môi trường mà từ đó các nhân vật văn học đến với chúng ta…
Vương Trí Nhàn
Từ 1945 về trước, Hà Nội đã là một trung tâm văn hoá lớn, nơi sinh hoạt văn học luôn luôn sôi nổi, mà cũng là nơi có nhiều cơ quan báo chí và xuất bản có uy tín. Bởi vậy, đời văn của nhiều cây bút nổi tiếng đều gắn bó với Hà Nội. Sau đây là một số ví dụ. Trong khi nêu ra ảnh hưởng của sinh hoạt văn học ở thủ đô với quá trình vào nghề của các nhà văn này, trong một số trường hợp có thể, chúng tôi cũng phác hoạ thêm những khía cạnh ảnh hưởng của Hà Nội, trong đời văn của họ những năm gần đây (từ 1954 trở đi).
HOÀNG NGỌC PHÁCH
Mỗi khi nghe nhắc Tố Tâm, chúng ta nhớ tới một thời đã lâu lắm, thời của Quả dưa đỏ, giải thưởng Khai trí Tiến Đức, thời của những Trần ai tri kỷ, Đài gương của Tản Đà, thời thơ Tương Phố, và Kim sinh luỵ, Bút quan hoài của Trần Tuấn Khải.
Sự thực, tác giả Tố Tâm mới mất năm 1973, và trước đó, những năm năm mươi, sáu mươi, ông vẫn đứng tên chung với Lê Thước, Trương Chính trong một số công trình nghiên cứu. Ông sinh năm 1896, tức là sau Tản Đà 8 năm, sau Ngô Tất Tố 2 năm, trước Tú Mỡ 4 năm, Nguyễn Công Hoan 7 năm. Khi ra số đặc biệt Các nhà văn Việt Nam (1982), trong mục (Các nhà văn đã quá cố), báo Văn Nghệ đã ghi tên Hoàng Ngọc Phách, có lẽ vì những lý do đó.
ở đây, chúng ta sẽ nói thêm: Hoàng Ngọc Phách cũng chính là một trong những nhà văn Việt Nam hôm nay mà sự nghiệp sáng tác gắn với Hà Nội, do ở Hà Nội mà viết, và ban đầu cũng viết ngay về những nét sinh hoạt của Hà Nội.
Nguyên ông vốn người Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nhưng ngay từ khi mười ba tuổi, tóc còn để chỏm đào, đã ra Hà Nội, học ở một trường tư thục thuộc ấp Thái Hà sau đó, học tiểu học ở trường Hàng Vôi (nơi đã đào tạo ra Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Liên, v.v...) rồi học trường Bưởi bốn năm. Thời thanh niên của Hoàng Ngọc Phách gắn liền với những kỷ niệm về các trường học này của Hà Nội, cũng như ở trường Cao đẳng Sư phạm về sau. Trong Tố Tâm, có đoạn nhìn ra Hồ Tây, nhân vật Đạm Thuỷ tự kể:
- Tôi nhớ khi còn học trường Bưởi bên cạnh hồ này, mấy anh em ra đứng bờ hồ, ném thia lia, thả thuyền giấy, chơi đùa hớn hở, phong cách xem như bỡn cợt với mình.
Trong khi đi học, Hoàng Ngọc Phách đã sống đúng như thế.
Thời gian học trường Bưởi, Hoàng Ngọc Phách phần nhiều làm thơ, theo các thể thơ cổ. Khi lên Cao đẳng Sư phạm, ông mới viết văn xuôi. Tuy vậy, Tố Tâm, đứa con một của tác giả trong lĩnh vực tiểu thuyết, là một thành công đáng kể. Tác phẩm trở thành cái mốc trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trong dịp trả lời một nhà báo đến phỏng vấn, Hoàng Ngọc Phách giải thích một cách giản dị, đại ý nói sở dĩ tiểu thuyết được hoan nghênh (trước 1945 đã in cả thảy bốn lần), vì lúc ấy dân mình “đang cần một cuốn tiểu thuyết như thế”. Điều đó nói lên rằng ông đã nắm bắt rất trúng “khí hậu” văn học đương thời, nhất là những đòi hỏi của thanh niên.
Nhìn lại nội dung tập sách, có điều lý thú là các nhân vật chính trong Tố Tâm đều mang cốt cách Hà Nội khá rõ. Quê họ ở đâu không biết, nhưng họ lớn lên ở đây, và sống với không khí chung quanh một cách rất hoà hợp. Năm 1973, trong bài viết nhân dịp Hoàng Ngọc Phách qua đời, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cho biết:
“Những nhân vật trong Tố Tâm đều phảng phất giống những thanh niên Hà Nội năm xưa ấy. Tố Tâm “nền” lắm. Cô là con nhà gia giáo, nên bao giờ cũng đi xe sắt - tức xe kéo bánh sắt - chứ không bao giờ đi xe cao su như bọn me tây. Cô rất diện nhưng cũng chỉ diện tới mức bịt khăn lụa đen, thứ khăn mốt nhất thời bấy giờ”.
Đây có lẽ là một trong những lần ít ỏi hình ảnh con người Hà Nội được miêu tả kỹ đến như thế!
Trường hợp Hoàng Ngọc Phách và Tố Tâm chứng tỏ một hiện tượng xã hội có thực hồi đầu thế kỷ này: Đó là sự tập trung của giới trí thức mới chung quanh Hà Nội. Dù là của những tỉnh rất xa, khi đã ra đây, họ nhập vào không khí sinh hoạt chung. Và cái mà họ miêu tả trong tác phẩm của mình, ban đầu thường là những sinh hoạt của Hà Nội. Cuộc sống bấy giờ có cái phía ổn định của nó, và khi bắt gặp hình ảnh đời sống quanh mình trong tác phẩm, người ta hoan nghênh thì cũng là chuyện thường tình.
Sau Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách không viết tiểu thuyết nữa, các hoạt động khác như dạy học, khảo cứu đã lôi cuốn ông.
NGUYỄN CÔNG HOAN
Với tư cách tác giả tiểu thuyết Bước đường cùng và nhiều truyện ngắn ghi lại tình cảnh bần cùng của người nông dân Việt Nam trước 1945 như Thịt người chết, Chiếc quan tài, Đi giày, Công dụng của cái miệng v.v... Nguyễn Công Hoan có vẻ như một tác giả của nông thôn. Các tài liệu nghiên cứu cũng thường nhấn mạnh ông từng dạy học ở nhiều vùng thuộc các tỉnh xa: ở Kinh Môn, ở Trà Cổ, ở Lào Cai, Thái Bình, v.v...
Nhưng chính Nguyễn Công Hoan đã học ở trường Bưởi Hà Nội từ khi chưa đầy mười tuổi. Ông còn nhớ rất rành mạch cuộc sống khi nội trú trong trường, khi ra trọ ở Hàng Hài (phố Hàng Bông hiện nay)... Nói chung nhiều mặt đời sống Hà Nội những năm ấy, còn được ghi lại trong các tập Đời viết văn của tôi, Nhớ và ghi. Nào là vụ dịch tả ở Hà Nội hè 1914; nào cảnh người ngoài phố giàu có bấy giờ còn đi xe ngựa song mã, độc mã, các thày giáo ở trường Bưởi còn đội khăn, đi giày ta, bít tất trắng. Nào những hiệu bán sách vở giấy bút, nào hiệu cho thuê xe đạp để tập, v.v... Chúng ta có thể nhận xét tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cậu học sinh này rất hóm, nghịch, hay tò mò để ý mọi chuyện, và hay phá quy tắc “vượt rào” làm chuyện ngược đời. Mặt khác, từ nhỏ, Nguyễn Công Hoan đã quen với nhân tình thế thái người phường phố, thành thạo sự đời, và chả coi cái gì làm quan trọng. Đấy là những đặc tính ăn sâu vào cách nhìn của ông trước đời sống. Thành thử, tuy không phải bao giờ cũng trực tiếp đả động đến chuyện Hà Nội, nhưng trong cái nhìn của ông, chất Hà Nội rất rõ.
Không bao giờ ông tỏ ra ngây thơ dại dột mắc lừa người khác. Dân con buôn Hà Nội có định “chơi” ông thì ông “chơi lại, chứ không kém cạnh” (chữ của Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi).
Cũng chính là ở Hà Nội, mà Nguyễn Công Hoan làm quen với những người viết văn, viết báo đương thời, và sống trong giới những người làm nghề này một cách thoải mái. Nguyễn Công Hoan kể: Do trọ học ở Hàng Hài, mà ông sớm làm quen với Tản Đà. “Ông Tản Đà thấy tôi khôi ngô, lanh lợi, nên tuy tôi ít tuổi hơn ông nhiều, nhưng ông không coi tôi như trẻ con”. Mối giao tình giữa Nguyễn Công Hoan và Tản Đà kéo rất dài, đến nỗi, sau này, có người ngạc nhiên, tại sao một người trữ tình duyên dáng như Tản Đà, lại rất thân với một người bông phèng, tinh quái như Nguyễn Công Hoan. Và người ta bảo tác giả Bước đường cùng là một thứ “quái thai” của tác giả Khối tình con (!). Có điều là dù bông phèng thế nào, bao giờ Nguyễn Công Hoan cũng dành cho Tản Đà những dòng rất trân trọng.
Nguyễn Công Hoan còn gặp gỡ nhiều nhân vật có tiếng khác hồi ấy, như Mâu Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Ngẫu Trì Trịnh Đình Rư và nhiều người khác. “Tôi thích đến chơi với các nhà văn ấy. Tôi coi họ như các anh. Họ cũng coi tôi như em nhỏ. Tôi đến với họ, chỉ để nghe chuyện hơn là để góp chuyện... Nhiều lần trí tò mò của tôi được thoả mãn. Họ rất tinh quái. Những buổi đến với họ, dù ngồi đến khuya, tôi cũng không tiếc thì giờ, khi về còn lấy làm khoan khoái”.
Nguyễn Công Hoan thường bảo mình viết văn do năng khiếu và người ta nói chung viết được là do trời sinh ra, không có bài bản nào sẵn, không có trường sở nào dậy được. Nhưng chẳng phải cái môi trường trong đó có Tản Đà và những người vừa kể đã thúc đẩy ông đến với nghề văn một cách mạnh mẽ?
Về sau, dù đi dạy học ở xa, Nguyễn Công Hoan thường vẫn gắn bó với đời sống văn học Hà Nội. Ông biết tường tận xu hướng cách làm ăn của từng tờ báo. Có khi nghỉ hè, ông về Hà Nội để trông nom báo giúp bè bạn, như giúp Đỗ Văn trông nom tờ Nhật Tân hoặc bàn với Tản Đà việc tái bản An Nam tạp chí. Nơi Nguyễn Công Hoan gắn bó nhiều hơn cả là nhà Tân Dân. Vũ Đình Long là chỗ quen biết với ông từ hồi đi học, khi bắt đầu ra Tiểu thuyết thứ bẩy, có bàn kỹ với Nguyễn Công Hoan. Nhiều tác phẩm của ông đã in ở đấy.
Thế còn sáng tác? Trên đây, chúng ta đã nói Hà Nội mang lại cho ông một cái nhìn. Do những thành thạo của người “kẻ chợ”, đi nhiều biết nhiều, ông không bao giờ rơi vào lý tưởng hoá cảnh điền viên ở nông thôn như một số nhà văn lãng mạn thường làm.
Mặt khác, ông vẫn viết nhiều về chính “chốn thị thành”. Vốn liếng của tác giả khá phong phú. Chính ta có thể lọc ra ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan những chi tiết liên quan đến nhiều lớp người.
- Phu xe, nhà thổ nghèo không có cả chỗ hành nghề (Người ngựa và ngựa người); các loại ăn mày, ăn cắp bất đắc dĩ (Bữa no đòn,Cái vốn để sinh nhai; dân đi ở ngu ngơ bị cả chủ lừa (Thằng Quýt).
- Các loại me tây hoặc lưu manh mới nẩy nòi làm giàu, học đòi: Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Cô Kều gái tân thời.
Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn miêu tả cảnh đào kép ở các rạp hát rẻ tiền hoặc lớp công chức nhỉnh hơn một chút (Tôi cũng không hiểu tại làm sao v.v...) Như tác giả kể trong Đời viết văn của tôi, truyện Đào kép mới được viết khi ông đang ở Nam Định, nhưng nhiều chi tiết lại lấy ở hai rạp tuồng Năm Chấn và Thông Sang ở Hà Nội mà Nguyễn Công Hoan quen từ thuở nhỏ. Hà Nội đã cung cấp một kho vốn sống vô tận, tác giả còn dùng đến nó trong nhiều năm về sau.
NGÔ TẤT TỐ
Khi Tản Đà mất (1939, Nguyễn Công Hoan có viết một bài kể chuyện những lần gặp Tản Đà, trong đó có một lần gặp ngay ở báo quán của nhà thơ, khi ông đang phải dúm dùm chèo chống An nam tạp chí. Cảnh sống của Tản Đà thật eo hẹp: “Tôi buồn ngủ phải nằm ghé vào bàn đèn thuốc phiện bày ở phản cạnh bàn làm việc của ông mà giấy má, muối, vỏ trứng, bụi hoả lò bừa bãi”.
Nhưng đó cũng là cảnh sống của nhiều nhà báo khác ở Hà Nội những năm ấy, chẳng hạn như Ngô Tất Tố. Từ quê hương ở Lộc Hà (trước thuộc Từ Sơn Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) ra thủ đô, thậm chí vào lục tỉnh Sài Gòn làm báo. Ngô Tất Tố vẫn giữ cốt cách một nhà nho nghèo. Một đồng nghiệp cũ của ông mô tả ông đầu xứ này thường ăn vận như một kẻ thất thế: “chiếc áo the đã sờn, chiếc khăn xếp không có tuổi, cây ô đen tương đối, đôi giầy trăng trắng gọi là...” Nơi báo quán Ngô Tất Tố làm việc cũng là nơi những anh Dậu, chị Dậu ở quê hương ông đến than thở một vài điều oan ức, vay một hào, hoặc nhờ xem lại ít chữ nghĩa trong các đơn kiện. Nghĩa là tuy ở Thủ đô, Ngô Tất Tố vẫn liền lặn với quê hương ông trong tình cảm, công việc; ông như một thứ đại sứ đặc biệt sống ở giữa Hà thành này để phát ngôn hộ cho những người nông dân nghèo khổ.
Lại nói tiếp chuyện ăn ở của giới những người cầm bút lúc ấy. Một nhà báo đương thời kể họ thường trải chiếu nằm sàn gác với nhau. ăn uống thì nhờ cả ở một hàng cơm nào đấy, ăn xong lại về bàn công việc. Và bàn xong, bắt tay vào viết luôn. Nghĩa là sống suốt ngày với tờ báo của mình. Những người có gia đình ở Hà Nội còn thế, nữa là những người lên đây lúc đầu có một mình như Ngô Tất Tố. Với ông, sống ở Hà Nội có nghĩa là sống để mà viết.
Cho mãi tới 1946, theo trí nhớ của Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố còn hiện ra như một ông già tóc ngắn hoa râm, áo dài khăn xếp, v.v... Về đường ăn mặc, Ngô Tất Tố bao giờ cũng vẫn là chính mình, không mấy thay đổi. Một tờ báo đương thời giễu ông “suốt đời không biết ăn kem Bờ Hồ”.
Nhìn bề ngoài, người ta dễ lẫn ông với một ít ông đồ già lạc lõng giữa Hà Nội “kinh thành hoa lệ”, mà Vũ Đình Liên từng phác ra trong một bài thơ nổi tiếng, từ năm 1936.
Thế nhưng, trong việc vận dụng ngòi bút để vạch mặt chỉ tên những truyện ngang trái của xã hội thực dân và phong kiến trên báo chí hàng ngày, thì Ngô Tất Tố không chịu kém ai. Từ 1942, trong Nhà văn hiện đại (quyển ba) Vũ Ngọc Phan sau khi bảo rằng “ông là một tay kỳ cựu trong làng văn, làng báo Việt Nam”, thuộc vào loại “những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu tây và được người ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới”, còn nói rõ thêm:
... “Về đường văn nghệ, ông đã theo kịp cả những nhà văn thuộc phía tân học xuất sắc nhất”.
“Ngô Tất Tố là một nhà nho mà đã viết được những thiên phóng sự, những thiên tiểu thuyết theo nghệ thuật Tây phương và ông đã viết bằng một ngòi bút đanh thép, khiến cho người tân học phải khen ngợi”.
Chắc chắn rằng chỉ lên “góp mặt với đời” trên Hà Nội, ngòi bút của Ngô Tất Tố mới có những bước chuyển rõ rệt như vậy.
Theo Nguyễn Đức Bính kể, Ngô Tất Tố là loại nhà báo chỉ đi bộ từ nhà đến toà soạn - lúc này, đâu ông đã có một hiệu thuốc ở đường Sinh Từ, phố Nguyễn Khuyến hiện nay(1) - nhưng có thể viết đủ chuyện năm châu bốn bể trên mặt báo. Công phu tu luyện để có thể đạt tới một trình độ như thế, chắc phải lớn lắm.
Thế Ngô Tất Tố - nhà văn, nhà báo - có viết gì về Hà Nội không? Dĩ nhiên là có. Trong các tiểu phẩm của ông, in lại trong Ngô Tất Tố tác phẩm, tập 1, chúng ta bắt gặp những đoạn ông chửi bọn đồng cốt lừa bịp ở đền Hàng Trống, hoặc có cả một phóng sự ngắn mang tên Dao cầu thuyền tán, tố cáo các loại lang băm. Đối với bọn văn sĩ tư sản dùng ngòi bút để xúi giục người ta đi vào con đường hư hỏng kiểu “vui vẻ trẻ trung”, Ngô Tất Tố cũng có những đòn đả kích thậm tệ. Nói chung, trong các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, đời sống Hà Nội hiện ra như một thứ kẻ chợ lộn xộn, ồn ào, phồn vinh giả tạo, một nhà nào như ông thấy rất chướng tai gai mắt (tuy nhiên, trong hoàn cảnh lúc ấy, ở nông thôn thì đời sống cũng rất đen tối!. Chỉ riêng trong Lều chõng, chúng ta thấy Hà Nội hiện lên với nhiều nét đẹp, người Hà Nội từ những cô hàng bán giấy bút, cho đến ông chủ quán trọ cũng đều hết sức tài hoa, lịch thiệp. Lều chõng thường vẫn được mô tả như là một tác phẩm có những nét tự truyện. Bởi vậy, với Lều chõng, có thể nói Ngô Tất Tố đã ghi nhận một phần những ảnh hưởng mà Hà Nội để lại trong cuộc đời những kẻ sĩ tương tự như ông. Bấy giờ mức độ xâm nhập của văn minh Tây Âu vào xã hội Việt Nam còn là hạn chế. Hà Nội chưa có vẻ sầm uất với nhiều nét sinh hoạt thị dân rõ rệt như sau này. Nhưng lên Hà Nội, lớp học trò như Đào Vân Hạc vẫn cảm thấy có gì thật thoải mái, họ dễ dàng tìm được chút tự do lặt vặt như xuống xóm cô đầu... cô đầu lúc ấy còn là một thú chơi thanh nhã hoặc thăm thú các nơi. Điều có ý nghĩa quan trọng hơn: Lên đây, những kẻ gọi là nhân tài các tỉnh có dịp trò chuyện, “đấu” với nhau để tự kiểm tra sức học, trình độ năng lực của mình. Riêng với Đào Vân Hạc, thì trong những dịp thi cử, chàng cảm thấy cái vô nghĩa của con đường hoan lộ mà việc học đã mở ra và chàng cả quyết sống theo lối ở ẩn giữa đời. Đấy cũng là những kết luận mà chỉ những kẻ sĩ tương đối từng trải mới có được.
Tóm lại, Lều chõng đã cho chúng ta thấy chân dung tinh thần Ngô Tất Tố như một nhà nho, để rồi từ đó ta phải hình dung ra thêm Ngô Tất Tố... nhà văn, nhà báo. Tuy nhiên, đối với quá trình tư tưởng của ông trong cả hai chặng đường này, Hà Nội vẫn có một vai trò không gì thay thế được.
THẠCH LAM
Trong số những phố phường cũ ở Hà Nội, phố Hàng Bạc thật có duyên với văn học: Nguyễn Tuân, Thạch Lam đều sinh ở đấy; Vũ Trọng Phụng đã sống ở đấy nhiều năm. Trong văn chương, Nguyễn Tuân không tả cụ thể Hàng Bạc nhưng như sau đây chúng ta sẽ thấy, ông thường tả rất kỹ khu trung tâm thành phố, chung quanh hồ Hoàn Kiếm. Vũ Trọng Phụng cũng thường nhắc tới trong các phóng sự tiểu thuyết của mình cảnh ăn chơi của những Tạ Hiền, Sầm Công, Hàng Buồm cách Hàng Bạc không xa. Riêng Thạch Lam có khác. Thuở nhỏ, ông theo gia đình về ở mãi cái huyện xa vùng Hải Dương (Cẩm Giàng) và Thái Bình (Tân Đệ), sau mới về học ở Hà Nội và ra làm báo. Lúc này, gia đình ông khi thì ở Hàng Bún, khi lên Yên Phụ. Có điều trong văn Thạch Lam, khu vực từ Đồng Xuân tới Bờ Hồ vẫn rất quen thuộc; nhân vật Hiệp trong Cô áo lụa hồng (tập Gió đầu mùa) từng mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá” đi dạo đủ các phố Hàng Ngang, Hàng Đường, Chợ Đồng Xuân, Hàng Lược... Và quan trọng nhất là cái cốt cách ra cảm thấy trong văn Thạch Lam. Đó là một giọng văn bình dị mà lại tinh tế, như người Hà Nội từng trải thanh lịch, tiếng nói Hà Nội dễ dàng, sang trọng. Nói Thạch Lam là một trong những nhà văn Hà Nội tiêu biểu, chính bởi những lý do đó.
Theo Thanh Tịnh kể lại, thì bề ngoài Thạch Lam dáng cao cao, thân hình mảnh khảnh, ăn nói điềm đạm, mới gặp người ta dễ lầm là một nhà giáo hơn là một nhà văn. Qua văn ông, chúng ta đoán ông sống thanh đạm, chăm lo nhiều tới cuộc sống nội tâm, không bị cuốn theo ngoại cảnh ồn ào. Ông tôn trọng mọi người, sợ làm phiền người khác, nhưng lại giữ được sự độc lập trong đầu óc và không phải là không phóng túng trong nếp nghĩ. Chắc chắn là ông không sống hùa theo mọi người. Chả thế mà viết văn giữa Hà Nội, bạn bè với nhiều đồng nghiệp trưởng giả, ông vẫn dửng dưng với mọi tiện nghi vật chất, và chỉ tìm thấy niềm vui trong một mái nhà tranh trông ra Hồ Tây ở Yên Phụ (làng Yên Phụ có con đường lát gạch và hồ Ao Vả, chứ không phải đường phố Yên Phụ!). Ông sống như thế cho đến những ngày cuối cùng trong đời. Theo nhiều tài liệu cho biết, ông chết vì bệnh lao, khi mới hơn 30 tuổi. Nhưng đọc văn ông cũng như xem cách sống của ông, thấy ở Thạch Lam tất cả đều đã đến giai đoạn chín, ổn định.
+
+ +
Trong một thiên truyện mang tên Phê-ra-guýt, thủ lĩnh của đám phàm ăn, Ban-dắc từng nêu một nhận xét, như một con người phải xấu hổ khi làm điều đê tiện. ở đó, cũng có những phố cao thượng, những phố quả thực lương thiện, những phố trẻ trung mà công chúng chưa kịp có ý kiến về đức hạnh của chúng: tiếp đó, có những đường phố hung bạo... những đường phố đáng kính, những phố luôn luôn bẩn và những phố lúc nào cũng sạch, những phố lao động làm ăn buôn bán. Tóm lại, những đường phố ở Pa-ri có những tính chất của con người và vẻ ngoài của chúng gợi cho ta những ý nghĩ nhất định mà ta không cách gì cưỡng lại được”.
ý nhà văn hào Pháp ở đây chỉ muốn nhấn mạnh khuôn mặt các thành phố thường đa dạng. Pa-ri là vậy, Hà Nội của chúng ta là vậy, và Hà Nội được phản ánh trong các tác phẩm văn học cũng vậy. Qua văn Nguyễn Công Hoan, chúng ta đã bắt gặp một số mẫu người kẻ chợ, láu, học đòi, bạc bẽo, bất nhẫn, qua văn Vũ Trọng Phụng, ta biết thêm một Hà Nội của xã hội thực dân phong kiến với những mưu đồ xoay xoả, những vụ bịp lớn, một con đường lưu manh hoá sẵn sàng mở ra với mọi thanh niên. Nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có thế? Mãi mãi vẫn còn một Hà Nội nhạy cảm tế nhị, giàu lòng thương xót người khác, một Hà Nội rất tử tế, sang trọng nếu có thể nói như vậy. Như ở tác phẩm Thạch Lam chúng ta đang xét. Qua Một cơn giận, nhân vật xưng tội tự kể về một tình thế trớ trêu: do bực mình, nóng nảy, lạnh lùng, v.v... tóm lại trong một trạng thái tâm lý không bình thường, anh đã vô tình đẩy người khác (ở đây là một phu xe nghèo khổ vào bước đường bất hạnh. Nhưng sự tỉnh táo đến rất nhanh, kèm theo là sự xót xa ân hận, và những hành động cụ thể, để sửa chữa, vớt vát lại tình thế, khiến người đọc truyện không khỏi cảm động. Qua Một cơn giận, ta cảm thấy tác giả có cách nhìn vào đời sống khá thấu đáo, lại biết thông cảm với mọi lầm lẫn ở mình và xung quanh. Con người Hà Nội, con người thành thị ở đây có những nét đáng yêu, đáng vì nể chứ không chỉ thuần có lạnh lùng, vô trách nhiệm, như người nọ, người kia vẫn mô tả.
Một trong những mô-tip thấy trở đi trở lại vài lần trong truyện ngắn Thạch Lam: một người thành phố về thăm quê hương của mình. Trong Trở về là thế, trong Dưới bóng hoàng lan là thế. Rồi Những ngày mới lại càng kỹ hơn, tỉ mỉ hơn. Trừ trường hợp nhân vật Tâm trong Trở về thấy chán ngán, ngại ngùng (anh ta gần như bỏ chạy khỏi nông thôn), còn trong hai truyện kia, nhân vật chính đều rất thiết tha với quê hương. Họ tìm thấy ở đấy những gì tượng trưng cho sự trong sạch, sự bền chắc trong tình cảm. Nói như ngày nay chúng ta thường nói, trở về với làng quê, đối với một số nhân vật trong Thạch Lam, là trở về với cội nguồn của đời sống. ở đó, ta tiếp nhận được đời sống ở cái phần chân chất nhất, trong lành nhất của nó. Đấy cũng là điều Thạch Lam muốn nhắc nhở chúng ta. Trong đoạn văn viết về cốm rất nổi tiếng, trong tập Hà Nội ba mươi sáu phố phường.
“Cơn gió mùa hạ lướt qua vùng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá như báo trước mùa về một thứ quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy khi đi qua những cánh đồng xanh mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đọng lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”.
Nét đặc biệt của Hà Nội của chúng ta là thành phố luôn luôn gắn bó với các vùng nông thôn xung quanh, nhiều người lên đây làm thợ, buôn bán, đi học, thậm chí làm quan, đã sống hàng đời ở Hà Nội rồi, vẫn không khỏi thoáng qua một chút run rẩy khi nhớ về quê cũ. Trước rất nhiều nhà văn khác, Thạch Lam đã kêu lên như thế, tiếng kêu của ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN TUÂN
Không những chỉ sinh ở phố Hàng Bạc, mà Nguyễn Tuân còn chính là người gốc ở một vùng đất ngoại thành nổi tiếng: làng Nhân Mục (làng Mọc); tức ông đồng hương với Đặng Trần Côn.
Nhà văn Tô Hoài kể: có những lần Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân về Dục Tú, quê Nguyễn Huy Tưởng. Nghe Nguyễn Huy Tưởng kể chuyện thành cũ Cổ Loa gần đấy, Nguyễn Tuân cũng hào hứng nhắc đến quê hương mình. Bấy giờ là thời Tây Sơn đánh quân Thanh. Một mũi quân do đô đốc Bảo chỉ huy. Sau khi đánh tan quân Thanh ở đầm Mực, cánh quân này trên đường tiến ra Đống Đa: theo Nguyễn Tuân, thể nào họ cũng vu hồi lên Kim Giang, Kim Lũ rồi tập kết ở bốn làng Kẻ Mọc mà Nguyễn Tuân gọi một cách tự hào là Kẻ Mọc chúng tôi.
Lớn lên một chút, Nguyễn Tuân cùng gia đình đi “tha hương” ở nhiều nơi, Nam Định, Thanh Hoá và cả các tỉnh sâu vào trong nữa. Nhưng theo Nguyễn Tuân kể với chúng tôi, dù làm ăn ở đâu, năm nào bà cụ thân sinh ra ông cũng dẫn ông về Hà Nội ít ra là một lần, và thường vào dịp Tết.
Năm 1923, mười ba tuổi, cậu bé Nguyễn Tuân học ở một trường tư Hà Nội, trường Trương Minh Sanh, rồi sau đó mới chuyển về học thành chung ở Nam Định. Và khi trưởng thành, sống hẳn về nghề văn, nghề báo, thì Nguyễn Tuân cũng chuyển luôn từ Thanh Hoá ra Hà Nội, để rồi “đàn đúm”, “tụ họp” với không biết bao nhiêu là bè bạn ở đây, làm nên một thời vang bóng của ông trong nghề nghiệp.
Trong một bài viết gần đây về phim Chị Dậu, Nguyễn Tuân kể lại những ngày mới bước vào nghề làm báo, từng sống ở một toà soạn ở phố Hàng Da, cùng phòng với Ngô Tất Tố. Trong khi Nguyễn Tuân đi chơi, thì Ngô Tất Tố miệt mài làm việc. Trở về phòng, Nguyễn Tuân đã mệt lắm, nhưng nhìn những trang viết dở của người đồng nghiệp vong niên lại phải ngồi vào bàn.
Trong các tài liệu khác, chẳng hạn Một đêm họp đưa ma Phụng chúng ta cũng lại bắt gặp những trang tả lối sống, lối làm việc của Nguyễn Tuân và những nhà văn đương thời. Đại khái là các ông rất hay đi bộ, cứ diện Tây, thắt cra-vát vào mà cuốc bộ ra Thư viện quốc gia, rồi đến thăm nhau, rủ nhau ra làm một chầu rượu mạnh ở Bờ Hồ hoặc cầm những quyển sách Pháp mới mua được ở các hiệu sách trên tay vừa đi đường vừa tán chuyện. Gần, giữa mấy phố đông người Hà Nội. Xa, có khi mấy người kéo bộ sang tận xóm Thượng Cát bên kia sông Hồng, rồi sáng hôm sau lại qua chín nhịp cầu Long Biên quay về.
Vạn nhất mới phải lên xe điện!
Trong những lý do để đi bộ, nó cũng là cái thú thanh nhã nữa, có điều này hợp với nghề báo, nghề văn. Là vừa đi, người ta có thể vừa quan sát, vừa nghĩ về cái thành phố mình đang ở, liên hệ giữa những điều đọc trong sách vở với việc đang xảy ra trước mắt.
Sau này, khi đã trải qua kháng chiến trở về thủ đô, Nguyễn Tuân vẫn giữ nếp sinh hoạt như vậy. Cùng với Nguyễn Huy Tưởng đi vào những ngóc ngách phố cũ. Hoặc dạo quanh Hồ Gươm. Hoặc cùng với các bạn nước ngoài, dừng lại ở cửa Toà thị chính cũ, nay là trụ sở Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, ở cửa Câu lạc bộ Thống Nhất, v.v... Vừa đi vừa kể:
- Toà thị chính được xây dựng từ những năm 80 của thế kỷ trước.
- Câu lạc bộ Thống Nhất (nay là chỗ bán vé của Hàng không Việt Nam) xưa là trụ sở của Hội khuyến nhạc thành phố.
- Hiệu sách đầu tiên ở Hà Nội khai trương 1897. Thư viện đầu tiên ở Bắc kỳ mở cửa 1919 v.v....
Nguyễn Tuân đã thật sự trở thành một pho sử sống của Hà Nội. Nhiều trang viết của ông có thể sẽ còn mãi, bởi ghi được một cách cô đọng những cảnh sắc Hà Nội, khiến cho chúng lung linh lên, khắc sâu vào trí nhớ. Gần đây nhất, là những đoạn Nguyễn Tuân tả Hà Nội trong những ngày chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Nhưng không phải chỉ có thế. Bốn chục năm trước, Nguyễn Tuân cũng đã từng ghi lại cảnh Hà Nội tập báo động, chủ yếu là ở khu vực trung tâm thành phố.
“Vợ chồng H Ng và tôi vẫn đi một cách tò mò vòng quanh hồ Hoàn Kiếm, ánh sáng đỏ và xanh hoa lý nhà Thuỷ Tạ chảy xuống hồ tù hãm như những ống điện nê-ông có kèm những con tiện ngòng ngoèo màu sơn đỏ da chum...
Đồng hồ tay chỉ 21 giờ. Còi báo động bắt đầu. Còn gì rền rĩ thê thảm bằng. Đèn tắt một loạt. Trong tối tăm, chuông nhà thờ phụ hoạ với còi báo động (...). Tiếng còi nấc lên rồi vẳng xa như sáo gió một con diều thả về từ một cõi âm nào (...). Tiếng còi vẫn rỉ rên, rồi nấc mạnh, rồi chết hẳn (...). Tiếng còi đau khổ vẳng ngân trong bảy tám khổ vừa khoan vừa dài, vẫn nâng đỡ lấy mảnh trăng ốm, bị chém khuyết hẳn một góc...”.
Một đoạn khác:
“Thời loại điểm vào đêm kinh thành những chấm rực rỡ. Một gạch xanh cỏ non ở các ngã tư. Một chấm đỏ ở các hầm đang đào. Một bóng đèn màu nước biển ở cái bóp gác. Chung quanh và trên những đốm lửa màu ấy, đêm bao la, đêm lù mù. Trong bóng tối nhiều cái bóng thủ thỉ lướt qua”.
(Những ngọn da xanh và ... những dịp còi)
Lùi về trước nữa, lần Pháp cho phá thành cổ, xây phố xá, cũng đã được Nguyễn Tuân kể lại rất có không khí, nhân khi viết bạt cho cuốn Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.
Nếu đồng ý rằng đối với Nguyễn Tuân, Hà Nội là nơi còn in lại nhiều dấu vết lịch sử “vang bóng một thời”, nơi những người tài tử hội ngộ, chúng ta sẽ hiểu tại sao tuy đây đó tác phẩm của ông có đượm chút “hoài cổ” song lại là những trang sách có ích, nó cho thấy “bề dầy” của Hà Nội, và làm cho chúng ta trân trọng những khía cạnh truyền thống tốt đẹp.
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân ở Hà Nội là chính. Ông cũng luôn luôn đi khắp nơi trên đất nước. Song, mỗi lần hoàn thành tác phẩm, ông đều trở lại thủ đô sống, cái không khí nghề nghiệp cho thật đã. Cũng có lần năm 1941, ông bị bắt và bị bắt ngay ở Hà Nội, để rồi đầy đi Vụ Bản, nhưng mấy tháng sau được tha ngay.
Lần Nguyễn Tuân xa Hà Nội lâu nhất là thời kháng chiến chống Pháp. Xa và nhớ Hà Nội lắm! Nhìn cột mốc cây số nào cũng thấy nó dẫn về Hà Nội. Và từ Việt Bắc, ông thấy nhớ đủ thứ của đời sống thủ đô hôm qua. Nhân gặp một ông hàng phở, Nguyễn Tuân viết:
“ Bây giờ là mùa hè 1948. Nắng lắm. Thêm cái bóng me và sấu lùm buổi sớm của Dốc Hàng Kèn, những giờ đi “đả phở tập thể” (chắc là “hội” những anh em làm báo, như chúng ta đã biết ở đoạn trên!). Gặp ông Xước, thủ thư cũ của Thư viện quốc gia, Nguyễn Tuân thấy xao xuyến nhớ “cả một thời thanh bình độc thư săn tàng thư lâu lá mùa thu rụng từng cái một bên đường Trường Thi”. Rồi gặp ông Cai Lộc phát hành báo; cô Lan bán hoa; anh Két đưa cốc-tay ở Thuỷ Tạ; chị Nhâm cua bể chợ Đồng Xuân; anh Khôi kính-coong v.v...”
Có cảm tưởng rằng trong Hà Nội cũ, Nguyễn Tuân rất nhiều người quen biết, bất cứ ai lành nghề trong công việc của mình, đều được ông dành cho một sự ưu ái trong tâm trí. Con người hay bị kêu là khinh bạc này thực ra lại rất biết nể trọng người tài và thấm thía cái câu “nhất nghệ tinh nhất thân vinh” hơn ai hết.
Bởi chính Nguyễn Tuân cũng thế, cũng lấy nghề nghiệp làm trọng.
Những người có quen riêng Nguyễn Tuân đều biết và có ấn tượng sâu sắc về thói quen lao động nghệ thuật kỹ càng, tỉ mỉ nơi ông. Viết về cái gì, ông tìm đọc cho bằng hết các loại sách viết về cái đó để tham khảo,. Ví như trước khi viết về cầu, ông đọc cả sách về kỹ thuật dựng cầu, rồi sưu tầm hết các kiểu ảnh cầu đã làm ở nơi A, nơi B, vào cái thời gian mà ông định tả. Lương tâm nghề nghiệp không cho phép ông nói liều, nói bừa về một thứ mình không biết. Ông đọc. Ông tra xét. Rồi ông lao động cật lực trên từng câu, từng chữ, khiến cho mỗi dòng, mỗi trang ông viết ra đều mang dấu ấn nơi ông, nhiều khi không cần đọc tên người viết ở cuối bài, người ta cũng biết ai là người đã viết ra bài đó. Nếu bảo tác phẩm là một thành phẩm, một mặt hàng thì những tuỳ bút ký tên Nguyễn Tuân bao giờ cũng là thứ hàng thượng hạng, hàng kỹ, nhìn qua biết ngay, mà càng nhìn lâu càng thấy quý.
Đó chính là một khía cạnh làm nên chất Hà Nội của nhà văn này. Nếu không sợ mang tiếng là hạ thấp công việc viết văn, chúng ta có thể nói đây cũng là một nghề, nó đòi hỏi người ta phải rất công phu học hành, phải hết sức khổ hạnh. Và Nguyễn Tuân gần gũi với bao nhiêu những người thợ tài hoa khác - thợ vẽ, thợ may, thợ khâu giầy, người viết chữ đẹp, người ca sỹ hát hay, v.v... Chính họ đã mang lại cho đời sống kinh kỳ một vẻ sầm uất và một niềm tự hào chân chính.
XUÂN DIỆU
Trong một bài tuỳ bút mang tên Việt Nam đại hội viết từ trước cách mạng, sau in lại vào tập Triều lên (1957), Xuân Diệu từng mượn lời miền Nam để ca ngợi miền Bắc. Trong tâm trí nhà thơ, Hà Nội phải đặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính.
- Thưa chị, trải bốn ngàn năm, chị lại càng tươi tốt hơn bao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế. Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà vẫn là một con sông trẻ... Núi Tản Viên tinh khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba Bể trăng soi lánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi mây sa, con sông Thương nước chảy đôi dòng. Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông của chị. ở tận miền Nam, em ao ước đến luôn: em cố tưởng tượng cái rét thế nào, cái sương gió thế nào. Những hôm mưa vừa mới tạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy đến, đôi chút sương kỳ diệu phơ phất các tán cây, thành phố Sài Gòn của em nhớ thương Hà Nội hơn lúc nào hết. Từ khi đồng bào miền Bắc càng vào nhiều trong em thì những mùa mưa của em cũng như thêm gió thêm sương, thêm một vài luồng lạnh quí báu, hiếm hoi...”.
Đoạn văn diễn tả khá tinh tế những ấn tượng mà một người vốn quê khu Năm như Xuân Diệu “tiếp nhận” ở Hà Nội, ngạc nhiên về Hà Nội. Bấy giờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú tài phần thứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu thường kể: Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở hơn, tâm trí phong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như kỳ diệu.
“Tôi được đi ra Hà Nội học tú tài phần thứ nhất ở trường Bưởi gần Hồ Tây. Hồ Tây lúc đó còn hoang vu hơn bây giờ nhiều, số người còn ít. Hồ Tây rất là rô-măng-tích. Có thể nói, khi ra Hà Nội, tôi có sự nảy nở lần thứ hai... Đi vào những trại trồng hoa ở Ngọc Hà, xem những cây hoa đào ở Nhật Tân, đối với tôi vào tuổi mười tám, mười chín như một sự bừng nở, như mùa xuân mới về”.
Nếu muốn tìm hiểu thiên nhiên đã ảnh hưởng đến tâm hồn một người viết văn như thế nào, thì trường hợp Xuân Diệu tiếp xúc với miền Bắc, trước tiên là Hà Nội, đã là một đề tài thú vị.
Trên phương diện văn học, những ảnh hưởng này sẽ rõ rệt hơn, và những ngạc nhiên trong lòng Xuân Diệu sẽ còn bùng lên mạnh mẽ hơn. ở Quy Nhơn ngày nào Xuân Diệu đã say mê thơ Tản Đà, khi nghe tin An nam tạp chí tục bản, cứ phải trốn trường ra phố thăm hỏi không thôi. Nay Xuân Diệu được gặp Tản Đà giữa toà soạn một tuần báo.
Cũng ở Hà Nội, Xuân Diệu được gặp Thế Lữ. Tác giả Mấy vần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ thơ trên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những trang đề tựa. Từ những trang thơ này, Xuân Diệu sẽ vào sâu thêm giới văn học Hà Nội. Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của ông in báo rồi in lại trong Thơ thơ, bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng một người nào đó: Chiều tặng Nguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu, Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và v.v...
Những chi tiết nho nhỏ ấy chỉ xác nhận một sự thực là Xuân Diệu đã gắn bó với đời sống văn học thủ đô lúc ấy, và do được sự động viên, cổ vũ của bè bạn, đồng nghiệp... mà ngòi bút Xuân Diệu thêm hứng khởi.
Có lẽ cũng chỉ Hà Nội hồi ấy mới chấp nhận cái chất “tây” rõ rệt trong thơ Xuân Diệu và vừa chào đón nồng nhiệt vừa hướng cho nó thêm mềm mại hơn.
Rồi cũng ở đây, sự nghiệp Xuân Diệu cơ bản hình thành. Thơ thơ in ra hai lần ở Hà Nội (1938-39), đã có tiếng vang tới mức, năm 1941, khi làm Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã ghi lại lần thứ nhất Thơ thơ được in ra, như một ngày tháng đáng nhớ trong Biểu liệt kê các tác giả và tác phẩm theo thứ tự thời gian.
Tuy nhiên, cũng ở Hà Nội, trước cách mạng Xuân Diệu nhanh chóng đi tới sự chán ngán bế tắc. Trong Những bước đường tư tưởng của tôi, ông kể:
“Năm 1943-1944, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không được, viết văn cứ nói mãi về cái buồn cũng hết chuyện... Tôi ngồi giở quần áo cũ ra và giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô”.
Những trang văn xuôi của tác giả lúc này có một không khí riêng buồn buồn, ngùi ngùi, nó là trạng thái tâm hồn tác giả đồng thời lại cho chúng ta thấy một vài khía cạnh Hà Nội trước cách mạng mà ở người khác không thật rõ.
Trong Phấn thông vàng, nhà văn tả cái nơi ở của một người bạn:
“Tôi biết nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau. Con đường sắc xanh không rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng không sáng sủa của bạn tôi... Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.
Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải của một mảng đời thành phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu:
“Đoạn đường chạy qua không đủ rộng để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm, đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu tồi mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít. ánh sáng không chịu sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi chiều dài. ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước để vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làm cho nhà cửa ngơ ngẩn”.
Có thể bảo rằng đây là một nét Hà Nội trước cách mạng rất hiếm người nhận ra, cái Hà Nội mờ mờ, nhạt nhạt, bùi ngùi như Xuân Diệu hay nói, cái Hà Nội giống như trong tranh Bùi Xuân Phái, trời đất không ra sáng, không ra tối, chỉ thấy nhà không thấy người, và những mái nhà thì tuy nhỏ nhoi, nhưng không cái nào giống cái nào.
Chính một thứ Hà Nội bùi ngùi như thế này đã quyết định những chuyển hướng trong cuộc đời và trong thơ Xuân Diệu...
Theo chính Xuân Diệu kể, thì trước khi về 61 Hàng Bông, cái gác vá áo nói trên. Xuân Diệu còn cùng với Huy Cận ở 40 Hàng Than. ở đây Xuân Diệu và Huy Cận ở trên gác, còn người ở gác dưới là nhà thơ Lưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư từ miền Trung ra Hà Nội trước Xuân Diệu, bấy giờ đã sống bằng ngòi bút, ông nhận làm thuê cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san lương mỗi tháng là sáu chục đồng.
Nhưng bao nhiêu màu sắc kỳ lạ của cuộc sống Hà Nội bấy giờ không làm cho thi sĩ yên tâm. Nhìn vào đời sống Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu thấy chẳng có gì bảo đảm. Chưa đầy ba mươi tuổi mà Xuân Diệu đã cảm thấy hết cái lạnh lẽo của kiếp sống con người. Huy Cận than: “Phố không cây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng. Xuân Diệu nói rõ hơn: “Cơm áo không đùa với khách thơ”, thật là cụ thể. Có lẽ là nghề viết không nuôi nổi người ta thật, nên mê văn chương, mê Hà Nội vậy, Xuân Diệu vẫn phải bỏ cả hai mà đi làm tham chính nhà đoan ở Mỹ Tho ba năm, khi Huy Cận đỗ kỹ sư canh nông nuôi được bạn rồi, hai người mới đoàn tụ.
Khi nghe tôi hỏi về những ấn tượng mà Hà Nội để lại trong tâm trí mình, Xuân Diệu ngước mắt lên thoáng nghĩ gì đó, rồi nói rằng sẽ có lúc mình viết về trời đất, nắng gió Hà Nội. Tuy nhiên, còn một điều ông đã nói. Hà Nội bấy giờ là cái xưởng làm việc của ông, là nơi cung cấp cho ông đủ “nguyên vật liệu” để suy nghĩ, nghiên cứu, lại tạo không khí đủ ấm, đủ nóng để cái nụ của sự sáng tạo thành hoa, cái mầm trong hạt lớn lên thành cây. Ngoài ra, phải nói là từ sau cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nội thấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ Tây rất rô-măng-tích, như ông đã nghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đào Nhật Tân... Trong khi đường trăng- đường thơ- đường tình yêu của Xuân Diệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc hà, canh giới” thì hàng ngày, Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những con đường đậm bóng sấu Hà Nội, và viết, lao động, với một nhịp điệu mà những người trẻ tuổi cũng phải ghen tị.
BÙI HIỂN
Ra với Hà Nội để vừa học, vừa viết, có khi ban đầu chưa phải đã định sống với nghề viết, nhưng do ở Hà Nội thấy nghề này hấp dẫn quá, thú vị quá mà đi vào lúc nào không rõ - đấy không chỉ là trường hợp của riêng Xuân Diệu, mà của nhiều cây bút khác, trước cách mạng.
Chẳng hạn như Mạnh Phú Tư. Vốn quê ở Hải Dương, ông ra Hải Phòng học trước, rồi sau học ở Hà Nội, và vừa dạy từ các gia đình, vừa viết văn. Nhờ cuốn Làm lẽ (1940) được giải thưởng Tự lực văn đoàn, ông mới tiếp tục viết những cuốn khác Sống nhờ, Gây dựng, Nhạt tình, v.v...
Hoặc như Chế Lan Viên. Đến nay nhiều người còn nhắc đến chuyện thời ấy, một vụ hè, Chế Lan Viên ra đây “bám” Thư viện trung ương chỉ để đọc sách. Tờ báo phát hiện ra ngòi bút Chế Lan Viên là tờ Bắc Hà của nhóm Trần Huyền Trân, Thâm Tâm. ít lâu sau, thi phẩm Điêu tàn đánh dấu sự trưởng thành của Chế Lan Viên cũng được in ở Hà Nội.
Lại có trường hợp như Tế Hanh. Tuy chỉ ra Hà Nội ít ngày rồi về ngay, nhưng có thể nói khi đi học. Tế Hanh vẫn sống với không khí thơ ở ngoài này, nhờ thế, tập Nghẹn ngào có gì rất gần với những tập thơ khác xuất hiện đương thời.
Và đây, một trường hợp nữa, nhà văn Bùi Hiển. Theo như ông kể với chúng tôi, thì từ 1935-36, khi đang đi học ở Vinh, ông đã sống với không khí văn học của Hà Nội. Hàng tuần cứ đến thứ năm là có chuyến tàu chở sách báo Hà Nội vào, độ 8 giờ tối thứ năm đã thấy bầy bán ở các hiệu sách lén của thành phố Vinh, và Bùi Hiển bao giờ cũng phải tìm ngay những tờ báo đó để đọc.
“Đúng là Hà Nội toả sáng trong tôi” - Bùi Hiển nhận vậy. Ông mê những tác giả đương thời nổi tiếng in trên báo chí thủ đô, đến mức có lần ngồi chép lại một đoạn văn của Nguyễn Công Hoan mà ông rất thú. Ngôn ngữ Hà Nội quả là tuyệt, có thể nói tiếng Hà Nội là tiêu biểu cho vẻ đẹp của tiếng Việt. Một vài câu ca dao dẫn vào giữa trang truyện như mấy câu:
Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son mà thờ
Vũ Trọng Phụng dẫn trong Cơm thày cơm cô, đối với Bùi Hiển, cũng đã là bài học.
Mặc dù chỉ viết về những truyện ở tỉnh nhỏ lúc ấy, hoặc về những người dân chài vùng biển, nhưng Bùi Hiển bao giờ cũng cố gắng để có một ngôn ngữ uyển chuyển, dung dị, người các vùng khác cũng có thể hiểu được. Và giới văn học Hà Nội rất hiểu những cố gắng đó của Bùi Hiển. Ngày nay và Trung bắc chủ nhật, Tiểu thuyết thứ bảy và Thanh Nghị, báo nào mà Bùi Hiển có bài gửi tới, cũng khuyến khích ông làm việc, nhiều khi còn cho đăng truyện ngắn của ông với những đoạn giới thiệu ngắn gọn, trang trọng.
Đến nay, mấy chục năm đã qua, nhưng Bùi Hiển có thể sung sướng mà nói rằng Hà Nội đã phát hiện ra mình. Cái nỗi niềm hân hoan của một người viết văn ở một tỉnh nhỏ, khi lần đầu đến với một nhà xuất bản ở Hà Nội làm việc về tập truyện ngắn đầu tay của mình, nỗi niềm đó thật suốt đời người ta không thể nào quên nổi!
Từ đây đến chỗ bỏ gia đình quê hương lên Hà Nội, sống hẳn với nghề văn bước đường không còn bao xa.
Tuy nhiên, cái điều xảy ra với nhiều người, không xảy ra với Bùi Hiển. Ông sống ở Vinh cho đến khi cách mạng mới ra họp hội nghị văn hoá toàn quốc, rồi trở về, hoà nhập vào không khí kháng chiến của quê hương.
NGUYÊN HỒNG
Có một nhà văn, đến nay đã mất, chúng tôi không thể tiến hành phỏng vấn, trong sự nghiệp văn học của nhà văn đó, thường thấy nói đến Sáu Kho, Hạ Lý những xóm nghèo ở Hải Phòng, nhưng sự thật tình yêu của nhà văn này với Hà Nội cũng rất nồng nhiệt, và đã được kể lại một phần qua các hồi ký.
Nhà văn đó là Nguyên Hồng.
Khi còn đang tuổi thiếu niên đã có lần cậu bé Nguyên Hồng 13-14 gì đó, từ bỏ gia đình ở Nam Định, một mình lên Hà Nội. Lúc đó, gia đình cậu gặp khó khăn, bố chết, mẹ đi lang bạt kiếm ăn đâu tận Thanh Hoá. Là học sinh lớp nhì, có dạo cậu có thể kiếm ra tiền bằng cách viết thư hộ những người hàng xóm có người thân đi lính sang Tây, hoặc đi cao su, đi phu Tân Đảo, song vẫn không đủ ăn. Nhân nghe có người anh làm chân chữa bản in ở nhà in Viễn Đông, cậu mò lên, để nhờ anh xem có xin được việc gì không. Nhưng “nhảy dù” “ăn vạ” ở nhà người anh một ít lâu, cậu hiểu ngay ở đây không sao kiếm ra việc, và những ý định sẽ bám vào đây để sống, mua mía, mua bưởi bán rong lần hồi, hoặc đi theo một gánh xiếc nào đó, như kiếp sống của nhân vật chính trong Không gia đình rút cuộc, ý định đó cũng là một cái gì hão huyền: cậu lại phải ra tàu thuỷ trở về Nam Định phiêu bạt đi các nơi khác.
Đúng là Hà Nội đã từ chối cậu bé. Nhưng không phải vì thế mà Nguyên Hồng cảm thấy có thể xa nổi cái thành phố tuyệt vời này, vì ở đó còn có sách vở, báo chí, những gì thuộc về văn học sẽ gắn với cả đời mình. Có lần bị tù rồi được tha, trên đường từ Phúc Yên về quê, chỉ ghé qua Hà Nội mà Nguyên Hồng đã như mê đi, bước chân đưa đẩy qua không biết bao nhiêu nơi, hồ Hoàn Kiếm, Hàng Đào, Hàng Buồm, nhà ga, Gô-đa, Tràng Tiền... Cái mà người thanh niên này mê nhất là sách. Nói theo ngôn ngữ của nhà văn Nguyên Hồng về sau phải nói, đó là những cuốn sách thiêng liêng, toả sáng.
Về với Nam Định, rồi Nguyên Hồng cùng gia đình ra Hải Phòng, từ đó, bắt đầu vừa dạy tư, vừa gửi bài vở lên các báo ở Hà Nội.
Năm 1939, một sự việc làm chấn động tâm tư người thanh niên mười chín tuổi: Ông chủ nhiệm Tiểu thuyết thứ bảy kiêm chủ nhà xuất bản Tân Dân gửi thư cho nhà văn trẻ, báo rằng từ nay sẽ coi Nguyên Hồng là cộng tác viên chính thức, có trả tiền cẩn thận (trước đó nhà xuất bản chỉ in cho là may, chứ đâu đã có nhuận bút!) Nguyên Hồng lại như mê man đi với bức thư ấy, ý nghĩ phiêu diêu đủ thứ, nhưng cuối cùng, đọng lại trong một dự định: phải lên Hà Nội học thêm và trở thành một người viết cho đàng hoàng.
Gia đình lo lắng, sợ lên đấy, nhà văn trẻ sẽ đua đòi, hư hỏng đi, trong khi đó cứ ở Hải Phòng, vừa dạy tư, vừa viết thế này đã sống được rồi.
Nhưng Nguyên Hồng không chịu. “Ôi, Hà Nội, kinh đô ngàn năm văn vật! Tôi sẽ lên sống ở đấy đem cả tuổi xuân của mình chọi lại với cái quyến rũ, thách thức, lừa lọc”.
Và Nguyên Hồng xách một hòm gỗ ra ga lên Hà Nội thật. ở nhờ vào một ngôi đền, gần chợ Châu Long; và ăn, thì ăn ở các hàng cơm của phu phen, thuyền thợ.
Lần ấy, Nguyên Hồng chỉ ở Hà Nội mấy tháng, rồi nhớ Hải Phòng, ông lại trở về thành phố cảng. Nhưng ông đã thành người của cái nghề này rồi, nghề viết văn. Chẳng những thế, trong giới những người viết văn, ông lại sớm hiểu mình phải dùng ngòi bút để phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng quần chúng cần lao mà ông đã tự nguyện gắn bó.
Và thế là ông vẫn sẽ thường xuyên có mặt ở Hà Nội để liên hệ với những báo chí tiến bộ như Thời trẻ, Bạn dân, để làm quen với các đồng chí như Tô Hoài, Như Phong, và để dự những cuộc đấu tranh lớn như cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 năm 1938, hoặc các hoạt động của Văn hoá Cứu Quốc.
Từ đây, cái nhìn của Nguyên Hồng về Hà Nội rất rạch ròi. Ông xa lạ một thứ kinh thành hoa lệ của bọn nhà giàu. Nhưng ông càng thêm yêu một Hà Nội khác, Hà Nội tranh đấu. Hà Nội đầy sức sống.
“Chiều hôm ấy (chiều 1-5-1938 - V.T.N. chú) dịu nắng thì có gió. Trời mây và các mặt nước Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, các đường cây, các tầng khối kiến trúc, các ống khói, các nhịp cầu, các bờ bãi sông Hồng cùng với phù sa chảy lừ lừ đang đợi các lũ nguồn chưa bao giờ lại đẹp, rực rỡ trong nắng chiều và gió thổi lộng như bây giờ. Các đường phố Hà Nội như đang có một thứ máu mới dạt dào vậy”.
Về sau, cũng có một dạo, Nguyên Hồng cùng gia đình ở hẳn Thủ đô. Đấy là năm 1943, khi Hải Phòng bị ném bom gia đình ông chạy về Hưng Yên một hai tháng, thì lên Hà Nội, lần này, ông thuê nhà ở bãi Nghĩa Dũng. Nhà ở chật chội, đâu có một gian nhà tranh hai chục mét vuông thì nhà chủ đã kê chiếc khung cửi mất một nửa, còn một nửa mới cho thuê. Vậy mà Nguyên Hồng rất vui. Chung quanh ông vẫn là một Hà Nội lầm than, Hà Nội của người nghèo. Và dù đây là cuộc sống Thủ đô, nhưng vẫn rất gần thiên nhiên. Nhà cửa trống trải, nắng gió bao giờ cũng sẵn. Lại gần sông nước, tha hồ ra đấy mà giặt giũ, đến nước để ăn cũng không phải nước máy, mà là nước sông gánh về đổ đầy vại rồi đánh phèn. Thì ra, không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ trẻ những năm 70, 80, sau này còn ca ngợi Hà Nội với hương cốm vòng với những gánh rạ đi vào thành phố. Từ ba bốn chục năm trước, đấy đã là nguồn cảm hứng chi phối Nguyên Hồng và nhiều nhà văn khác.
Cố nhiên, bên cạnh những giờ phút say sưa với thiên nhiên, thì cái đập vào đầu óc Nguyên Hồng ngày ấy vẫn là một Hà Nội nhếch nhác, đau khổ, và khi bị ném bom, khi nạn đói đổ tới, thì càng thảm hại hơn. Ngòi bút Nguyên Hồng lại có dịp cực tả, từ những đống người đắp chiếu bên đường, đến cả thành phố ốm o, bệnh tật trông nhiều nhà như bỏ hoang hay có người điên bị giam giữ, người ốm yếu bại liệt đang hấp hối”. Nhiều trang của Nguyên Hồng (trong Địa ngục, Lò lửa, và các tập hồi ký) gợi chúng ta nhớ tới những bức ảnh chụp sọ người chết đói chồng thành đống lớn của Võ An Ninh. Cả hai đều là những chứng tích có ý nghĩa lịch sử.
Sau hoà bình lập lại (1964), gia đình Nguyên Hồng vẫn ở trên ấp Sậu - một vùng quê Hà Bắc, nhưng ông vẫn đi về công tác ở Hội Nhà văn, với các anh em khác. Những lúc rỗi rãi, ông lại cùng với Kim Lân, Tô Hoài đi dạo phố, nhất là lên mạn chợ Bắc Qua, nơi người các tỉnh mang hàng về sôi nổi, tấp nập. Nguyên Hồng cảm thấy đấy là một Hà Nội đầy sức sống, khiến niềm say mê của ông không bao giờ dứt, và ông có thể hoà mình vào đó thật thoải mái.
TRẦN HUYỀN TRÂN – THÂM TÂM – NGUYỄN BÍNH
Tuy đã từng viết nhiều về những cảnh sống cùng cực về các tầng lớp dân nghèo Hà Nội, một Hà Nội lầm than đau khổ, nhưng nhiều nhà văn trước cách mạng thật ra cũng chưa đến nỗi nào lắm. Họ thường là dân làm báo hoặc dạy tiểu học, sống không sung túc, thì cũng tạm đủ ăn. Đôi khi họ phải cúi xuống, mới thông cảm được với các tầng lớp mà xã hội lúc đó gọi là hạ lưu. Thậm chí có trường hợp như người ta đồn đại về Tam Lang: Để viết Tôi kéo xe đâu nhà báo này đã phải làm giả phu xe, cũng đi thuê xe để hành nghề, từ bỏ những món thỏ nấu với rượu vang quen thuộc để ăn những bữa cơm hẩm chan xáo lòng bò như mọi phu xe, khiến cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, phải nghi ngờ “Người ta bảo cái đầu đề Tôi kéo xe là sai, vì cái thân thể tác giả mà nhiều người đã biết, tác giả không thể nào cầm hai càng xe được”.
Nhưng ngay trong lòng Hà Nội, thường cũng có một lớp người viết sống rất nghèo khó, như dân thất nghiệp, họ lam lũ làm văn làm báo như người khác cày thuê cuốc mướn. Báo của họ bán không chạy, sách in ra không gây được tiếng vang gì lớn. Nhưng họ vẫn gắn bó với nghề, với Hà Nội, và vừa sống vừa viết một cách thanh thản.
Lớp nhà văn vô sản này đại khái như Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nam Cao, Tô Hoài.
Trong một bài phát biểu, nhân dịp 40 năm Đề cương văn hoá, nhà thơ Trần Huyền Trân kể:
“Ngày ấy tôi thường đi dạy tư và làm báo, viết truyện để sống, để có tiền đỡ thêm cho mẹ tôi nuôi các em tôi còn nhỏ vì cha tôi đã mất từ hồi tôi chín tuổi.
Vì quá chật chội trong túp lều vó dựng trên một ao bèo đầy nước cống mà người ta gọi là đầm Liên Hoa cạnh làng Văn Chương ở phía sau miệng Cống Trắng giữa dãy phố Khâm Thiên, túp lều mà ông dượng - người chồng sau của mẹ tôi - dựng lên để ngày đêm kéo vó kiếm ăn, tôi với Thâm Tâm bèn thuê một căn gác nhỏ trong ngõ Sơn Nam cạnh đầm để ở. Sau này có thêm Nguyễn Bính ghé tạm cùng nương náu với chúng tôi trong thiếu thốn lần hồi”.
Như vậy, đây đúng là một người gốc gác Hà Nội, và làm thơ, viết văn để diễn tả cái vang động của Hà Nội trong lòng mình, bắt rễ vào Hà Nội, điều đó ở ông đã trở thành thân phận, thành kỷ niệm riêng.
Bóng đơn đi giữa kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ nghe tình người ta.
Trần Huyền Trân là người của thân phận bọt bèo, là người sống giữa Hà Nội (trước cách mạng) mà không thấy đây là Hà Nội của mình và thái độ trong thơ bao giờ cũng là thái độ không chấp nhận đời sống. Nhà thơ đứng đối lập với thế giới phù hoa chung quanh. Thỉnh thoảng, trong đám phù hoa ấy cũng có những bà, những cô ngó ngàng một chút tới thân phận nhà thơ, nhưng Trần Huyền Trân đã phản ứng đến cùng (bài Hỏi bà, với những câu kiểu như: Hay gì bà hỏi đến tôi - Khóc thì trái thói mà cười vô duyên.v.v...) Thơ Trần Huyền Trân vì thế xót xa, phẫn nộ, đau đớn, đơn độc một cách đầy khí phách.
Như các tài liệu lịch sử văn học (chẳng hạn, các tác giả viết Từ điển văn học, 1984) đã chỉ rõ Nguyên Hồng làm thơ sớm, từ khi mới có phong trào thơ mới. Bản thân ông lại có quan hệ riêng với Tản Đà, từng có bài thơ kể chuyện uống rượu và tâm sự với tác giả Khối tình con. Vậy mà, những thơ truyện in trên Tiểu thuyết thứ bảy không mấy khi được nhắc nhở hình như giới văn học chính thức ở Hà Nội, trước cách mạng vẫn chưa chính thức công nhận thơ Nguyên Hồng (đến 1985 tập thơ riêng của ông mới được xuất bản!). Song càng như thế, thơ Nguyên Hồng càng có khí phách. Đó là những bằng chứng về một khía cạnh khác của Hà Nội, Hà Nội lầm than nhưng cứng cỏi, nghèo túng nhưng vẫn hào phóng và giữ được nhân cách, tóm lại là một Hà Nội mà bọn giàu có trọc phú, thậm chí những kẻ nông nổi, tầm thường không dễ chấp nhận.
Hai người cùng thân phận với Nguyên Hồng lúc ấy là Thâm Tâm và Nguyễn Bính.
Thâm Tâm quê Hải Dương theo gia đình lên thủ đô từ nhỏ, học tiểu học cũng ở Hà Nội. Còn Nguyễn Bính mới từ Nam Định, Hà Đông lang bạt lên sau. Nhưng dù lên với Thủ đô sớm hay muộn, thì họ đều khổ. Giữa lòng kinh thành gió bụi, cuộc sống của họ nhiều khi rất bấp bênh và chỉ bởi lẽ thế nào cũng sống không tủi với cái nghèo, lại biết nương tựa vào nhau nên mới sống được.
Về đời riêng của Thâm Tâm, ngày nay chúng ta còn biết rất ít. Theo sự ghi nhớ của một ký giả đương thời, thì ông là người “đa bất mãn hoài”. Ông sống rất nghèo, hay phải đi vay tiền trước những chủ báo, chủ xuất bản mà ông viết thuê, để rồi không được thì rất ngượng, rất đau, và càng sinh phẫn.
Trong sáng tác, giữa Trần Huyền Trân và Thâm Tâm có những nét chung. Mặc dù không làm nhiều thơ, Tâm Tâm vẫn tạo được một ấn tượng sâu đậm “gấp” “gắt” (chữ của Hoài Thanh. Thi nhân Việt Nam trong bài Vọng nhân hành. Bài thơ nói tâm trạng chí khí của lớp người đầy phẫn uất, như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân và bạn bè cùng nhóm. Họ “từ tứ chiếng” họp lại. Họ hiểu rằng những lời thơ thống thiết của mình có thể có ích cho xã hội “Rằng đương gió bụi thì tôi tả - Thiên hạ phải dùng thơ chúng ta” Nhưng thời thế đâu đã tới với họ.
Thơ ngâm dở giọng thời chưa thuận
Tan tiệc quân anh, người nuốt giận
Chim nhạn chim hồng rét mướt bay
Vuốt cọp chân voi còn lận đận
Toàn bộ những dằn vặt, những đau đớn này - gắn chặt với Hà Nội. Mở đầu bài thơ đã có nhắc: “Thăng Long đất lớn chí tung hoành - Bàng bạc gương hồ ánh mắt xanh”. ở một đoạn sau, lại láy lại: “Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch - Ta ghét hoài câu nhất khứ hề” Sau hết, hai câu gần cuối cũng rất có không khí.
Ngoài phố mưa bay, xuân bốc rượu
Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê
Thơ Đường cũ có bài Xuân phân, cũng nói tới rượu ở một Hạnh hoa thôn nào đó (Tá vấn tửu gia hà xứ hữu. Mục đồng dao chỉ Hạnh hoa thôn), nhưng trong đó, rượu làm cho người ta say đi. ở Thâm Tâm, hình như thi nhân càng uống càng tỉnh. Chỗ cay đắng tỉnh táo ở đây, có lẽ là do không khí phố xá thành thị chăng? Nếu đúng như thế, thì thành thị (Hà Nội) trong thơ Thâm Tâm đã trở thành một yếu tố mới mẻ, và đáng ghi nhận.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà về sau, Thâm Tâm bước vào hàng ngũ các chiến sĩ Vệ quốc, làm báo rất chăm chỉ và hết lòng, viết từng mục nhỏ, không bao giờ quản ngại.
Cùng nhóm với Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, những năm trước cách mạng, song Nguyễn Bính lại có nét khác. Thơ Nguyễn Bính không có cái phẫn, mà hồn nhiên dễ dàng hơn nhiều.
Nhà em ở cuối kinh thành
Bên hồ Trúc Bạch nước xanh men chàm
Đấy là mấy câu trong bài Gửi chị Trúc, những câu tự nhiên như lời buột ra đầu miệng, nhằm kể với người thân về tình cảnh sống của tác giả lúc ở Hà Nội. Đúng là cảnh sống của những thanh niên nghèo giữa kinh thành hoa lệ. Tuy vậy, “Chàng trai tầm thường trông lại quê quê” này không lấy thế làm xấu hổ.
Nguyễn Bính không phải loại người học đòi, cũng không dễ có những mặc cảm như một số người khác ông vẫn giữ nếp sống như hồi ở các tỉnh nhỏ, ở làng quê. Nghĩa là chỉ biết những say mê của mình, những ý thích của mình, còn không ngượng nghịu về cái nghèo, cái hèn bao giờ. Hà Nội trong ông không gây ra một ngạc nhiên chấn động gì đáng kể, mà chỉ là nơi ông sống, làm việc, yêu đương như các nơi khác.
Cái nhìn của ông đối với Hà Nội nhiều khi thật thản nhiên, như câu thơ nọ.
Sáng nay sau một cơn mưa lớn
Hà Nội bừng lên dưới nắng vàng
Trong sáng tác cũng vậy, Nguyễn Bính cứ “hát những bài hát của mình” về chất thơ, trong khi Trần Huyền Trân “thật hạt” Hà Nội thì Nguyễn Bính rõ ra của chân quê: giống như chàng Exênhin, ông cũng lạc lên thành phố, song tâm hồn vẫn để ở cả mái đình, giếng nước, cái yếm lụa sồi và chỉ diễn tả cái đó mới hay.
Thơ Nguyễn Bính đương thời đã khá được ưa chuộng, theo Tô Hoài nhớ, thì đây là nhà thơ duy nhất sống được bằng nhuận bút (cố nhiên là chỉ sống nghèo); không phải vì thế mà Nguyễn Bính thành thị hoá. Nhà thơ chỉ lang thang ở đây, như có lúc, sẽ lang thang lên Phủ Lạng Thương, Bắc Giang và sau này lăn lóc với tận các tỉnh phía nam.
Bấy giờ, Hà Nội trong Nguyễn Bính chỉ còn mờ mờ ảo ảo, không rõ rệt. Đây là những câu thơ trong bài Một con sông lạnh:
Chưa say, em đã say gì
Chúng tôi còn uống còn nghe em đàn
Rưng rưng ánh nến hoa vàng
Đôi dây nức nở muôn ngàn nhớ thương
Đôi dây như thể đôi đường
Em ơi! Hà Nội là phương hướng nào
(trong tập Hương cố nhân)
Những năm gần cách mạng, trong cơn say phiêu lưu, Nguyễn Bính vào Huế, rồi vào Nam bộ, đi đến đâu cũng giữ hồn thơ chân quê và cách sống không mặc cảm của mình. Sau khi tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, tập kết ra Bắc, trở lại Hà Nội, cũng không có chút đảo lộn gì lắm trong cách nhìn, cách viết, tuy bây giờ bạn bè của ông có đông hơn, không khí văn nghệ sôi nổi, khác hẳn trước kia. Cuối cùng, Nguyễn Bính từ giã Hà Nội cũng giản dị. Ông về Nam Định công tác, chỉ thỉnh thoảng mới lên Hà Nội có việc họp hành, sinh hoạt gì đấy. Trở lại quê hương ở ngoại thành Nam Định, ông có một nếp nhà ấm cúng. Sau thời gian “dan díu với kinh thành”, nay chàng Exênhin mới lại trở về với cái phần cội nguồn, chân chính của thơ mình !
NAM CAO
Cũng tương tự như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, nhà văn Nam Cao vốn không phải gốc Hà Nội. Ông lại lên thủ đô hơi muộn, khi đã có vợ con gia đình, và lên để dạy học, để kiếm sống, chứ không có điều kiện để “rong chơi” như những người viết văn khác. Vợ con Nam Cao vẫn ở nhà quê, ông phải xuống tàu thuỷ về quê luôn. Lại nữa, vùng đất mà ông thông thạo cũng không thật tiêu biểu cho Hà Nội. Từ Thuỵ Chương lên Bưởi không phải phố xá sầm uất, không phải những đại lộ lớn nơi ở của những con người sang trọng, giàu có. Đây là khu vực của những người thợ Ô-mềm (nay là nhà máy bia Hà Nội), Nhà đá, La-pho (nay là Sở trồng hoa và ươm cây), Sở xe điện... là khu vực của dân xôi lúa, khoai ngô luộc gánh xuống bán dưới phố xá.
Trước 1945, từ quãng Bách Thảo trở lên, người ta vẫn tính là ngoại ô. Không phải ngẫu nhiên, cái vùng Hà Nội mà nhân vật Thứ trong Sống mòn cư ngụ thường được miêu tả với những chi tiết gợi nhớ cảnh sống một thị xã, một huyện lị nào đó. Nếu bảo đó là Hà Nội thì đấy là một Hà Nội lầm lụi, xiêu vẹo, nơi rất nhiều nhà lá, và có khi cả phố mới có một cái máy nước lúc nào cũng chen chúc người xếp hàng. Đèn điện chưa có, dù đèn ở ngoài đường. Cuộc sống tối tăm, tẻ nhạt.
Thế nhưng, xét về những ảnh hưởng của đô thị trong tác phẩm của Nam Cao, lại thấy một sự thực ngược lại là Nam Cao rất hiểu Hà Nội, Nam Cao có “đôi mắt” của người dân thành phố trong việc xem xét mọi chuyện.
Khi cần phải miêu tả những người dân ngoại ô, như trong Chuyện người hàng xóm, Nam Cao cho ta thấy một sự thực: Một mặt, họ sống rất cơ cực, quẩn quanh, vớ vẩn, người nọ làm khổ người kia: con đường đi tới của những Tiền, Hiền, Lộc...là con đường rơi vào truỵ lạc, bế tắc, một ít nhân từ tốt bụng giữa họ với nhau, không đủ mang lại cho họ hạnh phúc. Mặt khác, họ vẫn rất yêu vùng đất ngụ cư mà số phận đã đưa họ trôi dạt đến. Lên đây, lên Hà Nội, dẫu sao họ cũng đỡ khổ hơn so với ở nhà quê, nơi người nông dân sống trong tăm tối, bọn địa chủ và các loại hào lý tha hồ hoành hành, nơi dân cùng đinh không sao mở mắt ra nổi.
ở Sống mòn, mỗi khi đề cập tới các tầng lớp dân nghèo thành thị, tác giả cũng trình bày quan niệm tương tự. Một ví dụ tiêu biểu là trường hợp anh chàng Mô, lao công ở cái trường học có Thứ dạy, lấy Hà, một người nghèo khác. Cả Mô và Hà đều hiểu rất rõ ở nhà quê, họ không đào đâu ra tiền để cưới nhau, mà giá có đi vay, thì cũng nặng nợ suốt đời. Chỉ ở cái đất không ai biết họ này, họ mới về với nhau một cách êm thấm. Một nhân vật sang trọng hơn Mô rất nhiều là hiệu trưởng Đích, người đứng ra mở trường tư để sống trên lưng San và Thứ, còn bản thân Đích đi làm công chức ở tỉnh xa; đến cuối Sống mòn, đột nhiên Đích ốm thập tử nhất sinh. Vậy mà Đích vẫn “Tuyên bố” thà chết ở Hà Nội, hơn là về quê. Thì ra, Hà Nội mang lại cho họ một chút tự do mà họ thèm khát, tự do cả trong lúc sống, lẫn trong lúc chết.
Chúng ta đều biết, một số nhà văn lãng mạn, nhất là cánh Tự lực văn đoàn, thường lý tưởng hoá khung cảnh đồng ruộng, thích miêu tả cây đa bến nước, hội làng với những cô gái mắt bồ câu duyên dáng...
Nam Cao không thế. Tuy phải đến sau cách mạng, Nam Cao mới hiểu rõ sức mạnh người nông dân, nhưng ngay ở trước 1945, Nam Cao đã diễn tả họ với những đường nét khoẻ, sắc, như Lão Hạc, Chí Phèo, và nhiều người khác. Có điều, Nam Cao không bao giờ quên chỉ rõ những lạc hậu của nông thôn và sẵn sàng cùng với các nhân vật của mình mơ ước một cuộc sống thoải mái hơn.
Thử nhớ lại những khía cạnh riêng trong cuộc đời Nam Cao để hiểu thêm vai trò của Hà Nội đối với quá trình sáng tác của ông.
Theo những tài liệu đáng tin cậy, thì ông sinh năm 1915 và sau khi học xong thành chung, còn vào Sài Gòn làm ăn một thời, định kiếm một học bổng để đi Pháp cho đến khi đau ốm, mới lại phải quay trở về Bắc, vừa dạy học, vừa viết. Vậy có thể đoán là thời kỳ mà Nam Cao sống kỹ với Hà Nội một chút phải là khoảng 1938-40 trở đi (kỹ nghĩa là không phải chỉ ghé qua, mà có đi về luôn luôn). Nhưng sáng tác ban đầu của ông lại là thơ một thứ thơ mang mầu sắc lãng mạn cuối mùa, như những câu mà một nhà nghiên cứu đã cho công bố trong cuốn chuyên khảo về Nam Cao in 1961.
Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời
Rồi để một chiều theo gió thổi
Bay lên thành những mảng mây trôi
Vậy là quá trình tư tưởng của Nam Cao là quá trình chuyển từ một thứ thơ mơ tưởng hão huyền, sang văn xuôi sắc lạnh nhìn thẳng vào cái phức tạp trăm vẻ của đời sống. Quá trình này xảy ra đồng thời với quá trình ông “vào sâu” Hà Nội, hiểu Hà Nội (cố nhiên là có cộng thêm với cả quá trình ở phiêu lưu tư tưởng từ khi học xong trung học trở đi). Từ quê lên nơi dạy học rồi lại từ đấy về quê, những cảnh ngộ bất chợt gặp trên đường, những lần theo bạn bè ghé qua các tiệm cô đầu, những ngả trở lại với gia đình nghèo khổ, những tác phẩm nước ngoài mới bán ở Hà Nội, những số báo Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san, có bài của mình và của bạn bè... bao nhiêu là ấn tượng dồn nén dần dần, rút cục đã tạo nên một Nam Cao hết sức kỳ lạ. Một mặt, ông vẫn “quê một cục”. Một ký giả đương thời kể là đi ăn với Nam Cao thấy lạ vì một người như tác giả Chí Phèo mà không biết món vây là gì, và hỏi cơm rang đã có lạp xường và trứng rồi thì cần gì phải gọi thêm vây, thịt bò cho thêm tốn.
Nhưng mặt khác, đọc hồi ký về Nam Cao, hoặc theo dõi những truyện Nam Cao viết trong đó, ông đội tên là những Điền, Hộ, Thứ, thấy ông ít nhiều đều đủ những ham muốn như một người. Không làm việc xấu nhưng cái gì cũng nghĩ cả, không xa lạ với cái gì hết. Và càng ngày, cái nhìn của Nam Cao càng trở nên sắc hơn, sắc nhọn trong việc phân tích mình, phân tích hoàn cảnh.
Trong Sống mòn, Nam Cao có nhắc tới một trạng thái tâm lý trở đi trở lại trong Thứ: Nhiều khi, do khó chịu với những người xung quanh, và cảm thấy mình bị lợi dụng quá đáng. Thứ bỏ trường, bỏ Hà Nội để về quê những tưởng có thể tìm thấy ở đấy nhiều thú vị. Nhưng Thứ đã nhầm! Những mè nheo cạnh khoé của những người thân lại làm rơi bao nhiêu nước mắt của Thứ, khiến không ít lần, Thứ phải xách va-li ra đi sớm hơn đã định.
Theo một số bạn bè và người quen cho biết, Nam Cao thường chỉ viết được về những gì có thực trong đời mình, và ở quanh mình (Người ta nói rằng chỉ có một nhân vật được nhà văn kiên trì “bịa” là người vợ. Bà vợ Nam Cao rất hiền, còn trong tác phẩm của nhà văn, người đàn bà thường lại là những nhân vật lắm điều, lắm nhời, hay chì chiết chồng con, v.v...)
Vậy có thể tin rằng cái tình tự nói trên của Thứ, cũng là chuyện xảy ra với chính Nam Cao. Một nhân cách trí thức đã được hình thành, hay do dự, hay hoài nghi “Cái gì đang có cũng chán, cái gì không có cũng thèm” (chữ của Tô Hoài) - Nam Cao 1944-45 không còn là cậu học trò tỉnh lẻ khờ khạo ngây thơ nữa.
Về mặt nghề nghiệp mà xét, có thể thấy Hà Nội là nơi Nam Cao lao vào nghề văn một cách hết lòng, nhiều khi ông đã vượt qua cả những thói quen cố hữu của ông nữa. Chẳng hạn, tuy rụt rè thế, nhưng khi gặp một nhà giàu hào phóng, đọc những Đôi lứa xứng đôi, Dì Hảo, Lão Hạc, đoán người viết ra những truyện đó hẳn... kháu lắm, cho mời Nam Cao xuống Khâm Thiên để “nói chuyện văn chương cho thoả lòng”, Nam Cao cũng đã rủ Tô Hoài đi, tuy là sau đó, hai người rút lui rất nhanh, vì cảm thấy quá lạc lõng (việc này Tô Hoài cũng đã kể lại trong Tự truyện).
Lại đây nữa, trường hợp xảy ra với nhân vật Hộ trong Đời thừa: ở toà báo ra đang mải miết cuốc bộ về nhà đưa tiền cho vợ để còn trả nợ, lấy thuốc cho con, thế mà chỉ nghe đến một quyển sách của người bạn được dịch ra tiếng Anh, thế là Hộ đã quên tất cả mọi chuyện, sẵn sàng rủ mọi người đi uống rượu để moi thêm tin, đúng hơn để có dịp nói cho sướng miệng: nói rằng quyển sách kia đâu đã phải là kiệt tác, mình đây, mình mới có khả năng viết ra những quyển sách có giá trị thực sự, v.v... Ai đã là người viết, hẳn rất dễ thông cảm những phút bốc đồng như thế này! Chính bởi vậy, chúng ta dự đoán dù điều ấy không có thực với chính Nam Cao đi nữa, thì cũng đã đến với nhà văn trong ý nghĩ.
Với Hà Nội, Nam Cao đã sống trọn mọi vui buồn của một người viết. Cùng với Hà Nội, Nam Cao không bao giờ dừng lại ở những thành công tầm thường mà bao giờ cũng xác định cho mình những lý tưởng nghề nghiệp cao cả. Như cái ý nghĩ của nhân vật Hộ trong Đời thừa về một tác phẩm có giá trị “Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”.
Nam Cao thật đã hội đủ những điều kiện để trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ 1930-1945.
TÔ HOÀI
Không kể thời gian kháng chiến chống Pháp và không kể những đợt đi công tác ngắn ngày, thì từ nhỏ đến giờ, Tô Hoài luôn luôn sống ở Thủ đô. Tính đến đầu 1985, ông từng viết 43 cuốn sách về Hà Nội. Ngoài sáng tác văn học, có lúc ông còn trực tiếp làm công tác đường phố. Tô Hoài là chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Những chi tiết ấy nhiều người đã biết, cũng như phần lớn chúng ta đã biết hai chữ Tô Hoài là do Tô Lịch và Hoài Đức ghép lại. Một người như Tô Hoài mà có viết nhiều về Hà Nội là chuyện đương nhiên! Giữa Thủ đô và một đời như đời văn của Tô Hoài, quả là có một mối quan hệ đặc biệt.
Tô Hoài hay kể: ông đến với nghề văn một cách rất giản dị, và bước đầu vào nghề, không thấy có gì mới lạ hơn, so với những nghề khác, như nghề bán giày ở một đại lý cho hãng Bata hay nghề dạy trẻ học mà bạn bè ông thường làm. Đại khái một lần, đi phủ hộ đê, thấy cảnh canh đê, “trống giục trống dồn”, “người lớn và trẻ con rúc ráy bên vệ cỏ” Tô Hoài liền viết truyện Nước lên gửi đăng ở Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan.
Nếu có thể nói vào nghề, có nghĩa là viết truyện in ra được trả tiền cẩn thận thì Tô Hoài vào nghề bằng truyện ấy. Có điều, khi đến với nó, ông vẫn có được sự bình thản, không cuống lên vì hoang tưởng, không quá choáng ngợp.
ở đây, có những lý do thuộc về cá tính riêng của Tô Hoài. Nhưng một phần quan trọng khác cũng là do hoàn cảnh. Ông lớn lên và đi học ở quê ngoại vùng Nghĩa Đô. Từ nhỏ, không những đã quen với Kiều, ca dao, mà còn quen với Tứ dân văn uyển, Văn đàn bảo giám, và các loại truyện dịch Chinh đông Chinh tây, Tam hạ nam đường... Dù là gia đình chỉ làm nghề thủ công, nhưng bước vào tuổi thanh niên, Tô Hoài cảm thấy không có gì xa lạ với mọi tờ báo ở Hà Nội, và Sài Gòn lúc ấy: Nước non, Cậu ấm, Mới, Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy.
Mới hai mươi mốt tuổi, ông đã viết câu chuyện nổi tiếng về chú Dế Mèn, trong đó cảnh bờ sông Tô Lịch với những vườn nhãn, ao chuôm, con gà ri, đôi chuột bạch... là những khung cảnh gần với ông ở làng Nghĩa Đô của ông. Cả tư tưởng của một chàng thanh niên mới lớn lên, thích sống độc lập lại cũng thích phiêu lưu như ông diễn tả trong Dế mèn... đều là tư tưởng bao trùm trong nhiều thanh niên thời kỳ 1940-41.
Tô Hoài lại sớm viết hồi ký. Trong tập Cỏ dại in ra từ 1944, ông lấy chuyện gia đình, họ hàng mình để kể. Gần đây (1978). Tô Hoài có tập Tự truyện, kể lại những bước đường tư tưởng của mình khi mới đến với nghề văn.
Óc quan sát tinh tế và tỉ mỉ đã giúp cho Tô Hoài nhớ và ghi được nhiều chi tiết về cuộc sống ở Hà Nội. Ông đính chính hộ nhiều người những cái nhầm lẫn, vì như nhiều người cứ nghĩ chung quanh Hồ Gươm: nhiều liễu, hoá ra bây giờ còn mỗi một cây, v.v. Ông lại giúp cho chúng ta tự tìm hiểu thêm về những địa điểm trong sinh hoạt thành phố (chẳng hạn, tại sao gọi là Vườn hoa canh nông?). Rồi, nguồn gốc nem cuốn ở đâu? Nghề làm giấy ở Bưởi đòi hỏi người thợ thủ công trước đây phải khéo léo, vất vả thế nào?
Xét về thời gian lịch sử, ta thấy Hà Nội đã được Tô Hoài theo dõi liên tục, từ khi Pháp mới sang (Quê nhà) cho tới những năm ba mươi, bốn mươi và kết thúc bằng Cách mạng tháng Tám (Mười năm). Đó là phần ngoại thành, vùng Nghĩa Đô, Bưởi và quá lên vùng Cầu Giấy, Từ Liêm, Hoài Đức, Tô Hoài rất quen.
Về nội thành, những xóm rác ven hồ Bảy Mẫu cũ, đầu hoà bình lập lại được ông phác qua trong Những ngõ phố và một số nét sinh hoạt Hà Nội hồi đánh B52 được ông vẽ nên trong Người đường phố (cả hai tiểu thuyết đều được in ra 1980)
Viết về ngoại thành, ngòi bút ông lui tới một cách thoải mái đã đành. Ngay viết về nội thành, Tô Hoài vẫn rất ung dung. Ông không hay tả Hà Nội nhà cao cửa rộng. Trước cách mạng, khu nội thành được ông miêu tả như một nơi không thiếu gì chuyện nhảm nhí, nơi có nhiều nhân vật rất kỳ cục, nào me tây, nào nặc nô hiệu cầm đồ, đủ thứ. Từ 1954 đến nay, bà con hàng phố sống với nhau gần gũi, đầm ấm như người trong một gia đình. Thành phố nhấp nhô những dãy nhà một tầng thấp, bên trong mỗi nhà xanh lên những giàn hoa lý, cây cảnh, cây, cây hoa mộc trong chậu.
Thành phố với những mái lợp phi-brô xi măng trắng, hay những miếng giấy dầu đen nhoáng, cạnh cửa sổ vải hoa treo dò phong lan tai trâu xanh dày... Đấy là Tô Hoài trực tiếp tả. Một đoạn khác (trong Người đường phố) ông còn để cho một nhân vật nói thẳng:
- Kẻ chợ mà đủ phố Hàng Bừa, Hàng Bún, Hàng Mụn, Lò Rèn... tức là cái gốc nhà quê rõ rồi.
Cái gốc nhà quê này của Hà Nội không làm cho nhân vật khó chịu. Trái lại, họ nói thế, dễ dàng thấy gần với Hà Nội hơn, cái Hà Nội là của mình, và cùng với tác giả, tìm ra vẻ đẹp của phố xá.
Nhân vật chính trong bút ký Nhớ quê của Tô Hoài là một thanh niên Hà Nội đứng vào đội quân Nam tiến, và nghĩ trong lúc này: “Chúng ta còn ở Hà Nội làm gì?”
Trong tiểu thuyết Những ngõ phố, người đọc lại bắt gặp một trường hợp khác, một gái nhảy của Hà Nội cũ, nay đi tham gia xây dựng các công trường ở miền Tây Tổ quốc, và nghĩ rằng phải đi xa, cái tình của mình với Hà Nội mới trọn vẹn.
Bản thân Tô Hoài cũng vậy. Chúng ta đã nói bao giờ “hộ khẩu chính” của ông cũng là Thủ đô, nhưng từ trước cách mạng ông đã có nhiều chuyến giang hồ vặt, đi khá xa, tận Huế, Sài Gòn. Bây giờ, ông còn bay đi xa hơn. Ngoài Hà Nội, ông còn một vùng quê nữa để viết là các tỉnh miền núi Tây Bắc, Việt Bắc. Hai cái chất thật đối lập nhau, Hà Nội và núi rừng. Nhưng với Tô Hoài, hai nơi đó đều gần gũi tự nhiên, như đâu cũng là quê ông. Thành thử lại có thể nói về phương diện nữa của chất Hà Nội trong Tô Hoài: Khả năng thích ứng mạnh mẽ. Có cảm tưởng đi đâu ngòi bút ông cũng hoạt động được. Tô Hoài thật đã giống như bao nhiêu người có thời gian ở Hà Nội rồi, thì đi đâu cũng khéo gây dựng cơ nghiệp, sắp xếp nhà cửa, khiến cho cuộc sống mình được nên cơ ngũ, gia đình mình trở thành có nền nếp.
Bao nhiêu người Hà Nội, sau những năm kháng chiến ở lại Việt Bắc, hay Nam Định, Thanh Hoá đã sống như thế. Lại bao nhiêu gia đình ngoại thành Hà Nội, đi xây dựng miền núi, những năm sau 1954, đã sống như thế.
Chúng ta vừa nói Tô Hoài đến với nghề một cách bình thản. Nhưng sau khi đã có một quan niệm sòng phẳng thế rồi, nghề văn ở Tô Hoài lại được nhìn nhận khá tỉ mỉ. Nói đây là chuyện để cả đời người ta làm, cũng không phải quá đáng. Từ chuyện lẩn mẩn người ta ăn, người ta mặc thế nào, đến chuyện suy nghĩ tư tưởng một thời... đều phải lắng nghe, để mắt tới. Lúc nào cũng lo tích luỹ, nhặt nhạnh. Và viết, viết rất đều tay, không chờ cảm hứng, không viết theo những cơn nóng lạnh bất thần. Chẳng hạn ai đã làm nghề văn đều biết, gọi chung là viết, nhưng công việc rải ra đủ thứ, người chuyên viết ngắn, người chuyên viết dài, người chỉ sáng tác cho người lớn đọc, người thâm canh ở khu vực viết cho thiếu nhi. Thậm chí, nói đến cùng, cũng phải thấy là trong nghề người ta hay có thành kiến: Việc này người mới vào nghề mới đáng làm, người lâu năm trong nghề không nên làm. Việc này dở, việc kia mới sang trọng v.v...
Tô Hoài không thế, ông viết đủ thứ, miễn thấy cần làm là làm, không chọn việc. Đấy chính là một đặc điểm của ngòi bút Tô Hoài, nó khiến cho nhiều người nhìn ông phải khâm phục.
Nói cho đúng ra, trong cái việc mà chúng ta gọi một cách quy ước là “làm nghề” chăm chỉ, thành thạo, ở Tô Hoài không phải chỉ có sự đều tay, sự chuyên cần, mà còn có cái mau mắn duyên dáng, nó khiến cho ông cả khi viết những tiểu thuyết dài lẫn những bài báo ngắn đều có được cái giọng riêng. Những khi phải tả Hà Nội, Tô Hoài vừa có cái kỹ lưỡng từ trong nói ra, lại có cái tươi mới như vừa gặp vừa thấy.
Sở dĩ như vậy, theo tôi, một phần do trước sau Tô Hoài vẫn giữ được cái hóm, cái nghịch cần thiết cho những “Người ven thành” luôn luôn phải đi lên thành phố để làm đủ các loại việc, rồi ít ngày sau, lại bỏ đấy, bắt sang những công việc khác, mà lúc nào cũng giữ được cái thế của người đứng ngoài, đứng hơi xa một chút, để nhận xét cho thấu đáo, lên thành phố, những người này phải rất hoạt bát để bán được hàng, tìm được việc, mà lại khỏi bị những người hàng phố lừa. Và lên đấy phải nghe ngóng, tích luỹ, phải có nhiều điều tai nghe mắt thấy, để về còn kể cho bà con hàng xóm, hoặc con cháu trong nhà. Bởi vậy, nên cái chân dung thành phố do những con người này vẽ nên bao giờ cũng tươi mới, giàu chi tiết, kích thích sự tò mò của người khác.
Trong cuốn Người đường phố trên kia đã nhắc (cũng như trong nhiều tập sách khác, trong đó có Chuyện cũ Hà Nội) Tô Hoài kể ra một số vùng ngoại ô với những nghề nghiệp cha truyền con nối, lên làm ăn ở thành phố. Cổ Nhuế, thợ may, hàng thầu; Thủ Lệ, giặt là; Lai Xá, thợ ảnh; Thanh Nhàn, cắt tóc; Thuỵ Khuê, xôi lúa, quà vặt v.v... và v.v... Quả ngoại ô Hà Nội là một “thế giới” phong phú. Trong “thế giới” đó, cũng có sự phân công lao động rất tỉ mỉ, khiến cho từng người làm nghề trở thành những người nghệ sĩ tài hoa và hết lòng với nghề, được mọi người kính trọng. Từ các làng xóm chung quanh nội thành, người đi viết văn, viết báo xưa nay không phải ít, nếu kể ra các vùng quê mới cắt từ Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông để nhập vào Hà Nội, thì số tác giả của Thủ đô thật là nhiều. Song có lẽ chỉ có Tô Hoài là mang được cái chất riêng của vùng đất mà mình đã từ đó trưởng thành. Và giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời cầm bút.
VanVN.Net - Trước, chúng ta cứ coi những Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Thụy Kha, Ngô Vĩnh Bình, Văn Chinh…là những “phóng viên văn học” với ý nghĩa là họ chuyên theo dõi / phản ánh các diễn biến chính nền văn học và văn nhân của nó trên các tờ báo mà họ tòng sự. Nhưng thực ra, Vương Trí Nhàn mới là người xứng đáng đứng đầu danh sách ấy, ở người này, với quá trình nghiên cứu tìm hỏi và ghi chép công phu, còn xứng đáng là một sử quan của đời sống văn học. Những quan sát “gần” để viết ra những nhếch nhác của ông từng gây nên những sóng gió, có lẽ do tập quán dân chủ ở xứ ta còn là quá độ, nhà văn mới chỉ quen với việc viết ra cái xấu xí của thế gian và có một thứ lệ bất thành văn là bảo nhau cùng che khuất cho nhau cái cần che khuất đi mà lại nhân danh lòng nhân ái? Chùm bài viết về mảng văn nhân tiền chiến ở Hà Nội của Vương Trí Nhàn mà vanvn.net giới thiệu sau đây có thể giúp bạn đọc hình dung lại một thời, giúp hiểu thêm cái môi trường mà từ đó các nhân vật văn học đến với chúng ta…
Vương Trí Nhàn
Từ 1945 về trước, Hà Nội đã là một trung tâm văn hoá lớn, nơi sinh hoạt văn học luôn luôn sôi nổi, mà cũng là nơi có nhiều cơ quan báo chí và xuất bản có uy tín. Bởi vậy, đời văn của nhiều cây bút nổi tiếng đều gắn bó với Hà Nội. Sau đây là một số ví dụ. Trong khi nêu ra ảnh hưởng của sinh hoạt văn học ở thủ đô với quá trình vào nghề của các nhà văn này, trong một số trường hợp có thể, chúng tôi cũng phác hoạ thêm những khía cạnh ảnh hưởng của Hà Nội, trong đời văn của họ những năm gần đây (từ 1954 trở đi).
HOÀNG NGỌC PHÁCH
Mỗi khi nghe nhắc Tố Tâm, chúng ta nhớ tới một thời đã lâu lắm, thời của Quả dưa đỏ, giải thưởng Khai trí Tiến Đức, thời của những Trần ai tri kỷ, Đài gương của Tản Đà, thời thơ Tương Phố, và Kim sinh luỵ, Bút quan hoài của Trần Tuấn Khải.
Sự thực, tác giả Tố Tâm mới mất năm 1973, và trước đó, những năm năm mươi, sáu mươi, ông vẫn đứng tên chung với Lê Thước, Trương Chính trong một số công trình nghiên cứu. Ông sinh năm 1896, tức là sau Tản Đà 8 năm, sau Ngô Tất Tố 2 năm, trước Tú Mỡ 4 năm, Nguyễn Công Hoan 7 năm. Khi ra số đặc biệt Các nhà văn Việt Nam (1982), trong mục (Các nhà văn đã quá cố), báo Văn Nghệ đã ghi tên Hoàng Ngọc Phách, có lẽ vì những lý do đó.
ở đây, chúng ta sẽ nói thêm: Hoàng Ngọc Phách cũng chính là một trong những nhà văn Việt Nam hôm nay mà sự nghiệp sáng tác gắn với Hà Nội, do ở Hà Nội mà viết, và ban đầu cũng viết ngay về những nét sinh hoạt của Hà Nội.
Nguyên ông vốn người Đức Thọ, Hà Tĩnh. Nhưng ngay từ khi mười ba tuổi, tóc còn để chỏm đào, đã ra Hà Nội, học ở một trường tư thục thuộc ấp Thái Hà sau đó, học tiểu học ở trường Hàng Vôi (nơi đã đào tạo ra Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng, Vũ Đình Liên, v.v...) rồi học trường Bưởi bốn năm. Thời thanh niên của Hoàng Ngọc Phách gắn liền với những kỷ niệm về các trường học này của Hà Nội, cũng như ở trường Cao đẳng Sư phạm về sau. Trong Tố Tâm, có đoạn nhìn ra Hồ Tây, nhân vật Đạm Thuỷ tự kể:
- Tôi nhớ khi còn học trường Bưởi bên cạnh hồ này, mấy anh em ra đứng bờ hồ, ném thia lia, thả thuyền giấy, chơi đùa hớn hở, phong cách xem như bỡn cợt với mình.
Trong khi đi học, Hoàng Ngọc Phách đã sống đúng như thế.
Thời gian học trường Bưởi, Hoàng Ngọc Phách phần nhiều làm thơ, theo các thể thơ cổ. Khi lên Cao đẳng Sư phạm, ông mới viết văn xuôi. Tuy vậy, Tố Tâm, đứa con một của tác giả trong lĩnh vực tiểu thuyết, là một thành công đáng kể. Tác phẩm trở thành cái mốc trong lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX. Trong dịp trả lời một nhà báo đến phỏng vấn, Hoàng Ngọc Phách giải thích một cách giản dị, đại ý nói sở dĩ tiểu thuyết được hoan nghênh (trước 1945 đã in cả thảy bốn lần), vì lúc ấy dân mình “đang cần một cuốn tiểu thuyết như thế”. Điều đó nói lên rằng ông đã nắm bắt rất trúng “khí hậu” văn học đương thời, nhất là những đòi hỏi của thanh niên.
Nhìn lại nội dung tập sách, có điều lý thú là các nhân vật chính trong Tố Tâm đều mang cốt cách Hà Nội khá rõ. Quê họ ở đâu không biết, nhưng họ lớn lên ở đây, và sống với không khí chung quanh một cách rất hoà hợp. Năm 1973, trong bài viết nhân dịp Hoàng Ngọc Phách qua đời, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cho biết:
“Những nhân vật trong Tố Tâm đều phảng phất giống những thanh niên Hà Nội năm xưa ấy. Tố Tâm “nền” lắm. Cô là con nhà gia giáo, nên bao giờ cũng đi xe sắt - tức xe kéo bánh sắt - chứ không bao giờ đi xe cao su như bọn me tây. Cô rất diện nhưng cũng chỉ diện tới mức bịt khăn lụa đen, thứ khăn mốt nhất thời bấy giờ”.
Đây có lẽ là một trong những lần ít ỏi hình ảnh con người Hà Nội được miêu tả kỹ đến như thế!
Trường hợp Hoàng Ngọc Phách và Tố Tâm chứng tỏ một hiện tượng xã hội có thực hồi đầu thế kỷ này: Đó là sự tập trung của giới trí thức mới chung quanh Hà Nội. Dù là của những tỉnh rất xa, khi đã ra đây, họ nhập vào không khí sinh hoạt chung. Và cái mà họ miêu tả trong tác phẩm của mình, ban đầu thường là những sinh hoạt của Hà Nội. Cuộc sống bấy giờ có cái phía ổn định của nó, và khi bắt gặp hình ảnh đời sống quanh mình trong tác phẩm, người ta hoan nghênh thì cũng là chuyện thường tình.
Sau Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách không viết tiểu thuyết nữa, các hoạt động khác như dạy học, khảo cứu đã lôi cuốn ông.
NGUYỄN CÔNG HOAN
Với tư cách tác giả tiểu thuyết Bước đường cùng và nhiều truyện ngắn ghi lại tình cảnh bần cùng của người nông dân Việt Nam trước 1945 như Thịt người chết, Chiếc quan tài, Đi giày, Công dụng của cái miệng v.v... Nguyễn Công Hoan có vẻ như một tác giả của nông thôn. Các tài liệu nghiên cứu cũng thường nhấn mạnh ông từng dạy học ở nhiều vùng thuộc các tỉnh xa: ở Kinh Môn, ở Trà Cổ, ở Lào Cai, Thái Bình, v.v...
Nhưng chính Nguyễn Công Hoan đã học ở trường Bưởi Hà Nội từ khi chưa đầy mười tuổi. Ông còn nhớ rất rành mạch cuộc sống khi nội trú trong trường, khi ra trọ ở Hàng Hài (phố Hàng Bông hiện nay)... Nói chung nhiều mặt đời sống Hà Nội những năm ấy, còn được ghi lại trong các tập Đời viết văn của tôi, Nhớ và ghi. Nào là vụ dịch tả ở Hà Nội hè 1914; nào cảnh người ngoài phố giàu có bấy giờ còn đi xe ngựa song mã, độc mã, các thày giáo ở trường Bưởi còn đội khăn, đi giày ta, bít tất trắng. Nào những hiệu bán sách vở giấy bút, nào hiệu cho thuê xe đạp để tập, v.v... Chúng ta có thể nhận xét tuy còn nhỏ tuổi, nhưng cậu học sinh này rất hóm, nghịch, hay tò mò để ý mọi chuyện, và hay phá quy tắc “vượt rào” làm chuyện ngược đời. Mặt khác, từ nhỏ, Nguyễn Công Hoan đã quen với nhân tình thế thái người phường phố, thành thạo sự đời, và chả coi cái gì làm quan trọng. Đấy là những đặc tính ăn sâu vào cách nhìn của ông trước đời sống. Thành thử, tuy không phải bao giờ cũng trực tiếp đả động đến chuyện Hà Nội, nhưng trong cái nhìn của ông, chất Hà Nội rất rõ.
Không bao giờ ông tỏ ra ngây thơ dại dột mắc lừa người khác. Dân con buôn Hà Nội có định “chơi” ông thì ông “chơi lại, chứ không kém cạnh” (chữ của Nguyễn Công Hoan trong Đời viết văn của tôi).
Cũng chính là ở Hà Nội, mà Nguyễn Công Hoan làm quen với những người viết văn, viết báo đương thời, và sống trong giới những người làm nghề này một cách thoải mái. Nguyễn Công Hoan kể: Do trọ học ở Hàng Hài, mà ông sớm làm quen với Tản Đà. “Ông Tản Đà thấy tôi khôi ngô, lanh lợi, nên tuy tôi ít tuổi hơn ông nhiều, nhưng ông không coi tôi như trẻ con”. Mối giao tình giữa Nguyễn Công Hoan và Tản Đà kéo rất dài, đến nỗi, sau này, có người ngạc nhiên, tại sao một người trữ tình duyên dáng như Tản Đà, lại rất thân với một người bông phèng, tinh quái như Nguyễn Công Hoan. Và người ta bảo tác giả Bước đường cùng là một thứ “quái thai” của tác giả Khối tình con (!). Có điều là dù bông phèng thế nào, bao giờ Nguyễn Công Hoan cũng dành cho Tản Đà những dòng rất trân trọng.
Nguyễn Công Hoan còn gặp gỡ nhiều nhân vật có tiếng khác hồi ấy, như Mâu Châu Nguyễn Mạnh Bổng, Ngẫu Trì Trịnh Đình Rư và nhiều người khác. “Tôi thích đến chơi với các nhà văn ấy. Tôi coi họ như các anh. Họ cũng coi tôi như em nhỏ. Tôi đến với họ, chỉ để nghe chuyện hơn là để góp chuyện... Nhiều lần trí tò mò của tôi được thoả mãn. Họ rất tinh quái. Những buổi đến với họ, dù ngồi đến khuya, tôi cũng không tiếc thì giờ, khi về còn lấy làm khoan khoái”.
Nguyễn Công Hoan thường bảo mình viết văn do năng khiếu và người ta nói chung viết được là do trời sinh ra, không có bài bản nào sẵn, không có trường sở nào dậy được. Nhưng chẳng phải cái môi trường trong đó có Tản Đà và những người vừa kể đã thúc đẩy ông đến với nghề văn một cách mạnh mẽ?
Về sau, dù đi dạy học ở xa, Nguyễn Công Hoan thường vẫn gắn bó với đời sống văn học Hà Nội. Ông biết tường tận xu hướng cách làm ăn của từng tờ báo. Có khi nghỉ hè, ông về Hà Nội để trông nom báo giúp bè bạn, như giúp Đỗ Văn trông nom tờ Nhật Tân hoặc bàn với Tản Đà việc tái bản An Nam tạp chí. Nơi Nguyễn Công Hoan gắn bó nhiều hơn cả là nhà Tân Dân. Vũ Đình Long là chỗ quen biết với ông từ hồi đi học, khi bắt đầu ra Tiểu thuyết thứ bẩy, có bàn kỹ với Nguyễn Công Hoan. Nhiều tác phẩm của ông đã in ở đấy.
Thế còn sáng tác? Trên đây, chúng ta đã nói Hà Nội mang lại cho ông một cái nhìn. Do những thành thạo của người “kẻ chợ”, đi nhiều biết nhiều, ông không bao giờ rơi vào lý tưởng hoá cảnh điền viên ở nông thôn như một số nhà văn lãng mạn thường làm.
Mặt khác, ông vẫn viết nhiều về chính “chốn thị thành”. Vốn liếng của tác giả khá phong phú. Chính ta có thể lọc ra ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan những chi tiết liên quan đến nhiều lớp người.
- Phu xe, nhà thổ nghèo không có cả chỗ hành nghề (Người ngựa và ngựa người); các loại ăn mày, ăn cắp bất đắc dĩ (Bữa no đòn,Cái vốn để sinh nhai; dân đi ở ngu ngơ bị cả chủ lừa (Thằng Quýt).
- Các loại me tây hoặc lưu manh mới nẩy nòi làm giàu, học đòi: Báo hiếu trả nghĩa cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Cô Kều gái tân thời.
Ngoài ra, Nguyễn Công Hoan còn miêu tả cảnh đào kép ở các rạp hát rẻ tiền hoặc lớp công chức nhỉnh hơn một chút (Tôi cũng không hiểu tại làm sao v.v...) Như tác giả kể trong Đời viết văn của tôi, truyện Đào kép mới được viết khi ông đang ở Nam Định, nhưng nhiều chi tiết lại lấy ở hai rạp tuồng Năm Chấn và Thông Sang ở Hà Nội mà Nguyễn Công Hoan quen từ thuở nhỏ. Hà Nội đã cung cấp một kho vốn sống vô tận, tác giả còn dùng đến nó trong nhiều năm về sau.
NGÔ TẤT TỐ
Khi Tản Đà mất (1939, Nguyễn Công Hoan có viết một bài kể chuyện những lần gặp Tản Đà, trong đó có một lần gặp ngay ở báo quán của nhà thơ, khi ông đang phải dúm dùm chèo chống An nam tạp chí. Cảnh sống của Tản Đà thật eo hẹp: “Tôi buồn ngủ phải nằm ghé vào bàn đèn thuốc phiện bày ở phản cạnh bàn làm việc của ông mà giấy má, muối, vỏ trứng, bụi hoả lò bừa bãi”.
Nhưng đó cũng là cảnh sống của nhiều nhà báo khác ở Hà Nội những năm ấy, chẳng hạn như Ngô Tất Tố. Từ quê hương ở Lộc Hà (trước thuộc Từ Sơn Bắc Ninh, nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội) ra thủ đô, thậm chí vào lục tỉnh Sài Gòn làm báo. Ngô Tất Tố vẫn giữ cốt cách một nhà nho nghèo. Một đồng nghiệp cũ của ông mô tả ông đầu xứ này thường ăn vận như một kẻ thất thế: “chiếc áo the đã sờn, chiếc khăn xếp không có tuổi, cây ô đen tương đối, đôi giầy trăng trắng gọi là...” Nơi báo quán Ngô Tất Tố làm việc cũng là nơi những anh Dậu, chị Dậu ở quê hương ông đến than thở một vài điều oan ức, vay một hào, hoặc nhờ xem lại ít chữ nghĩa trong các đơn kiện. Nghĩa là tuy ở Thủ đô, Ngô Tất Tố vẫn liền lặn với quê hương ông trong tình cảm, công việc; ông như một thứ đại sứ đặc biệt sống ở giữa Hà thành này để phát ngôn hộ cho những người nông dân nghèo khổ.
Lại nói tiếp chuyện ăn ở của giới những người cầm bút lúc ấy. Một nhà báo đương thời kể họ thường trải chiếu nằm sàn gác với nhau. ăn uống thì nhờ cả ở một hàng cơm nào đấy, ăn xong lại về bàn công việc. Và bàn xong, bắt tay vào viết luôn. Nghĩa là sống suốt ngày với tờ báo của mình. Những người có gia đình ở Hà Nội còn thế, nữa là những người lên đây lúc đầu có một mình như Ngô Tất Tố. Với ông, sống ở Hà Nội có nghĩa là sống để mà viết.
Cho mãi tới 1946, theo trí nhớ của Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố còn hiện ra như một ông già tóc ngắn hoa râm, áo dài khăn xếp, v.v... Về đường ăn mặc, Ngô Tất Tố bao giờ cũng vẫn là chính mình, không mấy thay đổi. Một tờ báo đương thời giễu ông “suốt đời không biết ăn kem Bờ Hồ”.
Nhìn bề ngoài, người ta dễ lẫn ông với một ít ông đồ già lạc lõng giữa Hà Nội “kinh thành hoa lệ”, mà Vũ Đình Liên từng phác ra trong một bài thơ nổi tiếng, từ năm 1936.
Thế nhưng, trong việc vận dụng ngòi bút để vạch mặt chỉ tên những truyện ngang trái của xã hội thực dân và phong kiến trên báo chí hàng ngày, thì Ngô Tất Tố không chịu kém ai. Từ 1942, trong Nhà văn hiện đại (quyển ba) Vũ Ngọc Phan sau khi bảo rằng “ông là một tay kỳ cựu trong làng văn, làng báo Việt Nam”, thuộc vào loại “những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu tây và được người ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán, có tư tưởng mới”, còn nói rõ thêm:
... “Về đường văn nghệ, ông đã theo kịp cả những nhà văn thuộc phía tân học xuất sắc nhất”.
“Ngô Tất Tố là một nhà nho mà đã viết được những thiên phóng sự, những thiên tiểu thuyết theo nghệ thuật Tây phương và ông đã viết bằng một ngòi bút đanh thép, khiến cho người tân học phải khen ngợi”.
Chắc chắn rằng chỉ lên “góp mặt với đời” trên Hà Nội, ngòi bút của Ngô Tất Tố mới có những bước chuyển rõ rệt như vậy.
Theo Nguyễn Đức Bính kể, Ngô Tất Tố là loại nhà báo chỉ đi bộ từ nhà đến toà soạn - lúc này, đâu ông đã có một hiệu thuốc ở đường Sinh Từ, phố Nguyễn Khuyến hiện nay(1) - nhưng có thể viết đủ chuyện năm châu bốn bể trên mặt báo. Công phu tu luyện để có thể đạt tới một trình độ như thế, chắc phải lớn lắm.
Thế Ngô Tất Tố - nhà văn, nhà báo - có viết gì về Hà Nội không? Dĩ nhiên là có. Trong các tiểu phẩm của ông, in lại trong Ngô Tất Tố tác phẩm, tập 1, chúng ta bắt gặp những đoạn ông chửi bọn đồng cốt lừa bịp ở đền Hàng Trống, hoặc có cả một phóng sự ngắn mang tên Dao cầu thuyền tán, tố cáo các loại lang băm. Đối với bọn văn sĩ tư sản dùng ngòi bút để xúi giục người ta đi vào con đường hư hỏng kiểu “vui vẻ trẻ trung”, Ngô Tất Tố cũng có những đòn đả kích thậm tệ. Nói chung, trong các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, đời sống Hà Nội hiện ra như một thứ kẻ chợ lộn xộn, ồn ào, phồn vinh giả tạo, một nhà nào như ông thấy rất chướng tai gai mắt (tuy nhiên, trong hoàn cảnh lúc ấy, ở nông thôn thì đời sống cũng rất đen tối!. Chỉ riêng trong Lều chõng, chúng ta thấy Hà Nội hiện lên với nhiều nét đẹp, người Hà Nội từ những cô hàng bán giấy bút, cho đến ông chủ quán trọ cũng đều hết sức tài hoa, lịch thiệp. Lều chõng thường vẫn được mô tả như là một tác phẩm có những nét tự truyện. Bởi vậy, với Lều chõng, có thể nói Ngô Tất Tố đã ghi nhận một phần những ảnh hưởng mà Hà Nội để lại trong cuộc đời những kẻ sĩ tương tự như ông. Bấy giờ mức độ xâm nhập của văn minh Tây Âu vào xã hội Việt Nam còn là hạn chế. Hà Nội chưa có vẻ sầm uất với nhiều nét sinh hoạt thị dân rõ rệt như sau này. Nhưng lên Hà Nội, lớp học trò như Đào Vân Hạc vẫn cảm thấy có gì thật thoải mái, họ dễ dàng tìm được chút tự do lặt vặt như xuống xóm cô đầu... cô đầu lúc ấy còn là một thú chơi thanh nhã hoặc thăm thú các nơi. Điều có ý nghĩa quan trọng hơn: Lên đây, những kẻ gọi là nhân tài các tỉnh có dịp trò chuyện, “đấu” với nhau để tự kiểm tra sức học, trình độ năng lực của mình. Riêng với Đào Vân Hạc, thì trong những dịp thi cử, chàng cảm thấy cái vô nghĩa của con đường hoan lộ mà việc học đã mở ra và chàng cả quyết sống theo lối ở ẩn giữa đời. Đấy cũng là những kết luận mà chỉ những kẻ sĩ tương đối từng trải mới có được.
Tóm lại, Lều chõng đã cho chúng ta thấy chân dung tinh thần Ngô Tất Tố như một nhà nho, để rồi từ đó ta phải hình dung ra thêm Ngô Tất Tố... nhà văn, nhà báo. Tuy nhiên, đối với quá trình tư tưởng của ông trong cả hai chặng đường này, Hà Nội vẫn có một vai trò không gì thay thế được.
THẠCH LAM
Trong số những phố phường cũ ở Hà Nội, phố Hàng Bạc thật có duyên với văn học: Nguyễn Tuân, Thạch Lam đều sinh ở đấy; Vũ Trọng Phụng đã sống ở đấy nhiều năm. Trong văn chương, Nguyễn Tuân không tả cụ thể Hàng Bạc nhưng như sau đây chúng ta sẽ thấy, ông thường tả rất kỹ khu trung tâm thành phố, chung quanh hồ Hoàn Kiếm. Vũ Trọng Phụng cũng thường nhắc tới trong các phóng sự tiểu thuyết của mình cảnh ăn chơi của những Tạ Hiền, Sầm Công, Hàng Buồm cách Hàng Bạc không xa. Riêng Thạch Lam có khác. Thuở nhỏ, ông theo gia đình về ở mãi cái huyện xa vùng Hải Dương (Cẩm Giàng) và Thái Bình (Tân Đệ), sau mới về học ở Hà Nội và ra làm báo. Lúc này, gia đình ông khi thì ở Hàng Bún, khi lên Yên Phụ. Có điều trong văn Thạch Lam, khu vực từ Đồng Xuân tới Bờ Hồ vẫn rất quen thuộc; nhân vật Hiệp trong Cô áo lụa hồng (tập Gió đầu mùa) từng mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá” đi dạo đủ các phố Hàng Ngang, Hàng Đường, Chợ Đồng Xuân, Hàng Lược... Và quan trọng nhất là cái cốt cách ra cảm thấy trong văn Thạch Lam. Đó là một giọng văn bình dị mà lại tinh tế, như người Hà Nội từng trải thanh lịch, tiếng nói Hà Nội dễ dàng, sang trọng. Nói Thạch Lam là một trong những nhà văn Hà Nội tiêu biểu, chính bởi những lý do đó.
Theo Thanh Tịnh kể lại, thì bề ngoài Thạch Lam dáng cao cao, thân hình mảnh khảnh, ăn nói điềm đạm, mới gặp người ta dễ lầm là một nhà giáo hơn là một nhà văn. Qua văn ông, chúng ta đoán ông sống thanh đạm, chăm lo nhiều tới cuộc sống nội tâm, không bị cuốn theo ngoại cảnh ồn ào. Ông tôn trọng mọi người, sợ làm phiền người khác, nhưng lại giữ được sự độc lập trong đầu óc và không phải là không phóng túng trong nếp nghĩ. Chắc chắn là ông không sống hùa theo mọi người. Chả thế mà viết văn giữa Hà Nội, bạn bè với nhiều đồng nghiệp trưởng giả, ông vẫn dửng dưng với mọi tiện nghi vật chất, và chỉ tìm thấy niềm vui trong một mái nhà tranh trông ra Hồ Tây ở Yên Phụ (làng Yên Phụ có con đường lát gạch và hồ Ao Vả, chứ không phải đường phố Yên Phụ!). Ông sống như thế cho đến những ngày cuối cùng trong đời. Theo nhiều tài liệu cho biết, ông chết vì bệnh lao, khi mới hơn 30 tuổi. Nhưng đọc văn ông cũng như xem cách sống của ông, thấy ở Thạch Lam tất cả đều đã đến giai đoạn chín, ổn định.
+
+ +
Trong một thiên truyện mang tên Phê-ra-guýt, thủ lĩnh của đám phàm ăn, Ban-dắc từng nêu một nhận xét, như một con người phải xấu hổ khi làm điều đê tiện. ở đó, cũng có những phố cao thượng, những phố quả thực lương thiện, những phố trẻ trung mà công chúng chưa kịp có ý kiến về đức hạnh của chúng: tiếp đó, có những đường phố hung bạo... những đường phố đáng kính, những phố luôn luôn bẩn và những phố lúc nào cũng sạch, những phố lao động làm ăn buôn bán. Tóm lại, những đường phố ở Pa-ri có những tính chất của con người và vẻ ngoài của chúng gợi cho ta những ý nghĩ nhất định mà ta không cách gì cưỡng lại được”.
ý nhà văn hào Pháp ở đây chỉ muốn nhấn mạnh khuôn mặt các thành phố thường đa dạng. Pa-ri là vậy, Hà Nội của chúng ta là vậy, và Hà Nội được phản ánh trong các tác phẩm văn học cũng vậy. Qua văn Nguyễn Công Hoan, chúng ta đã bắt gặp một số mẫu người kẻ chợ, láu, học đòi, bạc bẽo, bất nhẫn, qua văn Vũ Trọng Phụng, ta biết thêm một Hà Nội của xã hội thực dân phong kiến với những mưu đồ xoay xoả, những vụ bịp lớn, một con đường lưu manh hoá sẵn sàng mở ra với mọi thanh niên. Nhưng Hà Nội đâu phải chỉ có thế? Mãi mãi vẫn còn một Hà Nội nhạy cảm tế nhị, giàu lòng thương xót người khác, một Hà Nội rất tử tế, sang trọng nếu có thể nói như vậy. Như ở tác phẩm Thạch Lam chúng ta đang xét. Qua Một cơn giận, nhân vật xưng tội tự kể về một tình thế trớ trêu: do bực mình, nóng nảy, lạnh lùng, v.v... tóm lại trong một trạng thái tâm lý không bình thường, anh đã vô tình đẩy người khác (ở đây là một phu xe nghèo khổ vào bước đường bất hạnh. Nhưng sự tỉnh táo đến rất nhanh, kèm theo là sự xót xa ân hận, và những hành động cụ thể, để sửa chữa, vớt vát lại tình thế, khiến người đọc truyện không khỏi cảm động. Qua Một cơn giận, ta cảm thấy tác giả có cách nhìn vào đời sống khá thấu đáo, lại biết thông cảm với mọi lầm lẫn ở mình và xung quanh. Con người Hà Nội, con người thành thị ở đây có những nét đáng yêu, đáng vì nể chứ không chỉ thuần có lạnh lùng, vô trách nhiệm, như người nọ, người kia vẫn mô tả.
Một trong những mô-tip thấy trở đi trở lại vài lần trong truyện ngắn Thạch Lam: một người thành phố về thăm quê hương của mình. Trong Trở về là thế, trong Dưới bóng hoàng lan là thế. Rồi Những ngày mới lại càng kỹ hơn, tỉ mỉ hơn. Trừ trường hợp nhân vật Tâm trong Trở về thấy chán ngán, ngại ngùng (anh ta gần như bỏ chạy khỏi nông thôn), còn trong hai truyện kia, nhân vật chính đều rất thiết tha với quê hương. Họ tìm thấy ở đấy những gì tượng trưng cho sự trong sạch, sự bền chắc trong tình cảm. Nói như ngày nay chúng ta thường nói, trở về với làng quê, đối với một số nhân vật trong Thạch Lam, là trở về với cội nguồn của đời sống. ở đó, ta tiếp nhận được đời sống ở cái phần chân chất nhất, trong lành nhất của nó. Đấy cũng là điều Thạch Lam muốn nhắc nhở chúng ta. Trong đoạn văn viết về cốm rất nổi tiếng, trong tập Hà Nội ba mươi sáu phố phường.
“Cơn gió mùa hạ lướt qua vùng sen trên hồ, nhuần thấm cái hương thơm của lá như báo trước mùa về một thứ quà thanh nhã và tinh khiết. Các bạn có ngửi thấy khi đi qua những cánh đồng xanh mà hạt thóc nếp đầu tiên làm trĩu thân lúa còn tươi, ngửi thấy cái mùi thơm mát của lúa non không? Trong cái vỏ xanh kia, có một giọt sữa trắng thơm, phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ. Dưới ánh nắng, giọt sữa dần dần đọng lại, bông lúa càng ngày càng cong xuống, nặng vì cái chất quý trong sạch của Trời”.
Nét đặc biệt của Hà Nội của chúng ta là thành phố luôn luôn gắn bó với các vùng nông thôn xung quanh, nhiều người lên đây làm thợ, buôn bán, đi học, thậm chí làm quan, đã sống hàng đời ở Hà Nội rồi, vẫn không khỏi thoáng qua một chút run rẩy khi nhớ về quê cũ. Trước rất nhiều nhà văn khác, Thạch Lam đã kêu lên như thế, tiếng kêu của ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN TUÂN
Không những chỉ sinh ở phố Hàng Bạc, mà Nguyễn Tuân còn chính là người gốc ở một vùng đất ngoại thành nổi tiếng: làng Nhân Mục (làng Mọc); tức ông đồng hương với Đặng Trần Côn.
Nhà văn Tô Hoài kể: có những lần Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân về Dục Tú, quê Nguyễn Huy Tưởng. Nghe Nguyễn Huy Tưởng kể chuyện thành cũ Cổ Loa gần đấy, Nguyễn Tuân cũng hào hứng nhắc đến quê hương mình. Bấy giờ là thời Tây Sơn đánh quân Thanh. Một mũi quân do đô đốc Bảo chỉ huy. Sau khi đánh tan quân Thanh ở đầm Mực, cánh quân này trên đường tiến ra Đống Đa: theo Nguyễn Tuân, thể nào họ cũng vu hồi lên Kim Giang, Kim Lũ rồi tập kết ở bốn làng Kẻ Mọc mà Nguyễn Tuân gọi một cách tự hào là Kẻ Mọc chúng tôi.
Lớn lên một chút, Nguyễn Tuân cùng gia đình đi “tha hương” ở nhiều nơi, Nam Định, Thanh Hoá và cả các tỉnh sâu vào trong nữa. Nhưng theo Nguyễn Tuân kể với chúng tôi, dù làm ăn ở đâu, năm nào bà cụ thân sinh ra ông cũng dẫn ông về Hà Nội ít ra là một lần, và thường vào dịp Tết.
Năm 1923, mười ba tuổi, cậu bé Nguyễn Tuân học ở một trường tư Hà Nội, trường Trương Minh Sanh, rồi sau đó mới chuyển về học thành chung ở Nam Định. Và khi trưởng thành, sống hẳn về nghề văn, nghề báo, thì Nguyễn Tuân cũng chuyển luôn từ Thanh Hoá ra Hà Nội, để rồi “đàn đúm”, “tụ họp” với không biết bao nhiêu là bè bạn ở đây, làm nên một thời vang bóng của ông trong nghề nghiệp.
Trong một bài viết gần đây về phim Chị Dậu, Nguyễn Tuân kể lại những ngày mới bước vào nghề làm báo, từng sống ở một toà soạn ở phố Hàng Da, cùng phòng với Ngô Tất Tố. Trong khi Nguyễn Tuân đi chơi, thì Ngô Tất Tố miệt mài làm việc. Trở về phòng, Nguyễn Tuân đã mệt lắm, nhưng nhìn những trang viết dở của người đồng nghiệp vong niên lại phải ngồi vào bàn.
Trong các tài liệu khác, chẳng hạn Một đêm họp đưa ma Phụng chúng ta cũng lại bắt gặp những trang tả lối sống, lối làm việc của Nguyễn Tuân và những nhà văn đương thời. Đại khái là các ông rất hay đi bộ, cứ diện Tây, thắt cra-vát vào mà cuốc bộ ra Thư viện quốc gia, rồi đến thăm nhau, rủ nhau ra làm một chầu rượu mạnh ở Bờ Hồ hoặc cầm những quyển sách Pháp mới mua được ở các hiệu sách trên tay vừa đi đường vừa tán chuyện. Gần, giữa mấy phố đông người Hà Nội. Xa, có khi mấy người kéo bộ sang tận xóm Thượng Cát bên kia sông Hồng, rồi sáng hôm sau lại qua chín nhịp cầu Long Biên quay về.
Vạn nhất mới phải lên xe điện!
Trong những lý do để đi bộ, nó cũng là cái thú thanh nhã nữa, có điều này hợp với nghề báo, nghề văn. Là vừa đi, người ta có thể vừa quan sát, vừa nghĩ về cái thành phố mình đang ở, liên hệ giữa những điều đọc trong sách vở với việc đang xảy ra trước mắt.
Sau này, khi đã trải qua kháng chiến trở về thủ đô, Nguyễn Tuân vẫn giữ nếp sinh hoạt như vậy. Cùng với Nguyễn Huy Tưởng đi vào những ngóc ngách phố cũ. Hoặc dạo quanh Hồ Gươm. Hoặc cùng với các bạn nước ngoài, dừng lại ở cửa Toà thị chính cũ, nay là trụ sở Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, ở cửa Câu lạc bộ Thống Nhất, v.v... Vừa đi vừa kể:
- Toà thị chính được xây dựng từ những năm 80 của thế kỷ trước.
- Câu lạc bộ Thống Nhất (nay là chỗ bán vé của Hàng không Việt Nam) xưa là trụ sở của Hội khuyến nhạc thành phố.
- Hiệu sách đầu tiên ở Hà Nội khai trương 1897. Thư viện đầu tiên ở Bắc kỳ mở cửa 1919 v.v....
Nguyễn Tuân đã thật sự trở thành một pho sử sống của Hà Nội. Nhiều trang viết của ông có thể sẽ còn mãi, bởi ghi được một cách cô đọng những cảnh sắc Hà Nội, khiến cho chúng lung linh lên, khắc sâu vào trí nhớ. Gần đây nhất, là những đoạn Nguyễn Tuân tả Hà Nội trong những ngày chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Nhưng không phải chỉ có thế. Bốn chục năm trước, Nguyễn Tuân cũng đã từng ghi lại cảnh Hà Nội tập báo động, chủ yếu là ở khu vực trung tâm thành phố.
“Vợ chồng H Ng và tôi vẫn đi một cách tò mò vòng quanh hồ Hoàn Kiếm, ánh sáng đỏ và xanh hoa lý nhà Thuỷ Tạ chảy xuống hồ tù hãm như những ống điện nê-ông có kèm những con tiện ngòng ngoèo màu sơn đỏ da chum...
Đồng hồ tay chỉ 21 giờ. Còi báo động bắt đầu. Còn gì rền rĩ thê thảm bằng. Đèn tắt một loạt. Trong tối tăm, chuông nhà thờ phụ hoạ với còi báo động (...). Tiếng còi nấc lên rồi vẳng xa như sáo gió một con diều thả về từ một cõi âm nào (...). Tiếng còi vẫn rỉ rên, rồi nấc mạnh, rồi chết hẳn (...). Tiếng còi đau khổ vẳng ngân trong bảy tám khổ vừa khoan vừa dài, vẫn nâng đỡ lấy mảnh trăng ốm, bị chém khuyết hẳn một góc...”.
Một đoạn khác:
“Thời loại điểm vào đêm kinh thành những chấm rực rỡ. Một gạch xanh cỏ non ở các ngã tư. Một chấm đỏ ở các hầm đang đào. Một bóng đèn màu nước biển ở cái bóp gác. Chung quanh và trên những đốm lửa màu ấy, đêm bao la, đêm lù mù. Trong bóng tối nhiều cái bóng thủ thỉ lướt qua”.
(Những ngọn da xanh và ... những dịp còi)
Lùi về trước nữa, lần Pháp cho phá thành cổ, xây phố xá, cũng đã được Nguyễn Tuân kể lại rất có không khí, nhân khi viết bạt cho cuốn Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng.
Nếu đồng ý rằng đối với Nguyễn Tuân, Hà Nội là nơi còn in lại nhiều dấu vết lịch sử “vang bóng một thời”, nơi những người tài tử hội ngộ, chúng ta sẽ hiểu tại sao tuy đây đó tác phẩm của ông có đượm chút “hoài cổ” song lại là những trang sách có ích, nó cho thấy “bề dầy” của Hà Nội, và làm cho chúng ta trân trọng những khía cạnh truyền thống tốt đẹp.
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân ở Hà Nội là chính. Ông cũng luôn luôn đi khắp nơi trên đất nước. Song, mỗi lần hoàn thành tác phẩm, ông đều trở lại thủ đô sống, cái không khí nghề nghiệp cho thật đã. Cũng có lần năm 1941, ông bị bắt và bị bắt ngay ở Hà Nội, để rồi đầy đi Vụ Bản, nhưng mấy tháng sau được tha ngay.
Lần Nguyễn Tuân xa Hà Nội lâu nhất là thời kháng chiến chống Pháp. Xa và nhớ Hà Nội lắm! Nhìn cột mốc cây số nào cũng thấy nó dẫn về Hà Nội. Và từ Việt Bắc, ông thấy nhớ đủ thứ của đời sống thủ đô hôm qua. Nhân gặp một ông hàng phở, Nguyễn Tuân viết:
“ Bây giờ là mùa hè 1948. Nắng lắm. Thêm cái bóng me và sấu lùm buổi sớm của Dốc Hàng Kèn, những giờ đi “đả phở tập thể” (chắc là “hội” những anh em làm báo, như chúng ta đã biết ở đoạn trên!). Gặp ông Xước, thủ thư cũ của Thư viện quốc gia, Nguyễn Tuân thấy xao xuyến nhớ “cả một thời thanh bình độc thư săn tàng thư lâu lá mùa thu rụng từng cái một bên đường Trường Thi”. Rồi gặp ông Cai Lộc phát hành báo; cô Lan bán hoa; anh Két đưa cốc-tay ở Thuỷ Tạ; chị Nhâm cua bể chợ Đồng Xuân; anh Khôi kính-coong v.v...”
Có cảm tưởng rằng trong Hà Nội cũ, Nguyễn Tuân rất nhiều người quen biết, bất cứ ai lành nghề trong công việc của mình, đều được ông dành cho một sự ưu ái trong tâm trí. Con người hay bị kêu là khinh bạc này thực ra lại rất biết nể trọng người tài và thấm thía cái câu “nhất nghệ tinh nhất thân vinh” hơn ai hết.
Bởi chính Nguyễn Tuân cũng thế, cũng lấy nghề nghiệp làm trọng.
Những người có quen riêng Nguyễn Tuân đều biết và có ấn tượng sâu sắc về thói quen lao động nghệ thuật kỹ càng, tỉ mỉ nơi ông. Viết về cái gì, ông tìm đọc cho bằng hết các loại sách viết về cái đó để tham khảo,. Ví như trước khi viết về cầu, ông đọc cả sách về kỹ thuật dựng cầu, rồi sưu tầm hết các kiểu ảnh cầu đã làm ở nơi A, nơi B, vào cái thời gian mà ông định tả. Lương tâm nghề nghiệp không cho phép ông nói liều, nói bừa về một thứ mình không biết. Ông đọc. Ông tra xét. Rồi ông lao động cật lực trên từng câu, từng chữ, khiến cho mỗi dòng, mỗi trang ông viết ra đều mang dấu ấn nơi ông, nhiều khi không cần đọc tên người viết ở cuối bài, người ta cũng biết ai là người đã viết ra bài đó. Nếu bảo tác phẩm là một thành phẩm, một mặt hàng thì những tuỳ bút ký tên Nguyễn Tuân bao giờ cũng là thứ hàng thượng hạng, hàng kỹ, nhìn qua biết ngay, mà càng nhìn lâu càng thấy quý.
Đó chính là một khía cạnh làm nên chất Hà Nội của nhà văn này. Nếu không sợ mang tiếng là hạ thấp công việc viết văn, chúng ta có thể nói đây cũng là một nghề, nó đòi hỏi người ta phải rất công phu học hành, phải hết sức khổ hạnh. Và Nguyễn Tuân gần gũi với bao nhiêu những người thợ tài hoa khác - thợ vẽ, thợ may, thợ khâu giầy, người viết chữ đẹp, người ca sỹ hát hay, v.v... Chính họ đã mang lại cho đời sống kinh kỳ một vẻ sầm uất và một niềm tự hào chân chính.
XUÂN DIỆU
Trong một bài tuỳ bút mang tên Việt Nam đại hội viết từ trước cách mạng, sau in lại vào tập Triều lên (1957), Xuân Diệu từng mượn lời miền Nam để ca ngợi miền Bắc. Trong tâm trí nhà thơ, Hà Nội phải đặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính.
- Thưa chị, trải bốn ngàn năm, chị lại càng tươi tốt hơn bao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế. Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà vẫn là một con sông trẻ... Núi Tản Viên tinh khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba Bể trăng soi lánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi mây sa, con sông Thương nước chảy đôi dòng. Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông của chị. ở tận miền Nam, em ao ước đến luôn: em cố tưởng tượng cái rét thế nào, cái sương gió thế nào. Những hôm mưa vừa mới tạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy đến, đôi chút sương kỳ diệu phơ phất các tán cây, thành phố Sài Gòn của em nhớ thương Hà Nội hơn lúc nào hết. Từ khi đồng bào miền Bắc càng vào nhiều trong em thì những mùa mưa của em cũng như thêm gió thêm sương, thêm một vài luồng lạnh quí báu, hiếm hoi...”.
Đoạn văn diễn tả khá tinh tế những ấn tượng mà một người vốn quê khu Năm như Xuân Diệu “tiếp nhận” ở Hà Nội, ngạc nhiên về Hà Nội. Bấy giờ là 1935, nhà thi sĩ trẻ mười chín tuổi đến Hà Nội để vừa học tú tài phần thứ nhất, vừa viết văn, viết báo. Với các bạn trẻ bây giờ, Xuân Diệu thường kể: Nếu từ nông thôn lên Quy Nhơn, ông đã thấy con người được cởi mở hơn, tâm trí phong phú hơn, thì với việc ra Hà Nội, những thay đổi lại càng như kỳ diệu.
“Tôi được đi ra Hà Nội học tú tài phần thứ nhất ở trường Bưởi gần Hồ Tây. Hồ Tây lúc đó còn hoang vu hơn bây giờ nhiều, số người còn ít. Hồ Tây rất là rô-măng-tích. Có thể nói, khi ra Hà Nội, tôi có sự nảy nở lần thứ hai... Đi vào những trại trồng hoa ở Ngọc Hà, xem những cây hoa đào ở Nhật Tân, đối với tôi vào tuổi mười tám, mười chín như một sự bừng nở, như mùa xuân mới về”.
Nếu muốn tìm hiểu thiên nhiên đã ảnh hưởng đến tâm hồn một người viết văn như thế nào, thì trường hợp Xuân Diệu tiếp xúc với miền Bắc, trước tiên là Hà Nội, đã là một đề tài thú vị.
Trên phương diện văn học, những ảnh hưởng này sẽ rõ rệt hơn, và những ngạc nhiên trong lòng Xuân Diệu sẽ còn bùng lên mạnh mẽ hơn. ở Quy Nhơn ngày nào Xuân Diệu đã say mê thơ Tản Đà, khi nghe tin An nam tạp chí tục bản, cứ phải trốn trường ra phố thăm hỏi không thôi. Nay Xuân Diệu được gặp Tản Đà giữa toà soạn một tuần báo.
Cũng ở Hà Nội, Xuân Diệu được gặp Thế Lữ. Tác giả Mấy vần thơ đã động viên Xuân Diệu viết, đã cho đăng một số bài của Thơ thơ trên Ngày nay, và khi Thơ thơ in ra, tự tay viết những trang đề tựa. Từ những trang thơ này, Xuân Diệu sẽ vào sâu thêm giới văn học Hà Nội. Không phải ngẫu nhiên nhiều bài thơ của ông in báo rồi in lại trong Thơ thơ, bên cạnh đầu đề, có ghi thêm mấy chữ tặng một người nào đó: Chiều tặng Nguyễn Khắc Hiếu, Nhị Hồ tặng Thạch Lam, Xa cách tặng Đỗ Đức Thu, Vội vàng tặng Vũ Đình Liên v.v.. và v.v...
Những chi tiết nho nhỏ ấy chỉ xác nhận một sự thực là Xuân Diệu đã gắn bó với đời sống văn học thủ đô lúc ấy, và do được sự động viên, cổ vũ của bè bạn, đồng nghiệp... mà ngòi bút Xuân Diệu thêm hứng khởi.
Có lẽ cũng chỉ Hà Nội hồi ấy mới chấp nhận cái chất “tây” rõ rệt trong thơ Xuân Diệu và vừa chào đón nồng nhiệt vừa hướng cho nó thêm mềm mại hơn.
Rồi cũng ở đây, sự nghiệp Xuân Diệu cơ bản hình thành. Thơ thơ in ra hai lần ở Hà Nội (1938-39), đã có tiếng vang tới mức, năm 1941, khi làm Việt Nam văn học sử yếu, Dương Quảng Hàm đã ghi lại lần thứ nhất Thơ thơ được in ra, như một ngày tháng đáng nhớ trong Biểu liệt kê các tác giả và tác phẩm theo thứ tự thời gian.
Tuy nhiên, cũng ở Hà Nội, trước cách mạng Xuân Diệu nhanh chóng đi tới sự chán ngán bế tắc. Trong Những bước đường tư tưởng của tôi, ông kể:
“Năm 1943-1944, ở trên cái gác Hàng Bông, tôi chạy buôn chợ đen thì không được, viết văn cứ nói mãi về cái buồn cũng hết chuyện... Tôi ngồi giở quần áo cũ ra và giữa một bóng chiều thu đông lạnh và héo xám như hoa khô”.
Những trang văn xuôi của tác giả lúc này có một không khí riêng buồn buồn, ngùi ngùi, nó là trạng thái tâm hồn tác giả đồng thời lại cho chúng ta thấy một vài khía cạnh Hà Nội trước cách mạng mà ở người khác không thật rõ.
Trong Phấn thông vàng, nhà văn tả cái nơi ở của một người bạn:
“Tôi biết nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau. Con đường sắc xanh không rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút đặc biệt của ông chủ, căn phòng không sáng sủa của bạn tôi... Mọi vật đều buồn một cách lưng chừng, xui lòng tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.
Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải của một mảng đời thành phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu:
“Đoạn đường chạy qua không đủ rộng để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm, đá không chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu tồi mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít. ánh sáng không chịu sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi chiều dài. ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước để vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làm cho nhà cửa ngơ ngẩn”.
Có thể bảo rằng đây là một nét Hà Nội trước cách mạng rất hiếm người nhận ra, cái Hà Nội mờ mờ, nhạt nhạt, bùi ngùi như Xuân Diệu hay nói, cái Hà Nội giống như trong tranh Bùi Xuân Phái, trời đất không ra sáng, không ra tối, chỉ thấy nhà không thấy người, và những mái nhà thì tuy nhỏ nhoi, nhưng không cái nào giống cái nào.
Chính một thứ Hà Nội bùi ngùi như thế này đã quyết định những chuyển hướng trong cuộc đời và trong thơ Xuân Diệu...
Theo chính Xuân Diệu kể, thì trước khi về 61 Hàng Bông, cái gác vá áo nói trên. Xuân Diệu còn cùng với Huy Cận ở 40 Hàng Than. ở đây Xuân Diệu và Huy Cận ở trên gác, còn người ở gác dưới là nhà thơ Lưu Trọng Lư. Lưu Trọng Lư từ miền Trung ra Hà Nội trước Xuân Diệu, bấy giờ đã sống bằng ngòi bút, ông nhận làm thuê cho Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san lương mỗi tháng là sáu chục đồng.
Nhưng bao nhiêu màu sắc kỳ lạ của cuộc sống Hà Nội bấy giờ không làm cho thi sĩ yên tâm. Nhìn vào đời sống Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu thấy chẳng có gì bảo đảm. Chưa đầy ba mươi tuổi mà Xuân Diệu đã cảm thấy hết cái lạnh lẽo của kiếp sống con người. Huy Cận than: “Phố không cây, ôi sầu biết bao chừng” nghe còn mơ màng. Xuân Diệu nói rõ hơn: “Cơm áo không đùa với khách thơ”, thật là cụ thể. Có lẽ là nghề viết không nuôi nổi người ta thật, nên mê văn chương, mê Hà Nội vậy, Xuân Diệu vẫn phải bỏ cả hai mà đi làm tham chính nhà đoan ở Mỹ Tho ba năm, khi Huy Cận đỗ kỹ sư canh nông nuôi được bạn rồi, hai người mới đoàn tụ.
Khi nghe tôi hỏi về những ấn tượng mà Hà Nội để lại trong tâm trí mình, Xuân Diệu ngước mắt lên thoáng nghĩ gì đó, rồi nói rằng sẽ có lúc mình viết về trời đất, nắng gió Hà Nội. Tuy nhiên, còn một điều ông đã nói. Hà Nội bấy giờ là cái xưởng làm việc của ông, là nơi cung cấp cho ông đủ “nguyên vật liệu” để suy nghĩ, nghiên cứu, lại tạo không khí đủ ấm, đủ nóng để cái nụ của sự sáng tạo thành hoa, cái mầm trong hạt lớn lên thành cây. Ngoài ra, phải nói là từ sau cách mạng, Xuân Diệu sống giữa Hà Nội thấy đầm ấm hơn. Ông lại hay đến với Hồ Tây rất rô-măng-tích, như ông đã nghĩ, hơn bốn chục năm trước. Lại hay đến Trại trồng hoa Ngọc Hà, tới xem đào Nhật Tân... Trong khi đường trăng- đường thơ- đường tình yêu của Xuân Diệu lúc này mở rộng ra tới tận Láng “thơm bạc hà, canh giới” thì hàng ngày, Xuân Diệu vẫn sống bên phố phường nhà cửa, những con đường đậm bóng sấu Hà Nội, và viết, lao động, với một nhịp điệu mà những người trẻ tuổi cũng phải ghen tị.
BÙI HIỂN
Ra với Hà Nội để vừa học, vừa viết, có khi ban đầu chưa phải đã định sống với nghề viết, nhưng do ở Hà Nội thấy nghề này hấp dẫn quá, thú vị quá mà đi vào lúc nào không rõ - đấy không chỉ là trường hợp của riêng Xuân Diệu, mà của nhiều cây bút khác, trước cách mạng.
Chẳng hạn như Mạnh Phú Tư. Vốn quê ở Hải Dương, ông ra Hải Phòng học trước, rồi sau học ở Hà Nội, và vừa dạy từ các gia đình, vừa viết văn. Nhờ cuốn Làm lẽ (1940) được giải thưởng Tự lực văn đoàn, ông mới tiếp tục viết những cuốn khác Sống nhờ, Gây dựng, Nhạt tình, v.v...
Hoặc như Chế Lan Viên. Đến nay nhiều người còn nhắc đến chuyện thời ấy, một vụ hè, Chế Lan Viên ra đây “bám” Thư viện trung ương chỉ để đọc sách. Tờ báo phát hiện ra ngòi bút Chế Lan Viên là tờ Bắc Hà của nhóm Trần Huyền Trân, Thâm Tâm. ít lâu sau, thi phẩm Điêu tàn đánh dấu sự trưởng thành của Chế Lan Viên cũng được in ở Hà Nội.
Lại có trường hợp như Tế Hanh. Tuy chỉ ra Hà Nội ít ngày rồi về ngay, nhưng có thể nói khi đi học. Tế Hanh vẫn sống với không khí thơ ở ngoài này, nhờ thế, tập Nghẹn ngào có gì rất gần với những tập thơ khác xuất hiện đương thời.
Và đây, một trường hợp nữa, nhà văn Bùi Hiển. Theo như ông kể với chúng tôi, thì từ 1935-36, khi đang đi học ở Vinh, ông đã sống với không khí văn học của Hà Nội. Hàng tuần cứ đến thứ năm là có chuyến tàu chở sách báo Hà Nội vào, độ 8 giờ tối thứ năm đã thấy bầy bán ở các hiệu sách lén của thành phố Vinh, và Bùi Hiển bao giờ cũng phải tìm ngay những tờ báo đó để đọc.
“Đúng là Hà Nội toả sáng trong tôi” - Bùi Hiển nhận vậy. Ông mê những tác giả đương thời nổi tiếng in trên báo chí thủ đô, đến mức có lần ngồi chép lại một đoạn văn của Nguyễn Công Hoan mà ông rất thú. Ngôn ngữ Hà Nội quả là tuyệt, có thể nói tiếng Hà Nội là tiêu biểu cho vẻ đẹp của tiếng Việt. Một vài câu ca dao dẫn vào giữa trang truyện như mấy câu:
Lẳng lơ thì cũng chẳng mòn,
Chính chuyên cũng chẳng sơn son mà thờ
Vũ Trọng Phụng dẫn trong Cơm thày cơm cô, đối với Bùi Hiển, cũng đã là bài học.
Mặc dù chỉ viết về những truyện ở tỉnh nhỏ lúc ấy, hoặc về những người dân chài vùng biển, nhưng Bùi Hiển bao giờ cũng cố gắng để có một ngôn ngữ uyển chuyển, dung dị, người các vùng khác cũng có thể hiểu được. Và giới văn học Hà Nội rất hiểu những cố gắng đó của Bùi Hiển. Ngày nay và Trung bắc chủ nhật, Tiểu thuyết thứ bảy và Thanh Nghị, báo nào mà Bùi Hiển có bài gửi tới, cũng khuyến khích ông làm việc, nhiều khi còn cho đăng truyện ngắn của ông với những đoạn giới thiệu ngắn gọn, trang trọng.
Đến nay, mấy chục năm đã qua, nhưng Bùi Hiển có thể sung sướng mà nói rằng Hà Nội đã phát hiện ra mình. Cái nỗi niềm hân hoan của một người viết văn ở một tỉnh nhỏ, khi lần đầu đến với một nhà xuất bản ở Hà Nội làm việc về tập truyện ngắn đầu tay của mình, nỗi niềm đó thật suốt đời người ta không thể nào quên nổi!
Từ đây đến chỗ bỏ gia đình quê hương lên Hà Nội, sống hẳn với nghề văn bước đường không còn bao xa.
Tuy nhiên, cái điều xảy ra với nhiều người, không xảy ra với Bùi Hiển. Ông sống ở Vinh cho đến khi cách mạng mới ra họp hội nghị văn hoá toàn quốc, rồi trở về, hoà nhập vào không khí kháng chiến của quê hương.
NGUYÊN HỒNG
Có một nhà văn, đến nay đã mất, chúng tôi không thể tiến hành phỏng vấn, trong sự nghiệp văn học của nhà văn đó, thường thấy nói đến Sáu Kho, Hạ Lý những xóm nghèo ở Hải Phòng, nhưng sự thật tình yêu của nhà văn này với Hà Nội cũng rất nồng nhiệt, và đã được kể lại một phần qua các hồi ký.
Nhà văn đó là Nguyên Hồng.
Khi còn đang tuổi thiếu niên đã có lần cậu bé Nguyên Hồng 13-14 gì đó, từ bỏ gia đình ở Nam Định, một mình lên Hà Nội. Lúc đó, gia đình cậu gặp khó khăn, bố chết, mẹ đi lang bạt kiếm ăn đâu tận Thanh Hoá. Là học sinh lớp nhì, có dạo cậu có thể kiếm ra tiền bằng cách viết thư hộ những người hàng xóm có người thân đi lính sang Tây, hoặc đi cao su, đi phu Tân Đảo, song vẫn không đủ ăn. Nhân nghe có người anh làm chân chữa bản in ở nhà in Viễn Đông, cậu mò lên, để nhờ anh xem có xin được việc gì không. Nhưng “nhảy dù” “ăn vạ” ở nhà người anh một ít lâu, cậu hiểu ngay ở đây không sao kiếm ra việc, và những ý định sẽ bám vào đây để sống, mua mía, mua bưởi bán rong lần hồi, hoặc đi theo một gánh xiếc nào đó, như kiếp sống của nhân vật chính trong Không gia đình rút cuộc, ý định đó cũng là một cái gì hão huyền: cậu lại phải ra tàu thuỷ trở về Nam Định phiêu bạt đi các nơi khác.
Đúng là Hà Nội đã từ chối cậu bé. Nhưng không phải vì thế mà Nguyên Hồng cảm thấy có thể xa nổi cái thành phố tuyệt vời này, vì ở đó còn có sách vở, báo chí, những gì thuộc về văn học sẽ gắn với cả đời mình. Có lần bị tù rồi được tha, trên đường từ Phúc Yên về quê, chỉ ghé qua Hà Nội mà Nguyên Hồng đã như mê đi, bước chân đưa đẩy qua không biết bao nhiêu nơi, hồ Hoàn Kiếm, Hàng Đào, Hàng Buồm, nhà ga, Gô-đa, Tràng Tiền... Cái mà người thanh niên này mê nhất là sách. Nói theo ngôn ngữ của nhà văn Nguyên Hồng về sau phải nói, đó là những cuốn sách thiêng liêng, toả sáng.
Về với Nam Định, rồi Nguyên Hồng cùng gia đình ra Hải Phòng, từ đó, bắt đầu vừa dạy tư, vừa gửi bài vở lên các báo ở Hà Nội.
Năm 1939, một sự việc làm chấn động tâm tư người thanh niên mười chín tuổi: Ông chủ nhiệm Tiểu thuyết thứ bảy kiêm chủ nhà xuất bản Tân Dân gửi thư cho nhà văn trẻ, báo rằng từ nay sẽ coi Nguyên Hồng là cộng tác viên chính thức, có trả tiền cẩn thận (trước đó nhà xuất bản chỉ in cho là may, chứ đâu đã có nhuận bút!) Nguyên Hồng lại như mê man đi với bức thư ấy, ý nghĩ phiêu diêu đủ thứ, nhưng cuối cùng, đọng lại trong một dự định: phải lên Hà Nội học thêm và trở thành một người viết cho đàng hoàng.
Gia đình lo lắng, sợ lên đấy, nhà văn trẻ sẽ đua đòi, hư hỏng đi, trong khi đó cứ ở Hải Phòng, vừa dạy tư, vừa viết thế này đã sống được rồi.
Nhưng Nguyên Hồng không chịu. “Ôi, Hà Nội, kinh đô ngàn năm văn vật! Tôi sẽ lên sống ở đấy đem cả tuổi xuân của mình chọi lại với cái quyến rũ, thách thức, lừa lọc”.
Và Nguyên Hồng xách một hòm gỗ ra ga lên Hà Nội thật. ở nhờ vào một ngôi đền, gần chợ Châu Long; và ăn, thì ăn ở các hàng cơm của phu phen, thuyền thợ.
Lần ấy, Nguyên Hồng chỉ ở Hà Nội mấy tháng, rồi nhớ Hải Phòng, ông lại trở về thành phố cảng. Nhưng ông đã thành người của cái nghề này rồi, nghề viết văn. Chẳng những thế, trong giới những người viết văn, ông lại sớm hiểu mình phải dùng ngòi bút để phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng quần chúng cần lao mà ông đã tự nguyện gắn bó.
Và thế là ông vẫn sẽ thường xuyên có mặt ở Hà Nội để liên hệ với những báo chí tiến bộ như Thời trẻ, Bạn dân, để làm quen với các đồng chí như Tô Hoài, Như Phong, và để dự những cuộc đấu tranh lớn như cuộc biểu tình ngày 1 tháng 5 năm 1938, hoặc các hoạt động của Văn hoá Cứu Quốc.
Từ đây, cái nhìn của Nguyên Hồng về Hà Nội rất rạch ròi. Ông xa lạ một thứ kinh thành hoa lệ của bọn nhà giàu. Nhưng ông càng thêm yêu một Hà Nội khác, Hà Nội tranh đấu. Hà Nội đầy sức sống.
“Chiều hôm ấy (chiều 1-5-1938 - V.T.N. chú) dịu nắng thì có gió. Trời mây và các mặt nước Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, các đường cây, các tầng khối kiến trúc, các ống khói, các nhịp cầu, các bờ bãi sông Hồng cùng với phù sa chảy lừ lừ đang đợi các lũ nguồn chưa bao giờ lại đẹp, rực rỡ trong nắng chiều và gió thổi lộng như bây giờ. Các đường phố Hà Nội như đang có một thứ máu mới dạt dào vậy”.
Về sau, cũng có một dạo, Nguyên Hồng cùng gia đình ở hẳn Thủ đô. Đấy là năm 1943, khi Hải Phòng bị ném bom gia đình ông chạy về Hưng Yên một hai tháng, thì lên Hà Nội, lần này, ông thuê nhà ở bãi Nghĩa Dũng. Nhà ở chật chội, đâu có một gian nhà tranh hai chục mét vuông thì nhà chủ đã kê chiếc khung cửi mất một nửa, còn một nửa mới cho thuê. Vậy mà Nguyên Hồng rất vui. Chung quanh ông vẫn là một Hà Nội lầm than, Hà Nội của người nghèo. Và dù đây là cuộc sống Thủ đô, nhưng vẫn rất gần thiên nhiên. Nhà cửa trống trải, nắng gió bao giờ cũng sẵn. Lại gần sông nước, tha hồ ra đấy mà giặt giũ, đến nước để ăn cũng không phải nước máy, mà là nước sông gánh về đổ đầy vại rồi đánh phèn. Thì ra, không phải ngẫu nhiên mà các nhà thơ trẻ những năm 70, 80, sau này còn ca ngợi Hà Nội với hương cốm vòng với những gánh rạ đi vào thành phố. Từ ba bốn chục năm trước, đấy đã là nguồn cảm hứng chi phối Nguyên Hồng và nhiều nhà văn khác.
Cố nhiên, bên cạnh những giờ phút say sưa với thiên nhiên, thì cái đập vào đầu óc Nguyên Hồng ngày ấy vẫn là một Hà Nội nhếch nhác, đau khổ, và khi bị ném bom, khi nạn đói đổ tới, thì càng thảm hại hơn. Ngòi bút Nguyên Hồng lại có dịp cực tả, từ những đống người đắp chiếu bên đường, đến cả thành phố ốm o, bệnh tật trông nhiều nhà như bỏ hoang hay có người điên bị giam giữ, người ốm yếu bại liệt đang hấp hối”. Nhiều trang của Nguyên Hồng (trong Địa ngục, Lò lửa, và các tập hồi ký) gợi chúng ta nhớ tới những bức ảnh chụp sọ người chết đói chồng thành đống lớn của Võ An Ninh. Cả hai đều là những chứng tích có ý nghĩa lịch sử.
Sau hoà bình lập lại (1964), gia đình Nguyên Hồng vẫn ở trên ấp Sậu - một vùng quê Hà Bắc, nhưng ông vẫn đi về công tác ở Hội Nhà văn, với các anh em khác. Những lúc rỗi rãi, ông lại cùng với Kim Lân, Tô Hoài đi dạo phố, nhất là lên mạn chợ Bắc Qua, nơi người các tỉnh mang hàng về sôi nổi, tấp nập. Nguyên Hồng cảm thấy đấy là một Hà Nội đầy sức sống, khiến niềm say mê của ông không bao giờ dứt, và ông có thể hoà mình vào đó thật thoải mái.
TRẦN HUYỀN TRÂN – THÂM TÂM – NGUYỄN BÍNH
Tuy đã từng viết nhiều về những cảnh sống cùng cực về các tầng lớp dân nghèo Hà Nội, một Hà Nội lầm than đau khổ, nhưng nhiều nhà văn trước cách mạng thật ra cũng chưa đến nỗi nào lắm. Họ thường là dân làm báo hoặc dạy tiểu học, sống không sung túc, thì cũng tạm đủ ăn. Đôi khi họ phải cúi xuống, mới thông cảm được với các tầng lớp mà xã hội lúc đó gọi là hạ lưu. Thậm chí có trường hợp như người ta đồn đại về Tam Lang: Để viết Tôi kéo xe đâu nhà báo này đã phải làm giả phu xe, cũng đi thuê xe để hành nghề, từ bỏ những món thỏ nấu với rượu vang quen thuộc để ăn những bữa cơm hẩm chan xáo lòng bò như mọi phu xe, khiến cho nhà phê bình Vũ Ngọc Phan, phải nghi ngờ “Người ta bảo cái đầu đề Tôi kéo xe là sai, vì cái thân thể tác giả mà nhiều người đã biết, tác giả không thể nào cầm hai càng xe được”.
Nhưng ngay trong lòng Hà Nội, thường cũng có một lớp người viết sống rất nghèo khó, như dân thất nghiệp, họ lam lũ làm văn làm báo như người khác cày thuê cuốc mướn. Báo của họ bán không chạy, sách in ra không gây được tiếng vang gì lớn. Nhưng họ vẫn gắn bó với nghề, với Hà Nội, và vừa sống vừa viết một cách thanh thản.
Lớp nhà văn vô sản này đại khái như Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Nam Cao, Tô Hoài.
Trong một bài phát biểu, nhân dịp 40 năm Đề cương văn hoá, nhà thơ Trần Huyền Trân kể:
“Ngày ấy tôi thường đi dạy tư và làm báo, viết truyện để sống, để có tiền đỡ thêm cho mẹ tôi nuôi các em tôi còn nhỏ vì cha tôi đã mất từ hồi tôi chín tuổi.
Vì quá chật chội trong túp lều vó dựng trên một ao bèo đầy nước cống mà người ta gọi là đầm Liên Hoa cạnh làng Văn Chương ở phía sau miệng Cống Trắng giữa dãy phố Khâm Thiên, túp lều mà ông dượng - người chồng sau của mẹ tôi - dựng lên để ngày đêm kéo vó kiếm ăn, tôi với Thâm Tâm bèn thuê một căn gác nhỏ trong ngõ Sơn Nam cạnh đầm để ở. Sau này có thêm Nguyễn Bính ghé tạm cùng nương náu với chúng tôi trong thiếu thốn lần hồi”.
Như vậy, đây đúng là một người gốc gác Hà Nội, và làm thơ, viết văn để diễn tả cái vang động của Hà Nội trong lòng mình, bắt rễ vào Hà Nội, điều đó ở ông đã trở thành thân phận, thành kỷ niệm riêng.
Bóng đơn đi giữa kinh thành
Nhìn duyên thiên hạ nghe tình người ta.
Trần Huyền Trân là người của thân phận bọt bèo, là người sống giữa Hà Nội (trước cách mạng) mà không thấy đây là Hà Nội của mình và thái độ trong thơ bao giờ cũng là thái độ không chấp nhận đời sống. Nhà thơ đứng đối lập với thế giới phù hoa chung quanh. Thỉnh thoảng, trong đám phù hoa ấy cũng có những bà, những cô ngó ngàng một chút tới thân phận nhà thơ, nhưng Trần Huyền Trân đã phản ứng đến cùng (bài Hỏi bà, với những câu kiểu như: Hay gì bà hỏi đến tôi - Khóc thì trái thói mà cười vô duyên.v.v...) Thơ Trần Huyền Trân vì thế xót xa, phẫn nộ, đau đớn, đơn độc một cách đầy khí phách.
Như các tài liệu lịch sử văn học (chẳng hạn, các tác giả viết Từ điển văn học, 1984) đã chỉ rõ Nguyên Hồng làm thơ sớm, từ khi mới có phong trào thơ mới. Bản thân ông lại có quan hệ riêng với Tản Đà, từng có bài thơ kể chuyện uống rượu và tâm sự với tác giả Khối tình con. Vậy mà, những thơ truyện in trên Tiểu thuyết thứ bảy không mấy khi được nhắc nhở hình như giới văn học chính thức ở Hà Nội, trước cách mạng vẫn chưa chính thức công nhận thơ Nguyên Hồng (đến 1985 tập thơ riêng của ông mới được xuất bản!). Song càng như thế, thơ Nguyên Hồng càng có khí phách. Đó là những bằng chứng về một khía cạnh khác của Hà Nội, Hà Nội lầm than nhưng cứng cỏi, nghèo túng nhưng vẫn hào phóng và giữ được nhân cách, tóm lại là một Hà Nội mà bọn giàu có trọc phú, thậm chí những kẻ nông nổi, tầm thường không dễ chấp nhận.
Hai người cùng thân phận với Nguyên Hồng lúc ấy là Thâm Tâm và Nguyễn Bính.
Thâm Tâm quê Hải Dương theo gia đình lên thủ đô từ nhỏ, học tiểu học cũng ở Hà Nội. Còn Nguyễn Bính mới từ Nam Định, Hà Đông lang bạt lên sau. Nhưng dù lên với Thủ đô sớm hay muộn, thì họ đều khổ. Giữa lòng kinh thành gió bụi, cuộc sống của họ nhiều khi rất bấp bênh và chỉ bởi lẽ thế nào cũng sống không tủi với cái nghèo, lại biết nương tựa vào nhau nên mới sống được.
Về đời riêng của Thâm Tâm, ngày nay chúng ta còn biết rất ít. Theo sự ghi nhớ của một ký giả đương thời, thì ông là người “đa bất mãn hoài”. Ông sống rất nghèo, hay phải đi vay tiền trước những chủ báo, chủ xuất bản mà ông viết thuê, để rồi không được thì rất ngượng, rất đau, và càng sinh phẫn.
Trong sáng tác, giữa Trần Huyền Trân và Thâm Tâm có những nét chung. Mặc dù không làm nhiều thơ, Tâm Tâm vẫn tạo được một ấn tượng sâu đậm “gấp” “gắt” (chữ của Hoài Thanh. Thi nhân Việt Nam trong bài Vọng nhân hành. Bài thơ nói tâm trạng chí khí của lớp người đầy phẫn uất, như Thâm Tâm, Trần Huyền Trân và bạn bè cùng nhóm. Họ “từ tứ chiếng” họp lại. Họ hiểu rằng những lời thơ thống thiết của mình có thể có ích cho xã hội “Rằng đương gió bụi thì tôi tả - Thiên hạ phải dùng thơ chúng ta” Nhưng thời thế đâu đã tới với họ.
Thơ ngâm dở giọng thời chưa thuận
Tan tiệc quân anh, người nuốt giận
Chim nhạn chim hồng rét mướt bay
Vuốt cọp chân voi còn lận đận
Toàn bộ những dằn vặt, những đau đớn này - gắn chặt với Hà Nội. Mở đầu bài thơ đã có nhắc: “Thăng Long đất lớn chí tung hoành - Bàng bạc gương hồ ánh mắt xanh”. ở một đoạn sau, lại láy lại: “Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch - Ta ghét hoài câu nhất khứ hề” Sau hết, hai câu gần cuối cũng rất có không khí.
Ngoài phố mưa bay, xuân bốc rượu
Tấc lòng mong mỏi cháy tê tê
Thơ Đường cũ có bài Xuân phân, cũng nói tới rượu ở một Hạnh hoa thôn nào đó (Tá vấn tửu gia hà xứ hữu. Mục đồng dao chỉ Hạnh hoa thôn), nhưng trong đó, rượu làm cho người ta say đi. ở Thâm Tâm, hình như thi nhân càng uống càng tỉnh. Chỗ cay đắng tỉnh táo ở đây, có lẽ là do không khí phố xá thành thị chăng? Nếu đúng như thế, thì thành thị (Hà Nội) trong thơ Thâm Tâm đã trở thành một yếu tố mới mẻ, và đáng ghi nhận.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà về sau, Thâm Tâm bước vào hàng ngũ các chiến sĩ Vệ quốc, làm báo rất chăm chỉ và hết lòng, viết từng mục nhỏ, không bao giờ quản ngại.
Cùng nhóm với Trần Huyền Trân, Thâm Tâm, những năm trước cách mạng, song Nguyễn Bính lại có nét khác. Thơ Nguyễn Bính không có cái phẫn, mà hồn nhiên dễ dàng hơn nhiều.
Nhà em ở cuối kinh thành
Bên hồ Trúc Bạch nước xanh men chàm
Đấy là mấy câu trong bài Gửi chị Trúc, những câu tự nhiên như lời buột ra đầu miệng, nhằm kể với người thân về tình cảnh sống của tác giả lúc ở Hà Nội. Đúng là cảnh sống của những thanh niên nghèo giữa kinh thành hoa lệ. Tuy vậy, “Chàng trai tầm thường trông lại quê quê” này không lấy thế làm xấu hổ.
Nguyễn Bính không phải loại người học đòi, cũng không dễ có những mặc cảm như một số người khác ông vẫn giữ nếp sống như hồi ở các tỉnh nhỏ, ở làng quê. Nghĩa là chỉ biết những say mê của mình, những ý thích của mình, còn không ngượng nghịu về cái nghèo, cái hèn bao giờ. Hà Nội trong ông không gây ra một ngạc nhiên chấn động gì đáng kể, mà chỉ là nơi ông sống, làm việc, yêu đương như các nơi khác.
Cái nhìn của ông đối với Hà Nội nhiều khi thật thản nhiên, như câu thơ nọ.
Sáng nay sau một cơn mưa lớn
Hà Nội bừng lên dưới nắng vàng
Trong sáng tác cũng vậy, Nguyễn Bính cứ “hát những bài hát của mình” về chất thơ, trong khi Trần Huyền Trân “thật hạt” Hà Nội thì Nguyễn Bính rõ ra của chân quê: giống như chàng Exênhin, ông cũng lạc lên thành phố, song tâm hồn vẫn để ở cả mái đình, giếng nước, cái yếm lụa sồi và chỉ diễn tả cái đó mới hay.
Thơ Nguyễn Bính đương thời đã khá được ưa chuộng, theo Tô Hoài nhớ, thì đây là nhà thơ duy nhất sống được bằng nhuận bút (cố nhiên là chỉ sống nghèo); không phải vì thế mà Nguyễn Bính thành thị hoá. Nhà thơ chỉ lang thang ở đây, như có lúc, sẽ lang thang lên Phủ Lạng Thương, Bắc Giang và sau này lăn lóc với tận các tỉnh phía nam.
Bấy giờ, Hà Nội trong Nguyễn Bính chỉ còn mờ mờ ảo ảo, không rõ rệt. Đây là những câu thơ trong bài Một con sông lạnh:
Chưa say, em đã say gì
Chúng tôi còn uống còn nghe em đàn
Rưng rưng ánh nến hoa vàng
Đôi dây nức nở muôn ngàn nhớ thương
Đôi dây như thể đôi đường
Em ơi! Hà Nội là phương hướng nào
(trong tập Hương cố nhân)
Những năm gần cách mạng, trong cơn say phiêu lưu, Nguyễn Bính vào Huế, rồi vào Nam bộ, đi đến đâu cũng giữ hồn thơ chân quê và cách sống không mặc cảm của mình. Sau khi tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ, tập kết ra Bắc, trở lại Hà Nội, cũng không có chút đảo lộn gì lắm trong cách nhìn, cách viết, tuy bây giờ bạn bè của ông có đông hơn, không khí văn nghệ sôi nổi, khác hẳn trước kia. Cuối cùng, Nguyễn Bính từ giã Hà Nội cũng giản dị. Ông về Nam Định công tác, chỉ thỉnh thoảng mới lên Hà Nội có việc họp hành, sinh hoạt gì đấy. Trở lại quê hương ở ngoại thành Nam Định, ông có một nếp nhà ấm cúng. Sau thời gian “dan díu với kinh thành”, nay chàng Exênhin mới lại trở về với cái phần cội nguồn, chân chính của thơ mình !
NAM CAO
Cũng tương tự như Thâm Tâm, Nguyễn Bính, nhà văn Nam Cao vốn không phải gốc Hà Nội. Ông lại lên thủ đô hơi muộn, khi đã có vợ con gia đình, và lên để dạy học, để kiếm sống, chứ không có điều kiện để “rong chơi” như những người viết văn khác. Vợ con Nam Cao vẫn ở nhà quê, ông phải xuống tàu thuỷ về quê luôn. Lại nữa, vùng đất mà ông thông thạo cũng không thật tiêu biểu cho Hà Nội. Từ Thuỵ Chương lên Bưởi không phải phố xá sầm uất, không phải những đại lộ lớn nơi ở của những con người sang trọng, giàu có. Đây là khu vực của những người thợ Ô-mềm (nay là nhà máy bia Hà Nội), Nhà đá, La-pho (nay là Sở trồng hoa và ươm cây), Sở xe điện... là khu vực của dân xôi lúa, khoai ngô luộc gánh xuống bán dưới phố xá.
Trước 1945, từ quãng Bách Thảo trở lên, người ta vẫn tính là ngoại ô. Không phải ngẫu nhiên, cái vùng Hà Nội mà nhân vật Thứ trong Sống mòn cư ngụ thường được miêu tả với những chi tiết gợi nhớ cảnh sống một thị xã, một huyện lị nào đó. Nếu bảo đó là Hà Nội thì đấy là một Hà Nội lầm lụi, xiêu vẹo, nơi rất nhiều nhà lá, và có khi cả phố mới có một cái máy nước lúc nào cũng chen chúc người xếp hàng. Đèn điện chưa có, dù đèn ở ngoài đường. Cuộc sống tối tăm, tẻ nhạt.
Thế nhưng, xét về những ảnh hưởng của đô thị trong tác phẩm của Nam Cao, lại thấy một sự thực ngược lại là Nam Cao rất hiểu Hà Nội, Nam Cao có “đôi mắt” của người dân thành phố trong việc xem xét mọi chuyện.
Khi cần phải miêu tả những người dân ngoại ô, như trong Chuyện người hàng xóm, Nam Cao cho ta thấy một sự thực: Một mặt, họ sống rất cơ cực, quẩn quanh, vớ vẩn, người nọ làm khổ người kia: con đường đi tới của những Tiền, Hiền, Lộc...là con đường rơi vào truỵ lạc, bế tắc, một ít nhân từ tốt bụng giữa họ với nhau, không đủ mang lại cho họ hạnh phúc. Mặt khác, họ vẫn rất yêu vùng đất ngụ cư mà số phận đã đưa họ trôi dạt đến. Lên đây, lên Hà Nội, dẫu sao họ cũng đỡ khổ hơn so với ở nhà quê, nơi người nông dân sống trong tăm tối, bọn địa chủ và các loại hào lý tha hồ hoành hành, nơi dân cùng đinh không sao mở mắt ra nổi.
ở Sống mòn, mỗi khi đề cập tới các tầng lớp dân nghèo thành thị, tác giả cũng trình bày quan niệm tương tự. Một ví dụ tiêu biểu là trường hợp anh chàng Mô, lao công ở cái trường học có Thứ dạy, lấy Hà, một người nghèo khác. Cả Mô và Hà đều hiểu rất rõ ở nhà quê, họ không đào đâu ra tiền để cưới nhau, mà giá có đi vay, thì cũng nặng nợ suốt đời. Chỉ ở cái đất không ai biết họ này, họ mới về với nhau một cách êm thấm. Một nhân vật sang trọng hơn Mô rất nhiều là hiệu trưởng Đích, người đứng ra mở trường tư để sống trên lưng San và Thứ, còn bản thân Đích đi làm công chức ở tỉnh xa; đến cuối Sống mòn, đột nhiên Đích ốm thập tử nhất sinh. Vậy mà Đích vẫn “Tuyên bố” thà chết ở Hà Nội, hơn là về quê. Thì ra, Hà Nội mang lại cho họ một chút tự do mà họ thèm khát, tự do cả trong lúc sống, lẫn trong lúc chết.
Chúng ta đều biết, một số nhà văn lãng mạn, nhất là cánh Tự lực văn đoàn, thường lý tưởng hoá khung cảnh đồng ruộng, thích miêu tả cây đa bến nước, hội làng với những cô gái mắt bồ câu duyên dáng...
Nam Cao không thế. Tuy phải đến sau cách mạng, Nam Cao mới hiểu rõ sức mạnh người nông dân, nhưng ngay ở trước 1945, Nam Cao đã diễn tả họ với những đường nét khoẻ, sắc, như Lão Hạc, Chí Phèo, và nhiều người khác. Có điều, Nam Cao không bao giờ quên chỉ rõ những lạc hậu của nông thôn và sẵn sàng cùng với các nhân vật của mình mơ ước một cuộc sống thoải mái hơn.
Thử nhớ lại những khía cạnh riêng trong cuộc đời Nam Cao để hiểu thêm vai trò của Hà Nội đối với quá trình sáng tác của ông.
Theo những tài liệu đáng tin cậy, thì ông sinh năm 1915 và sau khi học xong thành chung, còn vào Sài Gòn làm ăn một thời, định kiếm một học bổng để đi Pháp cho đến khi đau ốm, mới lại phải quay trở về Bắc, vừa dạy học, vừa viết. Vậy có thể đoán là thời kỳ mà Nam Cao sống kỹ với Hà Nội một chút phải là khoảng 1938-40 trở đi (kỹ nghĩa là không phải chỉ ghé qua, mà có đi về luôn luôn). Nhưng sáng tác ban đầu của ông lại là thơ một thứ thơ mang mầu sắc lãng mạn cuối mùa, như những câu mà một nhà nghiên cứu đã cho công bố trong cuốn chuyên khảo về Nam Cao in 1961.
Tâm hồn tan tác làm trăm mảnh
Vương vấn theo ai bốn góc trời
Rồi để một chiều theo gió thổi
Bay lên thành những mảng mây trôi
Vậy là quá trình tư tưởng của Nam Cao là quá trình chuyển từ một thứ thơ mơ tưởng hão huyền, sang văn xuôi sắc lạnh nhìn thẳng vào cái phức tạp trăm vẻ của đời sống. Quá trình này xảy ra đồng thời với quá trình ông “vào sâu” Hà Nội, hiểu Hà Nội (cố nhiên là có cộng thêm với cả quá trình ở phiêu lưu tư tưởng từ khi học xong trung học trở đi). Từ quê lên nơi dạy học rồi lại từ đấy về quê, những cảnh ngộ bất chợt gặp trên đường, những lần theo bạn bè ghé qua các tiệm cô đầu, những ngả trở lại với gia đình nghèo khổ, những tác phẩm nước ngoài mới bán ở Hà Nội, những số báo Tiểu thuyết thứ bẩy, Phổ thông bán nguyệt san, có bài của mình và của bạn bè... bao nhiêu là ấn tượng dồn nén dần dần, rút cục đã tạo nên một Nam Cao hết sức kỳ lạ. Một mặt, ông vẫn “quê một cục”. Một ký giả đương thời kể là đi ăn với Nam Cao thấy lạ vì một người như tác giả Chí Phèo mà không biết món vây là gì, và hỏi cơm rang đã có lạp xường và trứng rồi thì cần gì phải gọi thêm vây, thịt bò cho thêm tốn.
Nhưng mặt khác, đọc hồi ký về Nam Cao, hoặc theo dõi những truyện Nam Cao viết trong đó, ông đội tên là những Điền, Hộ, Thứ, thấy ông ít nhiều đều đủ những ham muốn như một người. Không làm việc xấu nhưng cái gì cũng nghĩ cả, không xa lạ với cái gì hết. Và càng ngày, cái nhìn của Nam Cao càng trở nên sắc hơn, sắc nhọn trong việc phân tích mình, phân tích hoàn cảnh.
Trong Sống mòn, Nam Cao có nhắc tới một trạng thái tâm lý trở đi trở lại trong Thứ: Nhiều khi, do khó chịu với những người xung quanh, và cảm thấy mình bị lợi dụng quá đáng. Thứ bỏ trường, bỏ Hà Nội để về quê những tưởng có thể tìm thấy ở đấy nhiều thú vị. Nhưng Thứ đã nhầm! Những mè nheo cạnh khoé của những người thân lại làm rơi bao nhiêu nước mắt của Thứ, khiến không ít lần, Thứ phải xách va-li ra đi sớm hơn đã định.
Theo một số bạn bè và người quen cho biết, Nam Cao thường chỉ viết được về những gì có thực trong đời mình, và ở quanh mình (Người ta nói rằng chỉ có một nhân vật được nhà văn kiên trì “bịa” là người vợ. Bà vợ Nam Cao rất hiền, còn trong tác phẩm của nhà văn, người đàn bà thường lại là những nhân vật lắm điều, lắm nhời, hay chì chiết chồng con, v.v...)
Vậy có thể tin rằng cái tình tự nói trên của Thứ, cũng là chuyện xảy ra với chính Nam Cao. Một nhân cách trí thức đã được hình thành, hay do dự, hay hoài nghi “Cái gì đang có cũng chán, cái gì không có cũng thèm” (chữ của Tô Hoài) - Nam Cao 1944-45 không còn là cậu học trò tỉnh lẻ khờ khạo ngây thơ nữa.
Về mặt nghề nghiệp mà xét, có thể thấy Hà Nội là nơi Nam Cao lao vào nghề văn một cách hết lòng, nhiều khi ông đã vượt qua cả những thói quen cố hữu của ông nữa. Chẳng hạn, tuy rụt rè thế, nhưng khi gặp một nhà giàu hào phóng, đọc những Đôi lứa xứng đôi, Dì Hảo, Lão Hạc, đoán người viết ra những truyện đó hẳn... kháu lắm, cho mời Nam Cao xuống Khâm Thiên để “nói chuyện văn chương cho thoả lòng”, Nam Cao cũng đã rủ Tô Hoài đi, tuy là sau đó, hai người rút lui rất nhanh, vì cảm thấy quá lạc lõng (việc này Tô Hoài cũng đã kể lại trong Tự truyện).
Lại đây nữa, trường hợp xảy ra với nhân vật Hộ trong Đời thừa: ở toà báo ra đang mải miết cuốc bộ về nhà đưa tiền cho vợ để còn trả nợ, lấy thuốc cho con, thế mà chỉ nghe đến một quyển sách của người bạn được dịch ra tiếng Anh, thế là Hộ đã quên tất cả mọi chuyện, sẵn sàng rủ mọi người đi uống rượu để moi thêm tin, đúng hơn để có dịp nói cho sướng miệng: nói rằng quyển sách kia đâu đã phải là kiệt tác, mình đây, mình mới có khả năng viết ra những quyển sách có giá trị thực sự, v.v... Ai đã là người viết, hẳn rất dễ thông cảm những phút bốc đồng như thế này! Chính bởi vậy, chúng ta dự đoán dù điều ấy không có thực với chính Nam Cao đi nữa, thì cũng đã đến với nhà văn trong ý nghĩ.
Với Hà Nội, Nam Cao đã sống trọn mọi vui buồn của một người viết. Cùng với Hà Nội, Nam Cao không bao giờ dừng lại ở những thành công tầm thường mà bao giờ cũng xác định cho mình những lý tưởng nghề nghiệp cao cả. Như cái ý nghĩ của nhân vật Hộ trong Đời thừa về một tác phẩm có giá trị “Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình... Nó làm cho người gần người hơn”.
Nam Cao thật đã hội đủ những điều kiện để trở thành một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ 1930-1945.
TÔ HOÀI
Không kể thời gian kháng chiến chống Pháp và không kể những đợt đi công tác ngắn ngày, thì từ nhỏ đến giờ, Tô Hoài luôn luôn sống ở Thủ đô. Tính đến đầu 1985, ông từng viết 43 cuốn sách về Hà Nội. Ngoài sáng tác văn học, có lúc ông còn trực tiếp làm công tác đường phố. Tô Hoài là chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội.
Những chi tiết ấy nhiều người đã biết, cũng như phần lớn chúng ta đã biết hai chữ Tô Hoài là do Tô Lịch và Hoài Đức ghép lại. Một người như Tô Hoài mà có viết nhiều về Hà Nội là chuyện đương nhiên! Giữa Thủ đô và một đời như đời văn của Tô Hoài, quả là có một mối quan hệ đặc biệt.
Tô Hoài hay kể: ông đến với nghề văn một cách rất giản dị, và bước đầu vào nghề, không thấy có gì mới lạ hơn, so với những nghề khác, như nghề bán giày ở một đại lý cho hãng Bata hay nghề dạy trẻ học mà bạn bè ông thường làm. Đại khái một lần, đi phủ hộ đê, thấy cảnh canh đê, “trống giục trống dồn”, “người lớn và trẻ con rúc ráy bên vệ cỏ” Tô Hoài liền viết truyện Nước lên gửi đăng ở Hà Nội tân văn của Vũ Ngọc Phan.
Nếu có thể nói vào nghề, có nghĩa là viết truyện in ra được trả tiền cẩn thận thì Tô Hoài vào nghề bằng truyện ấy. Có điều, khi đến với nó, ông vẫn có được sự bình thản, không cuống lên vì hoang tưởng, không quá choáng ngợp.
ở đây, có những lý do thuộc về cá tính riêng của Tô Hoài. Nhưng một phần quan trọng khác cũng là do hoàn cảnh. Ông lớn lên và đi học ở quê ngoại vùng Nghĩa Đô. Từ nhỏ, không những đã quen với Kiều, ca dao, mà còn quen với Tứ dân văn uyển, Văn đàn bảo giám, và các loại truyện dịch Chinh đông Chinh tây, Tam hạ nam đường... Dù là gia đình chỉ làm nghề thủ công, nhưng bước vào tuổi thanh niên, Tô Hoài cảm thấy không có gì xa lạ với mọi tờ báo ở Hà Nội, và Sài Gòn lúc ấy: Nước non, Cậu ấm, Mới, Tiểu thuyết thứ năm, Tiểu thuyết thứ bảy.
Mới hai mươi mốt tuổi, ông đã viết câu chuyện nổi tiếng về chú Dế Mèn, trong đó cảnh bờ sông Tô Lịch với những vườn nhãn, ao chuôm, con gà ri, đôi chuột bạch... là những khung cảnh gần với ông ở làng Nghĩa Đô của ông. Cả tư tưởng của một chàng thanh niên mới lớn lên, thích sống độc lập lại cũng thích phiêu lưu như ông diễn tả trong Dế mèn... đều là tư tưởng bao trùm trong nhiều thanh niên thời kỳ 1940-41.
Tô Hoài lại sớm viết hồi ký. Trong tập Cỏ dại in ra từ 1944, ông lấy chuyện gia đình, họ hàng mình để kể. Gần đây (1978). Tô Hoài có tập Tự truyện, kể lại những bước đường tư tưởng của mình khi mới đến với nghề văn.
Óc quan sát tinh tế và tỉ mỉ đã giúp cho Tô Hoài nhớ và ghi được nhiều chi tiết về cuộc sống ở Hà Nội. Ông đính chính hộ nhiều người những cái nhầm lẫn, vì như nhiều người cứ nghĩ chung quanh Hồ Gươm: nhiều liễu, hoá ra bây giờ còn mỗi một cây, v.v. Ông lại giúp cho chúng ta tự tìm hiểu thêm về những địa điểm trong sinh hoạt thành phố (chẳng hạn, tại sao gọi là Vườn hoa canh nông?). Rồi, nguồn gốc nem cuốn ở đâu? Nghề làm giấy ở Bưởi đòi hỏi người thợ thủ công trước đây phải khéo léo, vất vả thế nào?
Xét về thời gian lịch sử, ta thấy Hà Nội đã được Tô Hoài theo dõi liên tục, từ khi Pháp mới sang (Quê nhà) cho tới những năm ba mươi, bốn mươi và kết thúc bằng Cách mạng tháng Tám (Mười năm). Đó là phần ngoại thành, vùng Nghĩa Đô, Bưởi và quá lên vùng Cầu Giấy, Từ Liêm, Hoài Đức, Tô Hoài rất quen.
Về nội thành, những xóm rác ven hồ Bảy Mẫu cũ, đầu hoà bình lập lại được ông phác qua trong Những ngõ phố và một số nét sinh hoạt Hà Nội hồi đánh B52 được ông vẽ nên trong Người đường phố (cả hai tiểu thuyết đều được in ra 1980)
Viết về ngoại thành, ngòi bút ông lui tới một cách thoải mái đã đành. Ngay viết về nội thành, Tô Hoài vẫn rất ung dung. Ông không hay tả Hà Nội nhà cao cửa rộng. Trước cách mạng, khu nội thành được ông miêu tả như một nơi không thiếu gì chuyện nhảm nhí, nơi có nhiều nhân vật rất kỳ cục, nào me tây, nào nặc nô hiệu cầm đồ, đủ thứ. Từ 1954 đến nay, bà con hàng phố sống với nhau gần gũi, đầm ấm như người trong một gia đình. Thành phố nhấp nhô những dãy nhà một tầng thấp, bên trong mỗi nhà xanh lên những giàn hoa lý, cây cảnh, cây, cây hoa mộc trong chậu.
Thành phố với những mái lợp phi-brô xi măng trắng, hay những miếng giấy dầu đen nhoáng, cạnh cửa sổ vải hoa treo dò phong lan tai trâu xanh dày... Đấy là Tô Hoài trực tiếp tả. Một đoạn khác (trong Người đường phố) ông còn để cho một nhân vật nói thẳng:
- Kẻ chợ mà đủ phố Hàng Bừa, Hàng Bún, Hàng Mụn, Lò Rèn... tức là cái gốc nhà quê rõ rồi.
Cái gốc nhà quê này của Hà Nội không làm cho nhân vật khó chịu. Trái lại, họ nói thế, dễ dàng thấy gần với Hà Nội hơn, cái Hà Nội là của mình, và cùng với tác giả, tìm ra vẻ đẹp của phố xá.
Nhân vật chính trong bút ký Nhớ quê của Tô Hoài là một thanh niên Hà Nội đứng vào đội quân Nam tiến, và nghĩ trong lúc này: “Chúng ta còn ở Hà Nội làm gì?”
Trong tiểu thuyết Những ngõ phố, người đọc lại bắt gặp một trường hợp khác, một gái nhảy của Hà Nội cũ, nay đi tham gia xây dựng các công trường ở miền Tây Tổ quốc, và nghĩ rằng phải đi xa, cái tình của mình với Hà Nội mới trọn vẹn.
Bản thân Tô Hoài cũng vậy. Chúng ta đã nói bao giờ “hộ khẩu chính” của ông cũng là Thủ đô, nhưng từ trước cách mạng ông đã có nhiều chuyến giang hồ vặt, đi khá xa, tận Huế, Sài Gòn. Bây giờ, ông còn bay đi xa hơn. Ngoài Hà Nội, ông còn một vùng quê nữa để viết là các tỉnh miền núi Tây Bắc, Việt Bắc. Hai cái chất thật đối lập nhau, Hà Nội và núi rừng. Nhưng với Tô Hoài, hai nơi đó đều gần gũi tự nhiên, như đâu cũng là quê ông. Thành thử lại có thể nói về phương diện nữa của chất Hà Nội trong Tô Hoài: Khả năng thích ứng mạnh mẽ. Có cảm tưởng đi đâu ngòi bút ông cũng hoạt động được. Tô Hoài thật đã giống như bao nhiêu người có thời gian ở Hà Nội rồi, thì đi đâu cũng khéo gây dựng cơ nghiệp, sắp xếp nhà cửa, khiến cho cuộc sống mình được nên cơ ngũ, gia đình mình trở thành có nền nếp.
Bao nhiêu người Hà Nội, sau những năm kháng chiến ở lại Việt Bắc, hay Nam Định, Thanh Hoá đã sống như thế. Lại bao nhiêu gia đình ngoại thành Hà Nội, đi xây dựng miền núi, những năm sau 1954, đã sống như thế.
Chúng ta vừa nói Tô Hoài đến với nghề một cách bình thản. Nhưng sau khi đã có một quan niệm sòng phẳng thế rồi, nghề văn ở Tô Hoài lại được nhìn nhận khá tỉ mỉ. Nói đây là chuyện để cả đời người ta làm, cũng không phải quá đáng. Từ chuyện lẩn mẩn người ta ăn, người ta mặc thế nào, đến chuyện suy nghĩ tư tưởng một thời... đều phải lắng nghe, để mắt tới. Lúc nào cũng lo tích luỹ, nhặt nhạnh. Và viết, viết rất đều tay, không chờ cảm hứng, không viết theo những cơn nóng lạnh bất thần. Chẳng hạn ai đã làm nghề văn đều biết, gọi chung là viết, nhưng công việc rải ra đủ thứ, người chuyên viết ngắn, người chuyên viết dài, người chỉ sáng tác cho người lớn đọc, người thâm canh ở khu vực viết cho thiếu nhi. Thậm chí, nói đến cùng, cũng phải thấy là trong nghề người ta hay có thành kiến: Việc này người mới vào nghề mới đáng làm, người lâu năm trong nghề không nên làm. Việc này dở, việc kia mới sang trọng v.v...
Tô Hoài không thế, ông viết đủ thứ, miễn thấy cần làm là làm, không chọn việc. Đấy chính là một đặc điểm của ngòi bút Tô Hoài, nó khiến cho nhiều người nhìn ông phải khâm phục.
Nói cho đúng ra, trong cái việc mà chúng ta gọi một cách quy ước là “làm nghề” chăm chỉ, thành thạo, ở Tô Hoài không phải chỉ có sự đều tay, sự chuyên cần, mà còn có cái mau mắn duyên dáng, nó khiến cho ông cả khi viết những tiểu thuyết dài lẫn những bài báo ngắn đều có được cái giọng riêng. Những khi phải tả Hà Nội, Tô Hoài vừa có cái kỹ lưỡng từ trong nói ra, lại có cái tươi mới như vừa gặp vừa thấy.
Sở dĩ như vậy, theo tôi, một phần do trước sau Tô Hoài vẫn giữ được cái hóm, cái nghịch cần thiết cho những “Người ven thành” luôn luôn phải đi lên thành phố để làm đủ các loại việc, rồi ít ngày sau, lại bỏ đấy, bắt sang những công việc khác, mà lúc nào cũng giữ được cái thế của người đứng ngoài, đứng hơi xa một chút, để nhận xét cho thấu đáo, lên thành phố, những người này phải rất hoạt bát để bán được hàng, tìm được việc, mà lại khỏi bị những người hàng phố lừa. Và lên đấy phải nghe ngóng, tích luỹ, phải có nhiều điều tai nghe mắt thấy, để về còn kể cho bà con hàng xóm, hoặc con cháu trong nhà. Bởi vậy, nên cái chân dung thành phố do những con người này vẽ nên bao giờ cũng tươi mới, giàu chi tiết, kích thích sự tò mò của người khác.
Trong cuốn Người đường phố trên kia đã nhắc (cũng như trong nhiều tập sách khác, trong đó có Chuyện cũ Hà Nội) Tô Hoài kể ra một số vùng ngoại ô với những nghề nghiệp cha truyền con nối, lên làm ăn ở thành phố. Cổ Nhuế, thợ may, hàng thầu; Thủ Lệ, giặt là; Lai Xá, thợ ảnh; Thanh Nhàn, cắt tóc; Thuỵ Khuê, xôi lúa, quà vặt v.v... và v.v... Quả ngoại ô Hà Nội là một “thế giới” phong phú. Trong “thế giới” đó, cũng có sự phân công lao động rất tỉ mỉ, khiến cho từng người làm nghề trở thành những người nghệ sĩ tài hoa và hết lòng với nghề, được mọi người kính trọng. Từ các làng xóm chung quanh nội thành, người đi viết văn, viết báo xưa nay không phải ít, nếu kể ra các vùng quê mới cắt từ Bắc Ninh, Hưng Yên, Sơn Tây, Hà Đông để nhập vào Hà Nội, thì số tác giả của Thủ đô thật là nhiều. Song có lẽ chỉ có Tô Hoài là mang được cái chất riêng của vùng đất mà mình đã từ đó trưởng thành. Và giữ được cái chất đó, trong suốt cuộc đời cầm bút.
VanVN.Net - Sáng nay, 10/8/2011 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thảm họa da cam gieo rắc trên đất nước ta. Đúng ...
VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...
VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...
VanVN.Net - NXB Dân Trí vừa cho ra mắt tập truyện ngắn Hoa mẫu đơn của tác giả Lê Toán. Đây là tập truyện giả tưởng - cũng là món quà thứ tư, tác giả dành tặng cho thiếu nhi, sau ...
Tiếp tục chương trình hoạt động của kỳ họp thứ 4 (Khóa VIII), hôm nay, ngày 7/8/2011, BCH Hội Nhà văn VN đã có chuyến đi thực tế tại trại sản xuất giống tu hài của công ty TNHH Đỗ Tờ ...
VanVN.Net - Nửa đầu thế kỷ XIX là sự bắt đầu vương triều Nguyễn với cuộc lên ngôi của Gia Long vào 1802. Tôi muốn gọi đó là một thời “khó sống” khi viết về Nguyễn Công Trứ và Cao Bá
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn