Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Chị Thuý Bắc - Sợi nhớ sợi thương

Khánh – By - 28-04-2011 04:30:33 PM

VanVN.Net - Thế là nữ thi sĩ “Sợi nhớ sợi thương” – Thúy Bắc đi vào “Cát bụi” đã 15 năm! Qui luật vô thường mà khắc nghiệt, người trước kẻ sau thôi mà. Tuy vậy, lẽ đời vẫn vô khối những “bất tử-trường sinh”. Con người và sản phẩm của họ để lại đi vào năm tháng, sống mãi với thời gian, rung động lòng người, không phân biệt tuổi tác hay thế hệ. Nên thâm tâm mỗi khi nghĩ tới chị Thúy Bắc, lòng tôi cứ bộn rộn, trở trăn những nỗi niềm về chị-một nhà thơ nữ không ít cá tính...

Chả là, thời tôi còn là chiến sĩ Công an trẻ-đầu năm 1975, đất nước chưa thống nhất, tôi và các anh Nguyễn Hồng Vy, Lê Đức Tuân cán bộ Phòng tuyên truyền Cục cảnh sát giao thông-Bộ Công an, ngoài công tác chuyên ngành, còn được cử phối hợp với Xưởng phim đèn chiếu TW (tại số 5 phố Thi Sách, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) làm “Phim đèn chiếu” chủ đề trật tự an toàn giao thông, phát hành rộng rãi trong nhân dân, nhằm góp phần tăng cường giáo dục luật pháp, và ý thức phòng ngừa tai nạn. Bởi thế, chúng tôi có cơ hội được gặp, làm việc, cộng sự với chị Thúy Bắc để viết kịch bản phim đèn chiếu.

Sẽ là thiếu hụt thông tin khách quan nếu không khái lược một chút quá khứ!. Chúng ta hãy hình dung rằng, thời ấy, miền Bắc XHCN vô cùng khó khăn nhiều mặt, nhất là vật chất….bởi chiến tranh…Lĩnh vực phim điện ảnh (phim nhựa) đâu sản xuất được nhiều ! Mỗi năm Xưởng phim truyện TW cũng chỉ sản xuất, phát hành được mươi bộ là cùng, mỗi bộ 1 tập, ít bộ có 2 tập. Các rạp chiếu phim ở thủ đô Hà Nội, thứ 7 hay chủ nhật mới bán vé xem phim, mà chủ yếu chiếu phim Tây, người xem cũng lèo tèo. Vùng nông thôn, nhất là nông thôn miền núi, phim điện ảnh quả khan hiếm, thậm chí xa lạ với đồng bào dân tộc vùng cao. Sách báo thì thiếu thốn kinh khủng. Bởi vậy lĩnh vực “Phim đèn chiếu” cơ hội có đất sống được, len lỏi vào các cơ quan, xí nghiệp, trường học, thôn, phường, bản làng…. phục vụ tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ về các vấn đề xã hội, văn hóa, pháp luật. Ưu việt của thể loại phim đèn chiếu là thông tin, tuyên truyền một vấn đề chỉ mất 15-20 phút chiếu và đọc lời thuyết minh. Tiến trình làm phim là từ kịch bản được duyệt, họa sĩ thể hiện thành những bức tranh, hoặc ảnh làm thành phim dương bản; khi chiếu hình nào, đọc thuyết minh nội dung hình đó, cứ thế cho đến hết phim. Độ dài của một bộ phim đèn chiếu chừng 40-45 hình vẽ hay ảnh chụp, nhiều phim có 2, 3 tập thì số lượng hình tương đương nhân lên.

Hợp đồng được ký với Xưởng phim mỗi năm Cục Cảnh sát giao thông Bộ Công an hợp tác sản xuất, phát hành toàn miền Bắc (kể cả sau ngày miền Nam giải phóng) 15-20 bộ phim đèn chiếu có nội dung tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành Pháp luật nói chung và trật tự an toàn giao thông đường bộ, đường thủy nội địa cho người điều khiển xe máy, xe ô-tô, người lái tàu thuyền, người đi bộ, người đi xe đạp, và cho các cháu học sinh, sinh viên để mỗi đối tượng có ý thức phòng ngừa tai nạn mỗi khi tham gia giao thông. Tuy ô tô, xe máy không phải đại trà như bây giờ. Song, hàng năm, tai nạn cũng làm hàng ngàn người chết và bị thương. Nguyên do xe cơ giới gây ra chiếm 70-75 %, người đi xe đạp chiếm 12-15%, người đi bộ chiếm 4% so với tổng số vụ. (Giai đoạn hiện nay, nguyên nhân gây tai nạn chủ yếu do đối tượng điều khiển xe cơ giới). Phòng biên tập Xưởng phim một mặt chủ động sáng tác kịch bản theo yêu cầu đặt hàng; mặt khác, hướng dẫn, dìu dắt 3 anh em chúng tôi viết kịch bản. Chị Thúy Bắc là cán bộ biên tập của Phòng sáng tác được phân công trực tiếp hướng dẫn cách viết và biên tập kịch bản của chúng tôi. Bấy giờ tôi mới biết về chị. Trong 4 năm cộng tác, tôi có gần 20 bộ phim đèn chiếu về đề tài an toàn giao thông (ATGT), mỗi bộ in 100 bản, phát hành theo mạng lưới tuyên truyền của Xưởng phim phân phối cho các Sở-Ty văn hóa địa phương, có một bộ phim “Cháu hiểu ra rồi” đoạt giải B2 trong cuộc thi phim đèn chiếu toàn quốc (không có phim đoạt giải A).

Sản phẩm đầu tay tôi sáng tác là kịch bản “Chỉ tại mình thôi”dành cho lứa tuổi học sinh, thiếu nhi. Trước khi đến với phim đèn chiếu, tôi có hơn chục bài thơ được đăng trên các báo trong và ngoài ngành Công an, nên “xâm nhập môn nghệ thuật” này cũng thuận lợi. Tuy vậy, hoàn thành được sản phẩm “đầu tay”, chị Thúy Bắc và cả anh Nguyễn Mạnh Thường, Trưởng phòng biên tập (Sau này là Giám đốc Xưởng phim) đã giúp tôi rất đáng kể cách cấu trúc cốt truyện.

Hà Nội, tôi và chị Thúy Bắc “gần nhà xa ngõ”; tôi ở 75 Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm; còn chị ở tầng 2 số 9 Xóm Hạ Hồi- phía sau nhà tôi. Từ khi biết chị, tôi thường qua lại. Tình chị em dần thân thiết như gia đình, nhiều lần chị mời tôi dùng cơm. Chị khác với những phụ nữ mà tôi tiếp xúc. Trong nhà, chị treo bức ảnh chân dung và trưng một tượng bán thân trong tủ kính thời chị còn rất trẻ. Điều đó có thể hiểu rằng chị cũng “vô thần”, vì người trẻ tuổi thường kiêng kỵ dữ lắm việc trưng treo ảnh, tượng kiểu chân dung... Còn trà, thuốc lá vẫn là thứ xa lạ với phái nữ miền Bắc thì chị nghiện cả hai. Những lần làm việc, chị uống trà rồi vô tư phì phèo thuốc lá. Tắt điếu này, châm điếu khác. Kẽ đầu hai ngón tay phải chị vàng xuộm. Nét môi ngoài như không còn tươi hồng nữa. Hàm răng to đều, hơi hô của chị cũng ngã màu. Khuôn mặt chữ “điền”. Tóc phi-rê kiểu ngắn. Áo quần kiểu “Hồng-kông”. Tất cả như toát lên bộc trực tính cách chị như con trai (và chị cũng thường nói vậy), sống sởi lởi, cởi mở, tốt tính với mọi người. Chất giọng khàn khàn dễ thương như chất giọng tiến sĩ văn học Đoàn Hương (tôi nghĩ vậy), chứ không phải giọng Nghệ, dù chị gốc Nghệ. Trao đổi công việc, chị thường nói oang oang, mà dễ mến, dễ gần. Những lần trao đổi, trò chuyện, tôi hiểu biết thêm ở chị nhiều điều, kể cả kiến thức nghề nghiệp, kinh nghiệm cuộc sống. Cơ hội này giúp tôi biên soạn hay viết kịch bản các phim tiếp theo được thuận lợi hơn, chị cũng ít phải sửa chữa hơn trước khi trình Ban biên tập duyệt. Tôi dần trưởng thành, đam mê sáng tác và viết báo từ đấy. Cũng qua chị tôi được gặp, biết thêm những người bạn thân của chị trong giới văn nghệ sĩ như nhà thơ Huy Cận, Trinh Đường, Chế Lan Viên, Xuân Quỳnh, Vũ thị Thường…họ cũng quí mến tôi.

Có một lần, chị đi công tác thực tế vào Huế và Quảng Trị về tôi tới thăm. Chị khoe rồi dở sổ tay đọc cho tôi nghe nhiều bài thơ vừa được sáng tác còn “nóng hôi hổi”, trong đó có bài “Sợi nhớ, sợi thương”. Chị chia sẻ với tôi từng bài thơ được ra đời trong hoàn cảnh nào. Đó là lần chị đi thực tế vào miền Trung, trời đang mùa mưa. Trường Sơn bên mưa, bên nắng và ngược lại là chuyện thường tình. Chiến trường như chưa nguội từng quang cảnh ! Kẽm gai, lưới B40 còn bao quanh các công sở, các khu phi quân sự của chế độ cũ. Đó đây còn hố đạn, hố bom…Chiếc xe tăng của Mỹ còn nằm chềnh hềnh, nòng pháo gục bên đường 9. Cảm nhận, thấu hiểu đời người lính chiến với B dài, B ngắn, với “cơm Bắc giặc Nam”….lãnh đủ gian khổ, hy sinh...Khi đó, chồng chị là chuyên viên cao cấp của Bộ giao thông vận tải cũng chi viện, công tác ở Lào - bên kia dãy Trường Sơn hùng vĩ cả chục năm. Nghĩ về tình cảm vợ chồng cách trở, khôn nguôi thương nhớ, cảm hứng sáng tác dâng trào…Thế là chị hoàn thành bài thơ “Sợi nhớ sợi thương” trong chốc lát, cấu tứ từng đôi 3 tiếng cứ dồn dập, âm điệu như tiếng lòng thổn thức. Vừa nhâm nhi trà Thái, vừa thuốc lá phì phèo, vừa tiếng Huế dìu dịu, chị cứ say sưa đọc toàn bài cho tôi nghe một cách vô tư, không hề thấy rằng có lúc tôi nhíu mày vì khói thuốc cứ cuộn tròn đặc quánh trước mặt. Tôi không lấy đó làm buồn. Mà thật sự cảm nhận và xúc động ở đôi tay chị cứ vô tư huơ huơ biểu cảm từng nỗi niềm, từng ý thơ. Khi chị đọc một hơi dài các câu: “Rút sợi thương- Chằm mái lợp (nay có sách in Chằm = Chắp!?); Rút sợi nhớ-Đan vòm xanh; Nghiêng sườn đông-Che mưa anh…Rợp trời thương-Màu xanh suốt; Em nghiêng hết- Về phương anh” thì thấy ánh mắt chị rưng rưng khiến tôi cũng ngùi ngùi trong dạ. Chị nói: Đây là tình cảm của chị với anh bằng lời !?. Rồi chị kể về hoàn cảnh gia đình trong chiến tranh, anh chị phải xa nhau hàng chục năm trời, 2 cháu nhỏ Tố Na (gái) và Đức Trung (trai) một tay chị đảm đang nuôi dạy nên người …Sau này, khi lớn, cháu Tố Na được sang Liên Xô học, cháu viết thư về kể mỗi khi nhớ mẹ lại tụ tập những người bạn thân thiết để cùng hát bài “Sợi nhớ sợi thương”mà nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc…để tự hun đúc chí bền nơi đất khách và vợi đi nỗi nhớ quê nhà, nhớ mẹ, nhớ cha….Bây giờ chắc hai cháu đã đuề huề quế hòe thê tử !?.

Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sông bằng nước phẳng”. Thực tế đâu có con sông nào bằng?! Với cuộc đời - sự nghiệp của chị, tôi làng màng hiểu ra không mấy phẳng phiu. Thuở thiếu thời chị đắm say văn chương mà nhịp sống tự nhiên đưa đẩy chị học chuyên ngành Mỹ thuật, rồi học đạo diễn điện ảnh… Cũng dăm ba lần chị thử sức làm diễn viên điện ảnh nhưng không có cơ duyên. Tốt nghiệp các khóa học với chứng chỉ khá-giỏi, chị nhận công tác ở Xưởng phim truyện TW- làm biên tập …Rồi không biết sự kiện nội bộ thế nào, chị đột ngột chuyển nhận công tác ở Xưởng phim đèn chiếu TW- một cơ quan thuộc Bộ Văn hóa, tiếp tục làm biên tập và sáng tác một thời gian dài. Khi Xưởng phim đèn chiếu không còn phù hợp xu thế, chuẩn bị giải thể, chị chuyển về công tác ở Trường viết văn Nguyễn Du (trong khu trường Đại học văn hóa ngày nay) - khi đó mới thành lập, tất cả đều còn sơ khai về hình thức, vật chất thiếu thốn, có đâu đuỳnh huỳnh như ngày nay ngang qua ta vẫn thấy!. Tuy vậy, chúng tôi vẫn thường gặp nhau đàm đạo sự đời, và công việc. Không ít lần, vẫn với tính cách vô tư, hồ hởi, chị khoe đã góp phần quan trọng đào tạo nên nhiều nhà văn, nhà thơ thế hệ mới, có tiềm lực từ Trường viết văn Nguyễn Du. Rồi chị xin nghỉ hưu sớm để tiếp tục “niềm thơ” mà chị đam mê, cả đời đeo đuổi. Theo tài liệu tôi biết được, trong sự nghiệp văn chương, chị khá thành công với hàng chục Tiểu thuyết và Thơ đã được phát hành theo mạng lưới quốc doanh. Phải dùng từ “Quốc doanh” là bởi đặc điểm thời thế bấy giờ khâu kinh phí, kiểm duyệt, in ấn, phát hành đều khó khăn, chặt chịa lắm, tuyệt nhiên không ai có thể tự in, tự phát hành như bây giờ !. Tất cả đều qui thuộc Nhà nước quản lý độc quyền bằng cơ chế. Có thấu hiểu điều đó mới thấy cần quí trọng, nâng niu sự cần mẫn như “con ong thợ” của nhà thơ Thúy Bắc!. Chỉ vẻn vẹn trong 8 năm nghỉ hưu (1988-1996), chị được phát hành một lượng sách có thể nói là khá “đồ sộ”: Thơ 3 tập: Nỗi đau không lành; Đau cùng ngọn lửa; Một niềm yêu (Trước đó đã có các tập: Tiếng thầm, Người ươm hạt, Hoa trắng). Tiểu thuyết 5 tập: Nơi có giàn hoa tím; Trước ngôi nhà hộ mệnh; Gió phía rặng Bồ đề; Lỗi đạo; Hôn lễ trắng. (Trước đó có 2 tập truyện cho thiếu nhi: Bản thông cáo trên câyChuyện riêng chú chim yến). Điều bất ngờ ít ai để ý là bìa các tập Thơ, Tiểu thuyết này, trước khi bản thảo được duyệt, đưa in, phát hành đều một tay chị sáng tác, trình bày-bởi chị đã từng học trường Mỹ thuật Hà Nội mà. Ngoài lĩnh vực sáng tác, chị chủ biên và tổ chức phát hành 2 cuốn sách để đời: “50 năm thơ nữ” và “50 năm truyện ngắn nữ” đều có độ dày mỗi cuốn hơn 500 trang, bao gồm các bài thơ hay, các truyện ngắn hay của hơn 100 thi sĩ, nhà văn nữ trong hai cuộc kháng chiến, quốc doanh sách phát hành năm 1995-1996. Chị cũng góp phần cùng đồng nghiệp giữ vai trò lãnh đạo thành lập “Câu lạc bộ nâng đỡ các tài năng Văn học-Nghệ thuật (LAAP)”; đồng thời tổ chức thành công các cuộc triển lãm tranh, đêm nhạc của các họa sĩ, nhạc sĩ từng vang bóng một thời…Điều đó minh chứng cái tầm, cái tâm nhãn quan của chị với văn chương, với đồng đội, với phái đẹp của mình.

Có lần uống càfê, nhà thơ Thúy Bắc bộc bạch với tôi: Nam nhi các cậu thì ham hố quyền bính! Bởi có giữ vai trò lãnh đạo thì ý chí cách mạng tích cực của mình mới dễ bề được thực hiện. Ông Nguyễn Công Trứ cũng từng nói: “Chí làm trai sống trong trời đất/ Phải có danh gì với nước non”. Tớ thì không ! Cóc cần !. Ấy chị nói vậy, riêng tôi hiểu là, có thời kỳ chị cũng trải nghiệm điều này…nhưng tế nhị quá nên chị tự từ bỏ ý định !. Chị tập trung tư tưởng và thời gian chăm chút với thơ, với văn, với bao nỗi niềm trăn trở! dang dở!…Rồi như sự đời có định phận, nên tháng 6/1996 chị viết: “Em không lường phía ấy sẽ là sông/ Mênh mang gió và mênh mang nắng/ Mênh mang đường mình –số phận.”(Mênh mang đường mình).

Như đường thơ, đường văn chị Thúy Bắc đang ở độ chín của tuổi ngoài “Tri thiên mệnh”!?. Vậy mà, rạng sáng 12 tháng 9 năm 1996 chị vô tình ngã quỵ trong nhà tắm rồi ra đi nhanh chóng! Khiến Sợi nhớ Sợi thương chị thành nỗi niềm trong tôi từ khi biết chị đến nay./.

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Nhân vật  

Nhà văn Sơn Tùng: một huyền thoại đời thường

VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...

Thư giãn  

Thấy, nghĩ và viết: “Từ đâu đến đâu”

VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...