Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Chế Lan Viên

28-04-2011 03:32:02 PM

VanVN.Net - Chế Lan Viên (1920-1989), tên thật là Phan Ngọc Hoan, quê gốc ở Quảng Trị, học trung học và bắt đầu làm thơ ở Quy Nhơn. Tập thơ Điêu tàn, xuất bản năm ông 17 tuổi, đã sớm đưa ông vào hàng ngũ những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Thời kỳ ấy ông đã cùng với Hàn Mạc Tử, Bích Khê... khởi xướng Trường thơ loạn mang nhiều yếu tố tượng trưng, siêu thực…

Năm 1945, Chế Lan Viên có mặt trong đội ngũ những nhà thơ tham gia cách mạng. Những năm kháng chiến chống Pháp là những năm ông đổi thay đời, đổi thay thơ. Từ siêu thực ông trở về hiện thực, từ tâm sự cô đơn ông đến với tâm trạng của toàn dân tộc, nhưng thành tựu tác phẩm chưa cao, tập thơ Gửi các anh (1954) còn như một cuộc thử nghiệm, có tính cách báo hiệu những đổi thay trong cảm xúc và trong phương thức biểu hiện của thơ ông. Phải đến Ánh sáng và phù sa (1960) Chế Lan Viên mới thật sự chín trong khuynh hướng mới. Có thể coi ánh sáng và phù sa là thành tựu đánh dấu bước trưởng thành của cả nền thơ cách mạng nước ta. Sau Ánh sáng và phù sa liên tiếp ba thập niên, sức bút của Chế Lan Viên ngày một tung hoành, mang rất nhiều yếu tố mới lạ trong cách lập ý, cấu tứ, mở rộng dung lượng của thơ, sáng tạo nhiều hình thức biểu hiện, góp phần hiện đại hoá câu thơ Việt Nam. Những điều Nghĩ về nghề của ông sâu sắc, mới mẻ, thấu đáo, lại viết bằng thơ rất tài hoa đã có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành diện mạo của cả nền thơ. Nhiều nhà thơ trẻ hình thành trong chiến tranh chống xâm lược Mỹ đã chịu ảnh hưởng từ tài năng ông.

Che Lan Vien (1920-1989), whose real name is Phan Ngoc Hoan, was born in Quang Tri. He earned his education and started his career as a poet in Quy Nhon. The poem collection of Dieu Tan, published when he was 17, made him one of the typical poets of Tho moi movement (New Poetic trend). Along with Han Mac Tu, Bich Khe, he triggered Truong tho loan consisting of various symbolic and surrealistic elements. In 1945, Che Lan Vien became a patriot poet and thus, marked a significant turning point in his life as well as his poems in the resistance against the French colonization of Vietnam. Transferred from surrealism to realism, from his lonely feelings to the sense of the whole country; however, his poem collection of Gui cac anh (To the soldiers) (1954) was considered a pilot works signaling major changes in emotions and expressing methods in composing. It was Anh sang va Phu sa (Light and Alluvium) (1960) that signaled the ideological maturity of himself and the development of revolutionary poetry of Vietnam in the new poetic trend. During the next three decades, Che Lan Vien continued to applied new practices, which helped modernize Vietnamese verses, in rhyming and meaning planning; hence, extending the scope of poems and creating innovative expressing ways. His poems in Nghi ve nghe (Thoughts of writing profession), which are very profound, fresh, creative, has a remarkable contribution to shaping the face of Vietnamese poetry. Therefore, a number of young poets of that time have been influenced by his writing style.

Ông là nhà thơ phong phú bậc nhất trong nền thơ Việt Nam hiện đại.

He has been the most creative poet in modern Vietnamese poetry.

Ông nhận Giải thưởng Hồ Chi Minh năm 1996.

He was awarded the Ho Chi Minh prize in 1996.

Tác phẩm chính về thơ: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (1954), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1985), Tuyển tập (1985), Nàng và tôi (1992), Di cảo (1994), Di cảo II (1995), Di cảo III (1996).

His main works in poetry include: Điêu tàn (1937), Gửi các anh (1954), Ánh sáng và phù sa (1960), Hoa ngày thường chim báo bão (1967), Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Hái theo mùa (1977), Hoa trên đá (1985), Tuyển tập (1985), Nàng và tôi (1992), Di cảo (1994), Di cảo II (1995), Di cảo III (1996).

Phong phú về nội dung: biên độ cảm xúc ở ông rất rộng, đề tài thơ ông là muôn mặt cuộc đời.  Ông nghe được những biến động  nhỏ bé của tâm hồn con người trong những tình cảm riêng tư, rất riêng tư Cầm tay em vuốt ve / Hồn im... cho tay nghe... Ông lại cũng chia xẻ kịp thời những tình cảm rộng lớn của toàn dân tộc khi Một đảo vắng Hòn Ngư còn chớp bể/ Một rặng núi Kỳ Sơn từng lám lúc mưa nguồn bị xâm phạm. Ông xao xuyến với tiếng chim vít vịt kêu mưa, với hình ảnh cái thành phố nhỏ nhoi Sông Cầu hư ảo trong ký ức. Ông thâm trầm triết lý với gió lật lá sen hồ, với tiếng chim tu hú giục mùa vải đỏ và ông ứa nước mắt nghe nhịp xênh tiền mộc mạc:

His works have a rich content; a big amplitude of emotions; a wide range of topics. He listened to the smallest emotional changes in each person, particularly those with personal feelings like love, etc. Also, he showed his compassion and sympathy to the country during the war. He felt in love with the beauty of the country, even with very ordinary sceneries. For instance, he reasoned deeply as the wind crossing a lake of lotus, as koels calling for litchi season.

Ông áp đảo, ông tấn công trong những bài thơ đánh giạc. Ông nghẹn ngào thương mến trước những nỗi niềm sinh ly tử biệt của chiến tranh:

As a strong soldier in his poems against the war, he expressed his empathy towards the pain of separation, of life and death due to the cruel war.

Ông phấn đấu nội tâm Nở chùm hoa trên đá/ Mùa xuân không chịu lùi. Và ông nhìn thẳng tới cái chung cục của mỗi đời người, cái chung cục chả ưng ý gì mà người ta phải trải, lúc lũ nhặng xanh bay sán đến thi hài. Thơ Chế Lan Viên giàu triết lý, không phải là thứ triết lý sách vở, nói cho sang, mà là thứ triết lý ông vịn vào để sống, để giải quyết việc đời, để ứng xử với đồng loại, nó là kinh nghiệm sống của đời, nó ấm như hơi thở của ông.

He exploited the innermost feelings from which he achieved a thorough understanding of the ups and downs in human life. According to him, these ups and downs all lead to an end that everyone has to suffer on earth no matter what they want. Che Lan Vien’s poems are full of reasons yet practical, with which he used to lead his life to encounter everything harsh in life and to gain a good manner getting as warm as his heart.

Chế Lan Viên cũng rất phong phú hình thức biểu hiện. Ông là người tích cực vào bậc nhất trong việc tìm tòi đổi mới dáng vẻ câu thơ, bài thơ Việt Nam ở thế kỷ 20 này. Ông hàm súc trong tứ tuyệt và ông cạnh tranh ôm chứa với văn xuôi trong các bài thơ dài, rộng khổ. Trong di cảo ông để lại có rất nhiều bài đã hoàn chỉnh, nhưng ông còn do dự chưa đăng, nhiều hơn nữa là những bài còn dang dở, dang dở vì  nghệ thuật chưa làm ông vừa ý, dù nội dung phác thảo đã mang phẩm chất của thơ rồi. Thơ trong Di cảo, theo tôi, là một chặng mới nữa trong đời thơ Chế Lan Viên, cả ở nội dung lẫn hình thức nghệ thuật.

Che Lan Vien’s poems are plentiful in methods for expressing.  He was one of the most active poets looking for innovations in poetry of Vietnam in the twentieth century. He combined poetry and prose in his works. His legacy comprised of both complete and incomplete works yet published due to his concerns that these works were not very poetic and thus did not meet his demands. However, in my opinion, I believe poems in Di cao are something fresh in Che Lan Vien’s career as a poet in terms of artistic content and form.

Đây là chặng ông nói hết những điều ông nghĩ, ông đính chính bổ sung những gì chưa nói đúng, nói đủ trước kia. Ông nhìn thẳng vào đời để chất vấn thơ. Lại nhìn thẳng vào thơ để phán xét mình.

This is the period when he spoke out what he really thought, and corrected what he had put it wrong or insufficient in the past. He looked straight at life to question poetry, and looked at poetry to question himself.

Chế Lan Viên là một tài năng chín sớm nhưng ông đã học hỏi không ngừng. Ông biết cách phát hiện để kế thừa những tinh hoa của cha ông ở thơ ca bác học lẫn thơ ca dân gian. Ông lại biết cách thâu tóm để đồng hoá những tinh hoa của thơ ca nhân loại từ Đông sang Tây, từ cổ điển Đường Tống đến lãng mạn, siêu thực châu Âu ¢u hiện đại.

Che Lan Vien is a poetic talent of untiring efforts of learning. He knew how to inherit and develop scholar and folklore poetry of Vietnam. He also knew how to synthesize and synchronize the beauty in poetry from the Orient to the West, from traditional Chinese poetry to romantic one, from the surrealistic to the modern.

Chế Lan Viên chính luận, Chế lan Viên triết lý, Chế Lan Viên trữ tình... tất cả đều bắt nguồn từ cảm xúc chân thành ấy, cảm xúc từ trách nhiệm với cộng đồng.

Che Lan Vien’s tract, theory and poem are inspired by the true emotion arouse from his responsibility for the community.

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Sự kiện  

Lễ kỷ niệm 50 năm thảm họa da cam ở Việt Nam

VanVN.Net - Sáng nay, 10/8/2011 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thảm họa da cam gieo rắc trên đất nước ta. Đúng ...

Nhân vật  

Công chức Nga thời nào tốt hơn

VanVN.Net - Nhà văn I. M. Poliakov, Tổng biên tập Văn báo, ủy viên ủy ban Văn hóa phủ Tổng thống, ủy viên Đoàn chủ tịch Hội nhà báo Matxcơva, tác giả nhiều tiểu thuyết chống quan liêu như Tình trạng ...

Thư giãn  

Thấy, nghĩ và viết: “Từ đâu đến đâu”

VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...

Nhà văn đọc sách  

Mấy ai đã đến tận cùng chiều sâu của biển

VanVN.Net - Đỗ Kim Cuông vừa cho xuất bản “Sau rừng là biển” - cuốn tiểu thuyết thứ 12. Đọc những trang đầu, tưởng chỉ là một câu chuyện đơn giản và quen thuộc: ba người lính quê một tỉnh đồng ...