VanVN.Net - Là thể loại năng động, bộ xương cấu thành thể loại của truyện ngắn luôn thay đổi do tác động của điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội. Trước 1975, do tác động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh và yêu cầu của Đảng về một nền văn nghệ cổ vũ, động viên cho hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng mang đặc trưng “ký hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Trong điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước sau 1975, thể loại nhạy cảm này chắc chắn có những thay đổi quan trọng.
Giới nghiên cứu cũng như giới sáng tác hầu như đều thống nhất sau 1975, truyện ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công, “được mùa thể loại”. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng tiếp theo “những vụ được mùa của truyện ngắn, đây có thể coi là giai đoạn có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam”[1, 174]. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình “Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại” cũng khẳng định sự thành công của truyện ngắn sau 1975: “...truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành của công cuộc đổi mới” [5, 201- 203].
Theo chúng tôi, sự vận động và thành tựu của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 bộc lộ khá phong phú ở nhiều mặt. Ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số phương diện của hình thức thể loại.
1.1. Sự vận động ở dạng thức cấu trúc cốt truyện
Nhìn ở dạng thức cấu trúc cốt truyện, có lẽ đây là giai đoạn mà truyện ngắn Việt Nam có dạng thức thể loại phong phú và đa dạng nhất so với từ trước đến giờ. Có thể nói, luồng gió đổi mới đã tạo ra không khí sôi nổi chưa từng có trong đời sống văn học với sự phát triển đột phá của các cá tính, phong cách. Ở loại hình văn xuôi nghệ thuật, truyện ngắn, có lẽ là sân chơi rộng rãi nhất để các cây bút thể nghiệm và trổ ra những tìm tòi, phát kiến mới. Có khá nhiều những “tuyên ngôn mới” về văn chương được công bố, đi liền với tuyên ngôn là những sáng tác mang tính kiểm chứng. Qua quan sát tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy một số dạng thức cốt truyện sau tiêu biểu thể hiện sự tìm tòi đổi mới của truyện ngắn sau 1975.
Truyện cực ngắn, truyện ngắn ngắn, truyện siêu ngắn (truyện mi ni)
Truyện cực ngắn hay còn gọi là truyện ngắn mi ni là khái niệm để chỉ những truyện ngắn dưới 1000 từ. Trên thế giới, dạng thức truyện ngắn mi ni không còn quá mới mẻ. Từ những năm cuối của thế kỷ 19, đầu thế kỷ hai mươi, Kapka đã viết những truyện ngắn dưới 500 từ.Truyện Làng gần nhất nổi tiếng của ông dưới 100 từ. Một số truyện khác như Những thân cây, Về những ẩn ngữ,… chỉ khoảng 50 từ. Xu hướng viết truyện cực ngắn xuất hiện và rộ lên thành phong trào ở nước ta chủ yếu xuất hiện từ sau 1975. Vào khoảng giữa thập kỷ 80, Tạp chí Thế giới mới, phụ san của báo Giáo dục thời đại, lần đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn mi ni. Cuộc thi đã thu hút hàng trăm cây bút với hàng nghìn tác phẩm trên khắp cả nước. Cuộc thi không chỉ xới lên hứng thú viết truyện mi ni mà còn tạo dấu mốc, từ nay truyện mi ni sẽ có chỗ đứng trong sự quan tâm của độc giả Việt Nam. Trong thời đại thông tin như hiện nay, người ta đọc truyện qua Môbai, qua các trang Web điện tử nên xu hướng viết truyện mi ni đang là sự lựa chọn của nhiều cây bút, nhất là những cây bút thế hệ 8X, 9X.
Đặc điểm của truyện cực ngắn là sự giản lược tối đa tình huống, tình tiết, chi tiết truyện. Nếu truyện ngắn “sống” bằng chi tiết thì truyện mi ni “sống” bằng ý tưởng. Tình tiết, chi tiết, tình huống trong truyện mi ni không có giá trị tạo dựng cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa gợi ra ý tưởng. Người đọc không phải quá bận tâm về tình tiết, chi tiết mà cần quan tâm đến sự gợi mở của các tình tiết, chi tiết ấy. Ở truyện cực ngắn, tình tiết, chi tiết như chiếc chìa khoá để mở ra những lớp ý tưởng mà tác giả muốn gửi gắm và người đọc đồng sáng tạo. Thử khảo sát một vài truyện sau: Truyện “Nó”: Ba nó bỏ đi lúc nó còn đỏ hỏn. Ngoại và mẹ nuôi nó trong nghèo khó. Đau khổ và hạnh phúc. Được vài năm, cái đói nghèo cướp mất ngoại. Thiếu hơi bà, nó ngằn ngặt khóc đêm. Mẹ chỉ ôm nó vào lòng, để tay lên ngực trái, dỗ dành “Ngoại có đi đâu! Ngoại ở đây mà!”. Vậy là nó nín.
Rồi mẹ cũng theo bà. Hôm tang mẹ, thấy dì khóc, nó bảo “Mẹ có đi đâu! Mẹ ở đây mà!” rồi lấy tay đặt trên ngực trái, chỗ trái tim. Nó dỗ thế mà dì chẳng nín, lại ôm nó khóc to hơn. (Thanh Hải) [http://smileyscentral.com/cat/11/11_12_11.gif]
Có một số chi tiết được nói tới nhưng không được khai thác mà chỉ đưa ra như những thông báo: Ba bỏ đi, Ngoại mất, Mẹ mất. Nó khóc đòi ngoại v.v…; Có nhân vật: Ba, Ngoại, Mẹ, Dì, và Nó, nhưng cũng chẳng có nhân vật nào được khắc hoạ tính cách cụ thể mà chỉ được gợi ra, được nhắc đến, có vai trò như “phông”, “nền” để tác giả đóng lên cái “đinh” chi tiết. Toàn bộ câu chuyện này xoay quanh chi tiết được dùng hai lần, chi tiết “đặt tay lên ngực trái, chỗ trái tim”. Mẹ nó đã dùng cách ấy để an ủi nó khi Ngoại nó mất. Trái tim bé thơ của nó đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sự cứu rỗi đó và nó cũng định dùng cách này để giúp Dì. Nhưng Dì nó không những không nín mà còn “ôm nó khóc to hơn”. Nếu coi đây là chi tiết diễn đạt tư tưởng của truyện thì ngay cả ở chi tiết này tư tưởng cũng không nằm trong chi tiết mà nằm ngoài chi tiết. Người đọc có thể thấy sức nén của chi tiết. Tác giả không mô tả chi tiết, không diễn tả cảnh huống mà chỉ thông báo “kết quả” của cảnh huống, vì thế tất cả nội dung của truyện được “gợi” chứ không “tả”. Chẳng hạn, để thuyết phục một đứa trẻ thiếu cha, mẹ bươn chải kiếm sống, tuổi thơ sống với bà, được bà yêu chiều bằng sự bù đắp tình thương thì khi bà mất, chắc chắn đó sẽ là một mất mát lớn, không thể chỉ bằng một động tác và một lời thuyết phục đơn giản “Ngoại ở đây”. Nhưng chi tiết đứa trẻ vận dụng cách ấy để thuyết phục người lớn thì có thể có thật vì nó là đứa trẻ, tâm hồn ngây thơ trong trắng và tình yêu bà khiến nó có điểm tựa niềm tin. Có thể nói, tác giả đã “tóm” được chi tiết vừa giàu sức khái quát vừa rất cụ thể sinh động này để tạo nên hồn cốt cho tác phẩm: Tình yêu, sự yêu thương, chia sẻ, cảm thông, lòng nhân văn, nhân ái, vẫn là nội dung dễ lay động lòng người. Đó là điểm bắt đầu và là cái đích cuối cùng trong hành trình mà tạo hoá ban cho: hành trình làm người.
Tác giả Thuý Bắc lại có một truyện ngộ nghĩnh khác, truyện “Con muốn”: Cu Tí, ngoài giờ học bán trú ở trường. Buổi tối và chủ nhật còn phải thêm môn học đàn, học vẽ, học tiếng Anh. Thằng Tèo nhà bên cạnh bố mất sớm, mẹ nó phải nuôi ba đứa em nên Tèo phải nghỉ học. Hàng ngày mỗi khi nghe thấy tiếng đàn của Tí, Tèo rón rén nép mình bên hàng rào nhòm vô.
Nhìn ra thấy Tèo đứng đó, Tí mếu máo:
- Ba ơi, con muốn được như thằng Tèo
[http://smileyscentral.com/cat/11/11_12_11.gif]
Ở truyện này, ý nghĩa của truyện cũng không nằm trong chi tiết mà nằm ngoài chi tiết, từ sức gợi của chi tiết: Tèo, đứa trẻ thiếu cha, thèm những gì mình không có; Tí - quá đủ đầy sinh ra tâm lý ngược lại: muốn chối bỏ những điều kiện quá đủ đầy mà với tuổi thơ, có khi đó lại là gánh nặng, là áp lực. Triết lý rút ra từ đây: Hạnh phúc là cái gì thật khó giải thích, bất hạnh của kẻ này đôi khi lại là niềm mơ ước của kẻ khác. Song, ý nghĩa của câu chuyện không chỉ có thế. Từ mâu thuẫn đằng sau tiếng cười là nước mắt, là thông điệp đầy day dứt: xã hội vẫn còn nhiều những cảnh ngộ éo le như hoàn cảnh của cu Tí; làm sao để mọi đứa trẻ đều được đến trường? làm sao để có một nền giáo dục lý tưởng - ở nền giáo dục ấy mọi trẻ em đều được quan tâm đúng như tinh thần của câu khẩu hiệu: “Hãy giành cho trẻ em những gì tốt nhất”. Ở môi trường giáo dục ấy, mọi trẻ em đều tìm thấy niềm vui, hạnh phúc, tình bạn, và niềm tin yêu vào cuộc đời. Hoặc giả, có thể còn thông điệp khác, hãy bớt chút thời gian để quan sát cuộc sống của những người xung quanh, ta sẽ nhìn ra mình rõ hơn, có cách sống hài hoà hơn, biết chia sẻ và cảm thông với đồng loại.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyện mi ni đang ngày càng nở rộ và chiếm lĩnh văn đàn ở nhiều hình thức.
Truyện trong truyện và truyện liên hoàn
Ngược lại với kiểu truyện mi ni, dạng thức truyện trong truyện và truyện liên hoàn lại là hình thức kéo dài truyện, chuyện nọ kéo sang chuyện kia hoặc gối lên nhau thành các lớp truyện hoặc chuỗi truyện nhiều khi khá phức tạp. Đại diện cho kiểu kết cấu cốt truyện này là Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều chi tiết, tình tiết. Mỗi nhân vật trong tác phẩm có thể đều tạo ra một đường dây sự kiện riêng, một mạch truyện riêng. Tác giả giống như người ưa la cà, và cũng là người tinh thông mọi chuyện, vì vậy, hễ cần dừng lại để lý giải, cắt nghĩa thì dường như ngay lập tức điều đó sẽ được làm sáng tỏ ngay. Thử lấy truyện Tướng về hưu làm minh chứng. Trong truyện ngắn này người đọc thấy có một loạt mạch truyện về các nhân vật có tên trong tác phẩm: Chuyện về tướng Thuấn, liên quan đến nhân vật chính này là chuyện về vợ tướng, con trai của tướng, cô con dâu, hai bố con người giúp việc, ông em họ xa, cô cháu họ xa, thậm chí một kẻ tạt ngang câu chuyện như một vết nhơ như nhân vật Khổng ở xí nghiệp nước mắm - nhà thơ cũng được tác giả “trích ngang” mấy dòng đủ để hình dung về loại thi sĩ nửa mùa kém cỏi về nhân cách. Truyện Con gái thuỷ thần là ba truyện ghép lại theo cấu trúc rất rời rạc: truyện thứ nhất, truyện thứ hai, truyện thứ ba. Đặc biệt hơn, truyện Những ngọn gió Hua Tát lại ghép từ 10 truyện, mỗi truyện đều có nội dung riêng, tình tiết riêng. Song, có một điều đặc biệt là, mặc dù truyện của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều sự kiện, mạch truyện như vậy nhưng vẫn là truyện ngắn với những yêu cầu nghiêm nhặt của thể loại, bởi những lý do sau: thứ nhất, mỗi truyện đều lấy điểm tựa là một lát cắt tình huống cụ thể, một sự kiện chính gắn với một nhân vật trung tâm. Mọi vấn đề xoay xung quanh tình huống chính ấy dù phức tạp và rối ren đến mấy cũng là thành phần nằm “ngoài cốt truyện”. Cái “lõi” thực của cốt truyện vẫn rất đơn giản. Chẳng hạn, truyện Tướng về hưu là tình huống tướng Thuấn sau bao năm trận mạc về nghỉ hưu tại quê nhà. Trong những ngày được tiếp cận với cuộc sống đời thường, vị tướng được chứng kiến thực tiễn của thời mở cửa cơ chế. Tình huống của truyện Sang sông là đứa bé tinh nghịch đút tay vào chiếc bình cổ. Tình huống của truyện Thương nhớ đồng quê sự kiện cô cháu họ xa về thăm quê. Trước mắt cô gái từ bé đã sống ở thị thành, từng du học bên Mỹ, con người và đồng quê Việt Nam thật là một thế giới mới lạ đối với cô. Nhâm, người có nhiệm vụ đón cô gái, đồng thời là “hướng dẫn viên” giúp cô tìm hiểu về con người và cuộc sống nơi đây v.v…
Theo phong cách kết cấu cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp là Phan Thị Vàng Anh và Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn Mười ngày của Phan Thị Vàng Anh cũng được cấu trúc “rời” như vậy, từng ngày một, đúng mười ngày, mười mẩu chuyện nhỏ về diễn biến tâm lý của một cô gái chờ đời người yêu về quê nghỉ tết trong mười ngày. Hàng loạt các truyện: Đất đỏ, Khi người ta trẻ, Si tình, Hoa muộn v.v…cũng được đánh số các phần. Toàn bộ truyện ngắn được “ghép” từ các mẩu chuyện nhỏ. Người đọc có cảm giác, việc kết thúc hay kéo dài truyện hoàn toàn nằm trong “ngẫu hứng” của tác giả. Sự trễ nải của mạch truyện nằm trong ý đồ của người viết, cũng là một phần tư tưởng của truyện.
Như vậy, khi “cài” các đường dây sự kiện xung quanh sự kiện, tình huống chính, tác giả đã mở rộng phạm vi tiếp cận và phản ánh hiện thực. Kiểu truyện lồng trong truyện thể hiện cách nhìn vừa bao quát song cũng thật cụ thể, một cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống và con người.
Truyện giả thể loại: giả ngụ ngôn, giả cổ tích, giả truyền thuyết, truyện truyền kỳ…
Giả thể loại cũng là một xu hướng làm mới dạng thức của truyện ngắn sau 1975. Các dạng thức như: ngụ ngôn, cổ tích, truyền thuyết, về mặt hình thức có dáng vẻ giống truyện ngắn (dung lượng ngắn, chỉ viết về một chuyện và về một vài nhân vật, phạm vi không – thời gian hẹp). Điểm khác biệt lớn nhất giữa truyện ngắn hiện đại với các loại hình truyện dân gian trên là, truyện dân gian không cần quan tâm đến lô gíc hoặc tính xác thực của câu chuyện. Ý nghĩa của truyện đã được định hướng sẵn và sẽ đạt tới mục đích như ý muốn. Đặc biệt, yếu tố huyền thoại kỳ ảo tham gia như một nhân tố chính, nếu không nói là bắt buộc của quá trình sáng tạo truyện. Chẳng hạn, trong truyện ngụ ngôn Trí khôn của ta đây, con hổ biết nói tiếng người, hiểu tiếng người nên bị anh nông dân lừa; Truyện Thánh Gióng với việc Thánh Gióng cởi áo giáp bay về trời; Truyện Nỏ thần với việc Thần Kim Quy hiện ra giác ngộ cho nhà vua và rẽ nước dẫn nhà vua xuống thuỷ cung; Truyện Trầu cau, có việc ba người chết đi hoá thành trầu, cau và đá vôi; Truyện Tấm Cám lại có rất nhiều lần hoá phép: Tấm hoá thành chim vàng anh, thành quả thị, thành khung cửi, v.v…
Một số cây bút hiện đại muốn “mượn” lại hình thức dân gian này để “lạ hoá” nội dung câu chuyện định kể. Hình thức “mượn” thứ nhất là “mượn” chi tiết. Các tác giả dùng các chi tiết mang tính huyền thoại kỳ ảo tham gia vào đường dây tổ chức cốt truyện để tạo sức lôi cuốn hoặc đó chính là cách để tác giả tôn vinh hay phủ định theo cách của dân gian. Song, để yếu tố huyền thoại có chỗ đứng, các tác giả đã tìm ra giải pháp: lời đồn, nghe phong thanh, có người kể lại, hoặc dùng hình thức “giấc mơ”, có khi cũng nói thẳng “truyền thuyết huyễn hoặc” v.v… Chẳng hạn như các chi tiết: “có người kể rằng khi lửa bốc cao thì trong quán có con chuột to bằng bắp chân người phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch” để ám chỉ việc chứa chấp những việc làm phi nhân tính của lão trùm Thịnh trong truyện Chảy đi sông ơi; Chi tiết hoa Tử huyền ba mươi năm nở một lần, ai may lắm mới bắt gặp như một phần thưởng cho ông Diểu, khi ông thả con khỉ bị thương ra, nồng nỗng trở về tay không sau chuyến đi săn trong truyện Muối của rừng; Chi tiết nhóm thợ được đi trên cầu vồng bảy sắc trong truyện Những người thợ xẻ cũng là cách bày tỏ thái độ khen ngợi những con người có cái tâm thiện theo cách ứng xử dân gian; Chi tiết hôm Nguyễn (tức Nguyễn Trãi) ngỏ lời cầu hôn Thị Lộ. “Đồn rằng hôm ấy có rồng bay trên sông cái” trong truyện Nguyễn Thị Lộ cũng bày tỏ thái độ ngưỡng mộ cặp “trai anh hùng gái thuyền quyên” mà số phận bi ai hiếm có trong lịch sử. Song chi tiết Đặng Phú Lân bị chém vì chính thanh kiếm gia truyền nên máu không đỏ mà trắng trong truyện Kiếm sắc lại mang thông điệp khác, sự oan nghiệt của số phận; Hình tượng Mẹ cả trong truyện Con gái thuỷ thần mang thông điệp về sức hấp dẫn của niềm tin, của chân lý hoặc lý tưởng, đôi khi là ảo ảnh. Giấc mơ của cô cháu gái trong truyện Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo cũng là một cách bộc lộ quan niệm về vẻ đẹp của tình yêu gắn với nghĩa vụ công dân trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm.
Hình thức “mượn” thứ hai là “mượn” lối viết. Những câu chuyện hư cấu và tưởng tượng hoàn toàn song lại mượn lối viết “chép lại”, có căn cứ, có tài liệu, có địa chỉ cụ thể, thậm chí còn dựng “gia phả” dòng họ kiểu như Nguyễn Huy Thiệp viết Giọt máu, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Nguyễn Thị Lộ, Chút thoáng Xuân Hương v.v… Với cách viết này, tác giả vừa làm sống lại những thông tin lịch sử khô khan, vừa tạo sắc thái hư hư thực cho những câu chuyện “bịa đặt” thêm phần hấp dẫn.
1.2. Sự vận động đổi mới ở phương diện trần thuật
Trong quan điểm thi pháp thể loại hiện đại, trần thuật có vai trò như là khâu then chốt thể hiện sự cách tân của một tác phẩm, một nền văn xuôi. Nền văn học nào sớm có những khám phá đổi mới ở phương diện này được coi là nền văn học đi tiên phong trên hành trình hiện đại hoá văn học. Một trong những phát kiến vĩ đại của nhà bác học Nga Baktin là đã dùng khoảng cách trần thuật để phân biệt bản chất thể loại của sử thi và tiểu thuyết một cách rõ ràng, khoa học và chính xác nhất.
Dấu hiệu khởi sắc theo hướng hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nói chung, mà trước hết là ở thể loại truyện ngắn cũng thể hiện rất rõ nét ở phương diện trần thuật. Sự đa dạng, phong phú, biến hoá của trần thuật đã đem lại cho truyện ngắn sau 1975 những biến hình mới, sinh động và thực sự hấp dẫn.
Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thuật “nhập vai”
Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thật “nhập vai” là để chỉ cách trần thuật linh hoạt khi vai trò “phát ngôn” được trao cho nhiều người, nhiều đối tượng trong tác phẩm. Không còn chỉ có một người kể chuyện mà nhiều người kể. Trước một vấn đề, một sự việc nào đó, vì được soi rọi bằng nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ nên sẽ hiện ra bằng diện mạo, hình thù khác nhau dẫn đến nhiều luồng dư luận, nhận xét khác nhau, thậm chí ngược nhau, do các điểm nhìn khác nhau về tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, học vấn, đôi khi là thói quen, sở thích v.v…Nhà văn có xu hướng đổi mới trần thuật sớm nhất cho nền truyện ngắn sau 1975 là Nguyễn Minh Châu. Trong truyện ngắn Bức tranh, tiếp đó là hàng loạt truyện ngắn khác của ông như: Chiếc thuyền ngoài xa, Cơ giông, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau v.v.. đều có cái nhìn đa chiều, trong xu hướng đối thoại này. Chẳng hạn, trước số phận cực nhọc, cam chịu của người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều “cái nhìn” soi rọi vào: Cái nhìn trẻ thơ trong sáng của đứa con trai khi nó kết án ông bố tàn bạo và thề sẽ giết chết ông ta. Nhưng đứa chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa ngăn nó lại. Nhà nhiếp ảnh thì sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng giải pháp ly hôn là đúng đắn nhất để cứu người đàn bà. Nhưng người đàn bà, kẻ hứng chịu tất cả những trận đòn tàn nhẫn và phi lý của chồng thì nhìn nhận khác hẳn: “Lòng các chú tốt nhưng các chú không hiểu hết cuộc sống sông nước”. Cuộc sống ấy không thể thiếu bàn tay chèo chống của một người đàn ông và ý nghĩa của người đàn bà là phải vì con cái mình. Từ Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Khải và đặc biệt đến Nguyễn Huy Thiệp, cách trần thuật từ nhiều điểm nhìn đã đạt đến đặc sắc. Để tạo ra sự bình đẳng cho các điểm nhìn, tác giả - người kể chuyện không làm thay nhân vật mà chỉ đóng vai trò “dàn dựng” lại sự việc. Thậm chí sự “dàn dựng” này như được làm một cách ngẫu nhiên. Chẳng hạn, đoạn kể về cha con tướng Thuấn bàn bạc việc gia đình: “…Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo: “Không!” Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã!”[8, 19]. Hoặc một cảnh khác: “Tôi cũng không hiểu tại sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì không có”. [8, 20]. Đọc Nguyễn Huy Thiệp có cảm giác, người kể chuyện không mấy khi thực hiện vai trò “kể” mà phần lớn chỉ thực hiện vai trò sắp xếp, tổ chức, nói đúng hơn, người “cắt dán” các cảnh lại với nhau với ý đồ trung thực nhất, ít chủ quan nhất bằng cách hạn chế thấp nhất sự tham gia của trữ tình ngoại đề. Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, nhiều lúc không tránh khỏi cảm giác thấy truyện rời rạc, lỏng lẻo, lan man. Tuy nhiên, người đọc được trải nghiệm nhiều cảm giác, suy nghĩ, được tranh luận và tự mình thấu nhận, rút ra những điều bổ ích. Và quan trọng nhất là tránh được cảm giác nhàm chán, đơn điệu trong cách tiếp cận tác phẩm.
Trần thuật bằng dòng ký ức nội tâm
Ngược với kiểu trần thuật “nhập vai”, trao vài trò kể chuyện cho nhiều người là kiểu trần thuật bằng “dòng ký ức nội tâm”. Với cách trần thuật này, mọi chuyện diễn ra trong dòng chảy ký ức hoặc dòng chảy nội tâm. Đây cũng là cách để tác giả “khách quan hoá” nội dung hiện thực trong tác phẩm hoặc tha hồ khám phá miền ẩn ức bên trong của tâm hồn con người. Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và hàng loạt cây bút trẻ mới xuất hiện gần đây như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Miêng, Trang Thanh, Trần Đức Tiến, Đỗ Hoàng Diệu v.v… đi theo xu hướng này. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là dòng chảy miên man trong suy nghĩ của nhân vật Nương- cô gái tội nghiệp, nạn nhân của thái độ vô trách nhiệm của người lớn, của sự tan vỡ hạnh phúc gia đình. Trong truyện ngắn này ai cũng nói rất ít, phần lớn những câu đối thoại hay độc thoại đều được “dịch” thông qua những phán đoán suy nghĩ chứ không phải là những lời thoại trực tiếp. Qua ký ức của cô bé, tuổi thơ hiện về, ba, má, cuộc sống nghèo mà yên bình trong xóm nhỏ. Rồi những bất ngờ dữ dội xảy đến, má bỏ đi, ba hận má, hận cuộc đời, kế đó là những năm tháng trôi nổi, phiêu dạt như những kẻ cô đơn, lạc loài trong xã hội loài người cho đến khi tai hoạ thực sự rơi xuống đầu…Kết thúc truyện vẫn là những dòng ký ức đau nhói, hoà trộn xót xa vói ân hận, thức ngộ và đau đớn tột cùng : “…Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi sao tôi lại không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều chiều cùng má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về) [9, 212]. Miêng trong truyện Hải nữ, Trần Đức Tiến trong truyện Miền cực lạc v.v… còn sáng tạo ra kiểu “phân thân” giữa linh hồn và thể xác để đi du ngoạn trong thế giới thầm kín, riêng tư nhất của nhân vật. Trong thế giới ấy, người ta như là một con người khác, nhiều khi khác biệt hoàn toàn với con người thường ngày. Con người hàng ngày của ông P là một con người bình thường hết sức, bình thường đến mức không gây một chút chú ý nào cho ai, ông lại có tính hay đỏ mặt. Nhưng khi ông tự tách linh hồn ra khỏi thân xác và linh hồn ông tự do phiêu diêu thì linh hồn ấy có thể làm những chuyện không thể tưởng tượng nổi. Ông P luôn luôn đi thực hiện những chuyến gặp gỡ, hẹn hò bí mật với những người đàn bà mà ông thích hoặc muốn: một á hậu xinh đẹp, một cô thợ may mà ông thấy gần gũi, có lúc còn lạc vào nhà thổ v.v…Hình như với cách thể hiện này, tác giả muốn chứng minh, trong con người ta ai cũng có hai con người. Một con người với thân xác hiện hữu cùng với muôn mối ràng buộc của nghĩa vụ và trách nhiệm và một con người bên trong thầm kín với những suy nghĩ, việc làm chỉ mình mình biết. Con người bên trong ấy có đời sống riêng và luôn tìm cách chống lại con người cụ thể với thân xác hiện hữu. Phải chăng, đó cũng là nhận thức và khám phá về sự phức tạp của con người. Kiểu trần thuật dòng ký ức thường được những cây bút trẻ khai thác, có lẽ vì nhu cầu khám phá, nhất là khám phá bản thân luôn là nhu cầu của lứa tuổi này.
Gián cách thời gian trần thuật
Gián cách thời gian trần thuật là cách mà Nguyễn Thị Minh Thư đã sử dụng trong truyện ngắn Có một đêm như thế. Cùng một lúc tác giả cho xuất hiện ba lớp thời gian nhưng không phải kiểu thời gian đồng hiện hoặc liên tưởng của ký ức. Tuy nhiên, cách trần thuật này dường như không mấy thông dụng, bởi không có nhiều người lựa chọn lối viết gián cách này. Có lẽ cách viết này có cái khó riêng không dễ áp dụng hoặc sáng tạo.
1.3. Sự vận động đổi mới ở phương diện ngôn ngữ
Với tư cách là công cụ của tư duy, là “cái vỏ của tư duy”, sự biến đổi của ngôn ngữ văn học liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Vì vậy, sự xác định tiêu chí cho vấn đề này không dễ. Chẳng hạn, nhiều người đánh giá cao bước phát triển của ngôn ngữ văn xuôi hiện nay (thí dụ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong lần nói chuyện với cán bộ, sinh viên khoa Ngữ văn- ĐHSP Hà Nội ngày 16-4-1994 cho rằng; “Lớp trẻ đã có ngôn ngữ mới. Nguyễn Huy Thiệp là người thực sự cách tân ngôn ngữ truyện ngắn. Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh cũng thế”. Nhưng cũng nhiều người phản ứng, hoảng sợ, họ thấy văn Nguyễn Huy Thiệp “dung tục”, “kinh tởm”, văn Phạm Thị Hoài là văn của người “nhìn đời Việt Nam bằng con mắt Do Thái và văn viết bằng tiếng của F.Kapka (ý kiến của tác giả Triệu Minh về Phạm Thị Hoài trên văn ghệ số 2- 1996). Tiếng Việt trong sáng nhờ được mỹ lệ hoá hay chính xác hoá, nhờ sự khu biệt hay khả năng hội nhập? Những vấn đề này cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Ở đây, chỉ nêu một số đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật thấy đổi khác so với giai đoạn trước 1975.
Ngôn ngữ đời thường- gia tăng tính khẩu ngữ
Trong văn xuôi, bước đổi thay của ngôn ngữ lúc đầu gắn với nhu cầu “được nói thật”. Sự cổ vũ của Đảng “nhìn thẳng và nói thật” cho phép nhiều tác phẩm chống tiêu cực ra đời. Ngôn ngữ văn xuôi bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọng điệu, thô nhám trong từ ngữ. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp như một hiện tượng “lạ”. Ngoài khả năng biến ảo của một bút pháp đa dạng, đa tầng, tác giả này còn gây cú sốc thực sự cho ngôn ngữ văn học. lối nói “cộc lốc”, sắc bén và hàm súc, câu văn ngắn gọn, dồn dập, hạn chế tối đa các liên từ, nén năng lượng làm rung chuyển lối văn mực thước, trang trọng hoặc rào đón, đưa đẩy. Ngòi bút tác giả này như không hề biết đến những gửi thưa kiểu cách, những nghi thức nhiều khi rất nhiều khách sáo, mặc nhiên khẳng định tư thế bình đẳng, dân chủ giữa con người với con người. lối văn đó phù hợp với cái hiện thực đời thường mà anh mô tả. Chẳng hạn, tác giả tả đám cưới của anh chàng lái xe bò kết hôn với cô mẫu giáo con ông vụ phó: “đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc com lê đen, cravát đỏ. Tôi phải cho mương cái cravát đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn nhưng chắc gì đòi được. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp…” [8, 22]
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp và trong không khí dân chủ cởi mở của xã hội, xuất hiện hàng loạt cây bút trẻ. Họ ít bị ràng buộc bởi những tín điều đạo đức, luân lý, vừa tự tin vào mình, vừa nhiều hoài nghi đối với cuộc đời. Họ sử dụng văn chương để bộc lộ “cái tôi” cá tính là chính, nên họ quan tâm hơn đến vấn đề “viết như thế nào”. Phạm Thị Hoài quan niệm “viết như một phép ứng xử”. Và trong quan niệm ấy, nhà văn nữ này chọn phép ứng xử: không tiếp tục thứ văn chương “đặc sản dành riêng cho những người sành ăn” như văn chương Nguyễn Tuân mà chọn hướng văn chương “gia tăng tính khoa học, tốc độ và khả năng biểu đạt tư duy hình tượng của nó”. Có thể nói, chưa bao giờ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ những câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần trụi xuất hiện nhiều đến thế. Để chống lại lối văn chương nhiều tính hành chính khô khan hoặc du dương thi vị nhưng ít cá tính, ngôn ngữ truyện ngắn dung nạp rất nhiều khẩu ngữ, cố tính coi thường cú pháp, “nhại” lại mọi ngôn ngữ kiểu cách. Chẳng hạn: “Man Nương, tôi gọi em như vậy những buổi chiều bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ trong căn phòng trống rỗng tầng ba có hai nhành xanh một thứ cây nào đó tôi không bao giờ biết tên” (Man Nương- Phạm Thị Hoài). Hoặc: “Chức cách đây mấy hôm tthấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch” (Hoa muộn- Phan Thị Vàng Anh); “Cái lão Khúng này thiết đếch gì! Sao với chả trăng! Cho cái mặt trời ông cũng đếch thiết nữa là!...” (Phiên chợ Giát- Nguyễn Minh Châu); “…thế đấy. Chó của tôi thì kém đếch gì một con beo? Này, anh còn nhớ thượng tướng Th không? Cái ông già gàn dở nổi tiếng toàn quân về phong thái “hiên ngang” ấy mà, đã gạ đổi con Tuýt lấy một cặp bẹc giê Sibêri đấy. Ồ xin lỗi! Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu ngài thôi”(Con thú bị ruồng bỏ- Nguyễn Dậu) v.v…
Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận
Nhu cầu gia tăng tính tốc độ và thông tin đặt ra như một đòi hỏi chính đáng và tất yếu ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, liên quan đến nhịp sống hiện đại, nhất là nhịp điệu của cơ chế thị trường.
Tính tốc độ thể hiện ở cách vào truyện nhanh, diễn đạt ngắn gọn, nén thông tin. Ở phương diện ngôn ngữ, có thể nhận thấy việc sử dụng các “điển cố” hiện đại như các thuật ngữ khoa học chuyên ngành, thậm chí cả tiếng nước ngoài vào trong diễn đạt, chẳng hạn “chuỗi xoắn kép, đột biến, bức xạ nhiệt, đồ thị hyperbol, the end of something v.v…những cụm từ này thay thế cho rất nhiều lời diễn giải. Nhiều khi, một thứ ngôn từ ước lệ, “hàm súc” và nhiều ngụ ý bắt nguồn từ sinh hoạt giao tiếp hiện đại, nếu được sử dụng đắc địa, nó vừa như một hình thức phổ biến của khẩu ngữ Việt Nam, mang đậm dấu ấn lịch sử, tâm lý, vừa chuyển tải được thông tin lớn. Thí dụ: “Bản nhạc đánh theo kiểu nội địa” (Chuyện thày AK. Kẻ sĩ Hà Thành). “Nào hết cấm vận đến nơi, nào kinh tế thị trường quốc tế, nào liên doanh thương mại thế mạnh” (Đất xóm chùa- Đoàn Lê); “Đảm bảo không có chuyện Nguyễn Văn Mười Hai” (Vũ điệu của cái bô- Nguyễn Quang Thân)
Lượng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều ngụ ý. Ngôn ngữ này là kết quả tất yếu của tính phức điệu, đa thanh trong tư duy tiểu thuyết. Mặt khác, ngôn ngữ đa nghĩa cũng là sản phẩm của hứng thú triết luận càng ngày càng nổi rõ trong văn xuôi. Văn Nguyễn Huy Thiệp đa nghĩa từ chi tiết đến tổng thể, nhiều sức gợi liên tưởng ra bên ngoài tác phẩm. Cái “phức tạp”, “nhiều tầng lớp” có được, một phần là nhờ ngôn ngữ đầy tính ẩn dụ, nhiều nghĩa, cho phép người đọc phát huy cao độ sức liên tưởng và kinh nghiệm cá nhân vào việc lĩnh hội nghệ thuật. Xin nêu một số ví dụ: lời Đặng Phú Lân nói với Nguyễn Ánh về thanh bảo kiếm “Trước chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm, thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó” (Kiếm sắc); “Trời rất xanh. Giữa trời có đám mây trắng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết. Thoắt cái, gió xua mây đi, nhà hiền triết biến thành con chó xồm lớn”(Nguyễn Thị Lộ- Nguyễn Huy Thiệp). Các tác giả có thiên hướng kiếm tìm ý nghĩa triết học nhân sinh qua diễn tả đời sống cụ thể. Điều đó đem lại cho các tác phẩm ý vị triết lý và giá trị phổ quát. Đáp ứng yêu cầu này, ngôn ngữ văn xuôi tất yếu sẽ bớt đi phần “kể”, phần “tả” và tăng phần triết luận, khái quát, nhà văn khi ấy sẽ hiện diện qua ngôn ngữ “trữ tình ngoại đề”. Ở Nguyễn Minh Châu, thường thấy như vậy: “Rồi thì cũng như mọi người khác, tôi vẫn không thể đi trốn được số phận, tôi không thể đi trốn được khỏi cuộc đời mình một khi mà tôi còn sống”, “chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt lên”, “Nỗi đau mất mát trong lòng người đàn bà lắm khi chả khác nắm cỏ trong dạ dày loài nhai lại..”(Cỏ lau). “Tôi đưa cháu Quỳnh về trước đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh vẫn nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của cháu Quỳnh thì không thể nào cứu chữa nổi” (Con thù bị ruồng bỏ - Nguyễn Dậu).
Cùng với hình thức đã có nhiều thay đổi, ngôn ngữ của truyện ngắn ngày nay, linh hoạt, sinh động và giàu chất đời thường. Ba chục năm qua, nhìn lại ngôn ngữ của truyện ngắn nói riêng, văn xuôi nói chung đã hiện diện qua “các cuộc thí nghiệm”. Đã là thí nghiệm không tránh khỏi phiêu lưu. Tuy nhiên, “cùng với thời gian và độ chín của các tài năng, ngôn ngữ của truyện ngắn đã và đang đạt đến độ ngưng kết mới”.
Kết luận:
Truyện ngắn Việt Nam trong vòng ba mươi năm qua đã đi trọn một chặng đường. Chặng đường ấy gắn liền với sự kiện chính trị trọng đại: Đại hội VI quyết định cho công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước. Văn học thuộc lĩnh vực nhận thức xã hội thông qua cá nhân nhà văn nên không thể không chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của xã hội. Truyện ngắn sau 1975 tuy có khác nhiều so với truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 nhưng nó vẫn phát triển trên cái nền của những thành tựu truyện ngắn 1945 - 1975 đã đạt được. Ngay những nhược điểm, những hạn chế không thể tránh khỏi của giai đoạn trước cũng giúp cho kinh nghiệm nghệ thuật của giai đoạn sau rất nhiều.
Nhìn tổng thể, sự vận động của truyện ngắn sau 1975 đã diễn ra giống như một cuộc nhận đường toàn diện và sâu sắc: từ ý thức nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ tư tưởng đến thi pháp. Sự vận động ấy hướng mạnh mẽ đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể loại. Về mặt hình thức, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đổi mới rõ rệt nhất ở ba phương diện: dạng thức cấu trúc cốt truyện, trần thuật và ngôn ngữ truyện. Những cách tân ở ba phương diện ấy đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho truyện ngắn Việt Nam, thể loại vốn được xem là thể loại “cái” của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, H.
2. Nguyễn Đăng Mạnh, "Nói ngắn về truyện rất ngắn", Thế giới mới số 69/1993.
3. Nguyên Ngọc (1994), Truyện rất ngắn - tác phẩm nghệ thuật (Lời giới thiệu tập 40 truyện ngắn chung khảo cuộc thi truyện thế giới mới), Nxb Hội nhà văn, H.
4. Lã Nguyên, "Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật", Tạp chí văn học, Số 2/1989.
5. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, H.
6. Hỏa Diệu Thuỳ, "Chặng khởi động trong hành trình truyện ngắn Việt Nam sau 1975", Tạp chí Văn học, Số 07/2011.
7. Hỏa Diệu Thúy, "Về một số khuynh hướng thể tài của truyện ngắn Việt Nam sau 1975", Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 6/ 2010.
8. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn học.
9. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.
(Nguồn vanhoanghean.vn)
VanVN.Net - Là thể loại năng động, bộ xương cấu thành thể loại của truyện ngắn luôn thay đổi do tác động của điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội. Trước 1975, do tác động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh và yêu cầu của Đảng về một nền văn nghệ cổ vũ, động viên cho hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng mang đặc trưng “ký hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Trong điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước sau 1975, thể loại nhạy cảm này chắc chắn có những thay đổi quan trọng.
Giới nghiên cứu cũng như giới sáng tác hầu như đều thống nhất sau 1975, truyện ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công, “được mùa thể loại”. Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng tiếp theo “những vụ được mùa của truyện ngắn, đây có thể coi là giai đoạn có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt Nam”[1, 174]. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình “Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại” cũng khẳng định sự thành công của truyện ngắn sau 1975: “...truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành của công cuộc đổi mới” [5, 201- 203].
Theo chúng tôi, sự vận động và thành tựu của truyện ngắn Việt Nam sau 1975 bộc lộ khá phong phú ở nhiều mặt. Ở bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số phương diện của hình thức thể loại.
1.1. Sự vận động ở dạng thức cấu trúc cốt truyện
Nhìn ở dạng thức cấu trúc cốt truyện, có lẽ đây là giai đoạn mà truyện ngắn Việt Nam có dạng thức thể loại phong phú và đa dạng nhất so với từ trước đến giờ. Có thể nói, luồng gió đổi mới đã tạo ra không khí sôi nổi chưa từng có trong đời sống văn học với sự phát triển đột phá của các cá tính, phong cách. Ở loại hình văn xuôi nghệ thuật, truyện ngắn, có lẽ là sân chơi rộng rãi nhất để các cây bút thể nghiệm và trổ ra những tìm tòi, phát kiến mới. Có khá nhiều những “tuyên ngôn mới” về văn chương được công bố, đi liền với tuyên ngôn là những sáng tác mang tính kiểm chứng. Qua quan sát tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy một số dạng thức cốt truyện sau tiêu biểu thể hiện sự tìm tòi đổi mới của truyện ngắn sau 1975.
Truyện cực ngắn, truyện ngắn ngắn, truyện siêu ngắn (truyện mi ni)
Truyện cực ngắn hay còn gọi là truyện ngắn mi ni là khái niệm để chỉ những truyện ngắn dưới 1000 từ. Trên thế giới, dạng thức truyện ngắn mi ni không còn quá mới mẻ. Từ những năm cuối của thế kỷ 19, đầu thế kỷ hai mươi, Kapka đã viết những truyện ngắn dưới 500 từ.Truyện Làng gần nhất nổi tiếng của ông dưới 100 từ. Một số truyện khác như Những thân cây, Về những ẩn ngữ,… chỉ khoảng 50 từ. Xu hướng viết truyện cực ngắn xuất hiện và rộ lên thành phong trào ở nước ta chủ yếu xuất hiện từ sau 1975. Vào khoảng giữa thập kỷ 80, Tạp chí Thế giới mới, phụ san của báo Giáo dục thời đại, lần đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn mi ni. Cuộc thi đã thu hút hàng trăm cây bút với hàng nghìn tác phẩm trên khắp cả nước. Cuộc thi không chỉ xới lên hứng thú viết truyện mi ni mà còn tạo dấu mốc, từ nay truyện mi ni sẽ có chỗ đứng trong sự quan tâm của độc giả Việt Nam. Trong thời đại thông tin như hiện nay, người ta đọc truyện qua Môbai, qua các trang Web điện tử nên xu hướng viết truyện mi ni đang là sự lựa chọn của nhiều cây bút, nhất là những cây bút thế hệ 8X, 9X.
Đặc điểm của truyện cực ngắn là sự giản lược tối đa tình huống, tình tiết, chi tiết truyện. Nếu truyện ngắn “sống” bằng chi tiết thì truyện mi ni “sống” bằng ý tưởng. Tình tiết, chi tiết, tình huống trong truyện mi ni không có giá trị tạo dựng cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa gợi ra ý tưởng. Người đọc không phải quá bận tâm về tình tiết, chi tiết mà cần quan tâm đến sự gợi mở của các tình tiết, chi tiết ấy. Ở truyện cực ngắn, tình tiết, chi tiết như chiếc chìa khoá để mở ra những lớp ý tưởng mà tác giả muốn gửi gắm và người đọc đồng sáng tạo. Thử khảo sát một vài truyện sau: Truyện “Nó”: Ba nó bỏ đi lúc nó còn đỏ hỏn. Ngoại và mẹ nuôi nó trong nghèo khó. Đau khổ và hạnh phúc. Được vài năm, cái đói nghèo cướp mất ngoại. Thiếu hơi bà, nó ngằn ngặt khóc đêm. Mẹ chỉ ôm nó vào lòng, để tay lên ngực trái, dỗ dành “Ngoại có đi đâu! Ngoại ở đây mà!”. Vậy là nó nín.
Rồi mẹ cũng theo bà. Hôm tang mẹ, thấy dì khóc, nó bảo “Mẹ có đi đâu! Mẹ ở đây mà!” rồi lấy tay đặt trên ngực trái, chỗ trái tim. Nó dỗ thế mà dì chẳng nín, lại ôm nó khóc to hơn. (Thanh Hải) [http://smileyscentral.com/cat/11/11_12_11.gif]
Có một số chi tiết được nói tới nhưng không được khai thác mà chỉ đưa ra như những thông báo: Ba bỏ đi, Ngoại mất, Mẹ mất. Nó khóc đòi ngoại v.v…; Có nhân vật: Ba, Ngoại, Mẹ, Dì, và Nó, nhưng cũng chẳng có nhân vật nào được khắc hoạ tính cách cụ thể mà chỉ được gợi ra, được nhắc đến, có vai trò như “phông”, “nền” để tác giả đóng lên cái “đinh” chi tiết. Toàn bộ câu chuyện này xoay quanh chi tiết được dùng hai lần, chi tiết “đặt tay lên ngực trái, chỗ trái tim”. Mẹ nó đã dùng cách ấy để an ủi nó khi Ngoại nó mất. Trái tim bé thơ của nó đã đặt niềm tin tuyệt đối vào sự cứu rỗi đó và nó cũng định dùng cách này để giúp Dì. Nhưng Dì nó không những không nín mà còn “ôm nó khóc to hơn”. Nếu coi đây là chi tiết diễn đạt tư tưởng của truyện thì ngay cả ở chi tiết này tư tưởng cũng không nằm trong chi tiết mà nằm ngoài chi tiết. Người đọc có thể thấy sức nén của chi tiết. Tác giả không mô tả chi tiết, không diễn tả cảnh huống mà chỉ thông báo “kết quả” của cảnh huống, vì thế tất cả nội dung của truyện được “gợi” chứ không “tả”. Chẳng hạn, để thuyết phục một đứa trẻ thiếu cha, mẹ bươn chải kiếm sống, tuổi thơ sống với bà, được bà yêu chiều bằng sự bù đắp tình thương thì khi bà mất, chắc chắn đó sẽ là một mất mát lớn, không thể chỉ bằng một động tác và một lời thuyết phục đơn giản “Ngoại ở đây”. Nhưng chi tiết đứa trẻ vận dụng cách ấy để thuyết phục người lớn thì có thể có thật vì nó là đứa trẻ, tâm hồn ngây thơ trong trắng và tình yêu bà khiến nó có điểm tựa niềm tin. Có thể nói, tác giả đã “tóm” được chi tiết vừa giàu sức khái quát vừa rất cụ thể sinh động này để tạo nên hồn cốt cho tác phẩm: Tình yêu, sự yêu thương, chia sẻ, cảm thông, lòng nhân văn, nhân ái, vẫn là nội dung dễ lay động lòng người. Đó là điểm bắt đầu và là cái đích cuối cùng trong hành trình mà tạo hoá ban cho: hành trình làm người.
Tác giả Thuý Bắc lại có một truyện ngộ nghĩnh khác, truyện “Con muốn”: Cu Tí, ngoài giờ học bán trú ở trường. Buổi tối và chủ nhật còn phải thêm môn học đàn, học vẽ, học tiếng Anh. Thằng Tèo nhà bên cạnh bố mất sớm, mẹ nó phải nuôi ba đứa em nên Tèo phải nghỉ học. Hàng ngày mỗi khi nghe thấy tiếng đàn của Tí, Tèo rón rén nép mình bên hàng rào nhòm vô.
Nhìn ra thấy Tèo đứng đó, Tí mếu máo:
- Ba ơi, con muốn được như thằng Tèo
[http://smileyscentral.com/cat/11/11_12_11.gif]
Ở truyện này, ý nghĩa của truyện cũng không nằm trong chi tiết mà nằm ngoài chi tiết, từ sức gợi của chi tiết: Tèo, đứa trẻ thiếu cha, thèm những gì mình không có; Tí - quá đủ đầy sinh ra tâm lý ngược lại: muốn chối bỏ những điều kiện quá đủ đầy mà với tuổi thơ, có khi đó lại là gánh nặng, là áp lực. Triết lý rút ra từ đây: Hạnh phúc là cái gì thật khó giải thích, bất hạnh của kẻ này đôi khi lại là niềm mơ ước của kẻ khác. Song, ý nghĩa của câu chuyện không chỉ có thế. Từ mâu thuẫn đằng sau tiếng cười là nước mắt, là thông điệp đầy day dứt: xã hội vẫn còn nhiều những cảnh ngộ éo le như hoàn cảnh của cu Tí; làm sao để mọi đứa trẻ đều được đến trường? làm sao để có một nền giáo dục lý tưởng - ở nền giáo dục ấy mọi trẻ em đều được quan tâm đúng như tinh thần của câu khẩu hiệu: “Hãy giành cho trẻ em những gì tốt nhất”. Ở môi trường giáo dục ấy, mọi trẻ em đều tìm thấy niềm vui, hạnh phúc, tình bạn, và niềm tin yêu vào cuộc đời. Hoặc giả, có thể còn thông điệp khác, hãy bớt chút thời gian để quan sát cuộc sống của những người xung quanh, ta sẽ nhìn ra mình rõ hơn, có cách sống hài hoà hơn, biết chia sẻ và cảm thông với đồng loại.
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy truyện mi ni đang ngày càng nở rộ và chiếm lĩnh văn đàn ở nhiều hình thức.
Truyện trong truyện và truyện liên hoàn
Ngược lại với kiểu truyện mi ni, dạng thức truyện trong truyện và truyện liên hoàn lại là hình thức kéo dài truyện, chuyện nọ kéo sang chuyện kia hoặc gối lên nhau thành các lớp truyện hoặc chuỗi truyện nhiều khi khá phức tạp. Đại diện cho kiểu kết cấu cốt truyện này là Nguyễn Huy Thiệp. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều chi tiết, tình tiết. Mỗi nhân vật trong tác phẩm có thể đều tạo ra một đường dây sự kiện riêng, một mạch truyện riêng. Tác giả giống như người ưa la cà, và cũng là người tinh thông mọi chuyện, vì vậy, hễ cần dừng lại để lý giải, cắt nghĩa thì dường như ngay lập tức điều đó sẽ được làm sáng tỏ ngay. Thử lấy truyện Tướng về hưu làm minh chứng. Trong truyện ngắn này người đọc thấy có một loạt mạch truyện về các nhân vật có tên trong tác phẩm: Chuyện về tướng Thuấn, liên quan đến nhân vật chính này là chuyện về vợ tướng, con trai của tướng, cô con dâu, hai bố con người giúp việc, ông em họ xa, cô cháu họ xa, thậm chí một kẻ tạt ngang câu chuyện như một vết nhơ như nhân vật Khổng ở xí nghiệp nước mắm - nhà thơ cũng được tác giả “trích ngang” mấy dòng đủ để hình dung về loại thi sĩ nửa mùa kém cỏi về nhân cách. Truyện Con gái thuỷ thần là ba truyện ghép lại theo cấu trúc rất rời rạc: truyện thứ nhất, truyện thứ hai, truyện thứ ba. Đặc biệt hơn, truyện Những ngọn gió Hua Tát lại ghép từ 10 truyện, mỗi truyện đều có nội dung riêng, tình tiết riêng. Song, có một điều đặc biệt là, mặc dù truyện của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều sự kiện, mạch truyện như vậy nhưng vẫn là truyện ngắn với những yêu cầu nghiêm nhặt của thể loại, bởi những lý do sau: thứ nhất, mỗi truyện đều lấy điểm tựa là một lát cắt tình huống cụ thể, một sự kiện chính gắn với một nhân vật trung tâm. Mọi vấn đề xoay xung quanh tình huống chính ấy dù phức tạp và rối ren đến mấy cũng là thành phần nằm “ngoài cốt truyện”. Cái “lõi” thực của cốt truyện vẫn rất đơn giản. Chẳng hạn, truyện Tướng về hưu là tình huống tướng Thuấn sau bao năm trận mạc về nghỉ hưu tại quê nhà. Trong những ngày được tiếp cận với cuộc sống đời thường, vị tướng được chứng kiến thực tiễn của thời mở cửa cơ chế. Tình huống của truyện Sang sông là đứa bé tinh nghịch đút tay vào chiếc bình cổ. Tình huống của truyện Thương nhớ đồng quê sự kiện cô cháu họ xa về thăm quê. Trước mắt cô gái từ bé đã sống ở thị thành, từng du học bên Mỹ, con người và đồng quê Việt Nam thật là một thế giới mới lạ đối với cô. Nhâm, người có nhiệm vụ đón cô gái, đồng thời là “hướng dẫn viên” giúp cô tìm hiểu về con người và cuộc sống nơi đây v.v…
Theo phong cách kết cấu cốt truyện của Nguyễn Huy Thiệp là Phan Thị Vàng Anh và Nguyễn Ngọc Tư. Truyện ngắn Mười ngày của Phan Thị Vàng Anh cũng được cấu trúc “rời” như vậy, từng ngày một, đúng mười ngày, mười mẩu chuyện nhỏ về diễn biến tâm lý của một cô gái chờ đời người yêu về quê nghỉ tết trong mười ngày. Hàng loạt các truyện: Đất đỏ, Khi người ta trẻ, Si tình, Hoa muộn v.v…cũng được đánh số các phần. Toàn bộ truyện ngắn được “ghép” từ các mẩu chuyện nhỏ. Người đọc có cảm giác, việc kết thúc hay kéo dài truyện hoàn toàn nằm trong “ngẫu hứng” của tác giả. Sự trễ nải của mạch truyện nằm trong ý đồ của người viết, cũng là một phần tư tưởng của truyện.
Như vậy, khi “cài” các đường dây sự kiện xung quanh sự kiện, tình huống chính, tác giả đã mở rộng phạm vi tiếp cận và phản ánh hiện thực. Kiểu truyện lồng trong truyện thể hiện cách nhìn vừa bao quát song cũng thật cụ thể, một cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống và con người.
Truyện giả thể loại: giả ngụ ngôn, giả cổ tích, giả truyền thuyết, truyện truyền kỳ…
Giả thể loại cũng là một xu hướng làm mới dạng thức của truyện ngắn sau 1975. Các dạng thức như: ngụ ngôn, cổ tích, truyền thuyết, về mặt hình thức có dáng vẻ giống truyện ngắn (dung lượng ngắn, chỉ viết về một chuyện và về một vài nhân vật, phạm vi không – thời gian hẹp). Điểm khác biệt lớn nhất giữa truyện ngắn hiện đại với các loại hình truyện dân gian trên là, truyện dân gian không cần quan tâm đến lô gíc hoặc tính xác thực của câu chuyện. Ý nghĩa của truyện đã được định hướng sẵn và sẽ đạt tới mục đích như ý muốn. Đặc biệt, yếu tố huyền thoại kỳ ảo tham gia như một nhân tố chính, nếu không nói là bắt buộc của quá trình sáng tạo truyện. Chẳng hạn, trong truyện ngụ ngôn Trí khôn của ta đây, con hổ biết nói tiếng người, hiểu tiếng người nên bị anh nông dân lừa; Truyện Thánh Gióng với việc Thánh Gióng cởi áo giáp bay về trời; Truyện Nỏ thần với việc Thần Kim Quy hiện ra giác ngộ cho nhà vua và rẽ nước dẫn nhà vua xuống thuỷ cung; Truyện Trầu cau, có việc ba người chết đi hoá thành trầu, cau và đá vôi; Truyện Tấm Cám lại có rất nhiều lần hoá phép: Tấm hoá thành chim vàng anh, thành quả thị, thành khung cửi, v.v…
Một số cây bút hiện đại muốn “mượn” lại hình thức dân gian này để “lạ hoá” nội dung câu chuyện định kể. Hình thức “mượn” thứ nhất là “mượn” chi tiết. Các tác giả dùng các chi tiết mang tính huyền thoại kỳ ảo tham gia vào đường dây tổ chức cốt truyện để tạo sức lôi cuốn hoặc đó chính là cách để tác giả tôn vinh hay phủ định theo cách của dân gian. Song, để yếu tố huyền thoại có chỗ đứng, các tác giả đã tìm ra giải pháp: lời đồn, nghe phong thanh, có người kể lại, hoặc dùng hình thức “giấc mơ”, có khi cũng nói thẳng “truyền thuyết huyễn hoặc” v.v… Chẳng hạn như các chi tiết: “có người kể rằng khi lửa bốc cao thì trong quán có con chuột to bằng bắp chân người phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch” để ám chỉ việc chứa chấp những việc làm phi nhân tính của lão trùm Thịnh trong truyện Chảy đi sông ơi; Chi tiết hoa Tử huyền ba mươi năm nở một lần, ai may lắm mới bắt gặp như một phần thưởng cho ông Diểu, khi ông thả con khỉ bị thương ra, nồng nỗng trở về tay không sau chuyến đi săn trong truyện Muối của rừng; Chi tiết nhóm thợ được đi trên cầu vồng bảy sắc trong truyện Những người thợ xẻ cũng là cách bày tỏ thái độ khen ngợi những con người có cái tâm thiện theo cách ứng xử dân gian; Chi tiết hôm Nguyễn (tức Nguyễn Trãi) ngỏ lời cầu hôn Thị Lộ. “Đồn rằng hôm ấy có rồng bay trên sông cái” trong truyện Nguyễn Thị Lộ cũng bày tỏ thái độ ngưỡng mộ cặp “trai anh hùng gái thuyền quyên” mà số phận bi ai hiếm có trong lịch sử. Song chi tiết Đặng Phú Lân bị chém vì chính thanh kiếm gia truyền nên máu không đỏ mà trắng trong truyện Kiếm sắc lại mang thông điệp khác, sự oan nghiệt của số phận; Hình tượng Mẹ cả trong truyện Con gái thuỷ thần mang thông điệp về sức hấp dẫn của niềm tin, của chân lý hoặc lý tưởng, đôi khi là ảo ảnh. Giấc mơ của cô cháu gái trong truyện Hồn trinh nữ của Võ Thị Hảo cũng là một cách bộc lộ quan niệm về vẻ đẹp của tình yêu gắn với nghĩa vụ công dân trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm.
Hình thức “mượn” thứ hai là “mượn” lối viết. Những câu chuyện hư cấu và tưởng tượng hoàn toàn song lại mượn lối viết “chép lại”, có căn cứ, có tài liệu, có địa chỉ cụ thể, thậm chí còn dựng “gia phả” dòng họ kiểu như Nguyễn Huy Thiệp viết Giọt máu, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Nguyễn Thị Lộ, Chút thoáng Xuân Hương v.v… Với cách viết này, tác giả vừa làm sống lại những thông tin lịch sử khô khan, vừa tạo sắc thái hư hư thực cho những câu chuyện “bịa đặt” thêm phần hấp dẫn.
1.2. Sự vận động đổi mới ở phương diện trần thuật
Trong quan điểm thi pháp thể loại hiện đại, trần thuật có vai trò như là khâu then chốt thể hiện sự cách tân của một tác phẩm, một nền văn xuôi. Nền văn học nào sớm có những khám phá đổi mới ở phương diện này được coi là nền văn học đi tiên phong trên hành trình hiện đại hoá văn học. Một trong những phát kiến vĩ đại của nhà bác học Nga Baktin là đã dùng khoảng cách trần thuật để phân biệt bản chất thể loại của sử thi và tiểu thuyết một cách rõ ràng, khoa học và chính xác nhất.
Dấu hiệu khởi sắc theo hướng hiện đại hoá nền văn học Việt Nam nói chung, mà trước hết là ở thể loại truyện ngắn cũng thể hiện rất rõ nét ở phương diện trần thuật. Sự đa dạng, phong phú, biến hoá của trần thuật đã đem lại cho truyện ngắn sau 1975 những biến hình mới, sinh động và thực sự hấp dẫn.
Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thuật “nhập vai”
Trần thuật từ nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ, hay trần thật “nhập vai” là để chỉ cách trần thuật linh hoạt khi vai trò “phát ngôn” được trao cho nhiều người, nhiều đối tượng trong tác phẩm. Không còn chỉ có một người kể chuyện mà nhiều người kể. Trước một vấn đề, một sự việc nào đó, vì được soi rọi bằng nhiều điểm nhìn, nhiều góc độ nên sẽ hiện ra bằng diện mạo, hình thù khác nhau dẫn đến nhiều luồng dư luận, nhận xét khác nhau, thậm chí ngược nhau, do các điểm nhìn khác nhau về tuổi tác, nghề nghiệp, giới tính, học vấn, đôi khi là thói quen, sở thích v.v…Nhà văn có xu hướng đổi mới trần thuật sớm nhất cho nền truyện ngắn sau 1975 là Nguyễn Minh Châu. Trong truyện ngắn Bức tranh, tiếp đó là hàng loạt truyện ngắn khác của ông như: Chiếc thuyền ngoài xa, Cơ giông, Sống mãi với cây xanh, Cỏ lau v.v.. đều có cái nhìn đa chiều, trong xu hướng đối thoại này. Chẳng hạn, trước số phận cực nhọc, cam chịu của người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều “cái nhìn” soi rọi vào: Cái nhìn trẻ thơ trong sáng của đứa con trai khi nó kết án ông bố tàn bạo và thề sẽ giết chết ông ta. Nhưng đứa chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa ngăn nó lại. Nhà nhiếp ảnh thì sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng giải pháp ly hôn là đúng đắn nhất để cứu người đàn bà. Nhưng người đàn bà, kẻ hứng chịu tất cả những trận đòn tàn nhẫn và phi lý của chồng thì nhìn nhận khác hẳn: “Lòng các chú tốt nhưng các chú không hiểu hết cuộc sống sông nước”. Cuộc sống ấy không thể thiếu bàn tay chèo chống của một người đàn ông và ý nghĩa của người đàn bà là phải vì con cái mình. Từ Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Khải và đặc biệt đến Nguyễn Huy Thiệp, cách trần thuật từ nhiều điểm nhìn đã đạt đến đặc sắc. Để tạo ra sự bình đẳng cho các điểm nhìn, tác giả - người kể chuyện không làm thay nhân vật mà chỉ đóng vai trò “dàn dựng” lại sự việc. Thậm chí sự “dàn dựng” này như được làm một cách ngẫu nhiên. Chẳng hạn, đoạn kể về cha con tướng Thuấn bàn bạc việc gia đình: “…Cha tôi bảo: “Nghỉ rồi, cha làm gì?” Tôi bảo: “Viết hồi ký”. Cha tôi bảo: “Không!” Vợ tôi bảo: “Cha nuôi vẹt xem”. Trên phố dạo này nhiều người nuôi chim hoạ mi, chim vẹt. Cha tôi bảo: “Kiếm tiền à?” Vợ tôi không trả lời. Cha tôi bảo: “Để xem đã!”[8, 19]. Hoặc một cảnh khác: “Tôi cũng không hiểu tại sao hai đứa con gái của tôi ít gần ông nội. Tôi cho chúng học ngoại ngữ, học nhạc. Chúng lúc nào cũng bận. Cha tôi bảo: “các cháu có sách gì mang cho ông đọc”. Cái Mi cười. Còn cái Vi bảo: “Ông thích đọc gì?” Cha tôi bảo: “Cái gì dễ đọc”. Hai đứa bảo: “Thế thì không có”. [8, 20]. Đọc Nguyễn Huy Thiệp có cảm giác, người kể chuyện không mấy khi thực hiện vai trò “kể” mà phần lớn chỉ thực hiện vai trò sắp xếp, tổ chức, nói đúng hơn, người “cắt dán” các cảnh lại với nhau với ý đồ trung thực nhất, ít chủ quan nhất bằng cách hạn chế thấp nhất sự tham gia của trữ tình ngoại đề. Đọc truyện Nguyễn Huy Thiệp, nhiều lúc không tránh khỏi cảm giác thấy truyện rời rạc, lỏng lẻo, lan man. Tuy nhiên, người đọc được trải nghiệm nhiều cảm giác, suy nghĩ, được tranh luận và tự mình thấu nhận, rút ra những điều bổ ích. Và quan trọng nhất là tránh được cảm giác nhàm chán, đơn điệu trong cách tiếp cận tác phẩm.
Trần thuật bằng dòng ký ức nội tâm
Ngược với kiểu trần thuật “nhập vai”, trao vài trò kể chuyện cho nhiều người là kiểu trần thuật bằng “dòng ký ức nội tâm”. Với cách trần thuật này, mọi chuyện diễn ra trong dòng chảy ký ức hoặc dòng chảy nội tâm. Đây cũng là cách để tác giả “khách quan hoá” nội dung hiện thực trong tác phẩm hoặc tha hồ khám phá miền ẩn ức bên trong của tâm hồn con người. Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và hàng loạt cây bút trẻ mới xuất hiện gần đây như Nguyễn Thế Hoàng Linh, Miêng, Trang Thanh, Trần Đức Tiến, Đỗ Hoàng Diệu v.v… đi theo xu hướng này. Truyện ngắn Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là dòng chảy miên man trong suy nghĩ của nhân vật Nương- cô gái tội nghiệp, nạn nhân của thái độ vô trách nhiệm của người lớn, của sự tan vỡ hạnh phúc gia đình. Trong truyện ngắn này ai cũng nói rất ít, phần lớn những câu đối thoại hay độc thoại đều được “dịch” thông qua những phán đoán suy nghĩ chứ không phải là những lời thoại trực tiếp. Qua ký ức của cô bé, tuổi thơ hiện về, ba, má, cuộc sống nghèo mà yên bình trong xóm nhỏ. Rồi những bất ngờ dữ dội xảy đến, má bỏ đi, ba hận má, hận cuộc đời, kế đó là những năm tháng trôi nổi, phiêu dạt như những kẻ cô đơn, lạc loài trong xã hội loài người cho đến khi tai hoạ thực sự rơi xuống đầu…Kết thúc truyện vẫn là những dòng ký ức đau nhói, hoà trộn xót xa vói ân hận, thức ngộ và đau đớn tột cùng : “…Rồi ký ức ùa về kinh hãi, vẻ mặt má tôi hôm bị người đàn ông bán vải đo lên người hình như không phải là khoái lạc thăng hoa, nó giống như tôi bây giờ, đau ràn rụa, nhói tận chân tóc. Trời ơi sao tôi lại không nhận ra điều đó, ngay lúc ấy (để giấu kín nỗi ám ảnh trong lòng, giả đò tươi cười với má, xem như không có chuyện gì, để chiều chiều cùng má ra sông, hỏi nhau, không biết chừng nào thì cha về) [9, 212]. Miêng trong truyện Hải nữ, Trần Đức Tiến trong truyện Miền cực lạc v.v… còn sáng tạo ra kiểu “phân thân” giữa linh hồn và thể xác để đi du ngoạn trong thế giới thầm kín, riêng tư nhất của nhân vật. Trong thế giới ấy, người ta như là một con người khác, nhiều khi khác biệt hoàn toàn với con người thường ngày. Con người hàng ngày của ông P là một con người bình thường hết sức, bình thường đến mức không gây một chút chú ý nào cho ai, ông lại có tính hay đỏ mặt. Nhưng khi ông tự tách linh hồn ra khỏi thân xác và linh hồn ông tự do phiêu diêu thì linh hồn ấy có thể làm những chuyện không thể tưởng tượng nổi. Ông P luôn luôn đi thực hiện những chuyến gặp gỡ, hẹn hò bí mật với những người đàn bà mà ông thích hoặc muốn: một á hậu xinh đẹp, một cô thợ may mà ông thấy gần gũi, có lúc còn lạc vào nhà thổ v.v…Hình như với cách thể hiện này, tác giả muốn chứng minh, trong con người ta ai cũng có hai con người. Một con người với thân xác hiện hữu cùng với muôn mối ràng buộc của nghĩa vụ và trách nhiệm và một con người bên trong thầm kín với những suy nghĩ, việc làm chỉ mình mình biết. Con người bên trong ấy có đời sống riêng và luôn tìm cách chống lại con người cụ thể với thân xác hiện hữu. Phải chăng, đó cũng là nhận thức và khám phá về sự phức tạp của con người. Kiểu trần thuật dòng ký ức thường được những cây bút trẻ khai thác, có lẽ vì nhu cầu khám phá, nhất là khám phá bản thân luôn là nhu cầu của lứa tuổi này.
Gián cách thời gian trần thuật
Gián cách thời gian trần thuật là cách mà Nguyễn Thị Minh Thư đã sử dụng trong truyện ngắn Có một đêm như thế. Cùng một lúc tác giả cho xuất hiện ba lớp thời gian nhưng không phải kiểu thời gian đồng hiện hoặc liên tưởng của ký ức. Tuy nhiên, cách trần thuật này dường như không mấy thông dụng, bởi không có nhiều người lựa chọn lối viết gián cách này. Có lẽ cách viết này có cái khó riêng không dễ áp dụng hoặc sáng tạo.
1.3. Sự vận động đổi mới ở phương diện ngôn ngữ
Với tư cách là công cụ của tư duy, là “cái vỏ của tư duy”, sự biến đổi của ngôn ngữ văn học liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Vì vậy, sự xác định tiêu chí cho vấn đề này không dễ. Chẳng hạn, nhiều người đánh giá cao bước phát triển của ngôn ngữ văn xuôi hiện nay (thí dụ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong lần nói chuyện với cán bộ, sinh viên khoa Ngữ văn- ĐHSP Hà Nội ngày 16-4-1994 cho rằng; “Lớp trẻ đã có ngôn ngữ mới. Nguyễn Huy Thiệp là người thực sự cách tân ngôn ngữ truyện ngắn. Phạm Thị Hoài, Phan Thị Vàng Anh cũng thế”. Nhưng cũng nhiều người phản ứng, hoảng sợ, họ thấy văn Nguyễn Huy Thiệp “dung tục”, “kinh tởm”, văn Phạm Thị Hoài là văn của người “nhìn đời Việt Nam bằng con mắt Do Thái và văn viết bằng tiếng của F.Kapka (ý kiến của tác giả Triệu Minh về Phạm Thị Hoài trên văn ghệ số 2- 1996). Tiếng Việt trong sáng nhờ được mỹ lệ hoá hay chính xác hoá, nhờ sự khu biệt hay khả năng hội nhập? Những vấn đề này cho đến nay vẫn còn bỏ ngỏ. Ở đây, chỉ nêu một số đặc điểm ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật thấy đổi khác so với giai đoạn trước 1975.
Ngôn ngữ đời thường- gia tăng tính khẩu ngữ
Trong văn xuôi, bước đổi thay của ngôn ngữ lúc đầu gắn với nhu cầu “được nói thật”. Sự cổ vũ của Đảng “nhìn thẳng và nói thật” cho phép nhiều tác phẩm chống tiêu cực ra đời. Ngôn ngữ văn xuôi bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng, ít du dương, ít rào đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọng điệu, thô nhám trong từ ngữ. Sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp như một hiện tượng “lạ”. Ngoài khả năng biến ảo của một bút pháp đa dạng, đa tầng, tác giả này còn gây cú sốc thực sự cho ngôn ngữ văn học. lối nói “cộc lốc”, sắc bén và hàm súc, câu văn ngắn gọn, dồn dập, hạn chế tối đa các liên từ, nén năng lượng làm rung chuyển lối văn mực thước, trang trọng hoặc rào đón, đưa đẩy. Ngòi bút tác giả này như không hề biết đến những gửi thưa kiểu cách, những nghi thức nhiều khi rất nhiều khách sáo, mặc nhiên khẳng định tư thế bình đẳng, dân chủ giữa con người với con người. lối văn đó phù hợp với cái hiện thực đời thường mà anh mô tả. Chẳng hạn, tác giả tả đám cưới của anh chàng lái xe bò kết hôn với cô mẫu giáo con ông vụ phó: “đám cưới ngoại ô lố lăng và khá dung tục. Ba ô tô. Thuốc lá đầu lọc nhưng gần cuối tiệc hết sạch, phải thay bằng thuốc lá cuốn. Năm mươi mâm cỗ nhưng ế mười hai. Chàng rể mặc com lê đen, cravát đỏ. Tôi phải cho mương cái cravát đẹp nhất trong tủ áo. Nói là mượn nhưng chắc gì đòi được. Đầu tiệc là dàn nhạc sống chơi bài Ave Maria. Một anh cùng hợp tác xã xe bò thằng Tuân nhảy lên đơn ca một bài khủng khiếp…” [8, 22]
Cùng với Nguyễn Huy Thiệp và trong không khí dân chủ cởi mở của xã hội, xuất hiện hàng loạt cây bút trẻ. Họ ít bị ràng buộc bởi những tín điều đạo đức, luân lý, vừa tự tin vào mình, vừa nhiều hoài nghi đối với cuộc đời. Họ sử dụng văn chương để bộc lộ “cái tôi” cá tính là chính, nên họ quan tâm hơn đến vấn đề “viết như thế nào”. Phạm Thị Hoài quan niệm “viết như một phép ứng xử”. Và trong quan niệm ấy, nhà văn nữ này chọn phép ứng xử: không tiếp tục thứ văn chương “đặc sản dành riêng cho những người sành ăn” như văn chương Nguyễn Tuân mà chọn hướng văn chương “gia tăng tính khoa học, tốc độ và khả năng biểu đạt tư duy hình tượng của nó”. Có thể nói, chưa bao giờ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt – thế sự đến thế. Chưa bao giờ những câu chửi thề, chửi tục, lối nói trần trụi xuất hiện nhiều đến thế. Để chống lại lối văn chương nhiều tính hành chính khô khan hoặc du dương thi vị nhưng ít cá tính, ngôn ngữ truyện ngắn dung nạp rất nhiều khẩu ngữ, cố tính coi thường cú pháp, “nhại” lại mọi ngôn ngữ kiểu cách. Chẳng hạn: “Man Nương, tôi gọi em như vậy những buổi chiều bốn mét nhân bốn mét rưỡi nhân hai mét tám màu xanh lơ trong căn phòng trống rỗng tầng ba có hai nhành xanh một thứ cây nào đó tôi không bao giờ biết tên” (Man Nương- Phạm Thị Hoài). Hoặc: “Chức cách đây mấy hôm tthấy chạy xe vèo vèo ngoài ngã ba chở một đứa con gái bé như cái kẹo, không ôm iếc gì cả nhưng nhìn thì biết ngay là bồ bịch” (Hoa muộn- Phan Thị Vàng Anh); “Cái lão Khúng này thiết đếch gì! Sao với chả trăng! Cho cái mặt trời ông cũng đếch thiết nữa là!...” (Phiên chợ Giát- Nguyễn Minh Châu); “…thế đấy. Chó của tôi thì kém đếch gì một con beo? Này, anh còn nhớ thượng tướng Th không? Cái ông già gàn dở nổi tiếng toàn quân về phong thái “hiên ngang” ấy mà, đã gạ đổi con Tuýt lấy một cặp bẹc giê Sibêri đấy. Ồ xin lỗi! Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu ngài thôi”(Con thú bị ruồng bỏ- Nguyễn Dậu) v.v…
Ngôn ngữ tăng cường tính tốc độ, thông tin và triết luận
Nhu cầu gia tăng tính tốc độ và thông tin đặt ra như một đòi hỏi chính đáng và tất yếu ở thời đại “bùng nổ thông tin”, thời đại của công nghệ kỹ thuật cao, liên quan đến nhịp sống hiện đại, nhất là nhịp điệu của cơ chế thị trường.
Tính tốc độ thể hiện ở cách vào truyện nhanh, diễn đạt ngắn gọn, nén thông tin. Ở phương diện ngôn ngữ, có thể nhận thấy việc sử dụng các “điển cố” hiện đại như các thuật ngữ khoa học chuyên ngành, thậm chí cả tiếng nước ngoài vào trong diễn đạt, chẳng hạn “chuỗi xoắn kép, đột biến, bức xạ nhiệt, đồ thị hyperbol, the end of something v.v…những cụm từ này thay thế cho rất nhiều lời diễn giải. Nhiều khi, một thứ ngôn từ ước lệ, “hàm súc” và nhiều ngụ ý bắt nguồn từ sinh hoạt giao tiếp hiện đại, nếu được sử dụng đắc địa, nó vừa như một hình thức phổ biến của khẩu ngữ Việt Nam, mang đậm dấu ấn lịch sử, tâm lý, vừa chuyển tải được thông tin lớn. Thí dụ: “Bản nhạc đánh theo kiểu nội địa” (Chuyện thày AK. Kẻ sĩ Hà Thành). “Nào hết cấm vận đến nơi, nào kinh tế thị trường quốc tế, nào liên doanh thương mại thế mạnh” (Đất xóm chùa- Đoàn Lê); “Đảm bảo không có chuyện Nguyễn Văn Mười Hai” (Vũ điệu của cái bô- Nguyễn Quang Thân)
Lượng thông tin đạt đến mức tối đa nằm ở một thứ ngôn ngữ đa nghĩa, nhiều ngụ ý. Ngôn ngữ này là kết quả tất yếu của tính phức điệu, đa thanh trong tư duy tiểu thuyết. Mặt khác, ngôn ngữ đa nghĩa cũng là sản phẩm của hứng thú triết luận càng ngày càng nổi rõ trong văn xuôi. Văn Nguyễn Huy Thiệp đa nghĩa từ chi tiết đến tổng thể, nhiều sức gợi liên tưởng ra bên ngoài tác phẩm. Cái “phức tạp”, “nhiều tầng lớp” có được, một phần là nhờ ngôn ngữ đầy tính ẩn dụ, nhiều nghĩa, cho phép người đọc phát huy cao độ sức liên tưởng và kinh nghiệm cá nhân vào việc lĩnh hội nghệ thuật. Xin nêu một số ví dụ: lời Đặng Phú Lân nói với Nguyễn Ánh về thanh bảo kiếm “Trước chúa công chỉ thấy đầu rơi dưới kiếm, bây giờ mới nhìn rõ kiếm, thế là sắp thanh bình thịnh trị rồi đó” (Kiếm sắc); “Trời rất xanh. Giữa trời có đám mây trắng trông hệt dáng điệu một nhà hiền triết. Thoắt cái, gió xua mây đi, nhà hiền triết biến thành con chó xồm lớn”(Nguyễn Thị Lộ- Nguyễn Huy Thiệp). Các tác giả có thiên hướng kiếm tìm ý nghĩa triết học nhân sinh qua diễn tả đời sống cụ thể. Điều đó đem lại cho các tác phẩm ý vị triết lý và giá trị phổ quát. Đáp ứng yêu cầu này, ngôn ngữ văn xuôi tất yếu sẽ bớt đi phần “kể”, phần “tả” và tăng phần triết luận, khái quát, nhà văn khi ấy sẽ hiện diện qua ngôn ngữ “trữ tình ngoại đề”. Ở Nguyễn Minh Châu, thường thấy như vậy: “Rồi thì cũng như mọi người khác, tôi vẫn không thể đi trốn được số phận, tôi không thể đi trốn được khỏi cuộc đời mình một khi mà tôi còn sống”, “chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt lên”, “Nỗi đau mất mát trong lòng người đàn bà lắm khi chả khác nắm cỏ trong dạ dày loài nhai lại..”(Cỏ lau). “Tôi đưa cháu Quỳnh về trước đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh vẫn nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của cháu Quỳnh thì không thể nào cứu chữa nổi” (Con thù bị ruồng bỏ - Nguyễn Dậu).
Cùng với hình thức đã có nhiều thay đổi, ngôn ngữ của truyện ngắn ngày nay, linh hoạt, sinh động và giàu chất đời thường. Ba chục năm qua, nhìn lại ngôn ngữ của truyện ngắn nói riêng, văn xuôi nói chung đã hiện diện qua “các cuộc thí nghiệm”. Đã là thí nghiệm không tránh khỏi phiêu lưu. Tuy nhiên, “cùng với thời gian và độ chín của các tài năng, ngôn ngữ của truyện ngắn đã và đang đạt đến độ ngưng kết mới”.
Kết luận:
Truyện ngắn Việt Nam trong vòng ba mươi năm qua đã đi trọn một chặng đường. Chặng đường ấy gắn liền với sự kiện chính trị trọng đại: Đại hội VI quyết định cho công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước. Văn học thuộc lĩnh vực nhận thức xã hội thông qua cá nhân nhà văn nên không thể không chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của xã hội. Truyện ngắn sau 1975 tuy có khác nhiều so với truyện ngắn giai đoạn 1945 - 1975 nhưng nó vẫn phát triển trên cái nền của những thành tựu truyện ngắn 1945 - 1975 đã đạt được. Ngay những nhược điểm, những hạn chế không thể tránh khỏi của giai đoạn trước cũng giúp cho kinh nghiệm nghệ thuật của giai đoạn sau rất nhiều.
Nhìn tổng thể, sự vận động của truyện ngắn sau 1975 đã diễn ra giống như một cuộc nhận đường toàn diện và sâu sắc: từ ý thức nghệ thuật đến hành vi sáng tạo, từ tư tưởng đến thi pháp. Sự vận động ấy hướng mạnh mẽ đến những nỗ lực cách tân nhằm đổi mới thể loại. Về mặt hình thức, truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đổi mới rõ rệt nhất ở ba phương diện: dạng thức cấu trúc cốt truyện, trần thuật và ngôn ngữ truyện. Những cách tân ở ba phương diện ấy đã góp phần tạo nên diện mạo mới cho truyện ngắn Việt Nam, thể loại vốn được xem là thể loại “cái” của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Long - Lã Nhâm Thìn (chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, H.
2. Nguyễn Đăng Mạnh, "Nói ngắn về truyện rất ngắn", Thế giới mới số 69/1993.
3. Nguyên Ngọc (1994), Truyện rất ngắn - tác phẩm nghệ thuật (Lời giới thiệu tập 40 truyện ngắn chung khảo cuộc thi truyện thế giới mới), Nxb Hội nhà văn, H.
4. Lã Nguyên, "Nguyễn Minh Châu và những trăn trở trong đổi mới tư duy nghệ thuật", Tạp chí văn học, Số 2/1989.
5. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, H.
6. Hỏa Diệu Thuỳ, "Chặng khởi động trong hành trình truyện ngắn Việt Nam sau 1975", Tạp chí Văn học, Số 07/2011.
7. Hỏa Diệu Thúy, "Về một số khuynh hướng thể tài của truyện ngắn Việt Nam sau 1975", Tạp chí Khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 6/ 2010.
8. Nguyễn Huy Thiệp (2003), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Văn học.
9. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.
(Nguồn vanhoanghean.vn)
VanVN.Net – Ngày 10/4/2012, tại Hà Nội, Hội thảo khoa học “Nâng cao chất lượng, hiệu quả phê bình văn học” được tổ chức trong một ngày. Buổi sáng, hội thảo khai mạc với sự có mặt của hơn 100 đại ...
VanVN.Net - Cụ Nguyễn Khắc Niêm (1889 – 1954) đỗ Hoàng giáp năm Đinh Mùi (1907) khi tròn 18 tuổi; trẻ thứ nhì trong lịch sử khoa cử Việt Nam, sau Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Khi vua Thành Thái mời các ...
VanVN.Net – Sáng 05/4/2012, tại hội trường Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), Ban Nhà văn trẻ đã có buổi chuẩn bị cho tiết mục trình diễn thơ và văn xuôi ...
VanVN.Net - Từ trước đến nay, nhiều người (trong đó có tôi) vẫn cho rằng, không kể cuốn gia phả lịch sử viết dưới dạng tiểu thuyết chương hồi Hoan châu ký (cuối thế kỷ XVII, không rõ tác giả), thì ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn