TỐ HỮU-NỬA THẾ KỶ LĨNH XƯỚNG HÙNG CA
Nhà thơ Tố Hữu
Đỗ Ngọc Yên
Nhà thơ Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4/10/1920 tại làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên- Huế, là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ ca cách mạng Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông đã được khẳng định qua các giải thưởng cao quý như Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học- Nghệ thuật, năm 1996 cho các tập thơ và tiểu luận: 1. Từ ấy (1946); 2. Việt Bắc; 3. Gió lộng (1961); 4. Ra trận (1972); 5. Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng với nhân dân ta- thời đại ta (tiểu luận, 1973); 6. Máu và hoa (1977); 7.Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981); 8. Một tiếng đờn (1992) và ông cũng là người có nhiều thơ được sử dụng giảng dạy trong nhà trường, từ bậc học phổ thông đến đại học.
*
Sở sĩ tôi nói nhà thơ Tố Hữu nửa thế kỷ lĩnh xướng hùng ca vì tính từ năm ông gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản (1936) đến khi ông rời chính trường (1986), vừa tròn nửa thế kỷ. Còn sau đấy dường như mọi việc đã khác. Tố Hữu không chỉ là người sớm giác ngộ cách mạng, mà còn là người đến với thơ ca cách mạng từ độ tuổi bẻ gãy sừng trâu (năm 1937).
Từ ấy là tập thơ đầu tay của chàng trai xứ Huế này, gồm 71 bài được chia làm 3 phần tương ứng với ba giai đoạn lịch sử: Máu lửa (27 bài), Xiềng xích (30 bài) và Giải phóng (14 bài), như một bộ phim phóng sự tài liệu 3 tập bằng thơ, ghi lại một thời kỳ lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam, qua cái nhìn của người chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi Nguyễn Kim Thành. Lần xuất bản đầu tiên, năm 1946 tập thơ có tên là Thơ, đến lần xuất bản thứ hai, năm 1959, ông sửa chữa, bổ sung và đổi tên tập thơ thành Từ ấy.
Nhà nghiên cứu văn học Đặng Thai Mai nhận định: Từ ấy là tiếng nói cáo trạng nhân danh phẩm giá của con người lao khổ; nhân danh chủ nghĩa nhân đạo để chống với một chế độ tàn bạo; nhân danh cái đẹp của thiên nhiên và của nghệ thuật, của chân lý và của công lý để phản kháng với cái xấu, cái giả dối; nhân danh cái mới để chống lại cái lạc hậu. Đó cũng là bản quyết tâm thư của một chiến sĩ cách mạng không do dự trước nhiệm vụ, khó khăn, lao tù, súng gươm và sự tra tấn của kẻ thù, không tuyệt vọng trên những bước đường thử thách đau đớn nhất. Về phương diện nghệ thuật, Từ ấy trở thành một trong những thành tựu của văn học cách mạng Việt Nam. Tố Hữu đã kết hợp được
giữa nghệ thuật và cách mạng, giữa người chiến sĩ và thi sĩ, góp phần vào tiến trình đổi mới thi ca hiện đại Việt Nam.
Như vậy, ngay từ những ngày đầu cầm bút, Tố Hữu luôn ý thức và xác định rằng phải hát vang bản hùng ca cách mạng bằng thơ. Hai tư cách chiến sĩ cộng sản và thi sĩ cách mạng trong ông luôn quện chặt làm một với nhau gần nửa thế kỷ. Ông quan niệm về thơ ca cách mạng khá rõ: Muốn có thơ hay, trước hết, phải tạo lấy tình. Nhà thơ chân chính phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng về lập trường tư tưởng; xác định thật rõ ràng tầm nhìn, cách nhìn. Tự nguyện gắn bó chân thành là yêu cầu cao nhất đối với người nghệ sĩ trong quan hệ với đất nước, với nhân dân. Ngoài ra, các nhà thơ Cách mạng còn phải kiên quyết đấu tranh, không khoan nhượng trước những biểu hiện lệch lạc, với cái xấu, cái ác. Tóm lại, viết thơ phải xứng đáng là người chiến sĩ xung kích trên mặt trận văn hóa tư tưởng.
Ở một góc nhìn khác, nếu không có cách mạng thì cũng không có nhà thơ Tố Hữu. Người chiến sĩ cộng sản là cái gốc, còn thơ ca cách mạng chỉ là những giây phút xao lòng của người chiến sĩ ấy. Càng về sau, thơ ông càng tỏ rõ là công cụ, là vũ khí tuyên truyền trong đấu tranh cách mạng. Với Tố Hữu không có nhà thơ đứng ngoài người chiến sĩ cộng sản. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, cũng là hoạt động nghệ thuật của mình, Tố Hữu đã xuất bản các tập thơ: Từ ấy (1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1962-1971), Máu và Hoa (1977), Một tiếng đờn (1992), Ta với ta (1999). Năm tập thơ đầu gắn chặt với quá trình hoạt động cách mạng của ông, còn 2 tập cuối, là sự trải nghiệm vui, buồn của cá nhân với tư cách là một con người.
Năm tập thơ đầu, ông luôn là người lĩnh xướng của dòng thơ ca cách mạng với tư cách là một thi sĩ. Còn với tư cách người chiến sĩ cách mạng, ông lại là người chỉ huy của giàn hợp xướng thơ ca ấy. Với cả hai tư cách, tiếng nói của ông trên chính trường cũng như trên thi trường đều có ảnh hưởng lớn và mang tính quyết định đối với dòng thơ ca cách mạng trong diễn trình thơ ca Việt Nam hiện đại.
Nhưng cũng có một thực tế khác không thể phủ nhận được là với hai tập Một tiếng đờn và Ta với ta, vào những năm tháng cuối đời, thơ Tố Hữu không còn là hiện tượng hotthi trong sự đồng vọng của nhiều tầng lớp công chúng, vốn là cái thường xuyên diễn ra đối với các tập thơ trước của ông suốt nửa thế kỷ.
Có thể thấy khá rõ, sau khi rời nhiệm sở, Tố Hữu cũng thôi luôn vai trò người lĩnh xướng và chỉ huy giàn hợp xướng thơ ca cách mạng, mà ông từng nắm giữ nửa thế kỷ. Chính ông tự ý thức được điều ấy, nên đã kịp chuyển sang tư thế của người hát đơn ca. Vâng, đơn ca có nghiã là hát một mình với Một tiếng đờn. Thậm chí sau này ông còn là người hát độc ca, tự đối diện với chính mình và chỉ hát cho mình nghe: Ta với ta.
Hăm hở tự buộc mình với nhân quần, nguyện làm anh, làm con, làm em nhưng không phải của một người cụ thể nào, mà là với tất cả: Tôi buộc lòng tôi với mọi người/ Để tình trang trải khắp muôn nơi/ Để hồn tôi với bao hồn khổ/ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời/ Tôi đã là con của vạn nhà/ Là em của vạn kiếp phôi pha/ Là anh của vạn đầu em nhỏ/ Không áo cơm, cù bất cù bơ... (Từ ấy).
Để rồi những năm tháng cuối đời, ông tự nhận ra mình ở một chiều kích khác, khi mà cuộc sống hôm nay nói chung và nhất là thi ca không còn thích hợp cho những bản hùng ca thưở nào. Theo đó, cũng không cần người lĩnh xướng cho giàn hợp ca ấy nữa, nơi đã đưa ông tới tột đỉnh của vinh quang. Cuộc sống dựng xây đất nước hôm nay trong xu thế hội nhập và phát triên, nó cần nhiều hơn sự tự lĩnh xướng cho chính mình, thay vì lĩnh xướng cho mọi người, theo kiểu đi theo phong trào hát cho đồng bào tôi nghe của những năm tháng đánh giặc.
Giọng thơ chùng xuống, đầy suy tư, trăn trở về lẽ đời, lòng người, về sự hữu hạn của thời gian là nét nổi bật của thơ Tố Hữu ở hai tập thơ cuối cùng, trong tư cách con người cá nhân hơn là tư cách người chiến sĩ cách mạng trước đây: Mới bình minh đó đã hoàng hôn/ Đang nụ cười tươi bỗng lệ tuôn/ Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy/ Khuấy động lòng ta biết mấy buồn.../ Có khổ đau nào đau khổ hơn/ Trái tim tự xát muối cô đơn/ Em ơi, nghe đó... Trong đêm lạnh/ Đằm thắm bên em, một tiếng đờn. (Một tiếng đờn, 1992). Đấy là một thực tế không thể chối cãi được.
*
Thế hệ chúng tôi, nhiều người sau khi đánh giặc Mỹ về rồi mới vào đại học, nên tâm lý, sức nóng của cuộc chiến ấy vẫn như còn hầm hập đâu đó, hắt lên tâm khảm mỗi người, nên dù muốn tạm gác lại cuộc chiến phía sau lưng, với những chiến công lẫy lừng, những hy sinh, gian khổ ngày nào,… để tập trung vào công việc trước mắt là học tập, cũng không dễ chút nào. Âm vang của những vần thơ, áng văn chương thời chống Mỹ cứ dội vào tâm trí của những người chân ướt chân ráo mới từ mặt trận trở về như chúng tôi.
Còn nhớ, khóa chúng tôi vào trường mới học xong học kỳ I, năm thứ Nhất, khoa Ngữ- Văn, đại học Tổng hợp Hà Nội, thì được tin miền Nam giải phóng. Chúng tôi và dường như cả dân tộc như vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Những giọt nước mắt tự dưng cứ tuôn trào, cả nước mắt vui lẫn những giọt buồn.
Được thể, sang đến học kỳ II của năm học ấy, các thầy dạy lịch sử văn học Việt Nam
hiện đại và lý luận văn học dường như buổi nào cũng nhắc đến thơ ca của các bậc thi thánh như: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật,…vì họ là những lá cờ đầu của phong trào thơ ca thời kỳ ấy. Mặc dù có những tiết học chẳng liên quan gì đến tam trụ kia, nhưng cứ vòng vo thế nào, cuối cùng lại vẫn nhắc đến những cái tên ấy và dẫn ra những câu thơ của họ, như những cột mốc cắm vào nhận thức chung của cả thời đại, bất di bất dịch. Có thể nói, những người như chúng tôi luôn ở trong tình trạng bội thực về văn chương chống Mỹ, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng, về văn học xã hội chủ nghĩa, về phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa,… Chẳng hiểu thời ấy, các thầy đào đâu ra mà lắm thứ xã hội chủ nghĩa đến thế. Chúng tôi, những người lính chiến trường chuyển ngành đi học, tiền ăn 18 đồng/tháng. Cơm chỉ có rau muống hay bắp cải, xu hào luộc, 6 người một mâm, có 4 miếng thịt nửa mỡ nửa nạc bèo nhèo hay 4 miếng đậu phụ, ai gắp ai đừng. Vậy mà, suốt ngày này qua tháng khác chỉ nghe xướng họa bản hùng ca thơ chống Mỹ cứu nước của các thầy.
Của đáng tội, thời ấy, ngoài thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật và một vài người khá nữa, còn có thơ nào để đọc và để học. Đọc mãi thành ngấm, ngấm thành say, say thành mê, nhất là thơ Tố Hữu sao mà mê thế, mê như nhập đồng chứ chẳng chơi. Nào là Bài ca mùa xuân 61, Hãy nhớ lấy lời tôi, Người con gái Việt Nam, Mẹ Suốt,… cứ như có ma nhập vào người ấy. Mê thật sự! Đúng là Lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
*
Thế mà, kể cũng lạ, sau khoảng vài chục năm gì đấy, khi con người chính trị của ông không còn nữa, thì thơ ông dần ít người đọc, thậm chí ngay trong giới văn chương, cũng không mấy khi nhắc đến, trừ một số người thi thoảng. Còn nhớ, năm 2012, trong dịp Hội Nhà văn tổ chức tưởng niệm 10 năm ngày mất của nhà thơ Tố Hữu, cũng có nhiều người nhắc đến, tuy mỗi người nhắc theo cách của mình.
Mặc dù ai cũng biết Tố Hữu có hơn một nửa thế kỷ không chỉ hát hùng ca, mà còn là tráng ca nữa. Không chỉ hát mà còn lĩnh xướng, rồi chỉ huy luôn cả giàn hợp ca cách mạng từ giữa những năm 30 đến giữa những năm 80. Nhưng dù sao cũng phải thấy rằng thứ văn thơ hô hào dần đã lắng xuống nhường chỗ cho những dòng thơ ca khác. Ít nhất là tôi được nghe vài người phát biểu trong các cuộc tọa đàm về văn chương nói chung, thơ ca nói riêng hoặc đọc ở đâu đấy, số người yêu và thích thơ Tố Hữu đã giảm đi một cách đáng kể. Thậm chí ở các khoa Văn cao đẳng, đại học Sư phạm hay Tổng hợp khoảng hơn chục năm trở lại đây, dù bí đề tài làm luận văn Đại học, Thạc sĩ hay Tiến sĩ đến đâu, người ta cũng không chọn thơ Tố Hữu. Ngay cả các ông thầy dạy tôi được mệnh danh là những người nghiện hay ăn phải bùa ngải thơ Tố Hữu, giờ cũng tỏ ra kiệm lời hơn, thậm chí còn né tránh khi nhắc đến ông.
Từ thực tế ấy gợi cho tôi một suy nghĩ là liệu thơ Tố Hữu có thực sự là những tác phẩm nghệ thuật tuyệt mỹ như những điều người ta rao giảng bấy lâu nay cho nhiều thế hệ thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên Việt Nam hay đấy chỉ là một chiêu thức của những kẻ cơ hội mà trong những điều kiện xã hội nhất định không ai dám lên tiếng phản đối?
Tôi sinh ra và lớn lên thời chống Mỹ, nên thuộc nhiều câu, bài thơ của Tố Hữu, nhưng bảo yêu và thích thì không. Thuộc vì mấy lẽ, thế hệ tôi dường như ai cũng thuộc một vài câu, bài thơ nào đấy của các nhà thơ như Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên hay Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh, Bằng Việt,…là lẽ thường tình. Vì cách đây chừng 40- 50 năm về trước, ngoài thơ của mấy ông ấy ra còn có thơ nào nữa để học và để đọc đâu. Cả dân tộc hát đồng ca về đánh giặc, hát đồng ca về hợp tác hóa nông nghiệp, hát đồng ca về chủ nghĩa xã hội, hát đồng ca về chống hủ hóa,… bằng văn chương, thơ phú. Tôi chỉ là một cá nhân trong giàn đồng ca ấy, mà họ là những người lĩnh xướng, không hát theo sao được.
Thứ nữa thời chúng tôi, bị các thầy nhồi nhét ghê quá, khiến tôi liên tưởng đến câu nói nổi tiếng của một ai đó, rằng: Một điều sai nghe trăm lần sẽ trở thành đúng. Vậy mà chúng tôi nghe đến cả nghìn lần, hỏi sao không thuộc. Lại còn kiểm tra trả nợ môn, rồi khóa luận, luận văn, lúc nào cũng thơ ca cách mạng và văn học xã hội chủ nghĩa. Tóm lại là ăn văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, thở chống hủ hóa và đi lại thơ văn hợp tác hóa nông nghiệp hoặc ngược lại. Mà người sản xuất ra các thứ ấy chỉ đếm trên đầu ngón tay. Còn những Cửa mở của Việt Phương, Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm, hay Màu tím hoa sim của Hữu Loan, nếu có đọc, liệu mà chui vào chăn, dấu đi, kẻo loại cán bộ lớp như lão lớp trưởng của tôi, T.K.T mà bắt được, tâu lên khoa, lên trường, thậm chí lên cả cơ quan bảo vệ văn hóa, có mà về nhà đuổi gà cho vợ sớm.
Với Tố Hữu, không ai có quyền phủ nhận công lao và thành quả của ông về cả hai phương diện nhà hoạt động chính trị và nhà thơ lớn trong diễn trình văn chương cách mạng. Nhưng ông cũng là một con người, bằng xương, bằng thịt hẳn hoi, sao người ta cứ bắt ông phải trở thành thánh sống. Để rồi đến một lúc nào đấy, chính ông cũng cảm thấy mình là thánh thật. Như thế chỉ làm khổ ông, nhất là những năm tháng cuối đời.
Bên cạnh một Tố Hữu lẫy lừng văn chương nửa thế kỷ chiến đấu, hy sinh cho cách mạng, còn có một Tố Hữu âm thầm cô đơn, nhiều khi chỉ hát một mình. Dù vậy, với tập thơ Một tiếng đờn, ông đã được nhận Giải thưởng Văn học ASEAN của Thái Lan năm 1996./.