VanVN.Net – Nhà thơ Trần Quang Quý sinh năm: 1955 tại làng Hạ Bì, xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ. Anh tốt nghiệp khóa II Trường Viết văn Nguyễn Du, trải qua nhiều năm làm báo với những thăng trầm nghề nghiệp, hiện anh đang công tác tại NXB Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Quang Quý quan niệm: “Tác phẩm văn học chỉ có giá trị khi nó ở trong lòng bạn đọc. Con đường văn chương cực gian nan, dễ huyễn hoặc và phụ thuộc vào tài năng, sức lao động… mà nếu không thức ngộ được thì có khi cả cuộc đời chỉ là bản nháp.”. Miệt mài sáng tạo với một thái độ dấn thân, nhập cuộc quyết liệt, anh đã có nhiều tập thơ hay dành cho bạn đọc (trong đó có “Giấc mơ hình chiếc thớt” được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004). “Màu tự do của đất” – tập thơ ra mắt bạn đọc quý II/2012 của Trần Quang Quý đã được nhiều bạn đọc đón nhận, cảm nhận và chia sẻ. VanVN.Net trân trọng giới thiệu 6 bài rút từ tập thơ này…
Bìa tập thơ Màu tự do của đất
Mầu tự do của đất
Những ngọn khói cay mùi rơm rạ dắt tôi về cánh đồng lồng lộng sao đêm
tôi hít thở mầu tự do của đất
ngọn khói buộc thân phận nông dân vào cây cột tâm thức làng
và mái đình cong câu ngược tầm nhìn
những ngõ xóm ngủ hiền trên ngõ
mỗi buổi sáng một ban mai mọc trong họ tiếng hạt nảy mầm…
Còn vẳng lên bầy châu chấu bò quanh ký ức quê làng
nức thơm mùa hái gặt
củ khoai lùi bong ra cơn đói
dẫn ngược con đường in dấu vết thuở ông bà mở đất
những giần sàng gạn lấy nhân sinh
Liềm hái thèm ngày thôi gặt gió sương
người nông dân thèm tự do được giải phóng mình khỏi nhọc nhằn cơ bắp
và tự do đầu tiên lại là tự do không thoát ly bùn đất
tự do của mồ hôi
tự do neo đời mình vào cánh đồng sương gió
Trong trùng điệp bóng quê, trong trùng điệp gót người xa khuất
sợi tóc làng rụng xuống ca dao
áo rách áo lành bọc được bao nhiêu nhân nghĩa
chiếc áo làng tôi, chiếc áo đã vị bùn
ai cởi cho ta mùi khói cơm thơm?
26/10/2010
Đồng loại
- Tặng LTĐ -
Trong mắt rắn, dĩ nhiên rồi ta cũng loài rắn
ngôn ngữ của trườn bò
bóng tối phục binh trong bình minh nọc độc
quen lẩn khuất rập rình và tiến thân lươn lẹo
những già cỗi cũ mèm rồi có thể lột da
chỉ tính rắn không lột được cùng lốt rắn
Trong mắt bầy khuyển kia, làm sao khác ta cũng thành đồng loại
những cơn tru hoang (tiếng người hóa dại)
ngày thấp thỏm quạ kêu, đêm chập chờn cú rúc
những con mắt gài quanh bờ giậu
lách nhách cắn bóng đêm hay tự sủa phận mình
có cái chết trong bầm dập vết răng đồng loại
có bước chân côi cút lẻ bầy
Trong mắt chim ta cũng loài chim
cũng giống chim đi trên hai chân, nhưng khác chim người lại biết bò
và (nói nhỏ) thua chim không thể bay lên
suốt đời níu nhau mặt đất
Ta là ai? Câu hỏi đã xưa rồi
và điều đó chỉ riêng ta biết
ta là cả muôn loài, duy một điều khác biệt
ta vẫn phải suốt đời mang gương mặt là ta!
2/12/2006 – 23/2/2007
Nhà thơ Trần Quang Quý
Sơn Tây
Này mây trắng Ba Vì gọi ngàn tuổi bay
này thành quách đá ong dẫn lối về phế hoang chiều cổ đại…
Tôi vào Sơn Tây bằng cổ thành xưa rỉ máu, bằng trung du cuộn đỏ
lúng liếng Xứ Đoài những nàng răng đen hạt nhót đang cười duyên
các nàng liếc tôi bằng sâu thẳm bầu trời thị giác
bằng cả những phía sau mi cong
Áo lụa dệt mềm mắt tôi, khăn nhung mỏ quạ buộc tôi bằng sợi xúc cảm
các nàng cổ nhân rồi. Tôi cứ sống thời các nàng mười tám tuổi
mê mẩn yếm đào cầu ao khoả gió
rúc ríc chợ quê, bánh tẻ thơm ngang vai trần sương nõn
tôi đi qua ngàn năm để đỏng đảnh một chiều váy ngắn
Tích Giang vỗ lõm bình minh thành cổ
nhoẻn miệng cười lúng liếng nhân gian
Tôi cưỡi mây trắng bay điệp điệp sông Hồng
bay phiêu du bằng dân dã hồn làng
có cánh diều làm nghiêng cả một vòm trời lãng mạn
có bầu trời tự do thúc ngựa hí những khát dâng trong ngực
có trái tim già dắt trái tim non đi vấp váp trên con đường nhân bản
nối đời này đời nọ gió lành Sơn Tây
Kìa mây kìa mây dẫn tôi non Tản, dẫn qua sông Đà, tôi về Thanh Thuỷ
sông ngàn tuổi đương giai
những triền bãi nằm dài liu riu ngủ sau mê mệt cường dâng mùa lũ
mía ngọt ngô lùi khói sương đơm nhớ
sông hổn hển kể ngày những nàng thôn nữ ra bến quê giặt yếm
khỏa những nụ cười duyên
giặt cái dịu dàng, giặt phồn thực
các nàng giặt tôi, kì cọ tôi bằng chiều quê cổ điển
bằng cổ tích Ba Vì, bằng cả bây giờ quần jean, tóc hấp
Tôi đi qua Sơn Tây, chưa qua hết những buổi chiều mây trắng
đá ong nằm rỗ mặt thời gian
có một vòm trời răng đen hạt nhót
mỉm tôi
môi chiều
Mộc Châu, 31/8/2010
Mặt ghế
Chiếc ghế mang ngôn ngữ một rừng cây
trăm năm rừng cây cùng cất giọng trong thẳm sâu vân gỗ
có cái đầu luôn khát tự do
lại có tự do tự gông cùm trên ghế
Tôi gặp đó đây những gương mặt mộng du quyền lực
những cái đầu nhỏ hơn vương miện
bài hát về tự do dài rộng thiên nhiên
thiên nhiên mãi tươi xanh
có giai điệu của trời, có tiếng gầm mãnh thú
chiếc ghế chứng nhân, một sàn diễn của vòng quay thế sự
Còn trên ghế những mặt đời sấp ngửa
những khao khát vang xa, những dòng sông lấp vùi quá khứ
những ngôn từ chưa mọc râu, những bào thai thời cuộc chết yểu
những thai nghén vô sinh, những thứ sinh đã vội lỗi mùa
sự vinh danh có thể ngắn hơn một đời cây
và nỗi buồn, có thể dài hơn sau đời ghế…
Tiếng ghế xô. Tiếng đại ngàn cuộn dâng mùa lũ!
một bóng cây đổ rỗng bóng rừng
thiên nhiên vẫn chảy trong từng thớ gỗ
lạ chưa kìa, mặt ghế hư vô…
6/3/2008
Mặt đất
Đất xa ta từ tầng sâu ý thức
và gần ta ngay dưới bàn chân
đất cùng ta mùa màng, đón ta về vô tận
Tôi thấy lớp lớp dấu chân xếp đầy thế gian
cao hơn mọi quả núi
những dấu chân thăm thẳm vô hình
xếp chặt cả những ngăn kí ức, những ngăn ảo ảnh
chúng bước tiếp vào trang sử còn đang viết dở, vào tương lai chưa kịp hình dung
Khi bước trên cánh đồng tôi sợ mình làm vỡ những giọt sương
có thể giọt sương kia là nước mắt của tổ tiên
những giọt từ tầng tầng siêu thoát
những giọt mồ hôi đắng mặn
gửi lại trên mỗi cánh hoa, mỗi ngọn cỏ non tơ
giọt của những kiếp người
chưng cất!
Khi tôi bước trên đường, có thể là một con đường nhỏ
cũng vời vợi bóng người
mỗi con đường đều có một số phận
và lịch sử con đường, máu tứa những bàn chân
Bạn có hình dung, chính gương mặt con người trải thành đất đai núi sông
mỗi bước đi xin nhớ nhỏ nhoi này
có thể bóng xưa đang quằn quại dưới bàn chân bạn
cũng có thể chỉ là vô nghĩa giọt sương
26/5/07 - 13/9/08
Từ trái sang, các nhà thơ: Đặng Huy Giang, Trần Quang Quý, Quang Hoài, Đặng Quang Vượng ở cao nguyên đá Đồng Văn
Tiếng đá
Có một chủng tộc đá túa ra bao vây chân người
có lời đá ngậm im miệng đá
chỉ gió trời hiểu được mang rì rầm đá cô đơn hát cùng mây ngàn
đá lặn vào những gương mặt như vừa nứt ra từ chính đá lầm lũi
đá cởi trần gồng núi
tua tủa bầu nên cao nguyên
Những đứa trẻ khóc tiếng đá. Cười khù khì đá
những con đường gồ ghề xồng xộc chạy ra từ nguyên thủy
con đường dài hơn mọi kiếp phận
đá nâng tôi ngàn thước, cõng tôi vào mây
gió rít ngàn ngựa hoang lồng Mã Pì Lèng
Nho Quế chảy rượu trời đổ cơn say vào thảng thốt tinh sương
rót bình men thiên nhiên kỳ vĩ
tôi ngấm những giọt người vắt ra từ đá
ngấm nỗi niềm nảy hạt
Những bàn chân phong phanh nhấc từng bước hy vọng
bàn chân đánh vần từng ký tự đá trên con dốc dài lởm chởm số phận
bấm vào tư duy im phắc
bấm vào hồn núi cao, vào vóc dáng đền đài thế kỷ
bấm vào huyết bào chủng tộc đá đã dựng lên vương quốc đá phì nhiêu
đánh thức tự do búp tủa lên trời
Vẳng điệu khèn cất lên trong miên man cỏ sương
điệu khèn cũng chắt ra từ tầng tầng rễ đá
chắt tiếng người rót giữa mơ xanh
Đồng Văn, 30/4/2011
VanVN.Net – Nhà thơ Trần Quang Quý sinh năm: 1955 tại làng Hạ Bì, xã Xuân Lộc, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ. Anh tốt nghiệp khóa II Trường Viết văn Nguyễn Du, trải qua nhiều năm làm báo với những thăng trầm nghề nghiệp, hiện anh đang công tác tại NXB Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Quang Quý quan niệm: “Tác phẩm văn học chỉ có giá trị khi nó ở trong lòng bạn đọc. Con đường văn chương cực gian nan, dễ huyễn hoặc và phụ thuộc vào tài năng, sức lao động… mà nếu không thức ngộ được thì có khi cả cuộc đời chỉ là bản nháp.”. Miệt mài sáng tạo với một thái độ dấn thân, nhập cuộc quyết liệt, anh đã có nhiều tập thơ hay dành cho bạn đọc (trong đó có “Giấc mơ hình chiếc thớt” được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2004). “Màu tự do của đất” – tập thơ ra mắt bạn đọc quý II/2012 của Trần Quang Quý đã được nhiều bạn đọc đón nhận, cảm nhận và chia sẻ. VanVN.Net trân trọng giới thiệu 6 bài rút từ tập thơ này…
Bìa tập thơ Màu tự do của đất
Mầu tự do của đất
Những ngọn khói cay mùi rơm rạ dắt tôi về cánh đồng lồng lộng sao đêm
tôi hít thở mầu tự do của đất
ngọn khói buộc thân phận nông dân vào cây cột tâm thức làng
và mái đình cong câu ngược tầm nhìn
những ngõ xóm ngủ hiền trên ngõ
mỗi buổi sáng một ban mai mọc trong họ tiếng hạt nảy mầm…
Còn vẳng lên bầy châu chấu bò quanh ký ức quê làng
nức thơm mùa hái gặt
củ khoai lùi bong ra cơn đói
dẫn ngược con đường in dấu vết thuở ông bà mở đất
những giần sàng gạn lấy nhân sinh
Liềm hái thèm ngày thôi gặt gió sương
người nông dân thèm tự do được giải phóng mình khỏi nhọc nhằn cơ bắp
và tự do đầu tiên lại là tự do không thoát ly bùn đất
tự do của mồ hôi
tự do neo đời mình vào cánh đồng sương gió
Trong trùng điệp bóng quê, trong trùng điệp gót người xa khuất
sợi tóc làng rụng xuống ca dao
áo rách áo lành bọc được bao nhiêu nhân nghĩa
chiếc áo làng tôi, chiếc áo đã vị bùn
ai cởi cho ta mùi khói cơm thơm?
26/10/2010
Đồng loại
- Tặng LTĐ -
Trong mắt rắn, dĩ nhiên rồi ta cũng loài rắn
ngôn ngữ của trườn bò
bóng tối phục binh trong bình minh nọc độc
quen lẩn khuất rập rình và tiến thân lươn lẹo
những già cỗi cũ mèm rồi có thể lột da
chỉ tính rắn không lột được cùng lốt rắn
Trong mắt bầy khuyển kia, làm sao khác ta cũng thành đồng loại
những cơn tru hoang (tiếng người hóa dại)
ngày thấp thỏm quạ kêu, đêm chập chờn cú rúc
những con mắt gài quanh bờ giậu
lách nhách cắn bóng đêm hay tự sủa phận mình
có cái chết trong bầm dập vết răng đồng loại
có bước chân côi cút lẻ bầy
Trong mắt chim ta cũng loài chim
cũng giống chim đi trên hai chân, nhưng khác chim người lại biết bò
và (nói nhỏ) thua chim không thể bay lên
suốt đời níu nhau mặt đất
Ta là ai? Câu hỏi đã xưa rồi
và điều đó chỉ riêng ta biết
ta là cả muôn loài, duy một điều khác biệt
ta vẫn phải suốt đời mang gương mặt là ta!
2/12/2006 – 23/2/2007
Nhà thơ Trần Quang Quý
Sơn Tây
Này mây trắng Ba Vì gọi ngàn tuổi bay
này thành quách đá ong dẫn lối về phế hoang chiều cổ đại…
Tôi vào Sơn Tây bằng cổ thành xưa rỉ máu, bằng trung du cuộn đỏ
lúng liếng Xứ Đoài những nàng răng đen hạt nhót đang cười duyên
các nàng liếc tôi bằng sâu thẳm bầu trời thị giác
bằng cả những phía sau mi cong
Áo lụa dệt mềm mắt tôi, khăn nhung mỏ quạ buộc tôi bằng sợi xúc cảm
các nàng cổ nhân rồi. Tôi cứ sống thời các nàng mười tám tuổi
mê mẩn yếm đào cầu ao khoả gió
rúc ríc chợ quê, bánh tẻ thơm ngang vai trần sương nõn
tôi đi qua ngàn năm để đỏng đảnh một chiều váy ngắn
Tích Giang vỗ lõm bình minh thành cổ
nhoẻn miệng cười lúng liếng nhân gian
Tôi cưỡi mây trắng bay điệp điệp sông Hồng
bay phiêu du bằng dân dã hồn làng
có cánh diều làm nghiêng cả một vòm trời lãng mạn
có bầu trời tự do thúc ngựa hí những khát dâng trong ngực
có trái tim già dắt trái tim non đi vấp váp trên con đường nhân bản
nối đời này đời nọ gió lành Sơn Tây
Kìa mây kìa mây dẫn tôi non Tản, dẫn qua sông Đà, tôi về Thanh Thuỷ
sông ngàn tuổi đương giai
những triền bãi nằm dài liu riu ngủ sau mê mệt cường dâng mùa lũ
mía ngọt ngô lùi khói sương đơm nhớ
sông hổn hển kể ngày những nàng thôn nữ ra bến quê giặt yếm
khỏa những nụ cười duyên
giặt cái dịu dàng, giặt phồn thực
các nàng giặt tôi, kì cọ tôi bằng chiều quê cổ điển
bằng cổ tích Ba Vì, bằng cả bây giờ quần jean, tóc hấp
Tôi đi qua Sơn Tây, chưa qua hết những buổi chiều mây trắng
đá ong nằm rỗ mặt thời gian
có một vòm trời răng đen hạt nhót
mỉm tôi
môi chiều
Mộc Châu, 31/8/2010
Mặt ghế
Chiếc ghế mang ngôn ngữ một rừng cây
trăm năm rừng cây cùng cất giọng trong thẳm sâu vân gỗ
có cái đầu luôn khát tự do
lại có tự do tự gông cùm trên ghế
Tôi gặp đó đây những gương mặt mộng du quyền lực
những cái đầu nhỏ hơn vương miện
bài hát về tự do dài rộng thiên nhiên
thiên nhiên mãi tươi xanh
có giai điệu của trời, có tiếng gầm mãnh thú
chiếc ghế chứng nhân, một sàn diễn của vòng quay thế sự
Còn trên ghế những mặt đời sấp ngửa
những khao khát vang xa, những dòng sông lấp vùi quá khứ
những ngôn từ chưa mọc râu, những bào thai thời cuộc chết yểu
những thai nghén vô sinh, những thứ sinh đã vội lỗi mùa
sự vinh danh có thể ngắn hơn một đời cây
và nỗi buồn, có thể dài hơn sau đời ghế…
Tiếng ghế xô. Tiếng đại ngàn cuộn dâng mùa lũ!
một bóng cây đổ rỗng bóng rừng
thiên nhiên vẫn chảy trong từng thớ gỗ
lạ chưa kìa, mặt ghế hư vô…
6/3/2008
Mặt đất
Đất xa ta từ tầng sâu ý thức
và gần ta ngay dưới bàn chân
đất cùng ta mùa màng, đón ta về vô tận
Tôi thấy lớp lớp dấu chân xếp đầy thế gian
cao hơn mọi quả núi
những dấu chân thăm thẳm vô hình
xếp chặt cả những ngăn kí ức, những ngăn ảo ảnh
chúng bước tiếp vào trang sử còn đang viết dở, vào tương lai chưa kịp hình dung
Khi bước trên cánh đồng tôi sợ mình làm vỡ những giọt sương
có thể giọt sương kia là nước mắt của tổ tiên
những giọt từ tầng tầng siêu thoát
những giọt mồ hôi đắng mặn
gửi lại trên mỗi cánh hoa, mỗi ngọn cỏ non tơ
giọt của những kiếp người
chưng cất!
Khi tôi bước trên đường, có thể là một con đường nhỏ
cũng vời vợi bóng người
mỗi con đường đều có một số phận
và lịch sử con đường, máu tứa những bàn chân
Bạn có hình dung, chính gương mặt con người trải thành đất đai núi sông
mỗi bước đi xin nhớ nhỏ nhoi này
có thể bóng xưa đang quằn quại dưới bàn chân bạn
cũng có thể chỉ là vô nghĩa giọt sương
26/5/07 - 13/9/08
Từ trái sang, các nhà thơ: Đặng Huy Giang, Trần Quang Quý, Quang Hoài, Đặng Quang Vượng ở cao nguyên đá Đồng Văn
Tiếng đá
Có một chủng tộc đá túa ra bao vây chân người
có lời đá ngậm im miệng đá
chỉ gió trời hiểu được mang rì rầm đá cô đơn hát cùng mây ngàn
đá lặn vào những gương mặt như vừa nứt ra từ chính đá lầm lũi
đá cởi trần gồng núi
tua tủa bầu nên cao nguyên
Những đứa trẻ khóc tiếng đá. Cười khù khì đá
những con đường gồ ghề xồng xộc chạy ra từ nguyên thủy
con đường dài hơn mọi kiếp phận
đá nâng tôi ngàn thước, cõng tôi vào mây
gió rít ngàn ngựa hoang lồng Mã Pì Lèng
Nho Quế chảy rượu trời đổ cơn say vào thảng thốt tinh sương
rót bình men thiên nhiên kỳ vĩ
tôi ngấm những giọt người vắt ra từ đá
ngấm nỗi niềm nảy hạt
Những bàn chân phong phanh nhấc từng bước hy vọng
bàn chân đánh vần từng ký tự đá trên con dốc dài lởm chởm số phận
bấm vào tư duy im phắc
bấm vào hồn núi cao, vào vóc dáng đền đài thế kỷ
bấm vào huyết bào chủng tộc đá đã dựng lên vương quốc đá phì nhiêu
đánh thức tự do búp tủa lên trời
Vẳng điệu khèn cất lên trong miên man cỏ sương
điệu khèn cũng chắt ra từ tầng tầng rễ đá
chắt tiếng người rót giữa mơ xanh
Đồng Văn, 30/4/2011
VanVN.Net - Chiều 9/10/2013, tại Nhà hát Lớn Hà Nội đã diễn ra Lễ tôn vinh doanh nhân và trao giải cuộc thi viết chân dung “Doanh nhân – Nghiệp & Đời” do Công ty CP truyền thông Báo Văn nghệ ...
VanVN.Net - Dường như cả cuộc đời ông muốn níu lại bất kỳ ai trên thế gian này để nhắn gửi. Có ai cưỡi ngựa về Kinh bắc…? Câu thơ giản dị mà giằu biểu tượng là thế của thi sỹ ...
VanVN.Net – Nhân kỷ niệm 83 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 – 2013), sáng 17/10/2013, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức buổi gặp gỡ thân mật các nhà văn nữ ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn