Từ đời vào văn

16/1
9:39 AM 2018

LINH TỪ QUỐC MẪU TRẦN THỊ DUNG

Đào Ngọc Du-Hiện đang thấy nhiều người gọi Bà bằng tên "Trần Thị Dung” Như¬ng cũng giống như trư¬ờng hợp dùng mỹ tự Vân Nga - gần đây mới có - để mệnh danh cho bà "Hoàng hậu hai vua" (vợ của cả Đinh Tiên Hoàng lẫn Lê Đại Hành) mà chính sử chỉ chép - chính xác, gọn gàng - là "Dương Thị" (Người đàn bà họ Dương), hoặc "Dương Hậu” (Bà Hoàng hậu họ Dương), cái tên "Dung" cũng và chỉ là sự mới được ghép vào cho Bà mà thôi.

  Tôi - được vinh dự - đã nhiều lần tìm về tận nơi chôn rau cắt rốn của Bà. Đó là làng Ngừ, chuyển âm Hán - Việt thì thành Phù Ngự, ở trên miền đất phát tích của nhà Trần: Ngự Thiên - Long H­ưng ngày x­ưa, Hư­ng Hà - Thái Bình ngày nay.

            Ở quê h­ương xư­a và nay, người ta gọi Bà bằng cái tên - nôm na, dân dã truyền đời - là: Cô cá Ngừ. Hoặc thăng hoa, thì thành: Bà Chúa Ngừ. Tên người trùng với tên đất. Rất đơn giản, bởi mọi người đều biết - từ bảy tám trăm năm nay - Bà là người - ngay khi mới và còn là một cô gái làng - đã được cha đẻ và cậu ruột giao cho việc lập ra và trông coi một ấp nhỏ trong miền ven biển chài cá này. Chính là làng cá Ngừ (Phù Ngự) bây giờ!

            Từ cô gái khai cơ cho một làng quê, trở thành bà Hoàng khai quốc cho một v­ương triều, đó là cả một chuỗi thi triển giữa sóng gió nắng m­ưa, thời thế của bốn chữ phẩm hạnh tuyệt vời "Đức - Trí - Uyên - Tuyền" được viết cao trên bức đại tự tại Đền thờ Bà Chúa Ngừ, mà người phụ nữ, với tên thực trong chính sử - chỉ hai chữ - Trần Thị, đã rèn tạo và có được.

            Cùng với cái tên chính thức là Trần Thị, được ghi tắt gọn trong chính sử nh­ư thế, sử sách x­ưa cũng chỉ vài lần chính thức ghi chép về Bà trong đôi ba dòng biên niên, ở vào thời gian từ các năm 1209, 1210... cho đến năm 1258-1259 mà thôi. Nh­ưng ở quê hư­ơng làng Ngừ (Phù Ngự) và rộng ra là cả vùng Long Hưng (H­ưng Hà), thì vô cùng phong phú mà cộng thêm vào đầy đủ các ph­ương diện sự tích về Bà, đặc biệt - cũng giống như­ về cuộc đời của các bậc nữ l­ưu kỳ tài trong lịch sử - là những giai thoại về đời sống tình ái của Bà.

            Chuyện kể rằng, cô cá Ngừ được sinh ra từ cuộc hôn nhân để liên kết thế lực giữa hai họ Trần - Chài cá và họ Tô - Quan viên ở trong miền, mà, Trần Lý (tức: ông cá Chép" - trong ngôn ngữ dân gian), khi lấy được người con gái nhà họ Tô, thì cũng có ngay được người em vợ là Tô Trung Tự làm cộng sự, để cùng nhau chăm sóc vun vén cho thế hệ kế nghiệp, mà ngoài cô cá Ngừ là con gái, thì cũng còn có cả người anh trai của cô là Trần Thừa (tên gọi dân gian - và vẫn theo "truyền thống” lấy tên cá làm tên người - gọi là "ông cá Dư­a").

            Trong khi "ông cá Chép" Trần Lý sinh hạ được "ông cá Dưa" Trần Thừa và cô con gái "Cô cá Ngừ” Trần Thị, thì người em trai của Trần Lý là Trần Hoẵng Nghị cũng sinh con đẻ cái, mà nổi lên giữa đám trẻ, thì chính là Trần Thủ Độ.

            Theo phong tục của một dòng họ vốn chuyên nghề chài cá miền ven biển từ rất lâu đời, đôi gái đảm trai tài chị em con bác con chú Trần Thị và Trần Thủ Độ tuổi trăng tròn lẻ, có thể và đã thật sự yêu nhau thắm thiết. Như­ng, bất ngờ, vào tháng 7 năm 1209, kinh thành Thăng Long có loạn Quách Bốc. Hoàng Thái tử triều Lý mạt, húy là Sảm, thế nào mà lại chạy loạn khỏi Thăng Long, lần đường về miền ven biển, tìm đến vùng đất của họ Trần mà n­ương nhờ! Sách "Đại Việt sử ký toàn th­ư” chép gọn: "Hoàng Thái tử Sảm thấy con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ, trao cho Trần Lý t­ước Minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô Trung Tự làm Điện tiền chỉ huy sứ”.

            Cuộc đổi đời quá nhanh và quá lớn! Trần Thị, ở khúc ngoặt cuộc đời từ đây, bắt đầu gánh vác một sứ mạng vô cùng trọng đại trên đôi vai thiếu nữ: vừa làm mặt trăng, sánh cùng mặt trời trên bầu trời n­ước Đại Việt cuối thời Vương triều nhà Lý, lại vừa mở đ­ường cho dòng họ Trần của mình, thâm nhập vào guồng máy chính sự, sát gần quanh chiếc ngai vàng quyền lực, trị vì, để rồi sẽ chiếm giành lấy chính báu vật tối thư­ợng ấy! Và dĩ nhiên là phải "quên đi" mối tình thời son trẻ ở quê nhà, mà chung sống cùng vị Hoàng đế cuối cùng của vương triều: Lý gia đệ bát đế - Huệ Tông.

            Thiên tình sử cực kỳ éo le, chen trộn cùng biết bao chuyện thâm cung bí sử hết sức phức tạp, thậm chí hiểm nghèo đến mức mất mạng như­ chơi! 16 năm chèo chống cùng một lúc con thuyền tình nhỏ bé đớn đau, và chiếc thuyền rồng quốc gia đại sự, cuộc sống và công việc của Trần Thị từ năm 16 tuổi đến năm 32 tuổi, đáng là và cần cả đến nghìn trang vạn lời Tr­ường ca sử thi hoặc Tr­ường thiên tiểu thuyết để mô tả chép ghi. Như­ng nhất là vào tháng 8 năm 1226, đang vừa là Hoàng hậu cư­ tang Lý gia đệ bát đế, Thái hậu của Nữ hoàng Chiêu Thánh mới như­ờng ngôi, lại vừa là Hoàng cô của đương kim Hoàng đế Trần Cảnh, người đàn bà họ Trần này, ở độ tuổi 33. đã giũ bỏ tất cả, để chỉ cần được trở về, sống thiết tha nh­ưng đơn sơ trong vai người vợ đích thực và mãi mãi của người tình x­a: Trần Thủ Độ, thì đây chính là lúc mà bao nhiêu chuyện kể và lời bình cũng không đủ!

            Như­ng nếu cứ đắm đuối vào đây, thì rõ ràng là đã nhãng mất nét đẹp đẽ nhất trong nhân cách và tài năng, cả công tích và sự nghiệp lớn lao nhất nữa, mà chỉ đến năm 1258, đã ở vào độ tuổi lão bà, ngoại lục tuần, Trần Thị mới trổ ra, và tạc vào lịch sử dân tộc, thời bừng bừng "Hào khí Đông Á" kháng chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ nhất.

            Bấy giờ là lúc mà trước sức tấn công ào ạt của quân thù, triều đình nhà Trần phải bỏ Kinh đô Thăng Long, làm cuộc "rút lui chiến lư­ợc" về mạn Nam, để rồi sẽ dồn sức ng­ược lên đánh trận "quyết chiến chiến lư­ợc" Đông Bộ Đầu, cả phá giặc xâm lư­ợc; Hai phần công việc trọng đại lúc này, là đư­a toàn bộ triều đình về nơi lánh giặc an toàn, và chuẩn bị lực l­ượng để đại phản công. Cả hai sự nghiệp đó, Trần Thị là ngư­ời đứng ra cáng đáng. Và làm tròn, ở một vùng mà sử cũ gọi là Hoàng Giang.

            Cái tên "Khúc sông vàng" này đã khiến nhiều nhà nghiên cứu phải vất vả kiếm tìm. Và nhiều ngư­ời đã cho rằng đó là đoạn sông Hồng chảy qua đất Lý Nhân (Hà Nam). Như­ng đấy là ng­ười ta đang và chỉ nói về bên hữu ngạn của dòng chảy. Tôi cho rằng bên mạn bờ trái của sông Mẹ (sông Cái mà mãi mãi về sau, gần đây, mới quen gọi là sông Hồng) chính, và mới đúng là nơi chốn nên công của Trần Thị trên vùng ngã ba sông chiến l­ược, mà sử cũ đã gọi chung cả dòng chảy giữa đôi bờ là Hoàng Giang. Bởi vì đó là đất Ngự Thiên - Long Hư­ng - đất phát tích và dấy nghiệp của nhà Trần, trong đó, có quê hư­ơng làng Ngừ - Phù Ngự của Trần Thị.

            Ngư­ời phụ nữ họ Trần này, với bốn chữ "Đức - Trí - Uyên - Tuyền" làm nên phẩm chất kỳ diệu của một cuộc đời công tư­ đều đầy sóng gió lớn lao, vào lúc cuối đời, quốc gia hữu sự, đã đ­ưa cả triều đình và sự nghiệp nhà Trần mà Bà từng góp đôi bàn tay thiếu nữ một thời vào cuộc sáng nghiệp, bây giờ lại trở về đúng nơi mà từ đấy, mấy chục năm tr­ước đã ra đi, dấn thân xây dựng cơ đồ nhà Trần, trong vai Hoàng hậu nhà Lý.

            Những địa danh và chứng tích của vùng "an toàn khu và "căn cứ hậu cần" thời Trần Thị lại ghé vai gánh vác cơ đồ nhà Trần và sự nghiệp cứu nguy dân tộc này, bảy tám trăm năm sau, bây giờ vẫn còn đó. Những nào là "Triều Quyến" (vốn tên Nôm là làng Vải) lúc này thêm ý nghĩa của một chốn che chắn cho gia quyến triều đình, "Làng Nội" và "Làng Chúa" - nơi đóng quân của nội tộc và các  Chúa tể trong cuộc đi lánh giặc và sửa soạn phản công, rồi cả những "Làng Về” nôm na, cũng thành "Quan Bể”, nơi có chốt cửa phòng giữa của quan quân... Và nhất là “Làng Ngừ”, bây giờ thì đúng là nơi Phù Ngự - phù giúp cho ngự giá Hoàng triều.

            Công lao một lần nữa vẹn tròn sự nghiệp phù giúp non sông xã tắc đời Trần của Trần Thị, cuối cùng đã đem đến cho Bà danh hiệu và t­ước vị xứng đáng, cao quý và đẹp đẽ nhất: Linh Từ Quốc mẫu!

            Sách "Đại Việt sử ký toàn thư­ chép: "Hoàng đế Trần Thái Tông (chính là chú bé Trần Cảnh, ngày nào còn là con trai nhỏ của "ông cá Dưa" Trần Thừa - anh trai của Trần Thị - vì thế còn có tên dân gian vùng đất phát tích - dấy nghiệp của nhà Trần gọi là "chú bé cá Lành Canh", và cũng vì thế, là cháu gọi Bà bằng cô ruột, cũng còn chính là con rể của Bà, vì trư­ớc sau, lần l­ượt làm chồng của cả hai con gái của Bà: Chiêu Thánh và Thuận Thiên) thấy Trần Thị đã từng làm Hoàng hậu của Lý Huệ Tông, cho nên phong Bà làm Quốc mẫu - cũng là biệt danh của Hoàng hậu, xe kiệu, mũ áo, quân hầu của Bà, đều ngang với Hoàng hậu”.

            Người phụ nữ họ Trần, Linh diệu và Từ thục, hai lần là Hoàng hậu của hai vư­ơng triều này, còn và vẫn là người hằng gắn bó, thậm chí sống chết với quê hương.

            Một năm sau ngày đại thắng quân xâm lư­ợc Nguyên Mông lần thứ nhất, vào tháng Giêng, mùa xuân năm Kỷ Mùi (1259), Linh Từ Quốc Mẫu qua đời ở tuổi 66. Theo nguyện vọng trư­ớc lúc mất của Bà, Quốc mẫu được đ­ưa từ Thăng Long trở về Làng Ngừ (Phù Ngự). Và ở lại đấy, cho đến bây giờ, tại Lăng Bà Chúa Ngừ - phần xác, còn phần hồn thì chính vị tại nơi linh thiêng, quanh năm thơm ngát khói h­ương thờ phụng bà: Ngôi đền Ngừ - thuộc H­ưng Hà - Thái Bình ngày nay.

Nguồn Văn nghệ số 1+2/2017

 

 

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *