Thời sự văn học nghệ thuật

6/2
6:06 PM 2016

THƯA LẠI VỚI NHÀ THƠ XUÂN DIỆU: GẦU GIAI HAY GẦU SÒNG?THẦN QUYỀN HAY NỮ QUYỀN?

THƯA LẠI VỚI NHÀ THƠ XUÂN DIỆU: GẦU GIAI HAY GẦU SÒNG? THẦN QUYỀN HAY NỮ QUYỀN?
 

               TÁT NƯỚC

               Đang cơn nắng cực chửa mưa tè

                     Rủ chị em ra tát nước khe

                     Lẽo đẽo chiếc gàu ba góc chụm

                     Lênh đênh một ruộng bốn bờ be

                     Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa

                     Nhấp nhổm bền ghềnh đít vắt ve

                     Mải việc làm  ăn quên cả mệt

                     Dạng hang một lúc đã đầy phè.

 

                                    Hồ Xuân Hương

 

    Về bài thơ trên của nữ sĩ họ Hồ, nhà thơ Xuân  Diệu đặt  câu  hỏi: "Đây là tát nước gàu sòng hay gàu giai?", rồi tự trả lời: "   Tôi nghĩ đến cái gàu giai (giai là dây, gàu có buộc bốn sợi dây)  hợp  với thần của bài thơ hơn..."

    Thần của bài thơ này thì  theo Xuân  Diệu là  thái độ  thách thức, thậm chí coi thường thần quyền, ông viết: "Trời ơi trời, sao không mưa tè đi?! Nghĩa là gọi ông trời là thằng ranh con trời, thằng nhãi trời".

    Giải nghĩa như vậy Xuân Diệu cho là còn chưa rõ, chưa đủ, ông   thêm: "... Hồ Xuân Hương dám cho in trên cái mũi  ông trời  cái mông  vĩ đại của người đàn bà tát nước;" (trích Các nhà thơ cổ điển Việt  Nam trang 415 và 418)

                      Về hai vấn đề trên xin được bàn lại như sau:

    Người viết bài này không dám nói rằng chẳng có  chuyện hạ  bệ thần quyền, hạ bệ ông trời như Xuân Diệu đã chỉ dẫn, chỉ xin được phân tích để nhìn ra một thần thái khác của bài thơ TÁT NƯỚC.   Thần thái  đó là nhiệt tình đề cao nữ quyền, chống lại sự lấn lướt của nam quyền!

    Hãy bắt đầu bằng hai chữ chị em trong câu thừa đề. Sao lại  Rủ chị em ra tát nước khe? Vì sao chỉ có chị, em mà không có ông, có anh nào?

     Thưa rằng, cái việc nắng mưa xưa nay vẫn là việc của ông anh nhà trời. Cái vị được treo ở nơi cao nhất trong bài thơ này, ở câu thứ nhất, câu phá đề, vậy mà ông anh ấy trêu ngươi, cứ khinh khỉnh, trịnh thượng đến vô trách nhiệm, chẳng chịu "cập thời vũ" ,  chẳng  chịu mưa  vào ruộng hạn, cứ đang khi nắng cực chửa mưa tè! Cứ làm mình làm mẩy như thế cho nên chị em phải dấn thân, cố mà nhấp nhổm, vắt ve  cho nó ra  nước chứ trông cậy ông ấy, biết bao giờ người mưa cho, bao giờ trời...tè !

    Chị em muốn thay trời làm mưa. Nhưng dù nữ thay  trời làm  việc đó thì vẫn là nhân quyền thay thế thần quyền, vẫn là hạ bệ thần quyền chứ nào đã thấy việc so đo nữ quyền, nam quyền trong hai câu đề này?

  Xin thưa! Thay trời là thay " ông trời" chứ xưa nay nào đã nghe ai gọi "bà trời"! Cho nên cái người làm mưa làm nắng bị thay thế kia  phải là giống đực, một thứ giống đực có nam tính cao! Không phải vô ý khi thơì tiết  nắng nôi làm cho người ta cực nhọc, mở đầu bài thơ được  rút gọn thành nắng nôi cực nhọc để rồi tinh giản hơm nữa, chỉ còn hai chữ nắng cực. Bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương dụng công chơi hai chữ này,   để ai còn chưa tin là trong câu thơ thứ nhất ấy có giới  tính cửa  quyền đàn ông ẩn náu, thì cứ nói lái hai chữ nắng cực, cái thứ  nam tính  hơi lố kia sẽ hiển hiện tức thì! Và khi cái "công cụ" đặc  trưng nam  của ông trời nhờ nói lái mà được vạch ra thách  thức, khi nam quyền hợm hĩnh xuất hiện lập tức nó bị tầm thường hóa: thì  ra mưa cũng xoàng xĩnh, cũng chỉ là vén mây mà... tè xuống! Là cái việc nào phải chỉ đàn ông mới làm được!

    Nói lái để kín đáo phô bày những đặc  trưng tính  dục là  một biện pháp nghệ thuật Hồ Xuân Hương thường dùng, để ngay trong những  đề tài cao đạo nhất thì những thú vui thông tục vẫn có chỗ.  Ta hãy  tạm dừng tay TÁT NƯỚC, để theo dòng nói lái của Xuân Hương trôi về đất Phật:

                        Cái kiếp tu hành nặng đá đeo

                        Vị gì một chút tẻo tèo teo

                        Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc

                        Trái gió cho nên phải lộn lèo

                                               (Kiếp tu hành)

    Thử đặt câu trái gió cho nên phải   lộn  lèo bên  câu đang  khi  nắng cực chửa mưa tè như treo hai vế đối mà coi. Chuyện  nắng gió  của trời đất sao mà gần gũi chuyện âm dương, đực cái, rất công bằng của con người ta.

    Trở lại với bài TÁT NƯỚC, trong hai câu thực  tiếp theo:

                    Lẽo đẽo chiếc gàu ba góc chụm

                    Lênh đênh một ruộng bốn bờ be

    Chúng ta được nhìn từ xa,  nắm lấy  toàn cảnh  một mặt  ruộng rộng đến lênh đênh nhưng được xác định rành rõ,  được bốn  bờ be  lại vuông vức như một bức tranh. Cái vuông vức tạo sự chắc chắn  đủ để  làm chân đế vững vàng đặng mà từ ba góc đất chụm lại ba cây sào treo  một chiếc gàu sòng, đang như con lắc đồng hồ lẽo đẽo qua lại nhờ một lực  đẩy nữ còn mờ khuất. Đến đây, cái câu hỏi đặt ra từ đầu bài  đã được  trả lời theo cách hiểu của người viết  bài này:   người thôn  nữ tát  nước gầu sòng. Hiểu là gàu sòng, cái nông cụ chống  hạn kia  mới được  treo lên tâm điểm của bức tranh lao động đã có, và được dao động   lẽo đẽo,  bền bỉ, giằng dai. Một dao động đều, có độ bền nữ tính, một dao  động sản sinh hiệu suất lao động, khác hẳn lối, tuỳ hứng vô ích, cọc  cách giữa "nứng", với tè kia. Và quan trọng hơn, để đỡ gàu sòng ấy, ba  góc chụm kia đã cắm sào, tạo thế kiềng ba chân để người thôn nữ có chỗ  dựa vật chất, tự khẳng định tinh thần trọng nữ:

                           Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa

                           Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve

    Xuống tới hai câu thực này, thôn nữ tự khẳng định mình  bằng cách biến công việc tát nước rất nặng nhọc thành  nhẹ nhàng,  vui vẻ. Vui trong tiếng xì xòm giữ nhịp và đẹp nhờ nương theo công việc mà phô bày như múa vẻ đẹp cơ thể nữ giới. Vẻ đẹp được trông nghiêng,  trông ngửa, được nhấp nhổm lên xuống để rồi người chiêm ngưỡng dừng lại ở  hai chữ  vắt ve kia. Có lẽ nó được rút gọn từ vắt vẻo ve vẩy, một  uyển chuyển nhiều chiều. Thứ uyền chuyển khoẻ và thuần phác. Trong hai chữ vắt ve, chứ vắt lại còn hàm nghĩa lấy ra những giọt nước hiếm hoi, hợp với một bài thơ chống hạn. Một con người tự  tin đến  vắt ve  như thế  thì cái việc làm mưa tưởng là độc quyền của ai, họ có thể làm như chơi:

                     Mải việc làm  ăn quên cả mệt

                     Dạng hang một lúc đã đầy phè

    Đầy phè đâu chỉ là ruộng nước được làm đầy, ở đây dường như  ai đó đã tự làm đầy, tự phè phỡn những khao khát khó  nói ra  của mình.  Cho tới câu cuối, cảm hứng tự tin trong bài thơ còn được  thể hiện  thêm ở ngay cả sự chủ động trong sáng tạo từ của  tác giả.   Tra từ  điển chỉ thấy chữ " dạng háng", nhưng nói theo sách  thì chữ  háng vì  có thanh trắc mà thất niêm, Hồ Xuân Hương liền cắt đi một  dấu sắc,  tạo  từ mới dạng hang. Làm vậy, niêm thì vẫn giữ được mà cái tư thế một  con người dạng hang lừng lững như một toà tháp nữ quyền thì  vẫn được  bảo toàn.

Cái tòa nữ quyền chống nạnh,  dạng hang  trên mặt  đất âm  thách thức, thật là đăng đối với cái ngạo  ngược vén  mây tè  xuống từ  trời dương cao ngao kia!

    " Toà thiên nhiên" ấy (mượn chữ của Nguyễn Du, một người cùng thời với Hồ Xuân Hương - Dày dày sẵn đúc một toà  thiên nhiên)    chẳng bao giờ đổ, bởi vì người tạo ra nó, bà  chúa thơ  nôm Hồ  Xuân Hương,  thì theo giai thoại vườn văn, ngay cả khi bà té ngã cũng chỉ là để,    với hết sức cao, xoạc hết sức xa mà đo lường:

                      Giơ tay với thử trời cao thấp

                      Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài

    Đo để lượng sức mình TÁT NƯỚC tiếp sức cho dòng chảy  nữ quyền.

TRẦN QUỐC TOÀN

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *