Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Kỷ yếu Hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền miền Trung - P1

(Tham luận Hội thảo thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền Trung)

VanVN.Net - 10-10-2011 11:09:51 AM

VanVN.Net - Cuộc Hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại nhìn từ miền Trung diễn ra trong hai ngày 8 và 9 tháng 10 năm 2011 tại Thanh Hóa đã thành công tốt đẹp. Đã có 35 bản tham luận được trình bày tại cuộc Hội thảo. Tuy vậy, vẫn còn có rất nhiều những ý kiến khác nhau khi đánh giá về sự đổi mới và phát triển của thơ Việt Nam hiện đại. Để các bạn tiện tham khảo chúng tôi sẽ lần lượt giới thiệu một số bản tham luận đã được trình bày tại cuộc Hội thảo. Chúng tôi cũng sẵn sàng đăng tải những ý kiến, những bài viết mới của các nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học, các nhà thơ và công chúng yêu thơ.

ĐỀ DẪN: “THƠ HIỆN ĐẠI VIỆT NAM, NHÌN TỪ MIỀN TRUNG”

Bằng Việt

(Chủ tịch Hội đồng thơ)

 

Trước tiên, đây là một cuộc hội thảo mở. Nó mở từ ngay chủ đề của nó. Bạn có thể hỏi : “ Vậy rốt cuộc, Ban tổ chức yêu cầu ta chỉ nói về thơ Miền Trung, hay lấy Miền Trung làm điểm nhấn, làm chỗ tựa, để bàn về Thơ nói chung? ”. Hoặc : “ Miền Trung là khúc ruột, khúc eo của cả nước, gầy guộc, nhiều chịu đựng, gân guốc, giàu tự tin, tần tảo, nhiều khát vọng. Lấy nó làm điểm xuất phát để nhìn xa trông rộng ra cả Miền Nam phóng túng, chịu chơi, trên một nền đất luôn nở toang ra từ những bãi bồi lấn biển và Miền Bắc đầy biến thiên lịch sử, gốc gác cả nền văn minh sông Hông, cha đẻ của những truyền thuyết và những hư cấu hoang đường ? ” .

Tôi nghĩ, một cuộc hội thảo mở, dù biên độ mở có vẻ hơi trừu tượng và không thật chuẩn về ngữ nghĩa theo những quy luật khắt khe của ngữ pháp, có khi lại là hay, vì nó chứa nhiều khơi gợi, tạo ra nhiều tung hứng. Và nhất là đối với Thơ, thì cái cách mở như vậy càng dễ có thêm nhiều tưởng tượng, nhiều liên tưởng, nhiều so sánh và ẩn dụ. Vậy là yên tâm rồi !.

Nói là hội thảo mở, cứ cho là thế đi, nhưng đây là nói về Thơ, vậy thì cũng phải từ chỗ “ có bột gì mới gột nên hồ” được chứ ?. Thì may quá, mảnh đất Miền Trung này lại là quê hương của không biết bao nhiêu tên tuổi lớn trong văn học và thi ca đất nước. Khoan hãy nói đến các vị “ thánh thơ ” cổ điển, như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, hãy nói gần hơn, có các ông hoàng như Miên Thẩm, Miên Trinh, rồi các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, tiếp nữa, đến thời Thơ Mới với các tên tuổi Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, rồi Nam Trân, Quách Tấn, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Thái Can, gần hơn nữa là Tố Hữu, Trần Mai Ninh, Nguyễn Xuân Sanh, Minh Huệ, Xuân Hoàng, Trần Hữu Thung, rồi Phạm Hầu, Bùi Giáng, Hữu Loan. Rất đa dạng và nhiều phong cách, rất khác nhau về hướng đi trong đời và trong thơ. Rồi đến thời chúng ta với những Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn, Đông Trình, Trần Vàng Sao, Võ Quê, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nguyễn Trọng Tạo, Lê Văn Ngăn, Ngô Kha, Hải Bằng, Thái Ngọc San, Hoàng Vũ Thuật, Ngô Minh,Thanh Quế, Hoàng Trần Cương, Anh Chi, Inrasara…, rồi các nhà thơ nữ như Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Thị Mây,Ý Nhi, Nguyễn Khoa Như Ý, Tuyết Nga, Tôn Nữ Thu Thủy, Trần Thị Huyền Trang v.v… Chỉ đọc lên những cái tên thôi, và là một tập hợp hãy còn mang tính ngẫu nhiên, tùy hứng, mà cũng chưa phải đọc thơ dẫn chứng, chúng ta đã đủ thấy các gam màu thơ đan xen nhau thú vị và bổ sung cho nhau bất ngờ đến thế nào, đủ hiện lên thành một bức tranh hài hòa trên tổng thể, nhưng lại có bố cục hết sức phóng túng, khi rực rỡ, khi trầm lắng, chỗ chói chang, chỗ thật đằm thắm, mềm mại, đến mức thực sự uyển chuyển, thực sự lay động. Đấy chính là “chất bột đã gột nên hồ ” của thơ Miền Trung, một vùng thơ đủ sức làm nên niềm tự hào xứng đáng và rạng rỡ của Thơ Việt, đóng góp cho sự giàu có lớn lao và nhân hậu của tâm hồn Việt, có một vẻ đẹp sắc sảo và đầy ám ảnh về hình ảnh và ngữ ngôn trong tiếng Việt. Từ nhiều đời, thơ Miền Trung đã  trở thành một bộ phận hữu cơ luôn luôn phát sáng, không thể thiếu vắng trong các giá trị nổi bật, tạo nên vẻ đẹp tổng thể toàn vẹn của nền văn hóa Việt.

Các nhà thơ Miền Trung đã tỏa đi sống trên mọi miền đất nước, đóng góp cho sự phát triển đa dạng của tất cả các vùng đất nước, nhưng trong Thơ, các anh các chị vẫn giữ được những nét riêng, “ điệu tâm hồn” riêng, từ đó tạo nên phong cách riêng cho mỗi người. Tuy nhiên, có một điểm chung, là thiên nhiên miền Trung hùng vĩ và mê đắm, cuộc sống miền Trung gian lao và đầy thử thách, tính cách người miền Trung đằm thắm và giàu cảm xúc với nhiều thầm lắng nội tâm… thì các anh chị vẫn mang theo mình suốt đời và có lẽ đã biến nó thành một phần bản chất cốt lõi của thơ mình.

Những tìm tòi và cách tân của các nhà thơ Miền Trung là rất đáng ghi nhận, trong một số trường hợp như ở các nhà Thơ Mới và thơ Cách Mạng và Kháng Chiến ( như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê hay Tố Hữu, Trần Mai Ninh, Phùng Quán…) hoặc một số nhà thơ sống trong các đô thị Miền Nam giai đoạn 1946 – 1975 như Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa…đều có những đóng góp cho sự cách tân Thơ, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác. Chúng ta cũng rất ghi nhận sự cách tân và những đóng góp mới trong cách thể hiện của các nhà thơ, lớn lên từ các phong trào đấu tranh của dân tộc ở các đô thị Miền Nam thời kỳ đó, và có những bài thơ hay được lưu truyền rộng rãi như Thảo Nguyên Trần Quang Long, Trần Vàng Sao, Ngô Kha…Và cả Trịnh Công Sơn, ngoài thành tựu về âm nhạc, thì chính những ca từ của anh cũng tràn đầy một chất thơ dẫn dụ mê đắm và luôn khắc khoải về thân phận con người. Các nhà thơ hiện đại của chúng ta không thể không biết ơn những đóng góp có tính khai phá cho một lối viết, một cách cảm gần gũi với thời chúng ta của các anh các chị như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Văn Ngăn, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Ý Nhi, Tuyết Nga v.v… Và tất cả những thành tựu này không còn là của Thơ Miền Trung nữa. nó cũng là thành tựu hòa chung vào thành tựu của thơ ca cả nước . Với niềm vinh dự ấy, các nhà thơ lứa trẻ hôm nay, hãy đứng vững trên bệ phóng và chỗ tựa là các thành tựu đã được khẳng định của Thơ Miền Trung thế kỷ XX, để đi tiếp, tìm tòi tiếp và tạo ra những thành quả lớn lao hơn nữa của thế kỷ XXI trong Thơ./.

 

*****

 

THƠ VÀ CÔNG CHÚNG HÔM NAY

Lê Thành Nghị

 

Vừa rồi, nhà thơ X vừa cho xuất bản một tập thơ, nghe bè bạn nói là rất đáng đọc, tôi liền ra các hiệu sách chung quanh phố Tràng Tiền Hà Nội để tìm mua một cuốn. Có đến hàng chục cửa hàng tư nhân và nhà nước, la liệt sách, đủ các chủng loại, đủ các chủ đề, to nhỏ, dày mỏng. Nhân viên tiếp thị có thể giới thiệu cho ta từng khu vực sách. Và  bất cứ lĩnh vực nào của đời sống cũng có thể tìm được hàng chục đầu sách tham khảo. Chưa bao giờ sách in đẹp và phong phú chủng loại như vậy! Nhưng sau gần nửa buổi đi khắp các cửa hàng sách, lục tìm không được tập thơ nọ, tôi liền nhờ trợ giúp của những người bán sách thì mới vỡ nhẽ: từ lâu lắm rồi không có cửa hàng sách nào còn dám nhận bán thơ vì không có người mua! Tôi trở thành một kẻ kém thức thời, nếu không muốn nói là khốttabit trong con mắt những nhân viên cửa hàng sách! Biết không thể mua được, tôi nghĩ cách đến thư viện mượn rồi đi photo, nhân viên thư viện của một cơ quan chuyên ngành nọ cũng cho biết lâu nay thư viện hầu như không  mua thơ!.

Như vậy, gần như bó tay, hình như thơ đang mất chỗ đứng trong ồ ạt của cạnh tranh thị trường và thế cũng có nghĩa đang mất chỗ đứng trong đời sống xã hội, cũng có nghĩa đang đứng trước một thảm hoạ của sự rẻ rúng, ghẻ lạnh, thờ ơ của công chúng, sự lãnh cảm mang tính cộng đồng. Điều đó rất đáng để bàn luận.Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình  trạng này? Hãy bắt đầu từ nguyên nhân chủ quan.

 Thơ ca ai cũng biết là hoạt động tinh thần của con người, bắt nguồn từ những trạng thái tâm hồn của người viết. Một tâm hồn  biết cảm nhận thật sâu sắc, thật phong phú những ba động của cuộc đời, rồi biết tự lắng lại, tự chắt lọc trước khi bằng lao động ngôn ngữ nghệ thuật của mình, cho ra đời những câu thơ đầy sức gợi cảm, đủ sức lan toả và từ đó tìm đến sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc.Thơ ca là nơi thể hiện rõ nhất phẩm chất ý hay, lời đẹp..Thi sỹ mọi thời không ngừng tìm tòi, sáng tạo, cách tân trên cái nền chung ấy. Đó là lẽ thường của sáng tạo và tiếp nhận, mà dù đọc bằng mắt, hoặc nghe bằng tai, xưa nay vẫn là con đường kinh điển của thơ vậy! Thơ ca cũng như bất kỳ hình thức nghệ thuật nào, nếu là cái cần cho con người như cơm ăn, như nước uống, như khí thở thì không bao giờ bị con người chối bỏ. Người ta chỉ chối bỏ những gì không cần cho họ.

Từ lôgic trên, xuất hiện một câu hỏi: thơ ca Việt Nam hôm nay có còn cần thiết cho người đọc không? Nếu câu trả lời là phủ định căn cứ vào sự mất chỗ đứng của thơ tại các cửa hàng sách, tại các thư viện... như trên ta đã thấy, thì thơ đã phạm những lỗi gì để dẫn đến tình trạng đáng buồn này?

Theo tôi chất lượng thơ là yếu tố cần phải  được xem xét đến đầu tiên. Ai cũng    phải thừa nhận kể từ sau đổi mới, chưa bao giờ thơ được in nhiều như vậy. Nhiều người cho rằng thơ đang lạm phát, đang không kiểm soát được, đang như một con đập tràn bờ, nắm bắt thơ hôm nay khó như nắm bắt một mục tiêu di động đang bay trên trời...Người ta ước tính mỗi năm có khoảng trên bảy trăm tập thơ được in. Có tác giả vài năm lại cho ra một tập. Có tác giả tên tuổi còn khá lạ với công chúng nhưng đã có gần một chục đầu sách thể loại thơ. Có tác giả tâm sự, từ khi về hưu đã in được năm tập, chị nói tuy đã có cố gắng nhưng vẫn chưa bằng bạn chị, về hưu sau nhưng đã in được bảy tập...! Những nhà thơ chuyên nghiệp cũng đôi khi dễ dãi cho ra tập. Thật lạ, ngày trước giấy má khó khăn, ba bốn tác giả in chung một tập mà những tập ấy bây giờ vẫn còn nhiều người nhớ và tìm đọc. Bà Huyện Thanh Quan để lại dăm bảy bài mà không ai quên bà. Chính Hữu chỉ có một tập mà đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên. Những bài học về số lượng hình như vẫn còn mới. Vậy mà không ít tác giả đang chạy theo số lượng. Ở đây cần xác định  rằng không ai ác cảm với số lượng, số lượng nhiều mà hay thì thì đó là phúc nhà chứ.Chỉ đáng phàn nàn là hội chứng chạy theo số lượng mà bỏ qua chất lượng! Có thể nói chưa bao giờ việc in thơ lại thoải mái như lúc này. Nếu nhẩm tính từ khi đổi mới đến nay đã có thể có vài  ba vạn tập thơ ra đời. Một cuộc đua tranh về số lượng thật ngoạn mục. Với số lương khổng lồ như vậy, cần tìm hiểu, để đọc hết là một điều không thể.

Nhưng số lượng chưa phải là điều đáng nói, cho dù với một số lượng lớn khác thường như vậy đã gây choáng cho rất nhiều người. Chất lượng mới là điều cốt tử. Nhiều bài thơ nhợt nhạt, quanh quẩn, ngô nghê, viết lấy được, cho đủ số bài, để khi in ra cái gáy sách không quá mỏng, được viết với một trạng thái vô cảm...vội vàng tập hợp lại để đi in, thành tập, thành tuyển tập nom thật oách, để kịp tặng bạn bè. Nhạt là căn bệnh phổ biến của thơ hôm nay. Các biên tập viên ở các nhà xuất bản thường chỉ bắt lỗi chính trị, quan điểm, lập trường, còn bệnh nhạt rất dễ được thông cảm. Vậy là tập thơ ra đời sau khi nộp cho nhà xuất bản một khoản lệ phí. Nhạt là căn bệnh nan y của văn chương và đặc biệt đối với thơ. Tưởng vô thưởng vô phạt, tưởng không chết ai, nhưng nhạt là cách giết chết thơ nhanh nhất. Người đọc có thể có đủ kiên nhẫn đọc một chục tập, một trăm tâp, nhưng không đủ kiên nhẫn và độ lượng đọc cả nghìn tập mà không tìm được những bài thơ họ thích. Nhưng ở đời, không một tác giả nào dám thừa nhận thơ mình nhạt. Đồng nghiệp biết, các nhà phê bình biết, biên tập viên có thể biết, nhưng không một ai nỡ vạch ra cái nhạt ấy, vì vô vàn lý do. Kết quả thơ nhạt, thơ dở ngang nhiên tồn tại, cái làm qua chuyện có khi lấn át cái tâm huyết, ít ra là làm hoa mắt người đọc, thách thức lòng kiên nhẫn của họ. Người xưa vẫn luôn nhắc câu chuyện thôi xao Giả Đảo, vẫn khuyên nếu một chữ viết ra không làm rung động được ai thì tốt nhất đừng viết ra. Đằng này hình như không một ai trong số những tác giả tập thơ nhạt nhẽo ấy nhớ lời người xưa, cứ vô tư,  thản nhiên ghép vần, không hề tính đến tâm trạng của người tiếp nhận, trong khi không một thứ hàng hoá nào được làm ra không cần tính đến người tiêu thụ, mà có thể mang lại sự cần thiết cho họ. Thơ ca cũng vậy, không hiểu, không  biết đến cái gì người đọc đang cần, rất dễ bị người đọc ngoảnh mặt đi. Thơ nhạt, thơ dở làm thể loại thơ chết một cách thật êm ái!

Không phải trong vô vàn những tập thơ được in ra đều là thơ nhạt. Có điều thơ hay, thơ sâu sắc thường rất hiếm.Thơ hay hôm nay vừa hiếm lại vừa bị chen lấn, bị khuất lấp, bị đánh đồng với thơ dở. Nó tựa nụ hoa tí xíu trong đám cỏ rậm rạp của những phế liệu. Rất cần những con mắt công tâm và tinh tường của nhà phê bình, gạn ra tinh tuý từ những phế liệu ngổn ngang kia. Hãy tưởng tượng, thơ mới nếu không có Hoài Thanh, không ai tin những  tài danh kia còn lại đủ mặt cho đến hôm nay. Thơ lúc này cũng vậy, chắc chắn không hiếm những tập hay, bài hay, nhưng ai có đủ tài năng và dám bỏ công sức để làm cái việc tối ư cần thiết và quá đỗi phức tạp, để nhặt ra từ gò đống kia những hạt bụi vàng như K.Pautôpxki ao ước! Như vậy, bạn đọc quay lưng lại với thơ vì họ bị tra tấn bởi quá nhiều thơ dở, thơ nhạt, vì họ không được những nhà phê bình thơ mách bảo những gì cần đọc, trong khi họ còn quá nhiều việc phải làm.

Nhưng phê bình thơ một mặt  hình như bất lực trước tình trạng lạm phát của thơ đương đại, mặt khác nhiều cây bút phê bình, đọc sách đôi khi lại quá dễ dãi trong việc khen chê, thẩm định. Có những bài phê bình, đọc sách  không tiếc lời ca ngợi một tác giả, một tập thơ mà thực chất không đáng được như vậy. Công chúng đọc bài phê bình rồi đối chiếu, suy ngẫm về tập thơ mà họ được đọc và họ nhận ra không phải thế. Hoá ra là trò bốc thơm nhau, viết để trả ơn, trả nghĩa nhau. Ví dụ cho điều này không khó tìm trên báo chí hiện nay. Nếu ai chịu khó đọc báo, đọc mạng, sẽ không khó nhận ra tình trạng tháng trước nhà thơ nọ có bài khen hết lời nhà thơ kia, vài tháng sau lại thấy có bài của nhà thơ kia đáp lễ bằng cách khen lại cũng không kém phần mùi mẫn nhà thơ nọ. Trên một trang mạng nào đó tôi không còn nhớ, có người còn cho biết, có tác giả nọ lấy tên khác viết bài phê bình tập thơ của mình rồi đem đăng báo. Nếu điều này có thật thì văn chương đang lâm nguy ngay bên cạnh mình chứ không phải ở nước tây, nước tàu xa xôi nào! Tôi cho rằng im lặng không đáng sợ bằng cách lên tiếng theo kiểu này. Nếu phê bình không lên tiếng, có thể đó chỉ là một khuyết điểm, nhưng nếu phê bình lên tiếng tâng bốc nhau một cách quá đáng, thì đó sẽ là một việc làm khó có thể chấp nhận. Người đọc sẽ nhận ra mùi xôi thịt dù chỉ qua một vài dòng viết.Và, nếu người đọc bị quả đắng một lần, anh có nói trăm lần khác cũng chẳng ai tin anh. Đến đây, các nhà phê bình thơ cũng không thể chối bỏ trách nhiệm của mình về việc làm thơ mất chỗ đứng trong đời sống!

Một lỗi khác, phải chăng thơ ca Việt đã chậm đổi mới, không theo kịp nhu cầu cảm thụ thẩm mỹ của người đọc, hoặc những đổi mới chưa làm bạn đọc hưởng ứng?

Từ ngọn nguồn cho đến hôm nay, thơ đều phải tuân thủ một nguyên tắc bất di bất dịch là khát vọng vươn tới những bài thơ ý sâu, lời đẹp. Lời trong thơ chính là ngôn ngữ nghệ thuật, là chữ dùng của nhà thơ. Ý trong thơ chính là nghĩa trong quan hệ chữnghĩa mà một tác phẩm nghệ thuật cần vươn đến. Ở những bài thơ hay ý và lời luôn ở trong một liên kết thống nhất. Ý dù sâu sắc đến bao nhiêu nhưng lời lẽ thô thiển, câu cú vụng về, không thể hiện tối đa lao động ngôn từ của tác giả, thì cái ý sâu ấy cũng khó lòng có sức lan toả với người đọc. Nếu chỉ chú ý đến nghĩa thì thơ bị bỏ mất một mặt hết sức quan trọng của ngôn ngữ. Đó là bóng của chữ, tức là mặt nghệ thuật của ngôn từ. Ngược lại nếu lời lẽ bay bổng, ngôn từ mượt mà nhưng ý tưởng nông cạn, xoàng xĩnh thì thơ ấy cũng không gây được xúc động thật sự đối với người đọc. Ở đây nội dung và hình thức bao giờ cũng đến với người tiếp nhận trong một chỉnh thể. Cần phải lưu ý một đặc điểm của tâm hồn người Việt. Đó là xu hướng duy tình hơn duy lý, nặng tình hơn nặng lý, chuộng cảm xúc hơn lý trí...và vì vậy, trong ca dao, dân ca cũng như trong văn học thành văn thường đề cao tình cảm, và như một vô thức, đôi khi như duy cảm. Không thiếu những bài thơ bộc lộ lai láng cảm xúc của tác giả, nhưng lại phân tán ý tưởng, nhợt nhạt suy nghĩ. Thơ mới, một thời đại huy hoàng trong tiến trình thơ Việt cũng nghiêng về cảm xúc, tình cảm. Các nhà thơ thời kỳ chống Pháp rồi thời kỳ chống Mỹ phần lớn cũng viết theo cảm xúc. Cảm xúc dâng tràn, thậm chí có tác giả viết trong niềm say, trong cơn hứng khởi, trong cảm xúc tột độ...Ai cũng hiểu bất cứ thể loại văn chương, nghệ thuật nào cũng bắt đầu từ tình cảm, cảm xúc của người nghệ sỹ. Cảm xúc, tình cảm là ký hiệu của tâm hồn để lan toả sang những tâm hồn đồng điệu. Nhưng nếu chỉ nghiêng về tình cảm, thậm chí chỉ duy cảm, trong thơ chỉ có tình cảm thì thơ ấy còn thiếu một phẩm chất quan trọng nữa của nghệ thuật. Đó là tư tưởng của cảm xúc, phần rường cột cùng với cảm xúc làm nên ngôi nhà nghệ thuật. Hải Thượng Lãn Ông từng nói, thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay. Ngẫm trong tiến trình van học Việt Nam, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, rồi tiếp sau thơ Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, rồi nhìn ra ngoài thơ R. Tago, P. Neruđa, Uýtman, N. Hitmet, E.Eptusencô...đều hài hoà giữa cảm xúc và tư tưởng, chinh phục người đọc đồng thời về cảm xúc và tư tưởng . Như vậy tính thống nhất biện chứng giữa hai mặt cảm xúc và tư tưởng, cảm xúc cao độ và tư tưởng sâu sắc làm nên phẩm chất của thể loại. Nếu chỉ chú ý một phía sẽ không đạt đến tính hài hoà nghệ thuật.  Và điều đáng nói là nếu chỉ sáng tác theo cảm xúc thuần tuý , sẽ không còn phù hợp với đòi hỏi hôm nay của công chúng nữa, bởi vì ai cũng biết tri thức của công chúng hôm nay đã rất khác xưa. Một khi thơ không nắm bắt được điều này, món ăn tinh thần tuyệt diệu ngày nào là thơ, sẽ không còn hợp khẩu vị nữa. Như vậy có phải chậm đổi mới cũng là một trong những nguyên nhân làm thơ mất chỗ đứng như ta đã thấy!

Nhưng đổi mới thơ bằng cách nào là một ẩn số đang có nhiều nhà thơ tìm lời giải. Thơ Việt đang có sự thay đổi làm nên sự chuyển động khá quyết liệt thuộc về bản chất. Hiện đang có nhiều cách đổi mới thơ. Nào là thơ ngôn ngữ, thơ vụt hiện, thơ cấu trúc lỏng, thơ viết để cái tôi ngoài bản thể theo lối hậu hiện đại. Cần tôn trọng sự khác biệt, cũng như cần tôn trọng những thể nghiệm. Nhưng từ những thay đổi của thơ hôm nay, có thể gom lại trên  ba hướng chính.

Một là những tìm tòi thay đổi nghiêng về mặt hình thức, cụ thể là nghiêng về ngôn ngữ biểu hiện. Đó là những năm tám mươi của thế kỷ XX, một số nhà thơ đã tạo ra một kiểu thơ rất khác lạ với thơ truyền thống. Nhiều bạn đọc đã từng bị sốc khi  đọc kiểu thơ ngôn ngữ này. Có thể nói đó là thứ trò chơi ngôn ngữ, không quan tâm đến ngữ nghĩa. Thơ ấy tất nhiên không hợp với số đông công chúng, và theo quy luật những gì không hợp với khẩu vị của số đông, nó phải tự biến mất. Nó tự biến mất, như kiểu tự mất của thơ của nhóm Xuân Thu nhã tập trước đây, chứ không phải công chúng chưa có sự chuẩn bị tri thức đọc và không phải các nhà phê bình thơ không cổ vũ kịp thời như có người nói!

 Nhưng ở đây cần có một mở ngoặc về trường hợp Lê Đạt, người có luận điểm nhà thơ là phu chữ nổi tiếng.Với quan niệm nhà thơ là phu chữ, Lê Đạt đã lao động chăm chỉ trên cánh đồng chữ của mình và khác với quan niệm thơ là trò chơi ngôn ngữ trên đây, Lê Đạt đã tạo ra trong thơ ông những nghĩa mới khác lạ, khá bất ngờ, khá thú vị, bởi lẽ Lê Đạt rất có ý thức đặt cạnh nhau những ngộn từ rất khác nhau về nghĩa, thường không có sẵn trong phép đặt câu, tạo nghĩa của ngôn ngữ Việt. Một thứ cấu trúc bất ngờ theo một kiểu triết lý xáo trộn, gián đoạn, tạo nghĩa bằng sự liên tưởng của người đọc, thơ Lê Đạt mở ra những chiều kích mới của thơ Việt ở khía cạnh tạo nghĩa mới cho ngôn từ, kích thích suy nghĩ của sự tiếp nhận. Như vậy cũng hướng về ngôn ngữ, nhưng thơ Lê Đạt không mang ý nghĩa là trò chơi, ngược lại là lao động ngôn ngữ. Phần lớn người đọc đồng tình với hướng đi của Lê Đạt, chỉ không thích những khi ông đứng chênh vênh giữa bờ vực của những đổi mới, tìm tòi và sự lập dị, cầu kỳ mà chút xíu nữa ông sẽ biến ngôn ngữ thành thứ trò chơi ít người xem!

Hai là, những cố gắng đổi mới thơ  về mặt giọng điệu. Thơ Việt truyền thống luôn chú ý điệu ngâm, thâm chí điệu hát ( hát thơ ) cho phù hợp với cảm xúc, tình cảm. Một số nhà thơ hướng đến tư duy thơ hiện đại bằng cách đưa vào thơ điệu nói, đưa vào thơ chất văn xuôi. Đương nhiên đây là điệu nói, chất văn xuôi nghệ thuật. Đây là khuynh hướng muốn khắc phục tình trạng duy cảm xúc hoặc sự gò bó vần điệu của thơ truyền thống. Quả thật nếu duy tình cảm, lại lệ thuộc quá đáng về vần điệu, tự trói buộc bằng những niêm luật bằng trắc, đăng đối.. thơ đã gây ra những nhàm chán của cảm giác bằng bằng không một đột biến mang ấn tượng sáng tạo, và điều đáng nói là không còn phù hợp với tâm lý của thời đại công nghiệp. Đưa vào thơ điệu nói, chất văn xuôi, bài thơ mở rộng biên độ câu chữ, mở rộng trường liên tưởng, đôi khi như suối tràn bờ, diễn đạt thoải mái tư tưởng, tung thả gần như tuyệt đối...Trong một bài, một tập rất dễ nhận ra ngồn ngộn những ý qua ngồn ngộn những từ. Một sự vâm váp thậm chí rậm rạp những ý và từ rất khác với  sự đèm đẹp trong thơ cử tử, trong thơ ngâm vịnh điền viên. Nếu phải trình bày trước công chúng loại thơ này chắc chắn nhà thơ phải lựa chọn chất giọng chính luận, hùng biện, gây ấn tượng bằng những trùng điệp ngôn từ và dồn dập những ý tưởng. Những ai đã từng quen với thơ điệu ngâm hẳn có thể sẽ không quen với kiểu thơ này, cho dù đây vẫn là một xu hướng hiện đại hoá thơ Việt, nếu muốn suy nghĩ theo chiều hướng, cần bỏ điệu ngâm, cần bỏ những duy cảm, cần tăng cường tư tưởng trong thơ. Có thể khẳng định, cho đến hôm nay có những người thích và cũng còn không thiếu những người chưa thích kiểu thơ này. Có thể còn phải chờ thêm thời gian, cũng có thể cần phải gia công nghệ thuật nhiều hơn nữa. Dù sao những cố gắng thay đổi này cũng rất cần thiết đối và đáng ghi nhận đối với thơ Việt hiện đại.

Ba là xu hướng đưa vào thơ những câu nói thường đã có từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp trong thơ Nguyễn Đình Thi và sau đó là là thơ Hữu Loan, Quang Dũng, Trần Mai Ninh, Hồng Nguyên, Chính Hữu và những nhà thơ khác, đang được tiếp tục trong thơ số đông hôm nay. Chế Lan Viên cũng từng chủ trương đi từ hát sang nói trong thơ.Họ chủ trương không lệ thuộc vần, nếu cần thì bỏ vần để câu thơ tự do hơn. Có điều trong thơ họ ngôn ngữ tự do trong chọn lọc, điệu nói mang nhạc điệu, nhịp điệu nghệ thuật, nhịp điệu tâm hồn, vần có khi không cần thiết để ưu tiên cho ý. Đưa vào thơ những câu nói thường, vậy mà sao thơ họ vẫn lắng đọng, vẫn quyến rũ, vẫn có thể được ngâm ngợi, vẫn dễ thuộc, dễ nhớ. Nhưng khi mới xuất hiện, thơ Nguyễn Đình Thi không phải đều được đa số ủng hộ. Có nhà thơ lúc ấy còn đòi đuổi thơ ông ra khỏi nền thơ Việt (!), nhưng rồi thời gian đã chứnh minh Nguyễn Đình Thi đúng. Đến đây cho phép chúng ta nghĩ rằng mạch thơ của Nguyễn Đình Thi, Hữu Loan, Quang Dũng, Hồng Nguyên, Trần Mai Ninh, Chính Hữu và nhiều  nhà thơ khác nữa không hề lạc mốt, là một hướng đi cần được tiếp tục và đã phần nào được các thế hệ nhà thơ đương thời tiếp tục .Cho đến hiện nay, xu hướng bỏ vần đang được nhiều nhà thơ sử dụng. Tuy nhiên thơ điệu nói này cũng  cần được hiện đại hoá để phù hợp với tâm lý đương thời của người đọc. Có thể ngắn hơn, lắng đọng hơn, nhiều ý tưởng, triết lý và suy tưởng hơn chăng?...

Mấy năm qua, những thay đổi về mặt hình thức truyền đạt cũng là những cố gắng của thơ. Ta thấy xuất hiện thơ sắp đặt, thơ trình diễn. Đây là một cách thay đổi cách đọc thơ truyền thống. Có thể cách đọc lật từng trang đã không còn phù hợp với một bộ phận công chúng nên họ đã tìm đến cách đọc này. Ở nước ta, vì mới xuất hiện nên thơ sắp đặt, thơ trình diễn  đang gây sự hiếu kỳ của công chúng ( Ở đây công chúng đang xem người biểu diễn thơ ). Những ngày hội thơ ở sân thơ Văn Miếu, nếu chú ý quan sát sẽ không khó nhận ra những người trẻ thì say sưa háo hức, những người có tuổi thì không mấy mặn mà. Hình như đa phần người Việt còn xa lạ với những nhập cảng cách đọc thơ như thế này. Mà những gì còn xa lạ thì không thể nói đó là món ăn của số đông công chúng!.

Thơ  không thể tồn tại mà không cần đến công chúng nhưng công chúng hôm nay còn cần thơ nữa không? Nếu nói không cần thơ nữa, thì không thể giải thích tại sao vẫn còn nhiều người làm thơ như vậy, không thể giải thích tại sao ngày thơ Việt Nam những năm qua đông đúc như vậy! Nhưng nếu nói công chúng vẫn cần thì tại sao trong một xã hội trên 80 triệu dân, một tập thơ chỉ in vẻn vẹn 300, 500 bản cũng không biết bán cho ai và tại sao trên thị trường sách thơ lại mất chỗ đứng như vậy? Mặt khác nhà thơ hình như không còn  là một danh hiệu cao quý nữa, mà thật sự đã bị xuống giá trong cuộc sống hiện tại đôi khi vẫn là đối tượng để chế nhạo của thiên hạ. Lôgic thông thường cho phép chúng ta nghĩ rằng càng cao về dân trí thì xã hội càng cần những giá trị của sáng tạo tinh thần, mặt khác càng căng thẳng về cường độ lao động để kiếm sống của con người trong xã hội công nghiệp thì càng cần có thơ ca nghệ thuật để làm cân bằng những trạng thái tâm hồn. Nhưng ở xã hội chúng ta hôm nay, hình như mọi thứ đang diễn ra ngược lại. Những xuống cấp đạo đức, những lối sống cằn cỗi, bạo liệt, mất hết tình thương yêu giữa những con người hình như đang diễn ra mỗi ngày một trầm trọng. Có phải một bộ phận không nhỏ dân chúng đang  đề cao một cách quá đáng cuộc sống vật chất, khuyến khích một cách quá đáng  làm giàu và những quy luật của giá trị  đang bị  xâm phạm, những giá trị tinh thần vì thế đang bị hiểu nhầm, đang bị xếp sai thang bậc, đang bị rẻ rúng? Và thơ vì thế  trở nên mất chỗ đứng giữa cái ngổn ngang , bề bộn của cuộc sống hôm nay.

Không hẳn nhiên như vậy! Hãy quan sát lịch sử văn học. Một vùng đất bắc miền trung, chỗ hẹp nhất của đất nước, có nơi chỉ khoảng  bốn mươi lăm cây số. Vùng đất ấy là nơi khó khăn nhất, khắc nghiệt nhất, nghèo đói nhất, và có thể nói là chịu nhiều tổn thương chiến tranh nhất, nhưng tại sao thơ ca lại trữ tình, lãng mạn đến vậy. Đã có một Nguyễn Du thiên tài lại thêm một Nguyễn Công Trứ vô cùng độc đáo; Đã có một Chế Lan Viên kinh dị lại thêm một Hàn Mặc Tử không kém phần kinh ngạc; Đã có một Xuân Diệu tài hoa không ai sánh kịp lại thêm một Huy Cận sâu thẳm trong không gian. Ai nói Tố Hữu không mượt mà, trữ tình? Ai nói Chính Hữu không hào hoa và Hữu Loan không thắm thiết, hùng tráng ? Rồi Giang Nam và Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm và Thanh Thảo...Có lần Nguyễn Minh Châu phỏng vấn Thanh Tịnh tại sao ở miền trung con sông nào cũng ngắn  mà câu hò mà câu hò nào cũng dài tha thướt? Có thể cắt nghĩa càng khắc nghiệt càng phải trữ tình, càng phải vượt qua cái khắc nghiệt ấy bằng sự rộng dài của mơ ước, lãng mạn để quên đi cái đang nhọc nhằn, nhiệt ngã đang tồn tại, vươn tới những cái đẹp không cùng của tâm hồn chăng? Nguyễn Du nói văn chương nết đất. Nhiều người vẫn nhận xét, miền bắc văn, miền trung thơ và miền nam báo hẳn cũng có lý của họ. Ngày trước Tao Đàn của vua Lê Thánh Tôn, rồi đến Văn phái Hồng Sơn thời Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, đến thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường của vua quan nhà Nguyễn, đến Nhóm những nhà thơ Quy Nhơn lừng danh ngày nào đều ở dải đất miền trung sinh ra. Thơ thường là ký ức của những biến cố lịch sử. Lịch sử để lại những chấn động trong tâm hồn và từ đó gọi ra thơ. Giải đất hẹp miền trung nghiệt ngã, những dãy núi cao giăng màn phía tây, những dòng sông trong vắt giữa gió Lào cát trắng...là cảm hứng của thơ ca nhiều thời kỳ, tạo ra nhiều khát vọng và từ đó tạo ra những bứt phá trong ý chí, tâm hồn con người, và từ đó mở ra những không gian tinh thần của con người. Cái không gian tinh thần này được bồi đắp bởi nhiều thế hệ, nó cuộn chảy trong tâm thế của con người và hình thành một kiểu cảm nhận cuộc sống. Đó là cảm nhận bằng thi ca. Thơ hình thành từ những khát vọng ấy, từ những không gian tinh thần ấy.

Trở lại với vai trò của thơ, của người đọc thơ hôm nay. Không ai nói rằng ngày trước dân trí cao hơn lúc này. Cũng không ai nói rằng cuộc sống vật chất ngày trước khá hơn lúc này, nhưng ai cũng có thể nói ngày trước thơ được trân trọng hơn lúc này. Trong thời kỳ chống Mỹ cũng vậy, càng gian nan thơ ca càng bay bổng. Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng / Nở hoa vàng dọc suối để ong bay là  theo quy luật ấy.Trong ba lô của người ra trận không thiếu những cuốn sổ tay chép những bài thơ họ thích. Điều này như một nghịch lý khó cắt nghĩa trong thời hiện tại. Mà không chỉ ở Việt Nam thể loại thơ đang mất chỗ đứng, số phận của thơ ca các nước trên thế giới cũng giống như ta. Trong thời đại đa phương tiện như hiện nay thơ đang chống chọi quyết liệt để giành độc giả. Có lần trong một cuộc gặp gỡ với bạn đọc Việt Nam tại trung tâm khoa học xã hội và nhân văn, nhà văn trẻ Nhật Bản M.Onô cho biết ở nước ông thơ cũng đang rất khó tồn tại. Một nhà thơ đoạt giải Nôben thơ họ cũng chỉ được in với số lượng ít ỏi, nghĩa là  tira dăm ba trăm gì đó và bán cũng không dễ! Một hội chứng mang tính toàn cầu, mang tính nhân loại cho thấy chưa bao giờ thể loại thơ đang đứng trước một câu hỏi lớn của nhân loại: tồn tại hay không tồn tại? Lịch sử đã từng chứng kiến  sự biến mất của nhiều thể loại nghệ thuật, khi chúng không còn phù hợp nữa với thời cuộc. Với thơ câu hỏi tồn tại  phải chưa phải đặt ra lúc này nhưng cũng không phải ngoại lệ.

Thơ chỉ tồn tại khi xã hội còn người đọc thơ.Vậy những ai còn đọc thơ hôm nay? Trước hết chúng ta hãy quan sát. Một ngày một người Việt hôm nay dành được bao nhiêu thời gian cho việc đọc. Có lẽ rất khiêm tốn. Công việc ở cơ quan, ở công ty, ở thị trường, ở đường phố, ở quán bia, quán cà phê...chiếm hầu hết thời lượng trong ngày của một người. Sau thời gian đó là tivi đa kênh, đa hệ, máy tính có đủ các loại thông tin và trò giải trí. Có bao nhiêu phút trong ngày dành đọc sách, và có bao nhiêu tập thơ được bạn lựa chọn để đọc trong một ngày, một tuần, một tháng, hay một năm? Một câu hỏi khó và trả lời chắc chắn sẽ buồn!. Mặt khác, hình như nếp quen đọc sách đang thay đổi. Ngồi đọc sách theo kiểu cổ điển một lúc đã thấy mệt, ngồi máy tính cả buổi dừng lại vẫn còn hưng phấn. Thực đơn tinh thần đang thay đổi rõ rệt, thơ đang mất chỗ đứng trong lựa chọn từng ngày trên bàn tiệc của từng người và vì thế đang mất hiệu ứng xã hội .Một xã hội không còn người đọc, thư viện không còn sách hay,  đêm đêm nhà hát không sáng đèn, khắp nơi là những quán bia, quán nhậu, những nhà nghỉ, những quán gêm. Một sự thay đổi mang tính thời đại, và không biết bao giờ cho đến ngày xưa!

Bạn có thể đặt câu hỏi, ngày xưa cũng đâu có nhiều người ham đọc sách? Xin thưa, ngày xưa hoc sinh các trường trung học, sinh viên các trường đại học, những người lính ( ở Việt Nam lính trẻ như trẻ con, còn trẻ con thì đông như lính – B. Đimitrôva ), những người công nhân...chăm đọc sách hơn bây giờ, thích văn thơ hơn bây giờ. Thang giá trị thay đổi, những tiện ích của đời sống vật chất hôm nay đã tạo nên tâm lý tự giác và không tự giác, chán học văn, chán học sử, chán học toán...chỉ vì những môn học này không có tương lai, không mang lại sự bảo đảm  cuộc sống cho mỗi người. Điều này ai cũng biết và phải chăng nhà thơ, nhà văn trong con mắt của nhà buôn, nhà kinh tế, nhà doanh nghiệp không hơn gì một kẻ thất nghiệp tội nghiệp, nhất là nhà thơ, nhà văn kia đang định cầu cạnh xin tài trợ để in tác phẩm! Ai đã gây ra những biến cải đáng buồn như vậy? Có phải đó là mặt trái của cơ chế thị trường và tình cảnh của một xã hội đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển?

Nhưng trong tình hình như vậy mà tại sao thơ lại đang khủng hoảng thừa (như ta đã biết) còn người đọc thơ đang khủng hoảng thiếu. Một nghịch lý rất trớ trêu. Có phải lúc này nhiều người chỉ yêu thơ mình, chỉ thích đọc thơ mình, khoe thơ mình chứ không quan tâm đến thơ người. Bởi vì nếu không thì không thể giải thích được tại sao thơ bị ế ẩm đến như vậy. Người ta ngoảnh mặt đi với thơ người khác còn chăm lo vun vén cho thơ mình chăng? Làm thơ là công việc dễ dàng và thú vị chăng? Quả thật làm thơ thật dễ ( nhưng làm thơ hay thì không dễ chút nào). Và thơ đúng là trò chơi thú vị làm con người dễ ngộ nhận. Một nước thơ như Việt Nam ai cũng có thể gieo đôi ba vần, tức cảnh sinh tình đôi ba câu. Lối nói vần vè của ca dao tục ngữ như một trò chơi ngôn ngữ như những bước đi đầu tiên của con đường vào thơ, cách tạo vần sáu tám của lục bát thường khi vẫn là lời ăn, tiếng nói của mọi người. Từ nói vần vè đến gieo đôi ba vần, đến cho ra một tập, vài ba tập chỉ là khoảng cách không quá sức mình. Thế là in thơ, thế là sản xuất thơ liên tục (có người đã cảnh báo nạn phá rừng bắt đầu từ kiểu in ấn này), tự nhận là nhà thơ cho dù danh hiệu này đang xuống giá, cho dù việc in ấn không ít hao tổn tiền túi của mình Thời buổi in ấn dễ dàng, được thấy tên mình trên những tập sách dày cộp có tốn một tí nhưng có ai không mãn nguyện. Hoạ chăng chỉ có những nhà thơ chuyên nghiệp bị chen lấn, bị đánh đồng, bị khuất lấp là kém vui. Nhưng chỉ kém vui thôi chứ có ai làm được gì! Vậy thì còn những ai đọc thơ?

Một nhà thơ chuyên nghiệp, Inraxara, khá chăm đọc sách, khi được hỏi đã cho biết: Trong số hơn 300 hội viên thơ, tôi chỉ đọc 15 người. Khoảng 15 người nữa tôi có đọc nhưng đã quên...270 nhà khác, tôi hoàn toàn chưa đọc. Vì không có cơ hội đọc.( Báo Văn hoá - Thể thao ngày 20-5-2011 ). Không có cơ hội đọc phải chăng Inraxara cũng rơi vào tình trạng như nhiều người vì không thể tìm mua ở đâu được Nhưng không phải ai cũng còn sở thích mua sách đọc như vậy. Rất nhiều người được biếu sách nhưng vẫn  không đọc, khi được hỏi đến vẫn lúng túng như chưa hề biết  mình đã được tặng. Tất nhiên có thân thiết người ta mới làm một việc không mấy tế nhị là hỏi lại như vậy, còn ngoài ra ai cũng biết thơ mình khi ra khỏi nhà  là đi vào chỗ không người, là đi vào cõi vĩnh hằng của sự quên. Từ cây gỗ đến tờ giấy, đến tập thơ, đến cát bụi, một chu trình ngắn ngủi, và vô nghĩa. Một tình cảnh thật đáng sợ! Người đời vốn không thích những ai hay quảng cáo lộ liễu cho thơ của họ, nhưng quả tình không còn cách nào khác, hệt như phải hô lên trong trường hợp khẩn cấp (đuối nước, hoả hoạn...) như vậy, cũng là điều dễ hiểu.

Ai cũng biết những năm gần đây có những câu lạc bộ thơ cấp làng, phường, khóm vẫn sinh hoạt đều đều. Họ đa phần là những ông, bà hưu trí. Những buổi sinh hoạt là để nghe thơ bạn và đọc thơ mình cho bạn bè nghe. Một làng như Làng Chùa xã Sơn Công, huyện Ứng Hoà ,Hà Nội (Quê của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều) có 280 hộ thì hộ nào cũng có người làm thơ, có hộ ba thế hệ ông, cha, con đều làm thơ và được giải của câu lạc bộ thơ làng (Truyền hình H1 ngày 18-9-2011). Mục đích của họ rất sáng rõ là dùng thơ để giáo dục con em mình. Chẳng phải như thế tốt hơn nhiều lần ở nhà nằm khoèo, tốt hơn là ngồi tụ họp nhận xét thời cuộc, tốt hơn là  trầm ngâm bên quán bia hơi...Những câu lạc bộ thơ như vậy được xã hội khuyến khích, vẫn cần thiết tồn tại, chỉ có điều không chắc họ có đóng góp gì nhiều làm số lượng các tập thơ của các nhà thơ chuyên nghiệp tăng lên.

Những học sinh phổ thông hoặc sinh viên có còn đọc thơ? Một câu hỏi khó. Nhưng có thể trả lời ngay. Họ còn đâu thì giờ. Chương trình học nặng, thi cử nặng đã làm các em nhiều khi như mụ mị, chưa kể không ít các bậc bố mẹ vẫn dùng mọi cách để hướng con em mình không đi theo con đường không gắn bó gì với kinh tế như văn-sử. Tình hình thi cử vào các khoa ngữ văn, lịch sử, triết học... của các trường đại học những năm gần đây cho thấy khoa học xã hội đang bi đát như thế nào! Không ai hình dung được một xã hội sắp đến sẽ quái gỡ ra sao nếu chỉ toàn những người làm kinh tế, làm giàu, kiếm tiền, buôn bán. Thơ ở trong tình trạng như vậy thử hỏi tìm cho mình một chỗ đứng ở đâu, và thử hỏi mấy ai còn quan tâm đến không phải chỉ lúc này mà mà sẽ còn như vậy về sau, nếu các nhà hoạch định xã hội không có những chính sách thay đổi.

*

Tóm lại thơ Việt đang trong cơn bĩ cực trên cả hai phương diện chủ quan và khách quan. Những gì là chủ quan luôn thuộc trách nhiệm của mỗi nhà thơ, những gì là khách quan phải chờ đợi một sự phát triển đồng bộ của xã hội, của chính sách xã hội, có điều chắc không phải ngày một ngày hai. Nhưng thơ vốn sinh ra để nuôi những niềm hy vọng của con người và những gì con người trông đợi không sớm thì muộn cũng sẽ đến.

 

 

NGUYỄN KHOA ĐIỀM, TỪ TRẦM HÙNG ĐẾN CÕI LẶNG

Văn Chinh

 

Trong tiểu đội thơ chống Mỹ với tiểu đội trưởng Phạm Tiến Duật, có Nguyễn Khoa Điềm như một chính trị viên, ông vẫn giữ vị trị ấy ngay cả khi chỉ huy tiểu đội được thay thế bằng Hữu Thỉnh về cuối cuộc chiến tranh. Nếu chúng ta hình dung tiểu đội thơ chống Mỹ như một dàn đồng ca thì chính họ là người lĩnh xướng, vào các khúc thức khác nhau và cần kể thêm người lĩnh xướng thứ tư là Trần Đăng Khoa. Nhân thể, xin kể tên những đội viên còn lại; họ là Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ…

Vâng, tiểu đội không có biên chế chính trị viên và chức vụ này thực ra là quan niệm của riêng tôi. Trong một cộng đồng, ngoài thủ lĩnh dễ làm mất lòng nhiều cá nhân do nêu cao kỷ luật thường vẫn có một người lặng lẽ, không quát nạt cao giọng mà thủ thỉ tâm tình, anh ta chính là thủ lĩnh tinh thần của đơn vị ấy, na ná một vị linh mục.

Thời dạy cấp 1 ở Thanh Sơn, Phú Thọ tôi trở nên nổi tiếng hàng huyện nhờ tài lẻ nói chuyện thơ Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật. Tôi nhớ tôi đã so sánh giọng lạc quan tài tình của họ với nhạc vàng mà ai cũng từng nghe lén đài Sài Gòn, gọi đó là chính khí và thương tổn khí của hai miền khi ấy và bao giờ cũng chốt bằng hai câu thơ: Câu làm yên lòng hậu phương  của Phạm Tiến Duật: Thế đấy giữa chiến trường/ Nghe tiếng bom rất nhỏ. Câu làm yên lòng tiền tuyến lớn của Trần Đăng Khoa: Ao làng vẫn nở hoa sen/ Bờ ao vẫn chú dế mèn vuốt râu.

Nhưng sau Những vùng rừng không dânVòng trắng thì không ai mời nói chuyện thơ nữa. Tâm thế xã hội trầm lắng và buồn nản. Cũng còn do cuộc chiến đã quá dài, quá ác liệt. Sau này đọc thêm nhiều sách, tôi hiểu đó là quy luật con lắc của xung lực xã hội. Giữa lúc hiểm nguy ấy thì giọng thơ trầm hùng, da diết của Nguyễn Khoa Điềm cất lên. Nó cất lên ngay trên vùng giáp ranh và thậm chí ngay giữa chiến địa, nơi đất do bên kia kiểm soát nhưng những người bên mình đang sống kiếp sống nhàu nát, bị khinh bỉ và o ép. Đó là tập thơ Đất ngoại ô (1973) mà văn học sử hẳn phải dành cho nó một mục riêng ở chương thơ chống Mỹ, bởi cho đến khi đó, thơ đánh giặc nói chung vẫn là nói về ta, giặc ở trên cao và ở rất xa; ai cũng biết đó là cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, nhưng đây là lần đầu khái niệm Made in USA – làm tại Mỹ được dùng như một chất liệu thơ:

Để tượng Giê Su một lần đinh nhọn hoắt

Cối đinh…rốc két đinh…đinh, đinh…những mũi nhọn giết người

Những cái đinh của thế kỷ hai mươi

Đóng xuống Việt Nam

Làm tại Mỹ

Thì thơ có ngay một hiệu ứng xã hội, nó khiến tâm thức Ky tô giáo bừng ngộ cùng tâm thức Việt. Nó nâng rước tinh thần, nó khiến xốc lại đội ngũ trước vấn đề sống / chết chứ không còn là nhìn rãnh hào lòng nản (Puskin) và biết bao giờ mới thắng của tâm thế bấy giờ:

Khi Người khổ đau không làm ta sợ hãi

Trong căm hờn ta biết đường ta lên

Như hôm nay trầm tĩnh tiếng chim

Gõ không mỏi vào cửa ngày gian khổ nhất

Nhiều người đã bình rất hay về Đất ngoại ô, tôi chỉ xin nói vài nét về giọng điệu của nó. Nhìn chung, nói như Chế Lan Viên, đây là những bài thơ đánh giặc, nhiều câu bây giờ đọc lại thấy sáo và dễ dãi:

Vút từng không tiếng gió phất cờ sao

Ôi ngày hội của những người đứng lên đòi được sống

Những âm thanh ngàn sóng đại dương trào

Nhưng những gì Đất ngoại ô đọng lại trong tâm trí tôi thì trầm hùng và da diết mà theo kinh nghiệm, tôi phán đoán nó là sản phẩm của trí tuệ trái tim.

Đây là ký ức tuổi thơ buồn:

                               Vườn thơ xưa không còn gã áo trắng đi về

                               Ngơ ngẩn đọc thơ buổn trong tiếng guốc cạo râu  

         Và:

                               Khu phố ngoại ô

                               tầm tã rụng bên dòng sông

                               những người dân nghèo về đây

                                như vỏ hến chiều chiều tấp lên các bến

         và đây nữa:

                               chỉ còn người phu xe cũ

                               nghiêng cốc rượu chiều nhòe những mái tôn

Đây là cám cảnh phận người dưới đáy:

                               Ngoại ô ăn mắm cả chai là ngày đầu tháng

                               Ngoại ô chưởi thề cãi nhau là ngày cuối tháng

                               Đồng tiền ngoại ô nhàu nhĩ mặt người

Vả chăng, trong bài Hình dung về Chê Ghêvara, tác giả đã nhìn thấy một thần tượng:

                               Tôi đi hoài với những hình dung

                               Về Chê Ghêvara, người nghĩa quân

                               Như mang một chiếc Tây – ban – cầm trước ngực

Vâng, ghi ta thì lãng mạn và gọn ghẽ với người lính chiến, nhưng cũng vì là ghi ta nên có thể réo rắt và trầm hùng chứ không thể hùng tráng saxophone Phạm Tiến Duật. Đằng khác, Nguyễn Khoa Điềm tính trầm, nét nghĩ ngợi nhiều hơn nét cười trên gương mặt. Có lẽ Huế với rất nhiều lễ nghi mực thước khiến cư dân lễ phép ít điều nhời cũng góp nhiều vào giọng điệu thơ ông? Nhưng tôi cũng không hiểu vì sao thơ ông lại da diết và buồn?

Ở trên, tôi có nói về tâm thế năm 1973, năm về cuối cuộc chiến tranh. Khi xuất hiện, Đất ngoại ô lại giúp tôi có việc làm cho tài lẻ của mình, lại đi nói chuyện thơ, nhưng công chúng của chúng tôi ít hơn trước nhiều. Chỉ đến khi ra đời Mặt đường khát vọng, cụ thể là chương Đất nước được đọc đi đọc lại trên nền nhạc đệm của Đài tiếng nói Việt Nam, công chúng của chúng tôi mới kín chật hội trường. Xin dừng lại để hồi tưởng những vinh quang thơ Việt, đó là thời điểm cả nước cùng đọc thơ Trần Đăng Khoa, đọc thơ Phạm Tiến Duật, đọc Đất nước, đọc Đường tới thành phố

Thực ra, với chương Đất nước là cả nước cùng lắng nghe đêm đêm, cùng ngẫm nghĩ và nhận ra, vào thời kỳ gian khổ nhất của cuộc chiến, sốt rét rừng làm tê tái mỏi nản, Nicxon đã viếng Bắc Kinh rồi viếng Maxcowa, hai mươi mốt phát đại bác gầm vang trời thì hồn thiêng sông núi Việt ngàn năm mới giật mình thức giấc để sau đó đã cùng vào trận với con dân thời đại.

Mặt đường khát vọng có chương nền tảng là Tuổi trẻ không yên mà cánh tiểu trí thức phố huyện chúng tôi rất thích. Nó tiếp tục cảm hứng bị dày xéo, bị o ép và nỗi đau âm thầm bị ngoại bang dùng người mình như một công cụ của Đất ngoại ô nhưng hình tượng thơ là tuổi trẻ học đường – nơi Mỹ Ngụy đã quân sự hóa. Nói là chương nền tảng vì nó cắt nghĩa động lực xuống đường của học sinh sinh viên như một cao trào của trường ca. Và cần nói ngay, đó là nền tảng xây đắp bằng thơ, đẹp và mịn. Nó là tiếng chuông của 20 ngôi chùa cộng thêm 1 của Nhà thờ Cứu thế không làm yên nổi nỗi khắc khoải của những người nhìn lên bản đồ Tổ quốc:

                               Sao Tổ quốc mà chỉ còn nửa nước

                               Dẫu địa lý chúng con thường ít thuộc

                               Nhưng nỗi đau này chúng con nhớ hơn

Nó là nỗi khắc khoải của những người mà không biết bọn CIA, bọn Trường sĩ quan Lục quân sẽ bắt đi lúc nào để dạy cách bắn giết đồng bào mình. Và thầy trò bất lực cùng than:

                               Thầy đừng trách chúng con là “bầy  khó nói” 

                               Chúng con là “bầy cúp cua lang thang” 

Đây nữa :

                               Có gì đâu, chúng con muốn yêu thương

                               Sao thầy giảng chỉ những điều cay đắng

                               Máu thì đỏ mà phấn thầy thì trắng

                               Có vẽ nổi tâm hồn con không?

Nó làm bất yên vì nếu bằng lòng chấp nhận thì sẽ không thể thành người, cho nên cần hy sinh cả tương lai, cả niềm khát sống hiện tại mà né tránh:

                               Chúng ta chưa qua một đời trai trẻ

                               Ra đường bị bắt lính ngay

                               Nên phải ở những nơi dán ở

                               Nên đeo gương cho cận thị suốt đời

                               Nên ngốn đi – a – mốc cho một đêm khô hai lít nước

Đến Mặt đường khát vọng thì tài năng thơ Nguyễn Khoa Điềm thật chín, giọng điệu riêng mới thành hẳn phong cách:

Nói điều lớn lao bằng lời giản dị, nói dân tộc bằng tình yêu đôi lứa:

                               Đất là nơi anh đến trưởng

                               Nước là nơi em tắm

                               Đất nước là nơi ta hò hẹn

                               Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Nói hờn căm hôm nay bằng nửa câu thành ngữ cũ, mở cho nó một trường nghĩa mới :

                               Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

                               Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Nói lý luận chính trị nhưng lại chỉ thấy một hình tượng nhuần nhị:

                               Hãy ngã vào nhân dân, đừng vãi đừng rơi

                               Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa

                               Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ

Nó tách xa dần khỏi thi pháp Thơ Mới để bứt hẳn với tập Cõi lặng về sau; đến Cõi lặng, thơ gồm những câu ngắn dài khác nhau, rất ít hình ảnh, lời thơ chỉ là tiếng nói thường ngày. Dường như Nguyễn Khoa Điềm bắt kịp với cách thơ hiện đại của Thơ Trẻ? Ở đây có vấn đề của địa văn hóa. Chúng ta biết Nguyễn Khoa Điềm là người Huế, nơi có giọng hát, giọng nói êm, du dương và hay đến có thể làm hồ sơ để UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nếu có thể, xin hình dung giọng Huế là thơ Tố Hữu, rất giầu vần điệu; giầu đến dư thừa: “Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan”. Nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm ít vần điệu, những câu hay, những câu là hạt nhân của tứ toàn bài vừa dẫn đều không có vần – đúng hơn là không vần truyền thống. Mà lại rất ngọt, nó làm chứng lời Nguyễn Đình Thi nói năm 1949: (đại ý) Khi thơ không cần niêm luật vần điệu, nó tựa hẳn vào luật bên trong - ở đây là cảm xúc nội tại và đó là cái làm thơ bứt khỏi Thơ Mới. Vậy cái gì thuộc địa văn hóa làm thơ Nguyễn Khoa Điềm khác người đồng hương tiền bối? Trước hết, xin nhớ sau hơn một trăm năm là kinh đô, Huế hút vào mình không ít văn minh của nhân loại; không phải ngẫu nhiên mà hầu hết các nhà Thơ Mới đều sinh trưởng ở dải miền Trung với Huế là tâm điểm. Nhưng tôi nghiêng và tin vào thành tựu những năm Nguyễn Khoa Điềm ăn học ở miền Bắc, đặc biệt là những năm làm sinh viên văn khoa của Đại học Sư phạm Hà Nội – cái bảo tàng sống của văn hóa dân ca Đại Việt mà, với những chương trình điền dã của sinh viên, bảo tàng ấy sau mỗi năm càng là một Việt Nam thu nhỏ trên bình diện tục ngữ, thành ngữ, ca dao dân ca. Vâng, Đất nước thấm đẫm văn hóa Đại Việt, nhà thơ đã tái sinh những giá trị cổ điển và hiện đại hóa nó, tạo xung lực mới cho nó.

Sau 1975, Nguyễn Khoa Điềm từ đại tự sự bước sang tiểu tự sự, xuống đời thường cũng chân thành như khi nhân danh một thế hệ tuyên thệ cùng dân tộc. Bây giờ anh thợ cày đã cày xong thửa ruộng, đã ngủ ngon lành trên cỏ. Thức dậy về nhà, anh chợt nhận ra cái hạnh phúc anh mang về cho mẹ không thật như mơ ước (Mẹ và quả). Anh chợt thấy mùa thu trong tâm tưởng của mình là mùa thu sách vở (Đi bên mùa thu), cái xôn xao của nó cũng bên ngoài cửa sổ và con tầu thời gian đã đưa nó đi nốt. Anh tựa vào cây chò tình yêu (Em, cây chò của anh) nhưng:

                               Có thẻ nào khác được

                               Có thể nào em bật gốc giữa hồn anh

Nhưng cái làm anh thợ cày của chúng ta bất ngờ nhất lại là nhà văn Nguyên Hồng – thần tượng của anh đã về đất bằng bệnh lao lực – hệ lụy của hàng ngàn trang viết mà từ lâu đã thành đất ấm, ấp ủ anh. Ô hay, bản thân khát vọng độc lập tự do đã mang sẵn ấm no hạnh phúc rồi chứ? Nhưng hóa ra chưa. Và từ đây, với tuổi bốn mươi ngoài, cái điềm đạm của nhà thơ chín hơn. Ông chấp nhận chứ không trốn nó như nhiều người để tìm cách thoát ra. Trước hết và tiện hơn cả là thoát ra bằng khuôn vào đặc trưng thơ hiện đại, ít dãi bày và kiêng kị ồn ào.

Chúng ta đều biết trước Cõi lặng, Nguyễn Khoa Điềm làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin rồi Trưởng ban Tư tưởng và Văn hóa TW; vậy Cõi lặng là đối trọng với cõi xôn xao quan trường? hay giữa thiền định với trần thế, giữa tôi với tha nhân? Tôi không được biết trong mấy chục năm nắm quyền lực, ông có những công tích gì, những sai trái gì, chỉ biết đó là nơi khó tránh nổi thị phi. Nhưng đó là việc khác và đây không phải là chỗ để bàn. Điều đáng mừng là soi vào cách lập ngôn cấu tứ của ông, tôi thấy có mình, cũng bức xúc mà không dám nói hết, cũng đành gửi những điều muốn nói vào khoảng trống giữa những con chữ. Nhất là khi đọc chùm bài viết sau 1975 vừa dẫn, tôi thấy ông gần gũi, cần cảm thông thương mến, thấy ông đúng là người của thế hệ mình, một thi nhân.

Nói là Cõi lặng, nhưng cây muốn lặng mà gió chẳng dừng. Tin hai nhà khoa học bị chết chỉ cách nhau mấy ngày do cùng tai nạn xe máy ở Hà Nội vẫn va đập thô bạo vào ông lão vườn chuối bây giờ chỉ còn thú đạp xe đi dạo. Làm bật lên câu thơ thẳng và mạnh, như tiếng dội lại từ vách đá:

                               Hung bạo trên mạng trên sàn diễn, trong lớp học

                               Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau công sở, hung bạo đường phố

Còn đây là tiếng ngân rền của nó:

                               Tôi thương xót những nhà khoa học không đủ sức chống lại ngọn roi hung bạo

                               Tôi thương xót nhiều hơn cho chính nước tôi

Hóa ra, phải có một khoảng lặng nào đó, người ta mới nghe nổi tiếng kêu khẩn thiết của cuộc đời giữa ồn ào hỗn tạp của nó. Khoảng lặng cũng thật cần cho nỗi lo âu làm người và nhắn nhủ lay thức. Ở đây là nhân danh thời gian:

                               Hà Nội thì thầm nghìn năm tuổi

                               Mừng Đảng qua một mùa đại hội

Ở đây là nhắn nhủ nhân danh niềm tin:

                               Rồi có một ngày

                               Có một người tốt

                               Bước ra từ lịch sử

                               Nói về cái tốt bị bỏ quên

Những điệp khúc nhắn nhủ với thật nhiều khắc khoải:

                               Đoản mạch

                               Im re

                               Bá đạo

                               Buồn chuyện năm châu bốn biển

                               Có một kẻ sĩ cưỡi trâu vào núi

                               Để lại cửa Chánh Tây mười chữ:

                               Tìm được Đường, thật khó

                               Tìm được Người, khó hơn

Nhưng khi lòng tĩnh lặng, thi nhân còn nghe được nhiều điều hơn thế, cái làm ta hạnh phúc cũng giản dị hơn:

                               Bạn cũ đến chơi

                               Chép miệng sống cũng tạm được

                               Phải cái hơi móm

                               Cười trống trơ như Đỗ Phủ

Nghe được niềm vui sống với ít nhiều mặc cảm tuổi tác và chính vì thế mà hoa quỳ vàng Đà Lạt nở như mưa càng xao xuyến, càng thảng thốt hơn, thơ hơn.

Cõi lặng có nhiều bài viết tặng bạn thơ, hai bài về Đồng Đức Bốn thật hay, tôi xin phép không nói lại. Bài viết về Phùng Quán, Người nằm bên Hồ Tây vừa hay vừa chất chứa nhiều tâm sự tác giả:

                               Người nằm chân đưa về hồ Tây

                               Gió mùa đông thổi lạnh chân gầy

Có điều lạ là Phùng Quán từng là thần tượng một thời của Nguyễn Khoa Điềm:

                               Người mơ mộng một thời đánh giặc

                               Người tóc râu một thời thị trường

                               Cuộc viễn du nào buồn đến vậy

                               Người hùng thời niên thiếu tôi ơi?

Tôi nghe trong khổ thơ chất chứa những khát vọng không thành, những chân trời không đến; bâng khuâng nhẩm lại chùm bài viết sau 1975 của ông. Tôi đọc chùm Nhặt ghi ở gần cuối tập với ít nhiều bàng hoàng và chợt thương cảm:

                               Tóc trắng như thời gian thích chữ lên trán

                               Đày anh về nhà

                               Không thể chạy trốn số phận

Thương cảm đến xót xa:

                               Nhiều lúc phải đeo mặt nạ vô lối

                               Để không ai nhớ anh nữa trong một thế giới quá quen thuộc

                               Chính là cách anh trở lại muôn một giữa đời

Cõi lặng để lại một dư âm khắc khoải giữa bổn phận làm người và tự do thi sĩ; nó chính là tấm gương phản quang của một quãng đời. Từ xa, xin chạm cốc mửng tác giả Thơ mừng cháu ngoại của ông lão đã cảm thấy vành xe đạp không tròn nữa, nhưng thật hối hả niềm vui, hối hả làm người:

                               Vậy là trẻ con ngủ ngoan

                               Mà người lớn chạy lon xon

                               Nào sữa, nào tã lót

                               Thế giới quá rộn ràng

                               Khi trẻ nhỏ có mặt

Dường như có một liên tưởng nào giữa em cu Tai ngủ trên lưng mẹ với đứa cháu ngoại hôm nay. Khác chăng, mẹ cu Tai dìu em đi để dành trận cuối cho cuộc chiến giành độc lập tự do, còn nhà thơ ru cháu ngoại ngủ ngoan hôm nay, để dìu nó vào  trận cuối cho cuộc chiến đấu với cái quên, cái hung bạo để giành ấm no hạnh phúc ? Dẫu sao, đó cũng là ấn tượng của tôi khi gấp Cõi lặng – một tập thơ quan trọng của thi đàn giữa năm tháng này.

Vậy còn dư âm thơ Nguyễn Khoa Điềm ?

Tôi tin chắc câu thơ Thầy đừng trách chúng con là bầy khó nói/ Chúng con là bầy cúp cua lang thang sẽ còn sống tiếp đời sống của nó. Không phải vì lý do khiến nó ra đời. Phấn vẫn trắng và máu không đổ nữa, nhưng cái xấu và sự thất nghiệp khi tốt nghiệp là mầu xám, thậm chí là mầu nước cống vẽ sao nổi tâm hồn chúng con? Phải chăng là tuổi trẻ vẫn chưa yên với tham nhũng bất công? là tuổi trẻ chưa yên nếu chưa được đứng dưới ngọn cờ do những người mà phẩm chất còn xứng với ngọn cờ ấy vẫy gọi, để cùng nhau tự vệ trước sự hung bạo của tham nhũng, của thói trọc phú đang như những giây thép gai đâm nát chân trời của tuổi trẻ ? Tôi già rồi, không dám biết, không biết nổi nhưng tôi tin vào các nhà thơ trẻ, tin vào tương lai của đất nước thi ca. Như tin chắc rằng thơ muốn hay, muốn có công chúng thì phải xuất hiện cùng và phù hợp với tâm thế xã hội. Chính Nguyễn Khoa Điềm đã làm một thực chứng luận niềm tin của tôi.

 

 

HIỆN TƯỢNG VÈ HÓA, VĂN XUÔI HÓA VÀ CŨ HÓA THƠ… CẦN BÁO ĐỘNG

Nguyễn Trọng Tạo

 

Khi đánh giá về ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, tác giả đã đẩy ngôn ngữ bình dân lên ngôn ngữ bác học. Nhận định này đã gián tiếp phân cấp ngôn ngữ ca dao hò vè với ngôn ngữ thơ. Tức là thơ cao hơn ca dao bình dân. Đó là một điểm rất đáng chú ý trong việc phân biệt thơ với các thể loại văn vần hay văn xuôi, từ, phú mà dân gian vẫn thường sử dụng. Như ta đều biết, thơ được xây dựng bằng một thứ “ngôn ngữ lạ hóa” mà nhà nghiên cứu Phan Ngọc còn gọi là “ngôn ngữ quái đản” đã phát triển ở giai đoạn cao, chứa đựng các đặc tính không thể thiếu, đó là nhạc điệu, truyền cảm, hàm súc và giàu tính biểu tượng.

Nhưng thời đại thông tin công nghệ phát triển hiện nay, sự ngộ nhận về thơ xuất hiện nhan nhản trên thế giới ảo (và cả trên những bản in giấy), không những ít được các nhà phê bình chỉ ra bản chất thật giả của thơ mà còn được các cư dân mạng kém hiểu biết về nghệ thuật này tung hứng chia sẻ không tiếc lời. Chính vì thế mà sự ngộ nhận về thơ ngày càng gia tăng hơn bao giờ hết.

Một nguy cơ nữa là thị hiếu độc giả thơ ngày càng ngả dần về nhu cầu giải trí, ngại đọc loại thơ cao siêu bác học mà ưa thích một tinh thần ngộ nghĩnh đùa tếu kiểu dân gian, nên các loại thơ-vè phát triển rầm rộ như nấm sau mưa. Ta dễ dàng nhận thấy nhiều bài thơ-vè được truyền tụng và được đón nhận vô cùng nồng nhiệt:

                               Xưa kia da sắt mình đồng

                               Nói năng hoa mỹ, như rồng phun mưa

                               Bây giờ như cải muối dưa

                               Bao nhiêu thần dược vẫn chưa ngóc đầu

                               Cuộc đời chìm nổi bể dâu

                               Từ “oanh” đến “liệt” gần nhau thôi mà

                               Nay mai về với ông bà

                               Ngồi sau nải chuối ngắm gà khỏa thân!  

Hoặc:

                               Sáu mươi là tuổi dậy thì

                               Bảy mươi là tuổi bước đi vào đời

                               Tám mươi là tuổi ăn chơi

                               Chín mươi tuổi mới ngước trời xem sao

                               Một trăm tuổi vẫy tay chào

                               Các em ở lại, anh vào website…

Phải nói, những bài thơ-vè đùa tếu như thế là khá xuất sắc. Nhưng phải chăng đó là thơ? Có lẽ những người làm thơ, hay người yêu thơ đích thực không ai nghĩ thơ là như thế. Đó là một hiện tượng xâm thực thơ, đi ngược lại sự phát triển của nghệ thuật thơ. Dưới đây, tôi xin đơn cử một số hiện tượng xâm thực thơ cần báo động trong nền thơ của chúng ta hiện nay.

1. HIỆN TƯỢNG “VÈ HÓA THƠ”

Có lẽ “trường phái thơ Bút Tre” đã tạo được hiệu quả mạnh mẽ vài ba chục năm nay. Tôi còn nhớ năm 1984 đi cùng nhạc sĩ Văn Cao qua Vĩnh Phúc gặp nhà thơ Bút Tre, Nguyễn Thụy Kha nói “trường phái Bút Tre địch được trường phái Bùi Giáng trong nam”. Nay nhìn lại thì thấy trường phái Bút Tre không những “địch đươc” mà còn đang thắng thế. Thật vậy, làng thơ hôm nay không chỉ có Bút Tre mà còn có cả Hậu Bút Tre: Bút Tre Trẻ, Bút Tre Xanh, Bút Tre Non, Bút Nứa, Bút Sậy, Bút Luồng, v.v…Trường phái này được nồng nhiệt đón nhận và ca ngợi không tiếc lời:

                               Tham quan, du lịch, nghỉ hè

                               Thơ văn trường phái Bút Tre đứng đầu.

Và khẳng định:

                               Bao nhiêu Bút Sắt mòn rồi

                               Hôm nay còn mãi với đời Bút Tre…

Vẫn biết văn học dân gian vô cùng đa dạng và thông mình, hóm hỉnh, nhưng văn học dân gian và văn học viết là hai phạm trù khác nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Dù có tạo ra những ảnh hưởng không dễ phân biệt, nhưng không bao giờ chúng chồng khít lên nhau. Bởi văn học dân gian sử dụng chủ yếu là ngôn ngữ “thực dụng”, còn văn học viết sử dụng ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện trong văn xuôi, hay ngôn ngữ “lạ hóa” trong thơ.

Điều dễ thấy hiện nay là ngôn ngữ thực dụng đang lấn át, xâm thực thơ không thương tiếc, nó hăm hở biến thơ thành hò vè hay văn xuôi có vần.

                               Nhà chị công nhân

                               Nửa tôn nửa ngói

                               Nhà mẹ anh hùng

                               Nghĩa tình xây mới…

Những loại thơ như thế, nó kéo thơ xuống với ngôn ngữ quần chúng bình dân mà hơn nửa thế kỷ trước các nhà thơ đã thi đua “lột mình” phục vụ đại chúng, để rồi sau đó nhiều người thức tỉnh với nhóm “nhân văn giai phẩm” nhằm làm một cuộc cách mạng thơ… bất thành vì những định kiến chính trị. Riêng điều này thì nhóm Sáng Tạo ở Sài Gòn lại sớm nhận ra, và họ cũng đã có một số đóng góp nhất định để đẩy lùi dần ngôn ngữ thơ thực dụng nhan nhản một thời. Đó là sự trả giá cho những non nớt trong quan niệm nghệ thuật phục vụ chính trị theo hướng đại chúng.

Ngày nay, những người thơ đích thực không còn ấu trĩ như xưa, nhưng chính đời sống dồn nén của kinh tế thị trường nửa mùa đã khiến đại bộ phận công chúng lơ là thơ phú, và thị hiếu của họ bị bào mòn, chai cứng với thơ, nảy ra nhu cầu giải trí “mì ăn liền”, khiến không ít nhà thơ hạ mình mua tiếng vỗ tay giá rẻ. Còn những “nhà thơ nghiệp dư” viết thơ theo cảm tính thì ngộ nhận giữa thơ và vè, cũng góp một phần không nhỏ vào công cuộc “vè hóa thơ” trên khắp thi đàn. Vì thế mà cánh đồng thơ cỏ nhiều hơn lúa, cỏ lấn át lúa, cỏ đè bẹp lúa để mang về cho thơ một mùa thơ-vè cỏ dại… Tôi có thể dẫn ra nhiều bài thơ-vè, nhiều tập thơ-vè… nhưng có thể không dẫn ra thì nhiều người cũng đã biết. Vấn đề quan trọng là chúng ta, cả người làm thơ và người đọc thơ phải ý thức sâu sắc rằng, nguy cơ “vè hóa thơ” đã và đang diễn ra với một cường độ mạnh, cực mạnh rất đáng báo động.

2. HIỆN TƯỢNG “VĂN XUÔI HÓA THƠ”

Không kể thời tiền sử sáng tạo ra lối kể chuyện thơ, thì thơ văn xuôi đã xuất hiện từ thế kỷ XIX ở phương Tây. Mãi đến cuối thế kỷ XX, câu chuyện thơ văn xuôi vẫn còn được tranh cãi nảy lửa. Theo một ý kiến được ủng hộ của Jean Claude thì “Bài thơ văn xuôi được cô đúc bởi đối tượng hỗn hợp và bất xác tín của ngôn ngữ thơ, trong khi đó, văn xuôi biến đổi đối tượng tiềm tàng (cô đúc) của nó để đặt nó vào cái thực tại hỗn hợp. Thơ xóa sạch mọi dấu vết hay dấu mốc nhận dạng, trong khi văn xuôi, ngược lại, nhân chúng lên gấp bội, bắt ốc vít bù loong chúng vào nhau thật chắc”. Nghe có vẻ phức tạp thế, nhưng cũng không khó hiểu, bởi thơ có đặc trưng của thơ và văn xuôi có đặc trưng của văn xuôi. Phân biệt các lãnh địa này, nhà ngôn ngữ Nguyễn Phan Cảnh cũng viết: "Tạo hình chủ yếu là vương quốc của văn xuôi nhưng có một khoảng trời giành riêng cho sử thi và thơ ứng dụng, còn biểu hiện, trước hết là lãnh địa của thơ nhưng lại cắt một phần đất cho văn xuôi trữ tình".

Tôi đồ rằng nhiều nhà thơ “hiện đại” của ta chưa hiểu thấu điều đó, nhưng đã vội vàng nhảy vào thơ văn xuôi với những trường phái tân hình thức, hậu hiện đại của Tây của Mỹ nên đã mang đến một hậu họa cho thơ mà lại ngộ nhận rằng, mình đang song hành cùng thơ đỉnh cao thế giới. Tôi đã đọc nhiều thơ văn xuôi của các nhà thơ ta cả trẻ lẫn già, và tôi thử nối lại các xuống dòng, thì thấy hầu hết đều là văn xuôi chứ không phải thơ, thậm chí lại còn lủng củng hơn cả văn xuôi. Ví dụ một đoạn thơ, tình cờ tôi mở ra trên bàn viết: “Anh bế em lên như bế cả con sông Hồng phù sa trần truồng tràn ra biển lớn một mùa màng phì nhiêu còng bóng mẹ gieo gặt. Những vì sao thiên hà rơi đầy mắt em mắt anh ướt lòe ánh sáng xua bóng đêm đè xuống vai ta rần rần châu thổ. Anh đi đây những thiên hà đang vẫy gọi anh…”.

Với lối nói ngoa ngôn mê sảng như vậy, nhà thơ có thể giết chết cả ngàn trang giấy mà chả biết để làm gì. Nhiều nhà thơ trẻ, nhà thơ già cũng đã được phủ dụ, ru ngủ bằng những trang văn xuôi như vậy mà tưởng mình là tiên phong thi sĩ . Ở đây phải tỉnh táo mà nhận ra rằng, văn xuôi đang xâm thực thơ vô tội vạ. Đó chính là hành động “văn xuôi hóa thơ” hiệu quả nhất.

Không ai bắt mọi nhà thơ Việt đều phải viết thơ lục bát, dù lục bát là một thể thơ đã thấm vào hồn cốt dân tộc Việt. Nhưng làm được một câu thơ lục bát cho đúng vần đúng điệu đối với một số nhà thơ là không phải dễ, chứ chưa nói đến việc làm một câu lục bát hay để đời. Ngược lại, không phải nhà thơ nào cũng làm được thơ văn xuôi hiện đại, hậu hiện đại ngoa ngôn mê sảng như không ít người thiêu thân vào loại thơ này trên thi đàn nhân danh cách tân đổi mới. Nói vậy, tôi không nhằm phán xét những bài thơ văn xuôi hay hay dở, mà muốn cùng các nhà thơ nhận chân bản chất của thơ dù nó thuộc trường phái nào, cổ điển hay hậu cổ điển, hiện đại hay hậu hiện đại; đồng thời cũng báo động cho những ai đang đeo đuổi loại hình thơ văn xuôi hãy cảnh giác với sự dễ dãi, phô trương hình thức. Thực ra các thể loại, các trường phái không có tội, mà tội lớn là sự thiếu hiểu biết, sự ngộ nhận non nớt của nhà thơ trước ma trận của cái mới luôn mai phục ở phía trước.

3. HIỆN TƯỢNG “CŨ HÓA THƠ”

Năm 1990, trong một cuộc trò chuyện tâm đắc với nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến về thơ, anh có một nhận định vô cùng bất ngờ thú vị đối với tôi: "Thơ trước hết phải mang tới một cái gì khác cổ điển (trước nó), nhưng chỉ có khác thì khó đọc, mà chỉ có cổ điển thì đọc thấy nó tẻ. Thơ nào đọc thấy khang khác mà vẫn phảng phất cổ điển thì đấy là thơ đích thực mang tới giá trị mới. Nhưng cái khác ở thơ thật khó giải thích rõ ràng, có khi người ta chỉ cảm được nó mà thôi”.

Tôi nghĩ, nhận định của anh Hoàng Ngọc Hiến là rất thận trọng và mới mẻ. Giới ghiên cứu, phê bình chưa thấy ai nói thế. Người làm thơ chắc cũng ý thức mơ hồ về điều đó, nhưng đến khi nghe anh Hiến nói thì mới ngẫm lại mình, và thấy đó là một nhận định thật sáng giá.

Có một thực tế là những nhà thơ cách tân thường chạy theo cái mới, cái lạ, cái độc đáo chưa từng có, như muốn cắt đứt với quá khứ. Nhưng nghệ thuật lại có ký ức của nó. Ngay cả khi anh muốn làm một cuộc bạo động chữ thì cũng không thể cắt đứt với ký ức ngôn ngữ của chính nó. Còn khi anh đã cắt đứt hoàn toàn với ký ức nghệ thuật thì chính anh sẽ rơi vào khoảng chân không, xa rời ký ức của con người, và như vậy thì chỉ tạo ra những tác phẩm hoàn toàn xa lạ với cuộc sống. Đó chính là sự thất bại mà nhiều nhà cách tân cực đoan đã mắc phải.

Ngược lại, nhiều nhà thơ lại chỉ viết theo bản năng mà ít chú trọng đến sự nghiền ngẫm về văn hóa thơ quá khứ và hiện tại của nhân loại, nên cái anh tưởng là mới lạ lại hóa ra thành cũ kỹ đến sáo mòn. Đó là căn bệnh phổ biến của thơ ta gần đây. Nhan nhản những tập thơ vô thưởng vô phạt xuất hiện trong các giải thưởng, trên quầy sách, trên bàn thờ tổ tiên hay trên những trang mạng cá nhân. Đó là thứ thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, tưởng như vừa khai quật trong bãi thải của quên lãng. Có người biết điều đó, và họ khẳng định họ không làm thơ mà chỉ ghi lại những cảm xúc cá nhân, in ra làm kỷ niệm. Nhưng cũng không ít người say mê với nó và tưởng mình không thua gì Nguyễn Bính, Xuân Hương khi được một số độc giả khen vuốt ve trên mạng ảo…Đối tượng này nhiều vô kể, thậm chí có thể che lấp cả những giá trị thơ đích thực không phải lúc nào cũng có. Đây cũng là nguyên nhân xói mòn giá trị của thơ, khi nó trở thành hiện tượng “cũ hóa thơ”.

Tóm lại, những hiện tượng xâm thực thơ như đã kể trên là hoàn toàn có thật, nó đang diễn ra hàng ngày chung quanh ta. Đó là những hiện tượng ăn lấn, xói mòn và hủy hoại sự phát triển của thơ trong một thời đại mà “người người làm thơ, nhà nhà làm thơ” rầm rộ khắp hang cùng ngõ hẻm. Để thay cho lời kết, tôi xin dẫn hai câu lục bát của “Hậu Bút Tre” Bảo Sinh, cũng là tâm trạng của tôi khi viết bài này:

Đêm nằm nghĩ mãi không ra

Tại sao thằng ấy lại là nhà thơ?

--------------

Ảnh: Đỗ Văn Hiếu

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Thư giãn  

Câu đối trúng tâm tư

VanVN.Net - Nhà văn Xuân Thiều ăn mừng tân gia. Sau bao nhiêu năm ăn ở chật chội trong khu tập thể, bây giờ khi tuổi đã cao nhà văn mới có được một ngôi nhà riêng. Nhà ba tầng. Đẹp ...

Nhà văn đọc sách  

Đất bỏng – bộ tiểu thuyết sử thi về vùng mỏ Cẩm Phả

VanVN.Net - "Đất bỏng" thực sự là một cuốn tiểu thuyết mang tính sử thi hấp dẫn người đọc. Cái bỏng rát của vùng đất đó không chỉ dừng lại ở sự bỏng rát của thời tiết vùng mỏ vỗn dĩ ...

Tư liệu  

Hoài Thanh với văn chương và hành động

VanVN.Net - Trong lịch sử văn học nước nhà chưa từng thấy một ai ngoài Hoài Thanh cùng một lúc phát hiện hơn 40 gương mặt thi ca và liền đó định hình họ trên thi đàn. Hơn 40 gương mặt ...