VanVN.Net - Dương Thị Xuân Quý là tên khai sinh cũng là bút danh của nhà văn. Sinh năm 1941, tại Hà Nội. Quê quán: Thôn Phú Thịnh, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Hy sinh ngày 8 tháng 3 năm 1969 tại thôn 2, xã Xuyên Tần, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Từng là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, đi chiến trường làm phóng viên tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ. Tác phẩm chính đã suất bản: Chỗ đứng (truyện, 1968), Hoa rừng (truyện và ký, 1970). Giải thưởng văn học: Giải thưởng Nhà nước về Văn học, nghệ thuật năm 2007.
1. Sinh trưởng từ cái nôi văn hóa lớn
Dương Thị Xuân Quý sinh tại 195 phố Hàng Bông, Hà Nội. Ngôi nhà nguyên là trụ sở tờ Văn học tạp chí những năm từ 1932 đến 1934, và báo quán tạp chí Tri Tân những năm 1941-1945, nơi những trí giả lớn như Nguyễn Văn Tố, Trần Văn Giáp, Hoa Bằng, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên… thường lui tới. Hai tờ tạp chí nổi tiếng ấy đều do thân phụ của Dương Thị Xuân Quý là Dương Tụ Quán chủ trương. Ông nội chị là nhà chí sĩ Dương Trọng Phổ, thành viên của Đông Kinh nghĩa thục, bị giặc Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Bác ruột chị là nhà văn Dương Bá Trạc, một trí thức duy tân yêu nước, cũng bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo trước cả cụ Dương Trọng Phổ. Một người bác ruột nữa của chị là học giả Dương Quảng Hàm, tác giả cuốn Việt Nam văn học sử yếu danh tiếng…
Từ cái nôi văn hóa ấy, như một lẽ tự nhiên, Dương Thị Xuân Quý đến với nghiệp báo chí và văn chương. Năm 1959, đang học cấp III (nay là trung học phổ thông), Dương Thị Xuân Quý đã viết những bài văn đầu tiên, đăng trên báo Thiếu niên tiền phong và báo Tiền phong. Những năm này, có phong trào các tác giả văn chương, báo chí đi “cắm chốt” ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, và vùng mỏ than miền đông bắc là một nơi có sức cuốn hút đối với những ai ôm mộmg báo chí, văn chương. Là con út trong nhà, khi Dương Thị Xuân Quý tốt nghiệp phổ thông và đưa ra kế hoạch đi học Trường kỹ thuật công nghiệp II ở Quảng Ninh, đã khiến cả nhà sửng sốt. Nhưng là người mạnh mẽ, quyết chí, chị đã tới Quảng Ninh, học nghề trắc địa mỏ. Nữ sinh khoa trắc địa mỏ lại nổi tiếng cả trường là người văn hay chữ tốt, và là cộng tác viên thường xuyên của báo Tiền phong và báo Lao động. Thời gian này, phong trào sáng tác văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh khá mạnh so với các địa phương trong cả nước, tạp chí văn nghệ của vùng mỏ là nơi Dương Thị Xuân Quý đăng những truyện ngắn đầu tay. Những truyện ngắn đầu tay đó, cùng những bài báo trên Tiền phong và Lao động bước đầu đã khẳng định khả năng của nữ tác giả Dương Thị Xuân Quý. Do vậy, báo Phụ nữ Việt Nam đã cử cán bộ tổ chức về Quảng Ninh xin chị về, trước tiên là cho đi học Lớp nghiệp vụ báo chí. Vốn từ khi đi Quảng Ninh học, Dương Thị Xuân Quý đã nghĩ sẽ định cư ở đây, và sẽ trở thành người viết về vùng công nghiệp đông bắc của đất nước mình. Lúc này, đang học năm thứ II, sau nhiều đêm không ngủ được bởi ý nghĩ “phải xa vùng mỏ”, nhưng rồi khát vọng muốn vươn lên, muốn tiến xa hơn, nên chị quyết định rời Quảng Ninh, về Hà Nội theo học Lớp nghiệp vụ báo chí. Đó là năm 1962.
Sau khóa học báo chí, Dương Thị Xuân Quý về làm việc ở báo Phụ nữ Việt Nam, biên chế vào tổ Nông thôn. Với cá tính mạnh mẽ, hăng hái, chị đi rất nhiều về các vùng quê tìm hiểu thực tế đời sống, rồi viết. Những đồng nghiệp ở báo Phụ nữ Việt Nam đều biết một Dương Thị Xuân Quý rất cứng cỏi, rất xông xáo, đã định đi đâu để tìm hiểu thực tế thì dù có mưa to, gió lớn cũng đi. Đi về, là viết, không có điện thì thắp đèn dầu, mặc muỗi đốt, viết xong mới đi ngủ. Một lần đi thực tế Hà Tĩnh về, chị hào hứng nói với một đồng nghiệp là nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh: “Khanh này, Hà Tĩnh có dòng sông La rất đẹp, tao tả để mày làm thơ nhé”. Rồi Dương Thị Xuân Quý tả, trời trưa dòng sông trong xanh với những chùm hoa gạo đỏ như lửa soi mình đáy nước, rồi những cô gái giặt lụa trên bến sông đêm trăng… Và, nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh đã viết một mạch xong Gửi sông La, một trong những bài thơ khiến chị nổi tiếng, sau được nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ nhạc. Hoàng Thị Minh Khanh là người bạn rất thân thiết với Dương Thị Xuân Quý, từng chứng kiến mối tình của Dương Thị Xuân Quý và Bùi Minh Quốc khi đó đang công tác bên Đài tiếng nói Việt Nam. Bốn mươi năm sau ngày Dương Thị Xuân Quý hy sinh, Hoàng Thị Minh Khanh viết những dòng hồi ức: “Ngày nay, mỗi lần nghe Gửi sông La qua sóng phát thanh hay truyền hình là tôi lại bàng hoàng nhớ đến Xuân Quý…”. Những năm chị Quý và anh Quốc yêu nhau, Mỹ đã mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền bắc. Hồi ký của Hoàng Thị Minh Khanh: “Sau khi Quý-Quốc cưới nhau, bé Ly mới hơn ba tháng tuổi thì Quốc xung phong theo tiếng gọi của tiền tuyến, đi B… Quý vẫn hăng hái đi và viết. Bé Ly được10 tháng tuổi thì Quý cũng xung phong đi B. Tôi thương bé Ly bé bỏng nhỏ nhoi mà đã phải xa cả bố lẫn mẹ…”
2. Khát vọng văn chương
Bảy năm làm phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, Dương Thị Xuân Quý đã viết nhiều bài báo, một số truyện ngắn và bút ký, có những tác phẩm viết ngay tại tuyến lửa khu IV. Đối với chị, như thế chưa đủ, chị coi hiện thực lớn nhất của Việt Nam những năm đó là cuộc sống giữa chiến tranh, nhân cách con người lớn nhất là đối mặt với chiến tranh. Đó là khát vọng lớn của chị về văn chương. Vượt Trường Sơn vào miền Nam với khát vọng thật lớn ấy, còn trong góc sâu thẳm nhất của người mẹ, Dương Thị Xuân Quý ghi nhật ký: “Khổ thân con quá. Đời con có những mốc thật kỳ lạ. Đẻ ra vừa biết cười là bom đạn. Vừa biết cười thành tiếng là xa bố, vừa nhú răng là sơ tán. Vừa biết gọi mẹ là xa mẹ, và vừa biết nói hai tiếng thì nói “Đi Nam”...”. Về cuộc sống của mình tại chiến trường, chị cũng chuyện trò với con qua nhật ký: “…Ly của mẹ! Mẹ báo một tin để con mừng nữa là ngày hôm nay mẹ bắt đầu làm người cán bộ của tiểu ban Văn nghệ Ban Tuyên huấn khu V, chính thức là người lính của lực lượng Văn nghệ giải phóng. Mẹ còn đang rất ngỡ ngàng, dốt nát, nhiều khi ngu ngốc nữa. Mẹ giận mình quá. Hôm nay, ngày thứ nhất của cuộc đời mới…Ly, bé Ly yêu dấu của mẹ ơi! Hôn con. Hôn con…”. Và trên đường Trường Sơn, Dương Thị Xuân Quý làm thơ, “Bài thơ tặng con”:
Lòng tôi chợt quặn đau/ Mắt tôi mờ bóng khói/ Ngoảnh nhìn lại phía sau / Con vẫn như đang gọi…
Nhật ký của Dương Thị Xuân Quý cùng những bài thơ viết riêng cho con gái chị, tôi nghĩ, là tác phẩm văn chương phản ánh trung thực cuộc sống chiến đấu ở mặt trận khu V, thông qua cuộc sống của chính tác giả nếm trải. Đó là một cuộc sống không tô vẽ nhưng kiên cường, cao đẹp, nên tác phẩm chứa đựng những giá trị rất nhân bản. “Bếp đặt dưới một tảng đá nghiêng để tránh mưa. Trạm cho mỗi chị hai thanh củi to. Lấy dao găm chẻ ra. Mình phải đốt cả một cuốn Hòa Vang của Nguyễn Khải mới nhóm được bếp vì củi tươi quá”. ốm nằm bẹp, cùng quyển nhật ký chị trò chuyện với đứa con đang ở nơi chân trời phía Bắc: “Mẹ nhớ con trong cơn sốt mê man…Mẹ đã trải qua những gian khổ cơ bản. Gùi cõng, di chuyển, đào hầm, đói, thiếu rau, B52, sốt rét…Ôi cái thứ sốt mới đáng sợ làm sao. Nó chỉ rét nhôn nhốt nhưng nhức đầu và đau xương kinh khủng lắm con ơi. Nhưng ghê gớm nhất là nỗi nhớ, mẹ nhớ Ly, nhớ ông bà và các bác, nhớ Hà Nội và bạn bè của mẹ. Mẹ rất khổ tâm vì những ngày này bố và các chú trong cơ quan phải gùi cõng rất nhiều. Lẽ ra mẹ có thể góp phần đắc lực…”. Thương vợ, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết những dòng tặng vợ: “Anh hiểu lắm em ơi/ Một người mẹ lên đường ra trận/ Vượt Trường Sơn/ còn dễ hơn/ Vượt qua nỗi nhớ con thăm thẳm…”.
Có một nét nhỏ trong cuộc sống của nhà văn Dương Thị Xuân Quý mà tôi thấy thật thương cảm, là chị rất thích bói Kiều. Trong thư gửi từ chiến trường về cho nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, có đoạn: “Nhàn ạ, hôm nọ tao bói Kiều, tao gặp đoạn này: “Vì ai ngăn đón gió đông/ Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi/ Trùng phùng, dù họa, có khi/ Thân này thôi thế còn gì mà mong/ Đã sinh ra số long đong/ Còn mong lấy kiếp má hồng được sao”. Tao viết thư cho ông Quốc ở Quảng Đà, ông ấy cáu và cấm tao không được lẩn thẩn bói Kiều nữa. Buồn cười.” Chắc Dương Thị Xuân Quý không biết, ở ngoài Hà Nội, bạn thân của chị thương bé Ly vô cùng. “Tôi thường đến thăm bé Ly, đưa bé đi chơi. Có lần tôi xin phép bà ngoại cho bé Ly về nhà tôi chơi. Đưa bé về nhà, con trai tôi hơn bé hai tuổi, hỏi: “Mẹ ơi, em nhà ai đấy hả mẹ?”. Tôi đùa cháu, trả lời: “Mẹ đẻ em ra nhưng gửi bà nuôi, hôm nay xin bà cho em về nhà mình, con có thích em không?” Cháu trả lời: “Con thích lắm, mẹ đừng gửi em lên bà nữa nhé”…Đến hôm bác Hải (anh cả Dương Thị Xuân Quý) đến đón bé Ly về, con trai tôi đững sững ra rồi khóc, không cho bé Ly đi…”(Hồi ký của nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh).
Vào thời gian này, ngoài Hà Nội, nhà xuất bản Văn học đang ấn hành tập truyện Chỗ đứng của Dương Thị Xuân Quý viết trong thời gian chị làm phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, mà chị chưa được biết. Trong một thời gian ngắn ở chiến trường, giữa những đợt gùi cõng, phát rẫy, giữa những trận bom B52, trong sự hành hạ của những trận đói và sốt rét, Dương Thị Xuân Quý đã viết được truyện ngắn “Hoa rừng” và nhiều bút ký, như: “Tiếng hát trong hang đá”, “Gương mặt thách thức” và “Niềm vui thầm lặng”. Những tác phẩm đó được các đồng chí lãnh đạo Văn nghệ khu V đánh giá cao, Dương Thị Xuân Quý rất vui. Nhà văn Nguyên Ngọc gặp Dương Thị Xuân Quý chỉ một lần ở chiến trường khu V, nhưng gần bốn mươi năm sau vẫn nhớ lần gặp gỡ đó, ông kể: “Chúng tôi họp, bom B52 nổ rền đâu đó ở sườn núi bên kia. Quý đến muộn một chút. Chị vừa bị sốt rét rừng…Đã nghe tên, quý mến mà chưa được gặp người. Một cô gái bước vào. Tôi biết ngay là Quý, không rõ vì sao. Chị gầy và xanh quá. Nói là còm cõi cũng không quá đáng. Duy có đôi mắt, tất cả là ở đó. Đôi mắt vừa đằm thắm, vừa rắn rỏi, vừa thông minh. Hay đúng hơn, nhìn vào đôi mắt ấy, anh bỗng hiểu rằng trước mặt mình là một con người có thể lặng lẽ suốt đời đi đến mục đích đã tự khẳng định của mình, bất chấp tất cả, không gì ngăn được…”.
3. “Tôi không sợ chết, chỉ sợ không xứng đáng”
Buổi sáng nhà văn Nguyên Ngọc gặp Dương Thị Xuân Quý, như ông vừa kể trên, là tại Hội nghị sáng tác văn nghệ khu V, tháng 12 năm 1968. Ngay sau Hội nghị đó, có một đợt đi thực tế xuống đồng bằng. Dương Thị Xuân Quý xin về chiến trường Quảng Đà. Những năm tháng này, Quảng Đà là chiến trường ác liệt nhất của khu V nói riêng và của cả miền Nam nói chung. Nhiều nhà báo và văn nghệ sĩ đi vào mặt trận Quảng Đà đã nằm lại mãi mãi dọc hai bên bờ sông Thu Bồn. Khi biết Dương Thị Xuân Quý có nguyện vọng đi Quảng Đà, lãnh đạo văn nghệ khu có do dự và đề nghị chị chọn nơi khác ít nguy hiểm hơn. Nhưng, từ hồi là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, Dương Thị Xuân Quý đã như vậy, cứ nghe ở đâu có sự tích anh hùng là quyết đến cho bằng được, dù đó có là vùng túi bom trong chiến tranh phá hoại của không lực Mỹ. Lúc này, chị quyết đến Quảng Đà. Chị ý thức rõ sẽ đối mặt với cái gì, như những dòng nhật ký viết ngày 15-12-1968: “Lạ thế, biết nguy hiểm nhưng vẫn sẵn sàng lao vào, dù có hy sinh. Đời người ai chả chết. Dĩ nhiên mình có nghĩ đến đau khổ của anh và Ly. Nhưng cái gì cũng qua thôi… Đó là ý nghĩ của mình khi được phân công đi công tác Quảng Đà từ nay đến cuối tháng 3- 1969… Lo, mình lo chứ. Nhưng mình quyết tâm và nghĩ thế này: dù có chết thì cũng như bao người phải chết thôi. Nghĩ vậy, không thấy sợ nữa…”. Đến chiến trường Quảng Đà được gần ba tháng, chị có viết cho nhà văn Chu Cẩm Phong bức thư, đề ngày 2-3-1969, có đọan: “…may mắn tôi được có mặt, Xuyên Hòa kiên cường lắm; tôi bắt gặp nhiều điều rất xúc động, gặp nhiều nguy hiểm, nhưng vui kỳ lạ…”
Nhưng rồi chỉ sáu hôm sau, vào ngày Quốc tế phụ nữ, 8-3-1969, trên chiến trường Quảng Đà, Dương Thị Xuân Quý đã hy sinh trong một trận càn của giặc, tại xã Xuyên Tần, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thật trớ trêu bởi chỉ trước đó một ngày, nhà thơ Bùi Minh Quốc vừa sáng tác Bài thơ tình yêu mà sau này nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc: “Cuộc đời vẫn đẹp sao/ Tình yêu vẫn đẹp sao/ Dù đạn bom man rợ thét gào…/ Dù xa cách hai ngả đường chiến dịch/ Ta vẫn cùng chung nhau một ánh trăng ngần…”. Biết tin Dương Thị Xuân Quý hy sinh, nhà văn Nguyên Ngọc đã nói rằng, ông tin lời cuối cùng của nữ nhà văn anh hùng Dương Thị Xuân Quý là một tiếng gọi “Con!”.
Hai mươi tám tuổi đời, Dương Thị Xuân Quý có hai tập truyện, ký là “Chỗ đứng” và “Hoa rừng”. Chị còn có tác phẩm “Sa mạc tuổi thơ” mà ít người biết đến. Trong tác phẩm này, chị hồi tưởng những kỷ niêm tuổi thơ về một vùng đất bãi và một thế hệ rất đẹp của một thời đã “một đi không trở lại”: “ở đây, những cồn cát cát cháy nắng năm xưa đã biến mất, nhường chỗ cho những rừng dâu xanh thẫm. Cũng như trò chơi ngây ngô của chúng tôi ngày trước, giờ đã biến thành những kỷ niệm xa xưa…Và hôm nay, các em nhỏ cũng đang chơi những trò chơi…”. Và theo tôi, còn một tập tác phẩm rất quan trọng của Dương Thị Xuân Quý nữa, là nhật ký và thư từ của chị. Chúng tôi vẫn nghĩ, nhà văn đi trên đường đời và viết nên những trang viết cũng chính là quá trình họ sáng tạo bản thân mình, sáng tạo nên một cuộc đời văn chương. Qua cách sống dấn thân vì nghĩa cả, qua những trang viết chân thực và giàu tính nhân bản, Dương Thị Xuân Quý đã sáng tạo nên một cuộc đời văn chương thật anh hùng. Phẩm giá văn chương anh hùng ấy sẽ còn lại mãi trong đời sống tinh thần của người Việt Nam ta.
Sống và viết như vậy, với Dương Thị Xuân Quý, hai mươi tám tuổi đời là mãi mãi!..
VanVN.Net - Dương Thị Xuân Quý là tên khai sinh cũng là bút danh của nhà văn. Sinh năm 1941, tại Hà Nội. Quê quán: Thôn Phú Thịnh, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Hy sinh ngày 8 tháng 3 năm 1969 tại thôn 2, xã Xuyên Tần, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Từng là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, đi chiến trường làm phóng viên tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung Trung bộ. Tác phẩm chính đã suất bản: Chỗ đứng (truyện, 1968), Hoa rừng (truyện và ký, 1970). Giải thưởng văn học: Giải thưởng Nhà nước về Văn học, nghệ thuật năm 2007.
1. Sinh trưởng từ cái nôi văn hóa lớn
Dương Thị Xuân Quý sinh tại 195 phố Hàng Bông, Hà Nội. Ngôi nhà nguyên là trụ sở tờ Văn học tạp chí những năm từ 1932 đến 1934, và báo quán tạp chí Tri Tân những năm 1941-1945, nơi những trí giả lớn như Nguyễn Văn Tố, Trần Văn Giáp, Hoa Bằng, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Huy Tưởng, Chu Thiên… thường lui tới. Hai tờ tạp chí nổi tiếng ấy đều do thân phụ của Dương Thị Xuân Quý là Dương Tụ Quán chủ trương. Ông nội chị là nhà chí sĩ Dương Trọng Phổ, thành viên của Đông Kinh nghĩa thục, bị giặc Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Bác ruột chị là nhà văn Dương Bá Trạc, một trí thức duy tân yêu nước, cũng bị thực dân Pháp bắt đày ra Côn Đảo trước cả cụ Dương Trọng Phổ. Một người bác ruột nữa của chị là học giả Dương Quảng Hàm, tác giả cuốn Việt Nam văn học sử yếu danh tiếng…
Từ cái nôi văn hóa ấy, như một lẽ tự nhiên, Dương Thị Xuân Quý đến với nghiệp báo chí và văn chương. Năm 1959, đang học cấp III (nay là trung học phổ thông), Dương Thị Xuân Quý đã viết những bài văn đầu tiên, đăng trên báo Thiếu niên tiền phong và báo Tiền phong. Những năm này, có phong trào các tác giả văn chương, báo chí đi “cắm chốt” ở những vùng kinh tế trọng điểm của đất nước, và vùng mỏ than miền đông bắc là một nơi có sức cuốn hút đối với những ai ôm mộmg báo chí, văn chương. Là con út trong nhà, khi Dương Thị Xuân Quý tốt nghiệp phổ thông và đưa ra kế hoạch đi học Trường kỹ thuật công nghiệp II ở Quảng Ninh, đã khiến cả nhà sửng sốt. Nhưng là người mạnh mẽ, quyết chí, chị đã tới Quảng Ninh, học nghề trắc địa mỏ. Nữ sinh khoa trắc địa mỏ lại nổi tiếng cả trường là người văn hay chữ tốt, và là cộng tác viên thường xuyên của báo Tiền phong và báo Lao động. Thời gian này, phong trào sáng tác văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh khá mạnh so với các địa phương trong cả nước, tạp chí văn nghệ của vùng mỏ là nơi Dương Thị Xuân Quý đăng những truyện ngắn đầu tay. Những truyện ngắn đầu tay đó, cùng những bài báo trên Tiền phong và Lao động bước đầu đã khẳng định khả năng của nữ tác giả Dương Thị Xuân Quý. Do vậy, báo Phụ nữ Việt Nam đã cử cán bộ tổ chức về Quảng Ninh xin chị về, trước tiên là cho đi học Lớp nghiệp vụ báo chí. Vốn từ khi đi Quảng Ninh học, Dương Thị Xuân Quý đã nghĩ sẽ định cư ở đây, và sẽ trở thành người viết về vùng công nghiệp đông bắc của đất nước mình. Lúc này, đang học năm thứ II, sau nhiều đêm không ngủ được bởi ý nghĩ “phải xa vùng mỏ”, nhưng rồi khát vọng muốn vươn lên, muốn tiến xa hơn, nên chị quyết định rời Quảng Ninh, về Hà Nội theo học Lớp nghiệp vụ báo chí. Đó là năm 1962.
Sau khóa học báo chí, Dương Thị Xuân Quý về làm việc ở báo Phụ nữ Việt Nam, biên chế vào tổ Nông thôn. Với cá tính mạnh mẽ, hăng hái, chị đi rất nhiều về các vùng quê tìm hiểu thực tế đời sống, rồi viết. Những đồng nghiệp ở báo Phụ nữ Việt Nam đều biết một Dương Thị Xuân Quý rất cứng cỏi, rất xông xáo, đã định đi đâu để tìm hiểu thực tế thì dù có mưa to, gió lớn cũng đi. Đi về, là viết, không có điện thì thắp đèn dầu, mặc muỗi đốt, viết xong mới đi ngủ. Một lần đi thực tế Hà Tĩnh về, chị hào hứng nói với một đồng nghiệp là nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh: “Khanh này, Hà Tĩnh có dòng sông La rất đẹp, tao tả để mày làm thơ nhé”. Rồi Dương Thị Xuân Quý tả, trời trưa dòng sông trong xanh với những chùm hoa gạo đỏ như lửa soi mình đáy nước, rồi những cô gái giặt lụa trên bến sông đêm trăng… Và, nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh đã viết một mạch xong Gửi sông La, một trong những bài thơ khiến chị nổi tiếng, sau được nhạc sĩ Lê Việt Hòa phổ nhạc. Hoàng Thị Minh Khanh là người bạn rất thân thiết với Dương Thị Xuân Quý, từng chứng kiến mối tình của Dương Thị Xuân Quý và Bùi Minh Quốc khi đó đang công tác bên Đài tiếng nói Việt Nam. Bốn mươi năm sau ngày Dương Thị Xuân Quý hy sinh, Hoàng Thị Minh Khanh viết những dòng hồi ức: “Ngày nay, mỗi lần nghe Gửi sông La qua sóng phát thanh hay truyền hình là tôi lại bàng hoàng nhớ đến Xuân Quý…”. Những năm chị Quý và anh Quốc yêu nhau, Mỹ đã mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền bắc. Hồi ký của Hoàng Thị Minh Khanh: “Sau khi Quý-Quốc cưới nhau, bé Ly mới hơn ba tháng tuổi thì Quốc xung phong theo tiếng gọi của tiền tuyến, đi B… Quý vẫn hăng hái đi và viết. Bé Ly được10 tháng tuổi thì Quý cũng xung phong đi B. Tôi thương bé Ly bé bỏng nhỏ nhoi mà đã phải xa cả bố lẫn mẹ…”
2. Khát vọng văn chương
Bảy năm làm phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, Dương Thị Xuân Quý đã viết nhiều bài báo, một số truyện ngắn và bút ký, có những tác phẩm viết ngay tại tuyến lửa khu IV. Đối với chị, như thế chưa đủ, chị coi hiện thực lớn nhất của Việt Nam những năm đó là cuộc sống giữa chiến tranh, nhân cách con người lớn nhất là đối mặt với chiến tranh. Đó là khát vọng lớn của chị về văn chương. Vượt Trường Sơn vào miền Nam với khát vọng thật lớn ấy, còn trong góc sâu thẳm nhất của người mẹ, Dương Thị Xuân Quý ghi nhật ký: “Khổ thân con quá. Đời con có những mốc thật kỳ lạ. Đẻ ra vừa biết cười là bom đạn. Vừa biết cười thành tiếng là xa bố, vừa nhú răng là sơ tán. Vừa biết gọi mẹ là xa mẹ, và vừa biết nói hai tiếng thì nói “Đi Nam”...”. Về cuộc sống của mình tại chiến trường, chị cũng chuyện trò với con qua nhật ký: “…Ly của mẹ! Mẹ báo một tin để con mừng nữa là ngày hôm nay mẹ bắt đầu làm người cán bộ của tiểu ban Văn nghệ Ban Tuyên huấn khu V, chính thức là người lính của lực lượng Văn nghệ giải phóng. Mẹ còn đang rất ngỡ ngàng, dốt nát, nhiều khi ngu ngốc nữa. Mẹ giận mình quá. Hôm nay, ngày thứ nhất của cuộc đời mới…Ly, bé Ly yêu dấu của mẹ ơi! Hôn con. Hôn con…”. Và trên đường Trường Sơn, Dương Thị Xuân Quý làm thơ, “Bài thơ tặng con”:
Lòng tôi chợt quặn đau/ Mắt tôi mờ bóng khói/ Ngoảnh nhìn lại phía sau / Con vẫn như đang gọi…
Nhật ký của Dương Thị Xuân Quý cùng những bài thơ viết riêng cho con gái chị, tôi nghĩ, là tác phẩm văn chương phản ánh trung thực cuộc sống chiến đấu ở mặt trận khu V, thông qua cuộc sống của chính tác giả nếm trải. Đó là một cuộc sống không tô vẽ nhưng kiên cường, cao đẹp, nên tác phẩm chứa đựng những giá trị rất nhân bản. “Bếp đặt dưới một tảng đá nghiêng để tránh mưa. Trạm cho mỗi chị hai thanh củi to. Lấy dao găm chẻ ra. Mình phải đốt cả một cuốn Hòa Vang của Nguyễn Khải mới nhóm được bếp vì củi tươi quá”. ốm nằm bẹp, cùng quyển nhật ký chị trò chuyện với đứa con đang ở nơi chân trời phía Bắc: “Mẹ nhớ con trong cơn sốt mê man…Mẹ đã trải qua những gian khổ cơ bản. Gùi cõng, di chuyển, đào hầm, đói, thiếu rau, B52, sốt rét…Ôi cái thứ sốt mới đáng sợ làm sao. Nó chỉ rét nhôn nhốt nhưng nhức đầu và đau xương kinh khủng lắm con ơi. Nhưng ghê gớm nhất là nỗi nhớ, mẹ nhớ Ly, nhớ ông bà và các bác, nhớ Hà Nội và bạn bè của mẹ. Mẹ rất khổ tâm vì những ngày này bố và các chú trong cơ quan phải gùi cõng rất nhiều. Lẽ ra mẹ có thể góp phần đắc lực…”. Thương vợ, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã viết những dòng tặng vợ: “Anh hiểu lắm em ơi/ Một người mẹ lên đường ra trận/ Vượt Trường Sơn/ còn dễ hơn/ Vượt qua nỗi nhớ con thăm thẳm…”.
Có một nét nhỏ trong cuộc sống của nhà văn Dương Thị Xuân Quý mà tôi thấy thật thương cảm, là chị rất thích bói Kiều. Trong thư gửi từ chiến trường về cho nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn, có đoạn: “Nhàn ạ, hôm nọ tao bói Kiều, tao gặp đoạn này: “Vì ai ngăn đón gió đông/ Thiệt lòng khi ở, đau lòng khi đi/ Trùng phùng, dù họa, có khi/ Thân này thôi thế còn gì mà mong/ Đã sinh ra số long đong/ Còn mong lấy kiếp má hồng được sao”. Tao viết thư cho ông Quốc ở Quảng Đà, ông ấy cáu và cấm tao không được lẩn thẩn bói Kiều nữa. Buồn cười.” Chắc Dương Thị Xuân Quý không biết, ở ngoài Hà Nội, bạn thân của chị thương bé Ly vô cùng. “Tôi thường đến thăm bé Ly, đưa bé đi chơi. Có lần tôi xin phép bà ngoại cho bé Ly về nhà tôi chơi. Đưa bé về nhà, con trai tôi hơn bé hai tuổi, hỏi: “Mẹ ơi, em nhà ai đấy hả mẹ?”. Tôi đùa cháu, trả lời: “Mẹ đẻ em ra nhưng gửi bà nuôi, hôm nay xin bà cho em về nhà mình, con có thích em không?” Cháu trả lời: “Con thích lắm, mẹ đừng gửi em lên bà nữa nhé”…Đến hôm bác Hải (anh cả Dương Thị Xuân Quý) đến đón bé Ly về, con trai tôi đững sững ra rồi khóc, không cho bé Ly đi…”(Hồi ký của nhà thơ Hoàng Thị Minh Khanh).
Vào thời gian này, ngoài Hà Nội, nhà xuất bản Văn học đang ấn hành tập truyện Chỗ đứng của Dương Thị Xuân Quý viết trong thời gian chị làm phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, mà chị chưa được biết. Trong một thời gian ngắn ở chiến trường, giữa những đợt gùi cõng, phát rẫy, giữa những trận bom B52, trong sự hành hạ của những trận đói và sốt rét, Dương Thị Xuân Quý đã viết được truyện ngắn “Hoa rừng” và nhiều bút ký, như: “Tiếng hát trong hang đá”, “Gương mặt thách thức” và “Niềm vui thầm lặng”. Những tác phẩm đó được các đồng chí lãnh đạo Văn nghệ khu V đánh giá cao, Dương Thị Xuân Quý rất vui. Nhà văn Nguyên Ngọc gặp Dương Thị Xuân Quý chỉ một lần ở chiến trường khu V, nhưng gần bốn mươi năm sau vẫn nhớ lần gặp gỡ đó, ông kể: “Chúng tôi họp, bom B52 nổ rền đâu đó ở sườn núi bên kia. Quý đến muộn một chút. Chị vừa bị sốt rét rừng…Đã nghe tên, quý mến mà chưa được gặp người. Một cô gái bước vào. Tôi biết ngay là Quý, không rõ vì sao. Chị gầy và xanh quá. Nói là còm cõi cũng không quá đáng. Duy có đôi mắt, tất cả là ở đó. Đôi mắt vừa đằm thắm, vừa rắn rỏi, vừa thông minh. Hay đúng hơn, nhìn vào đôi mắt ấy, anh bỗng hiểu rằng trước mặt mình là một con người có thể lặng lẽ suốt đời đi đến mục đích đã tự khẳng định của mình, bất chấp tất cả, không gì ngăn được…”.
3. “Tôi không sợ chết, chỉ sợ không xứng đáng”
Buổi sáng nhà văn Nguyên Ngọc gặp Dương Thị Xuân Quý, như ông vừa kể trên, là tại Hội nghị sáng tác văn nghệ khu V, tháng 12 năm 1968. Ngay sau Hội nghị đó, có một đợt đi thực tế xuống đồng bằng. Dương Thị Xuân Quý xin về chiến trường Quảng Đà. Những năm tháng này, Quảng Đà là chiến trường ác liệt nhất của khu V nói riêng và của cả miền Nam nói chung. Nhiều nhà báo và văn nghệ sĩ đi vào mặt trận Quảng Đà đã nằm lại mãi mãi dọc hai bên bờ sông Thu Bồn. Khi biết Dương Thị Xuân Quý có nguyện vọng đi Quảng Đà, lãnh đạo văn nghệ khu có do dự và đề nghị chị chọn nơi khác ít nguy hiểm hơn. Nhưng, từ hồi là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam, Dương Thị Xuân Quý đã như vậy, cứ nghe ở đâu có sự tích anh hùng là quyết đến cho bằng được, dù đó có là vùng túi bom trong chiến tranh phá hoại của không lực Mỹ. Lúc này, chị quyết đến Quảng Đà. Chị ý thức rõ sẽ đối mặt với cái gì, như những dòng nhật ký viết ngày 15-12-1968: “Lạ thế, biết nguy hiểm nhưng vẫn sẵn sàng lao vào, dù có hy sinh. Đời người ai chả chết. Dĩ nhiên mình có nghĩ đến đau khổ của anh và Ly. Nhưng cái gì cũng qua thôi… Đó là ý nghĩ của mình khi được phân công đi công tác Quảng Đà từ nay đến cuối tháng 3- 1969… Lo, mình lo chứ. Nhưng mình quyết tâm và nghĩ thế này: dù có chết thì cũng như bao người phải chết thôi. Nghĩ vậy, không thấy sợ nữa…”. Đến chiến trường Quảng Đà được gần ba tháng, chị có viết cho nhà văn Chu Cẩm Phong bức thư, đề ngày 2-3-1969, có đọan: “…may mắn tôi được có mặt, Xuyên Hòa kiên cường lắm; tôi bắt gặp nhiều điều rất xúc động, gặp nhiều nguy hiểm, nhưng vui kỳ lạ…”
Nhưng rồi chỉ sáu hôm sau, vào ngày Quốc tế phụ nữ, 8-3-1969, trên chiến trường Quảng Đà, Dương Thị Xuân Quý đã hy sinh trong một trận càn của giặc, tại xã Xuyên Tần, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Thật trớ trêu bởi chỉ trước đó một ngày, nhà thơ Bùi Minh Quốc vừa sáng tác Bài thơ tình yêu mà sau này nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc: “Cuộc đời vẫn đẹp sao/ Tình yêu vẫn đẹp sao/ Dù đạn bom man rợ thét gào…/ Dù xa cách hai ngả đường chiến dịch/ Ta vẫn cùng chung nhau một ánh trăng ngần…”. Biết tin Dương Thị Xuân Quý hy sinh, nhà văn Nguyên Ngọc đã nói rằng, ông tin lời cuối cùng của nữ nhà văn anh hùng Dương Thị Xuân Quý là một tiếng gọi “Con!”.
Hai mươi tám tuổi đời, Dương Thị Xuân Quý có hai tập truyện, ký là “Chỗ đứng” và “Hoa rừng”. Chị còn có tác phẩm “Sa mạc tuổi thơ” mà ít người biết đến. Trong tác phẩm này, chị hồi tưởng những kỷ niêm tuổi thơ về một vùng đất bãi và một thế hệ rất đẹp của một thời đã “một đi không trở lại”: “ở đây, những cồn cát cát cháy nắng năm xưa đã biến mất, nhường chỗ cho những rừng dâu xanh thẫm. Cũng như trò chơi ngây ngô của chúng tôi ngày trước, giờ đã biến thành những kỷ niệm xa xưa…Và hôm nay, các em nhỏ cũng đang chơi những trò chơi…”. Và theo tôi, còn một tập tác phẩm rất quan trọng của Dương Thị Xuân Quý nữa, là nhật ký và thư từ của chị. Chúng tôi vẫn nghĩ, nhà văn đi trên đường đời và viết nên những trang viết cũng chính là quá trình họ sáng tạo bản thân mình, sáng tạo nên một cuộc đời văn chương. Qua cách sống dấn thân vì nghĩa cả, qua những trang viết chân thực và giàu tính nhân bản, Dương Thị Xuân Quý đã sáng tạo nên một cuộc đời văn chương thật anh hùng. Phẩm giá văn chương anh hùng ấy sẽ còn lại mãi trong đời sống tinh thần của người Việt Nam ta.
Sống và viết như vậy, với Dương Thị Xuân Quý, hai mươi tám tuổi đời là mãi mãi!..
VanVN.Net – Như tin đã đưa, ngày 20/10/2011, Chánh văn phòng Hội Nhà văn Việt Nam – nhà thơ Đỗ Hàn, được sự ủy quyền của nhà văn Nguyễn Trí Huân – Phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, đã ...
VanVN.Net – Như tin VanVN.Net đã đưa, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vừa ký Quyết định truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ Nguyễn Hoàng Ca (tức nhà văn Nguyễn Thi, Nguyễn ...
VanVN.Net - Nhà văn Xuân Thiều ăn mừng tân gia. Sau bao nhiêu năm ăn ở chật chội trong khu tập thể, bây giờ khi tuổi đã cao nhà văn mới có được một ngôi nhà riêng. Nhà ba tầng. Đẹp ...
VanVN.Net - "Đất bỏng" thực sự là một cuốn tiểu thuyết mang tính sử thi hấp dẫn người đọc. Cái bỏng rát của vùng đất đó không chỉ dừng lại ở sự bỏng rát của thời tiết vùng mỏ vỗn dĩ ...
VanVN.Net – Sáng nay, 06/12/2011, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam (số 9 Nguyễn Đình Chiểu – Hai Bà Trưng – Hà Nội), cuộc tọa đàm văn học tiểu thuyết Quyên của nhà văn Nguyễn Văn Thọ được tổ ...
VanVN.Net - Trong lịch sử văn học nước nhà chưa từng thấy một ai ngoài Hoài Thanh cùng một lúc phát hiện hơn 40 gương mặt thi ca và liền đó định hình họ trên thi đàn. Hơn 40 gương mặt ...
Tiêu đề
Viết bình luận của bạn