Thảo Phương: Làm sao trở lại mùa Đông/ Dòng sông cây cầu đã gẫy/ Thôi đành ru lòng mình vậy/ Làm như mùa Đông đã về Thứ ba, 26/1/2010 | 10:50:15 PM
Trang chủ
Tin văn
Văn hóa - Nghệ thuật
Tiếng nói Nhà văn
Dư âm Hội nghị Quốc tế giới thiệu Văn học Việt Nam
Nhà văn đang có hồ sơ xin vào Hội
Nhà văn ta đang làm gì?
Hướng tới 1000 năm Thăng Long Hà Nội
Lý luận - Phê bình
Tác phẩm và dư luận
Đối thoại
Nghề văn
Văn học với đời sống
VanVN.Net Giới Thiệu
Tác phẩm
Thơ
Truyện ngắn
Bút ký - Phóng sự
Tạp văn
Tiểu thuyết
Mỗi tuần một truyện ngắn, một chùm thơ
Nhà Văn Trẻ
Văn học nước ngoài
Tư Liệu Văn Học
Hội nhà văn
Cơ quan văn học
Hội viên
Di sản
Quán Văn Chương
Phiếm luận

Đọc nhiều nhất

Về cuốn hồi ký gây xôn xao trên mạng của một giáo sư

Cái tát của Lê Công Định

Sẽ còn những ai đứng đằng sau ông Huỳnh Ngọc Sĩ ?

Dư luận không giống như "Chú Thỏ" trong truyện "Cáo và Thỏ" thưa ông Đoàn Văn Kiển...

Hãy bình tĩnh, đừng quá riết róng theo kiểu “Giậu đổ bìm leo”

"Cái hèn" của người cầm bút

Ma đưa lối quỷ đưa đường hay bần cùng sinh đạo tặc... ( Về những vụ trộm cắp của người Việt bị phát hiện gần đây tại Nhật Bản)

Ăn ốc nói mò của một số người cầm bút


CÔNG TY LÂM NGHIỆP TAM SƠN

Xã Kiệt Sơn, huyện Tam Sơn tỉnh Phú Thọ; điện thoại: 0210 3745 002   Fax : 0210 3745 003   -   Email : - tamsontanson@yahoo.com
Đại diện tại Hà Nội: Phòng 330 Nhà K1 Khu Đô thị Việt Hưng, Long Biên Hà Nội điện thoại:  04 3652 4558 – Email: truongnd@gmail.com

  Công ty Lâm nghiệp Tam Sơn (thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam) quản lý và sử dụng 10.903,1 ha thuộc địa bàn 10 Xã của Huyện Tân Sơn. Có điều kiện tự nhiên và khí hậu đặc trưng của vùng miền núi trung du phía bắc rất thuận lợi cho phát triển sản xuất lâm nghiệp.  
  Ngành nghề sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty là: Trồng rừng NLG, khai thác, thu mua, vận tải cung ứng gỗ NLG cho Tổng công ty Giấy Việt Nam ; sản xuất kinh doanh giống cây NLG, chè búp tươi; thu mua, chế biến và tiêu thụ các loại lâm sản NLG; sản xuất, chế biến Nấm Dược phẩm (Linh Chi) và cung cấp Nấm thực phẩm sạch cho thị trường Thành Phố Hà Nội, Tỉnh Phú Thọ, các tỉnh lân cận. Sản xuất, xuất khẩu và cung ứng nội địa hàng trăm triệu đôi đũa tre mỗi năm.
  Các sản phẩm Nấm sạch của Công ty sản xuất ra luôn đảm bảo chất lượng, hàm lượng các chất dinh dưỡng, đã chinh phục được các bà nội trợ khó tính. Trở thành một phần không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người dân Việt Nam.
  Công ty đã mở một số Đại lý, cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm  trên địa bàn các Tỉnh phía bắc
  Khách hàng có nhu cầu mua số lượng lớn hoặc mở Đại lý bán sẩn phẩm . Xin vui lòng liên hệ với Công ty .

Giám đốc     
Nguyễn Đức Sơn


 
Home / Hướng tới 1000 năm Thăng Long Hà Nội
Danh sỹ hồ sĩ tạo viết về thăng long
Mai Hồ Minh ( 1/2/2010 11:26:25 AM )
 
 
Trong số các danh sỹ xứ Nghệ viết về Thăng Long từ trước tới nay, có lẽ danh sỹ Hồ Sỹ Tạo có nét khá riêng, đó là thể hiện lòng yêu nước mãnh liệt bằng khí tiết nhà nho rất “đồ Nghệ”. Chúng tôi xin dẫn hai bài thơ về Thăng Long của danh sỹ Hồ Sỹ Tạo trong Tổng tập Văn học Việt Nam (tập 19) để chứng minh cho nhận định trên.
ở bài “Đề Hà Nội tỉnh thi” (Thơ vịnh tỉnh Hà Nội) nguyên văn chữ Hán như sau:
Kỷ độ phong trần thử độ kinh
Nhất triêu hồn thủ bất thăng tình
Ngư hồ lãng đã tam triều cuộc
Long Đỗ không duy bách lý thành
Nùng Lĩnh phà vân Kim cổ sắc
Nhị Hà lưu thủy khấp ca thanh
“Cầm Hồ, đoạt sáo” nhân hà tại
Thuỳ vị giang sơn tẩy bất bình
Dịch nghĩa: Thơ vịnh Hà Nội
Mấy độ gió bụi, lần này qua đây
Một sớm nhìn lại không khỏi ngậm
ngùi xao xuyến
Cá hồ đớp sóng xao động (gợi nhớ)
cuộc thay đổi “3 triều”
Đất Long Đỗ chỉ còn trơ ngôi thành
trăm dặm.
Trên núi Nùng, mây nổi pha trộn màu
sắc cổ kim
Dưới dòng Nhị, tiếng nước chảy tựa
hồ tiếng khóc
Những người “cướp giặc bắt rợ hồ”
nay đâu cả?
Hỏi có ai vì non sông mà rửa nổi
bất bình.
Dịch giả Vũ Minh Am dịch thơ theo thể thất ngôn bát cú gần với nguyên tác như sau:
“Gió bụi nhiều, nay tới cố Kinh
Sớm ra nhìn lại xót xa tình
Cá hồ xao động ba triều biến
Long Đỗ trơ vơ mấy dặm thành
Bảng lãng, núi Nùng mây phủ kín
Khóc than, dòng Nhị nước trôi nhanh
Anh hùng, hào kiệt đi đâu cả
Ai giúp non sông rửa bất bình”
Cũng như nhiều danh sỹ, tao nhân mặc khách khác đề vịnh về Thăng Long đều nặng lòng hoài cổ, hoài niệm và xót xa trước cuộc thế bể dâu, nhưng ở bài thơ này của danh sỹ Hồ Sỹ Tạo, sự xót xa, hoài niệm ấy được tăng lên tới tột cùng. Đầu đề là “Thơ vịnh Hà Nội” mà trong bài tác giả nhắc đến những tên đất rất xưa cũ như Long Đỗ, Nùng Lĩnh, Nhị Hà… Ngắm mặt hồ Gươm, hồ Tây, chỉ cần nhìn cá hồ đớp sóng thôi danh sỹ đã động lòng trắc ẩn nghĩ về vận nước, nhớ đến cuộc thay đổi “phế lập” ba vua trong thời gian ngắn ngủi (1884) ở Kinh đô Huế. Và thật bất ngờ, một sự ví von táo bạo với sông Nhị Hà (sông Hồng) mà xưa nay chưa thấy ai dám ví “Tiếng nước chảy của sông như tiếng khóc”. Tiếp theo đó, danh sỹ dẫn thơ của thượng tướng Trần Quang Khải trong bài “Đoạt sáo Chương Dương độ /Cầm hồ Hàm Tử quan…” sau chiến thắng Nguyên Mông thuở trước. Dẫn điển tích thơ để rồi kết bằng hai câu hỏi dồn dập: Những người anh hùng “Cướp giáo giặc, bắt quân thù” thuở ấy giờ đâu cả? Ai sẽ là người rửa nỗi bất bình cho giang sơn, gấm vóc hôm nay?
Chúng tôi đoán rằng, bài thơ trên danh sỹ Hồ Sỹ Tạo viết ra sau ngày ông từ quan về dạy học, đi đó đây kết bạn tâm giao, nghĩa là trong khoảng thời gian phong trào Cần Vương bùng nổ (1885- 1895). Đây là giai đoạn bi thương và rối ren nhất, bên ngoài Pháp đang từng bước thôn tính từ Nam ra Bắc, trong triều chính rối ren, chia bè kết cánh… khiến nhà thơ phải “mượn” tiếng chảy nước sông Nhị Hà mà khóc than cho đất nước.
Xin được nói thêm rằng, bài thơ của danh sỹ Hồ Sỹ Tạo có dáng dấp đường thi khá rõ, và như đã nói, sự hoài cổ, hoài niệm rất đậm nét khiến ta dễ liên tưởng tới bài “Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu: “Tích nhân dĩ thừa Hoàng Hạc khứ/ Thử địa không duy Hoàng Hạc lâu/ Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản/ Bạch vân thiên tải không du du…”. Cũng nhắc tới mây nhưng là mây mang sắc màu kim cổ. Cũng nhắc đến sóng nước nhưng là tiếng nước sông như khóc than. Và chỉ khác xưa kia đời thường còn trơ vơ lầu Hoàng Hạc, mà nay trơ vơ trăm dặm thành. Để góp một nén hương tưởng nhớ tiền nhân là danh sỹ họ Hồ, chúng tôi xin mạn phép được đưa ra bản dịch thoát theo thể thơ lục bát, mong được bạn đọc tham khảo:
        
Thơ Vịnh Hà Nội
 
Trải bao gió bụi, bất bình
Ngoái nhìn một sớm xót tình
bấy nhiêu
Cá hồ động, cuộc “ba triều”
Thành Rồng trăm dặm tiêu điều,
trơ vơ
Mây bồng Nùng Lĩnh sắc xưa
Nhị Hà nước réo khóc ca than dài
“Cầm hồ, đoạt sáo” những ai
Ra tay rửa nhục trước đài non sông?
ở bài thứ hai khá dài, nguyên văn chữ Hán như sau:
 
Đề tam trung từ
 
Thăng Long thành thượng yên
trầm mộng
Thăng Long thành hạ huyết lưu hồng
Thành hoàn, bất hoàn Nguyễn
nguyên súy
Thành vong, dữ vong Hoàng
Tướng công
Ta ta nhân thế bạch câu khích
Thiên thu chính khí lăng không bích
Tống gia tam bách niên
cương thường
Dĩ nhất thần nhiệm Văn Thiên Tường
Khả tử nhi tử, tử bất hủ
Chí Kim thanh sử viễn lưu phương
Hoan Châu văn bối Hồ Sỹ Tạo
Kính thuật thử văn nhất uỷ điếu
Tản sơn tự vân, Nhị tự ba
Hách hách tinh trung thiên
nhật chiếu.
Dịch nghĩa: đề đền thờ ba vị trung hiếu
Trên thành Thăng Long khói bụi
mờ mịt
Dưới thành Thăng Long máu chảy
đẫm hồng
Thành được trả nhưng Nguyên Soái
Nguyễn không trở lại
Thành mất, mất luôn cả tướng công
họ Hoàng.
Hỡi ôi! Cuộc đời như bóng câu vụt
qua khe cửa
Chính khí ngàn năm vút lên trời biếc
Ba trăm năm cương thường của
nhà Tống
Trút lên một bề tôi Văn Thiên Tường
Đáng chết mà chết, chết thế là bất tử
Đến nay sử xanh còn vĩnh viễn lưu
tiếng thơm
Kẻ hậu sinh này ở Hoan Châu là Hồ
Sỹ Tạo
Kính thuật lại trong bài này để viếng
Mây từ non Tản, sóng từ sông Nhị Hà
Rờ rỡ tấm tinh trung, vầng nhật
sáng son.
Bài “Đề tam trung từ” vẫn cùng mạch với bài “Đề vịnh Hà Nội” ở niềm hoài cổ thể hiện lòng yêu nước sâu sắc, nồng nàn với nét đặc tả hai cuộc chiếm giữ thành Hà Nội oanh liệt của các tướng Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu ngày trước. Đáng chú ý ở bài “Đề đền thờ ba vị trung hiếu tiết nghĩa” này, một vị là Văn Thiên Tường đời Tống đã rất nổi tiếng cả bên Tàu và bên ta từ xưa, hai vị còn lại là hai tướng giữ thành Hà Nội và đều tuẫn tiết với thành, cùng được xếp ngang hàng với Văn Thiên Tường, đó cũng là công bằng lịch sử. Làm thơ ngợi ca khí tiết của các bậc tiên liệt, nêu tấm gương “trung hiếu tiết nghĩa” cho hậu thế noi theo là việc làm mà các nhà nho xưa nói chung thường làm, có người làm thơ, có người viết sách sử, chuyện kể, làm phú, câu đối… Có khác chăng ở bài thơ này, danh sỹ Hồ Sỹ Tạo sử dụng câu chữ khá mộc mạc cứng cáp mà vẫn gợi nên sự trang nghiêm, lòng tôn kính tột bậc của mình. Phải chăng đó là sự bộc trực và khảng khái, một nét tính cách người Nghệ nói chung và của ông đồ Nghệ nói riêng? Bài thơ này được dịch giả Nguyễn Văn Huyền dịch như sau:
“Khói bụi mờ mịt trên thành Rồng
Dưới thành máu đỏ nhuốm đầy sông
Thành trả, Nguyễn Nguyên soái
không về
Thành mất, mất luôn Hoàng
Tướng công
Đời tựa bóng câu qua kẻ vách
Nghìn năm chính khí vút trời biếc
Nhà Tống, ba trăm năm
cương thường
Dồn vào một vai Văn Thiên Tường
Cần chết mà chết, chết bất hủ
Đến nay sử xanh còn lừng hương
Hoan Châu, hậu sinh Hồ Sỹ Tạo
Kính thuật văn này một lời điếu
Mây non Tản soi sóng sông Hồng
Rờ rỡ tinh trung vầng nhật chiếu.
Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ lòng trân trọng và biết ơn các dịch giả và PGS Ninh Viết Giao đã có công sưu tầm hai bài thơ trên của danh sỹ Hồ Sỹ Tạo để đưa vào Tổng tập Văn học Việt Nam (tập 19). Tuy nhiên, bạn đọc vẫn nuối tiếc phần tiểu sử tác giả còn khá mỏng, chỉ biết ông sinh năm Tân Sửu (1841), chưa rõ năm mất, người xã Thanh Quả tổng Võ Liệt, nay là xã Thanh Khê, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Ông thông minh , học chăm, năm Mậu Thìn (1868) thi đỗ Giải nguyên trường Nghệ, có thi Hội nhưng không đỗ. Làm quan tới chức tri phủ nhưng khi nhà Nguyễn đầu hàng chịu sự bảo hộ của Pháp, ông đã từ quan về dạy học và giao du đó đây, tỏ thái độ bất hợp tác. Đương thời ông sáng tác khá nhiều nhưng bị thất truyền chắc do nhiều nguyên nhân. Chúng tôi sẽ cố gắng góp phần làm sáng tỏ những băn khoăn này vào dịp khác. Cũng như bài trước, bài này chúng tôi cũng xin mạn phép thử dịch xuôi theo thể thơ lục bát, mong được tham khảo:
 
đề đền thờ ba vị
trung tiết
 
Trên thành Rồng, khói bụi mờ
Dưới thành máu đỏ nhuộm nhơ
sông Hồng
Trả thành, Nguyên soái còn không
Mất thành, mất cả Tướng công
họ Hoàng
Đời người, bóng ngựa vút ngang
Ngàn năm chính khí mơ màng
 trời xanh
Ba trăm năm Tống, cương thường
Dồn trong một chết Thiên Tường
một giây
Cần chết mà chết, kính thay!
Sử xanh mãi mãi tháng ngày vinh danh
Hoan Châu, Hồ Sỹ hậu sinh
Văn này kính điếu, cúi mình ghi công
Mây Tản soi bóng sông Hồng
Lòng người, non nước sáng lồng
tinh anh
[ Print this page ]In bài   Trang trước [ Top page ]Đầu trang


Gửi ý kiến
Họ tên
eMail
Điện thoại
Địa chỉ
Nội dung:
   
Các bài mới:
   Ai trao “sổ đỏ” thành Đại La cho Lý Công Uẩn? (12/1/2010)
   Phố Tây ngồi xổm và trà đá 'có ga'(18/1/2010)
   Thăng Long-Hà Nội nghìn năm tuổi(26/1/2010)
Các bài đã đăng:
   Bản đồ Việt từ 1.000 rồng vàng(1/1/2010)
   Lung linh sắc hoa Hà Nội(31/12/2009)
   Lễ hội trong khu phố cổ(27/12/2009)
   Để Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long- Hà Nội thực sự trở thành ngày hội (21/12/2009)
   Đại doãn kinh sư Nguyễn Trung Ngạn và các nơi thờ ông(14/12/2009)
   Thơ văn xưa viết về Thăng Long - Hà Nội: Tây Hồ phong cảnh phú và Bồ Đề hoài cổ của Ngô Thì Sĩ(13/12/2009)
   Văn tế làng Đại Lan(11/12/2009)
   Nhà hát Lớn Hà Nội(3/12/2009)
   Xẩm Bờ Hồ (1/12/2009)
Sự kiện
10 nhân vật có ảnh hưởng nhất thập kỷ
Nhân vật
Tiếng nói đáng tin cậy nhất của nước Mỹ
Bình Luận
Trách nhiệm cao đẹp của người nghệ sĩ
Giới Thiệu Sách
Nhiệt đới buồn
Mùa xuân với “Lời ru ngọn cỏ”
Chiến lược nhân tài của Trung Quốc từ năm 1978 đến nay


 
 
HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
Địa chỉ: 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội - Việt Nam
Điện thoại: (84-43) 9448134 * Fax: (84-43) 8263777
Email: vanvn.net@gmail.com / hoinhavanvietnam@gmail.com
Tổng biên tập: Hữu Thỉnh
Giấy phép số 77/GP-TTTT- Cục Quản lý Phát thanh-Truyền hình và Thông tin Điện tử- Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 26/8/2008.
Hội Nhà văn VN giữ bản quyền nội dung trên website này.
Xây dựng, phát triển: iDesign