Thảo Phương: Làm sao trở lại mùa Đông/ Dòng sông cây cầu đã gẫy/ Thôi đành ru lòng mình vậy/ Làm như mùa Đông đã về Thứ ba, 26/1/2010 | 10:58:32 PM
Trang chủ
Tin văn
Văn hóa - Nghệ thuật
Tiếng nói Nhà văn
Dư âm Hội nghị Quốc tế giới thiệu Văn học Việt Nam
Nhà văn đang có hồ sơ xin vào Hội
Nhà văn ta đang làm gì?
Hướng tới 1000 năm Thăng Long Hà Nội
Lý luận - Phê bình
Tác phẩm và dư luận
Đối thoại
Nghề văn
Văn học với đời sống
VanVN.Net Giới Thiệu
Tác phẩm
Thơ
Truyện ngắn
Bút ký - Phóng sự
Tạp văn
Tiểu thuyết
Mỗi tuần một truyện ngắn, một chùm thơ
Nhà Văn Trẻ
Văn học nước ngoài
Tư Liệu Văn Học
Hội nhà văn
Cơ quan văn học
Hội viên
Di sản
Quán Văn Chương
Phiếm luận

Đọc nhiều nhất

Về cuốn hồi ký gây xôn xao trên mạng của một giáo sư

Cái tát của Lê Công Định

Sẽ còn những ai đứng đằng sau ông Huỳnh Ngọc Sĩ ?

Dư luận không giống như "Chú Thỏ" trong truyện "Cáo và Thỏ" thưa ông Đoàn Văn Kiển...

Hãy bình tĩnh, đừng quá riết róng theo kiểu “Giậu đổ bìm leo”

"Cái hèn" của người cầm bút

Ma đưa lối quỷ đưa đường hay bần cùng sinh đạo tặc... ( Về những vụ trộm cắp của người Việt bị phát hiện gần đây tại Nhật Bản)

Ăn ốc nói mò của một số người cầm bút


CÔNG TY LÂM NGHIỆP TAM SƠN

Xã Kiệt Sơn, huyện Tam Sơn tỉnh Phú Thọ; điện thoại: 0210 3745 002   Fax : 0210 3745 003   -   Email : - tamsontanson@yahoo.com
Đại diện tại Hà Nội: Phòng 330 Nhà K1 Khu Đô thị Việt Hưng, Long Biên Hà Nội điện thoại:  04 3652 4558 – Email: truongnd@gmail.com

  Công ty Lâm nghiệp Tam Sơn (thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam) quản lý và sử dụng 10.903,1 ha thuộc địa bàn 10 Xã của Huyện Tân Sơn. Có điều kiện tự nhiên và khí hậu đặc trưng của vùng miền núi trung du phía bắc rất thuận lợi cho phát triển sản xuất lâm nghiệp.  
  Ngành nghề sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty là: Trồng rừng NLG, khai thác, thu mua, vận tải cung ứng gỗ NLG cho Tổng công ty Giấy Việt Nam ; sản xuất kinh doanh giống cây NLG, chè búp tươi; thu mua, chế biến và tiêu thụ các loại lâm sản NLG; sản xuất, chế biến Nấm Dược phẩm (Linh Chi) và cung cấp Nấm thực phẩm sạch cho thị trường Thành Phố Hà Nội, Tỉnh Phú Thọ, các tỉnh lân cận. Sản xuất, xuất khẩu và cung ứng nội địa hàng trăm triệu đôi đũa tre mỗi năm.
  Các sản phẩm Nấm sạch của Công ty sản xuất ra luôn đảm bảo chất lượng, hàm lượng các chất dinh dưỡng, đã chinh phục được các bà nội trợ khó tính. Trở thành một phần không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người dân Việt Nam.
  Công ty đã mở một số Đại lý, cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm  trên địa bàn các Tỉnh phía bắc
  Khách hàng có nhu cầu mua số lượng lớn hoặc mở Đại lý bán sẩn phẩm . Xin vui lòng liên hệ với Công ty .

Giám đốc     
Nguyễn Đức Sơn


 
Home / VanVN.Net Giới Thiệu
Phạm Công Trứ với sự chết thôi với làng quê
( 1/18/2010 11:44:32 AM )
Phạm Công Trứ hồi trẻ học Nguyễn Bính không giấu diếm: “Về quê ăn tết vừa rồi/ Em tôi áo chẽn em tôi quần bò.” Nếu xuất hiện cũng vào thời thị trường lần thứ nhất, Phạm có nguy cơ thừa; nhưng vào nửa thế kỷ sau, cái sự vừa gian díu vừa hờn dỗi với thị thành của hồn thơ Nguyễn Bính được ông tái khẳng định để trở nên muôn thuở tuy mỗi thời nó “mặc áo" khác nhau. Thế rồi Phạm trỗi vượt để thoát khỏi cái bóng đổ của quá khứ, thơ ông đắm đuối hơn với thôn dã và giễu cợt nhiều khi đến ngoa ngoắt với thị thành (Tễu). Phạm làm chứng rằng, hoá ra Nguyễn Bính chỉ hoài cổ nhưng không thoát nổi chiến lược chinh phục của thành thị, ông viết: Phố phường ngoảnh mặt thơ tôi/ Tôi mà chết sớm ai nuôi trăng vàng. Nuôi? Vậy ra trăng – chị Hằng và cái đẹp được nuôi dưỡng bằng tình yêu. Và nuôi cả cỏ may nữa, bông hoa đặc trưng của những bờ đê đã thành tên cả ba tập thơ ông (Cỏ may Thi tập I, II, III). Khi thì buồn bã: Trăng vàng hôm ấy bờ đê/ Có người ngồi gỡ lời thê cỏ may. Nhưng lại khi bất khuất với những giẫm đạp thói đời: Hội tan Thần - Phật về trời/ Cỏ may dập nát gượng ngồi dần lên. Phạm chết thôi với quê hơn, không chỉ hồn như Nguyễn: Nhà quê khí huyết tràn trề/ Tớ đi rung cả vỉa hè Đồng Xuân. Tưởng cũng cần thêm rằng, càng luống tuổi, Phạm Công Trứ càng phát hiện nhiều hơn vùng cảm thức dân gian tưởng đã bị quần nát mà vơi cạn: Tôi tin cái mây mẩy/ Của mùa xuân cũng hồng.
 


Làng


Đồng quê tràn ngập lúa khoai

Ngô đỗ bạt ngàn bờ bãi

Dọc ngang đỗi Nhất, đỗi Nhì

Cao thấp tùng Trên, tùng Dưới

Sông quê nước chảy rầm rì

Mặt sông sẫm màu nước vối

Gái quê đi làm đồng về

Kéo nhau ra sông tắm tối

Sớm ra vạn chài hành nghề

Rộn rịp vãi chài tung lưới

Đôi cánh buồm nâu ven đê

Mất hút vào miền chưa tới

Vài rặng núi xanh mờ xa

Thôi thúc một lời mời gọi

Đường quê lắm cát dễ đi

Thoang thoảng hoa xoan, hoa bưởi

Ngõ quê tre trúc rậm rì

Lập lòe hoa dong, hoa chuối

Lách chách chim sâu, chim ri

Thập thò quả dâu, quả ruối

Láo lơ rắn ráo, thằn lằn

Chung chiêng tổ kiến, tổ mối

Trai quê tán gái về khuya

Trêu nhau chạy như ma đuổi

Tỏ tình trước mặt người yêu

Thẹn thò như là thú tội

Người quê chân lấm tay bùn

Suốt ngày trên đồng cắm cúi

Chăm lúa như chăm con thơ

Rảnh rang đôi ngày lễ hội

Trai làng rước kiệu, múa cờ

Gái làng hát đúm, hát đối

Tháng năm vào vụ gặt chiêm

Dân làng ăn tết cơm mới

Trước là tạ ơn đất trời

Sau để cầu cho vụ tới

Tháng bảy lắc thắc mưa ngâu

Lễ gọi “vong nhân xá tội"

“Trần sao âm vậy bảo nhau

Quỷ ma cũng không để đói

Tạnh mưa vừa độ trăng tròn

Trung thu lòng người thơ thới

Trẻ con đánh trống rước đèn

Chia nhau miếng bánh, múi bưởi

Người lớn tam cúc, tổ tôm

Phát bài chiếu trên, chiếu dưới

Tháng chín bước sang tháng mười

Cốm mới thơm mùi mời gọi

Rải đồng chim ngói từng đàn

Thôn xóm bước vào mùa cưới

Cô dâu nửa khóc nửa cười

Chú rể mong trời chóng tối

Lúa chiêm cấy hái xong xuôi

Tết Ta cũng vừa kịp tới

Nhà nhà gói bánh, đồ xôi

Giồng nêu, quét lại tường mới

Sân đình náo nức cờ người

Ao làng om thòm diễn rối

Thôn nữ váy ngắn nhún đu

Các cụ ngước nhìn không nói

Tháng giêng là tháng ăn chơi

Lũ lượt dân quê trẩy hội

Gần thì Cổ Lễ, Phủ Giầy

Xa tận Hương Sơn, Hà Nội...

Cảnh quê nghìn đời tiếp nối

Trâu bò gặm cỏ triền đê

Lông mượt vo ve ruồi muỗi

Nối đuôi từng đàn chiều về

Thậm thịch chìm vào ngõ tối

Mục đồng tóc gió vàng hoe

Sáo trúc lưng trâu nhẹ thổi

Bập bùng ánh lửa bên hè

Mùi cơm quyện vào mùi khói

Lấp ló trên đầu ngọn tre

Trăng non cong hình lưỡi hái

Dưới trăng trai gái nguyện thề

Thầm thì bãi dâu, ruộng cói

Vi vu suốt cả đêm quê

Sáo diều rót vào tận cửa

Làm tắt những tiếng ve ve

Xua tan một ngày nắng lửa

Đuổi nhau đom đóm nhập nhoè

Ôm nhau ếch nhái sấp ngửa

Cót két gió vặn thân tre

Tưởng tiếng dân nghèo than thở

Lấp loáng cánh dơi đi về

Mèo hoang từng hồi nức nở

Lửa chài thấp thoáng ven đê

Bờ bụi nhọc nhằn tiếng cú

Kẽo kẹt bên sông vó bè

Ma trơi trên cồn nhảy múa

Say rượu giọng ai lè nhè

Vu vơ đôi tiếng chó sủa

Đều đều mẹ kể con nghe

Cái thời ngày xưa ngày xửa

Bến sông trăng ném thia lia

Thôn xóm chìm vào giấc ngủ

Ngoài ngõ sương giăng đầm đìa

Trong nhà tiếng người nói mớ

Mảnh mai tiếng hạc về khuya

Chém màn đêm thành hai nửa

Thoạt tưởng tinh cầu đang rơi

Sau ngỡ bình vàng chợt vỡ...

Lời thề cỏ may                           
      Thuở ấy tôi mới lên m­ười
Còn em lên bảy theo tôi cả ngày
      Quần em dệt kín bông may
Ao tôi cúc đứt mực dây tím bầm
      Tuổi thơ chân đất, đầu trần
Từ trong lấm lám em thầm lớn lên     
      Bây giờ xinh đẹp là em
Em ra thành phố dần quên một thời
      Về quê ăn Tết, vừa rồi
Em tôi áo chẽn, em tôi quần bò
      Gặp tôi em hỏi hững hờ:
"- Anh ch­ưa lấy vợ, còn chờ đợi ai?"
      Em đi để lại chuỗi c­ười
Trong tôi vỡ một khoảng trời pha lê
                                *
      Trăng vàng đêm ấy bờ đê
Có ng­ười ngồi gỡ lời thề cỏ may.
     
1986


I.                             
     Cởi trần đóng khố múa chơi
Hát rằng, giữa đất và trời có ta
     Đất là mẹ, trời là cha
Chính danh gọi Tễu, tự là Thảo Dân
     Gia tài độc một chữ "cần"
Trọng thực thường lấy chữ "ăn" làm đầu
     Bạn thì những chó cùng trâu
Những bí cùng bầu, những lúa cùng ngô
     Người ta bầu rượu, túi thơ
Mình thì khuya sớm bụi bờ đó đăng
     Vui cùng con diếc, con măng
Buồn thì gõ bát hát nhăng giải sầu
     Ra trận đành phận tốt đầu
Về làng thì lại cưỡi trâu ra đồng
     Ai nhanh hoá hổ, hoá rồng
Ta tuy trâu chậm nhưng không sá gì
     Kéo cày đã cực chai lì
Khi giương sừng nhọn hổ thì ngán ta
    Đã cười, cứ phải ha! ha!
Đã hát, cứ phải í a... tình rằng
     Đã ngắm, cứ phải Thị Hằng
Đã uống, cứ phải tính bằng hũ, ang
     Giáo trò nhân lúc xuân sang
Tễu tôi xin được trình làng đôi câu
II.
     Độc một mảnh khố che thân
Giấc mơ xuất ngoại đâu phần Tễu tôi
     Ai ngờ dân giã lên ngôi
Thế rồi Tễu cũng đư­ợc ngồi máy bay
     Ngất ng­ư trên chín tầng mây
Giật mình nhòm xuống nhà Tây chọc trời
     Lung linh mặt n­ước xứ ng­ười
Diễn ra đủ cả khóc cư­ời xứ ta:
     Mình voi lẫm liệt tư­ớng bà
Rồng thiêng phun lửa, rùa già đớp g­ươm
     Nào là đánh dậm, úp nơm
Cày bừa, tát nư­ớc, nhào rơm, cất nhà
     Nào là đám cư­ới, đám ma
Hát chèo, đấu vật, chọi gà, đánh đu...
     Miền "gà trống", xứ "s­ương mù"
Ngữ ngôn dẫu khác, gật gù giống nhau  
     Thì ra Tây cũng như­ Tàu
Cũng thèm của lạ, cũng giàu hồn nhiên
     Thì ra lắm của, nhiều tiền
Cũng cười cùng Tễu cho quên sự đời
     Cũ ta lại hoá mới người
Hồn quê “rối n­ước” một thời, kém ai!
     Thực là có một, không hai
Tễu tôi xuất ngoại chuyện dài... hơn sông
III.
     Dưới khố, trên áo gi-lê
Đầu mang mũ phớt Tễu đi xứ người
     Âu-Tây gô-tích chọc trời
Âm dương ngói úp nghìn đời Á-Đông
     Chán chê xúc-xích, dăm-bông
Màn-thầu, sủi-cảo cũng không lạ gì
     Nơi nâng bát, chỗ cụng ly
Trả lời phỏng vấn rồi thì ôm hôn
      Người rằng: “rối nước hớp hồn
Đã câu “giã bạn” liệu còn gặp nhau?”
     Tễu rằng: “chắc cũng chẳng lâu!”
Chắp tay đáp lễ, nghiêng đầu gút-bai!
      Người tung mũ, kẻ vẫy tay
Ngất ngư lại chín tầng mây trở về
     Bỏ mũ phớt, cởi ghi-lê
Phất phơ giải khố ao quê thật mình
     Này nước tre trúc lung linh
Này mây lồng bóng thuỷ đình gần xa
     Này người dân giã quê ta
Cắc tùng nhịp trống, ối a điệu chèo
     Trò xưa, tích cũ trong veo
“Trình-diễn”, “xếp-đặt” ăn theo ngập ngừng
     Ngàn năm vận hội phục hưng
Tễu mang hồn Việt sánh cùng thế gian.
 
Đêm cổ tích
      "Tự thời ngày xửa ngày xư­a
       Tự thời trái đất còn ch­ưa có ng­ười..."
     Bao cựu cổ tích cũ rồi
Thì tân cổ tích ra đời ở đây
     Triền đê phơ phất bông may
Nguyệt liềm tháng chín tròn đầy từng đêm
     Chàng thì chợt "nhớ" chợt "quên"
Nàng thì chốc chốc "bắt đền" khổ không!
     Khuya rồi sao rụng đầy sông
Bầu trời thấp xuống, cánh đồng dâng lên
     Dế giun bất chợt lặng im
Cỏ may đ­ược dịp xâu kim vào ng­ười
      Với ai cổ tích lỗi thời
Với nàng cổ tích tuyệt vời là... đêm


Quỳnh hoa

     Chờ cho dương thế lịm say
Gác Quan - Hoa mới thoảng bay hương quỳnh
     Cõi quỳnh trắng, mộng quỳnh trinh
Chỉ vành trăng khuyết nghiêng mình tiễn hoa!

Lời thề đẻ rơi
     Trăng vàng con của đồng quê
Thơ tôi con của lời thề đẻ rơi
     Phố phường ngoảnh mặt thơ tôi
Tôi mà chết sớm ai nuôi trăng vàng?

Đố
     Lá xanh nước khoả dập dờn
Búp trắng mẩy tròn hé lộ từng đôi
     Chuồn đỏ điểm chấm ớt t­ươi
Đố ai biết đư­ợc là ngư­ời hay sen?

Nhại
     Lưng ong, yếm giải, nón mê
Hiện đại “nhại” dáng chân quê thuở nào
     Vai trần đẩy tóc lên cao
Váy nơm để gió cúi chào đùi non.
 

Thu cảm (I)
      Mướp tàn, sen cũng đi tu
Lá tre đã thả một mùa heo may
     Con sông không ốm mà gầy
Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn.

Thu cảm (II)
     Gió về tóc chảy thành sông
Mắt gợn thành sóng mênh mông bến Thiền
     Mày trăng cong một dáng thuyền
Chở hồn thu quạnh qua miền sen khô.
 
Chiều  
Chiều loang mái phố, chiều chầm chậm
Nắng tựa vai gầy, nắng nhấp nhô
Người như nước chảy vào thành phố
Ta nắm tay mình ngược ngoại ô.

Thuỷ mạc
     Tuyết phơi trắng rợn chân trời
Trên cành cây cụt quạ ngồi rỉa lông
     Con tàu trôi với mênh mông
Thấy tuyết, thấy quạ, mà không thấy...người.
Kiev - Matxcơva, 1992.

Hội tan
     Hội tan Thần - Phật về trời
Cỏ may dập nát gượng ngồi dần lên
     Chân nhang que đứng, que xiên
Gió lăn xác lá quét trên sân chùa.

Không đề
     Thơ tàn, rượu giốc ngược chai
Run run lệ nến chảy dài chiếu hoa
     Đùi mình đã sẵn đầu ta
Lặng câm xương cá, khóc oà vỏ chai!

Đính chính
   
Lịch sử, dù muộn màng, cũng đã đính chính cho ông
Bất kể có đại sử thần xem ông là “chó lợn”
Ông họ Trần chính danh là Thủ Độ
Chuyển đổi một vương triều chỉ bằng một chậu nước rửa tay.

Nói gì
16% dân số suy dinh dưỡng
15% dân số khác béo phì
(Thống kê của “Hu” về Việt Nam năm 2007)
Những con số trên nói gì?
 

Kiếp hoa
    Bao người đã thức đợi quỳnh
Bao lời châu ngọc để rình tặng hoa
     Những là đài các, kiêu sa
Những là thánh thiện, cùng là trắng trinh...
     Còn quỳnh thì chỉ lặng thinh
Nở cho tàn kiếp, rũ mình mà đi!

Xuân
Nếu mùa xuân có môi
Tôi tin môi xuân đỏ
Nếu mùa xuân có má
Tôi tin má xuân hồng
Nếu mùa xuân có mông
Tôi tin mông xuân đẫy
Tôi tin cái mây mẩy
Của mùa xuân cũng hồng
Xuân có tin tôi không?

Đủ

Chân trần cỏ xanh
Em là tiên nữ
Vào bếp cơm canh
Em là thục nữ
Lên chùa chắp tay
Em là tín nữ
Lên gi­ường tắt đèn
Em thành... quỷ dữ
Chỉ một em thôi
Đã là quá đủ!
11 - 2005


Khoả

Thoạt đầu khoả tay
Nuột nà tay trắng
Rồi thì khoả chân
Ngọc ngà chân thẳng
Rồi thì khoả ngực
Mởn mơ ngực hồng
Rồi thì khoả hông
Hông đầy ngồn ngộn
Bây giờ khoả rốn
Rốn tròn bây by
Rồi nữa khoả gì?
Gặp em hỏi nhỏ
Em cười quay đi!
7 - 2000

Huyền thoại mưa
   
      - Tự thời ngày xửa ngày xưa
Tự thời trái đất còn chưa có người
     Thì sấm sét đã có rồi
Động phòng giữa đất và trời, đó em
     Sau mưa cây cối mọc lên
Lâu dần ếch nhái biến thiên thành... người
     - Anh này chỉ giỏi bịa thôi
Em cười mắt nhắm e trời lại mưa!

Tổ ấm

Tổ ấm không chịu được lạnh
Lạnh quá tình yêu sẽ “đông”
Tổ ấm không chịu được nóng
Nóng quá tình yêu sẽ “ung”
Như chim, chúng mình tha rác
Tính xây một cái tổ chung
Thua chim, bởi là thợ vụng
Tổ ấm hoá… tổ bùng nhùng!
2 - 2008

Buồn (II)

Nỗi buồn của cái tốt
Là nhiều kẻ muốn nhận
Nỗi buồn của cái đẹp
Là nhiều kẻ muốn chiếm
Nỗi buồn của cái ngon
Là nhiều kẻ muốn chén
Nỗi buồn của cái ngai
Là nhiều kẻ muốn tiếm
Nói nhiều, làm mấy ai
Nỗi buồn của cái thiện
Nỗi buồn của nỗi buồn
Là chẳng ai thấy thẹn!


Hoa và bình

Chiếc bình gốm trên bàn
Đã biết bao hoa cắm
Mùa xuân là đào phai
Mùa hạ là sen thắm
Mùa thu là cúc vàng
Mùa đông là huệ trắng...
 
Bao đời hoa tàn rơi
Bình vẫn nguyên dáng cũ
Em thích là hoa tươi?
Hay thích là bình cổ?


Nhặt ở bờ rào

Có một chú chuồn ớt
*
     "Chuồn chuồn có cánh thì bay..."
Tiếng cười khúc khích lung lay bờ rào
Cánh chuồn lặn xuống đáy ao
Quả chuông tím phía bờ rào còn run...
1987

Ngày xưa

Ngày xưa
Kéo cưa lừa xẻ
Chẳng hám cơm Vua
Chỉ mong được thua
Về bú tí mẹ (!)
Ngày xưa
Mặc quần thủng đít
Chi chi chành chành
Quả khế quả chanh
Gốc ổi gốc mít
Ríu ra ríu rít
Ngày xưa
Đung đưa hoa bìm
Lim dim hoa khế
Sao mẹ đi chợ lâu thế?
Ngày xưa
Đi trốn
Đi tìm
Đống rơm, đống rạ
Góc bếp, cánh cửa
He hé mắt nhìn
"ù oà", "ù ập"
Thế là ú tim!
Ngày xưa rất bướm
Ngày xưa rất hoa
Nào thuyền gấp giấy
Nào trâu lá đa
Ngày xưa rất bạn
Ngày xưa rất ta
Lăn tăn cỏ chỉ
Rung rung cỏ gà
Ngày xưa rất sâu
Ngày xưa rất xa
Quanh quanh bể nước
Men men thềm nhà
     Rón rén là rón rén ơi
Chú chuồn ớt mới đậu rồi, tóm ngay
     Rón rén là rón rén này
Nàng bướm trắng lại vút bay mất rồi!


Nhờ em

Nhờ em mà tôi được thấy
Tháng tư trời xanh miên man
Cành me con ve thử giọng
Đêm đêm đom đóm chong đèn
Nhờ em mà tôi được biết
Có một loài hoa chụp đèn
Có một bàn tay con gái
Vườn đêm lật giở từng trang
Tháng tư em nghe sấm động
Nôn nao cơn mưa bay về
Để tôi nhìn qua hư ảo
Nàng Bân e thẹn ra đi
Mùa xuân ứ nhựa một đầu
Đầu kia bập bùng lửa hạ
Tháng tư em nối nhịp cầu
Tôi nghe vừa quen vừa lạ
Tháng mười em nghe lá đổ
Mơ hồ trong bước chân người
Sấu chín rụng đầy mái phố
Chợ chiều bông cúc vàng tươi
Lẽ nào tôi không cảm được
Tháng mười dòng sông mòn hao
Khoảng cách đôi bờ gần lại
Chỉ vì đôi bờ thương nhau
Trên những cánh chim mải miết
Mùa thu đi về phương Nam
Để lại vài ba tiếng hót
Chìm trong sương khói mơ màng
Lẽ nào tôi lại đi hỏi
Đêm đêm đám cỏ may nào
Môi tím trăng non run rẩy?
Chiều chiều khung cửa sổ nào
Em buông rơi tờ lịch ấy?
Mỏng manh chỉ là tờ giấy
Với em cũng có cuộc đời
Mỗi ngày một tờ như vậy
Đong đâỳ ký ức đời tôi!
 


Nghịch lý em

Gần thì lạnh nhạt
Xa rồi nhớ nhau
Bao nhiêu là chuyện
Không đuôi, không đầu
Em tô môi đỏ
Em kẻ mi đen
Mới đầu thấy lạ
Lâu dần thấy quen
Em ốp đầu Nhật
Em đánh móng Tây
Mới đầu thấy chướng
Lâu dần thấy hay
Em lên áo chẽn
Em diện quần bò
Mới đầu thấy thích
Lâu dần thấy lo...
                *
Trăng non đầu tháng
Lửng lơ cánh diều
Lòng chùng dây võng
Lẽ nào mình yêu?


Viết nữa hay thôi

         Chuyện như thể mới hôm nào
Người về, em gửi một hào hai xu
      Chỉ vì thư chậm, dường như
Trách tôi em gửi tem thư theo cùng...
                *   
      Bây giờ em đã có chồng
Con tem cũng đã trăm đồng, người ơi!
     Lòng buồn tôi tự hỏi tôi:
Có nên viết nữa hay thôi, thơ tình?
1984


Ví von
                       I.
     Nắng như anh - nắng trưa hè
Càng tươi lửa phượng, tiếng ve càng nồng
     Nắng như em - nắng chiều đông
Cả ba tháng nắng mà không ấm gì.
                       II.                               
      Mưa như anh - cơn mưa rào
Đùng đùng sấm chớp ào ào rồi thôi
     Mưa như em - trận mưa rươi
Mưa qua tháng chín, tháng mười còn mưa...
 

Gửi A. Vôznhexenxki - RAYMON PAUL - ALLA PUGACHOVA

Anh thân yêu!
Em chẳng cầu anh như­ tay hoạ sĩ si tình trong bài hát ấy
chỉ vì một nụ c­ười
đã bán cả tranh, cả nhà để có một triệu triệu bông hồng nh­­ư vậy
Với thời gian
triệu triệu bông hồng kia rồi héo quắt
nụ c­­ười ng­­ười đẹp rồi cũng tắt
ngư­­ời tặng hoa rồi cũng mất
thi sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ rồi cũng khuất
cả ngư­­ời nghe một thời cũng trở về với đất
Có chăng?
chỉ huyền thoại về triệu triệu bông hoa tình yêu là còn... "mãi mãi xanh t­­ươi"
Một bông
với em chỉ một bông thôi
một bông óng ánh như­­ K. Pautôpxki đã từng ao ư­­ớc
Anh thân yêu!
Sao anh bỗng chết lặng ng­­ười?
3 - 2005


Siêu
    Vẽ tranh, nặn tư­­ợng mãn rồi
Sắp đặt, trình diễn để đời khác đi
     Sắp đặt hàm súc, tế vi
Bên Tây còn lạ nói gì xứ ta
     Trình diễn quảng bác, đại trà
Thính phòng chật chội thì ra ngoài trời
     Chất liệu dung dị nh­ư đời
Lập trình ý tưởng lại thời cực siêu
     Siêu là “sắp” ít, “đặt” nhiều
Nhìn hòn thấy núi, chỉ diều thấy trăng
     Siêu là “trình” giáng, “diễn” thăng
Ngữ ngôn bất lực nói bằng lặng im
     Siêu là lạ hoá thông tin
No nê bằng mắt phải nhìn bằng tai
     Siêu là kết hợp Đông - Tây
Trên nền giấy dó múa tay sơn dầu  
     Siêu là trộn lẫn Ta - Tàu
Não bạt xủng xoẻng, đàn bầu tỉ ti
     Trừu tư­ợng, bí hiểm, xếch-xi
Bão hoà cảm giác vậy thì.... cực siêu!
10 - 2006


Nỗi oan Mầu Thị

     Yếm thắm đôi giải đong đ­ưa
Váy đen lơ lửng như­­ vừa tắm xong
     Chỉnh trang môi đỏ, má hồng
Thị Mầu con gái Phú ông lên chùa
     Với ai chùa chốn tĩnh tu
Với Mầu là chỗ của chua đi rình
     Với ai chữ “hiếu”, chữ “trinh”
Với Mầu chỉ một chữ “tình” mà thôi
     “Thầy tiểu ấy, thầy tiểu ơi
Ng­ười đâu thấy gái lạ đời trốn đi!
     Tụng kinh, gõ mõ đ­ược chi
Đào tiên nếm thử tiên thì thấy ngay
    Nâu sồng, yếm thắm gặp đây
Xin Bụt nhắm mắt để ngày hoá đêm…”
     Thất tình lửa đổ dầu thêm
Bí bài Mầu Thị bắt đền chú Nô
     Ai ngờ trời phạt bụng to
Lỡm đời Mẹ Đốp diễn trò mõ rao
     Phạt vạ, các cụ quyền cao
Bao nhiêu cáo buộc quy vào “chính chuyên” (?)
     Cửa thiền đâu một oan khiên
Đời th­ương Thị Kính đừng quên Thị Mầu
10 – 2006

Không cần Now

Chẳng cần sự bầu chọn của NOW ta đã độc bản rồi
Ta chính là tự nhiên khoả thân giữa đất trời
Đó Thăng Long nơi rồng lên ngạo nghễ
Đây Hạ Long nơi rồng xuống…. quẫy đuôi
Chỉ một cái quẫy đuôi hoá nghìn đảo to, vũng nhỏ
Cái như loài thú hoang, cái tựa bóng hình người
Này là vũng tượng hình iôny tỏ mờ sương khói
Này là đảo tạo dáng linga chĩa thẳng lên trời
Hỡi những nhiếp-ảnh-gia khom lưng lựa chiều bấm máy
Hỡi những tay ca-mê-ra đang khi tiến khi lùi
Ta là vĩnh hằng các ngươi chỉ là khoảnh khắc
Hạ long bay tạo hoá sắp bày, NOW chỉ đáng một cuộc chơi!
* NOW: Viết tắt tiếng Anh của một Tổ chức đề xướng bầu chọn 7 kỳ quan mới của thế giới
3 - 2008


Ca trù đầu xuân

     Đầu xuân đến với ca trù
Ngất ngư­ kẻ hát, gật gù ng­ười nghe
     Chiếu hoa khăn đóng, áo the
Hoà đồng cà-vạt, com-lê cùng ngồi
     Tom tom... chát đã điểm rồi
Tửng tư­ng... đàn đáy r­ước mời đào n­ương
     Mắt đen, môi đỏ, má h­ường
Cổ kiêu khăn vấn giải buông đuôi gà
     Nhịp nhàng tay gõ, miệng ca
Buồn vui từ thuở ông cha tìm về
     Lỡ làng nh­ư cụ Dương Khuê
Cụ chê Tuyết bé, Tuyết chê cụ già
     Nguyền thề th­ương bác Tản Đà
Non còn nhớ n­ước, n­ước mà quên non
     Tam-nguyên tay vuốt râu chòm
ậm ờ giả điếc cụ còn lắng tai
     Nghe Chu-tiến-sĩ trổ tài
Bầu Trời, cảnh Bụt hoạ bài Hư­ơng Sơn
     Đầu trần kìa cụ Tú X­ương
Từ ngày ô mất cụ d­ường khoẻ ra
     Nguyễn Công một gánh sơn hà
Dối già còn hỏi tình là chi chi?
     Tình từ Hà Nội tình đi
Tình qua Hồng Lĩnh, tình về Tầm Dư­ơng
     Tình trầm mình cửa Tiền Đư­ờng
Tình phục sinh ở văn ch­ương ca trù
     Giao hoan giữa nhạc và thơ
Giữa "tom" và "chát", giữa mơ và đời
    Tàn canh xuân rắc đầy trời
Khuya về lại nhớ cái ngư­ời ứ ­ư...
      Xuân sau còn hát ca trù?
3 - 2005


Thi Vân

    Ăn để sống, sống để đi
Ngoài chuyện viết lách còn gì nữa đâu
     Còn chăng thơ một đôi câu
Bạn đôi ba đứa bốc nhau "thiên tài"
     Còn chăng báo một vài bài
Thoại vài ba mẩu, mẹo vài ba chiêu
     Ước thì viết những Truyện Kiều
Mộng thì tơ tưởng ít nhiều Nô-ben
     Chơi thì toàn chốn Đào Nguyên
Gặp thì những "Lý Trích Tiên" giáng trần...
*
     Tuổi cao mộng lớn vỡ dần
Đặt chân đến đỉnh Thi Vân xế ngày
     Sân rêu chi chít dấu giày
Thông reo xám núi, mây bay trắng trời
     Hạc vàng đi hút mất rồi 
Lầu thơ quạnh quẽ một thời khói hương
     Tìm về chốn cũ đời thường
Trời đà sập tối đoạn trường ngút xa
     Lờ mờ dăm bóng hiện ra
Thất kinh chẳng rõ là ma hay người?!
7 - 2004


Thi sĩ cuối cùng của đồng quê Nga
Tặng L. T. M.

" Tôi thi sĩ còn sót lại của đồng quê..."
Ông bảo thế
Chúng tôi tin thế
Thời gian biến thiên
Nhịp đời dâu bể
Ông khói lò cao nuốt chửng những cánh đồng
Những cánh đồng kiều mạch chín rưng rưng
Lũ ếch nhái vật mình trong cỏ rối
Vú bò cái rung vang đêm tối
Hạt sương đêm thở dài
Thấm nỗi buồn muôn thuở của đất đai...
                                                *


Exênhin -
Gã phù thuỷ

Kẻ bắt miệng vầng trăng phải nhai cọng rạ
Cái cọng rạ gầy gò bé nhỏ
Ngân bài ca không lời
Giữa bê-tông-sắt-thép
Chỉ một người cảm được mà thôi
Exênhin -
Tên du thủ
Kẻ thèm đái vào mảnh trăng non nghiêng vào cửa sổ
Đứa con trăng ngái ngủ
Mơ giấc mơ lên đường
"Chào bạn! Xin chào bạn!..."
Trong dịu dàng rình rập những tai ương
Exênhin...
Exênhin...
Exênhin...                                               *
Ông,
       Thi sĩ cuối cùng của đồng quê Nga
Người tự hoạ chân dung:
Một đống cỏ tươi
Bên một chiếc liềm ngà.                          

Nhân một trăm năm ngày sinh Xécgây Exênhin (1895 - 1995)


Tớp xuống phía bờ rào
Có một thằng cu Tý
Rón rén phía đằng sau
Có một đôi bím tóc
Thấp thoáng bên kia rào
Lấp ló đôi mắt thỏ
Trưa cánh bìm thiu thiu...
[ Print this page ]In bài   Trang trước [ Top page ]Đầu trang


Gửi ý kiến
Họ tên
eMail
Điện thoại
Địa chỉ
Nội dung:
   
Các bài đã đăng:
   Đào nguyên(12/1/2010)
   Một phần đời tôi đã thuộc về Việt Nam (25/12/2009)
   Mai Ngọc Thanh và chùm thơ (24/12/2009)
   Chùm truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh(17/12/2009)
   Uống rượu với Nguyễn Khoa Điềm(4/12/2009)
   Trưởng thôn chính truyện (3/12/2009)
   Mạc Can và chùm truyện “Cuộc hành lễ buổi sáng”(29/11/2009)
   Chùm thơ “Thời kinh tế thị trường” của Đặng Ái (26/11/2009)
   Bên kia có mưa rơi(16/11/2009)
Sự kiện
10 nhân vật có ảnh hưởng nhất thập kỷ
Nhân vật
Tiếng nói đáng tin cậy nhất của nước Mỹ
Bình Luận
Trách nhiệm cao đẹp của người nghệ sĩ
Giới Thiệu Sách
Nhiệt đới buồn
Mùa xuân với “Lời ru ngọn cỏ”
Chiến lược nhân tài của Trung Quốc từ năm 1978 đến nay


 
 
HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM
Địa chỉ: 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội - Việt Nam
Điện thoại: (84-43) 9448134 * Fax: (84-43) 8263777
Email: vanvn.net@gmail.com / hoinhavanvietnam@gmail.com
Tổng biên tập: Hữu Thỉnh
Giấy phép số 77/GP-TTTT- Cục Quản lý Phát thanh-Truyền hình và Thông tin Điện tử- Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 26/8/2008.
Hội Nhà văn VN giữ bản quyền nội dung trên website này.
Xây dựng, phát triển: iDesign