NGÔ THẾ OANH
Họ và tên khai sinh: Ngô Thế Oanh. Sinh ngày 27 tháng 11 năm 1944. Quê quán: Sơn Ninh, Hương Sơn, Hà Tĩnh. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Hà Nội. Vào Hội năm 1976.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp (khoa Ngữ văn) về làm việc tại báo Tiền phong. Sau đó, tình nguyện đi chiến trường khu V, làm thơ, viết báo cho đến ngày giải phóng. Sau giải phóng miền Nam hoạt động văn nghệ tại miền Trung, công tác ở Nxb Sân Khấu. Hiện là Phó Tổng biên tập thường trực tạp chí Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam.
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Tình yêu nhận từ đất (thơ, in chung, 1977); Tâm hồn (thơ, 1995).
* GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng về thơ của Hội Liên hiệp văn học Nghệ thuật Việt Nam, 1995.
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi không nhớ là đã đọc ở đâu, có lẽ từ một nhà văn bậc thầy, rằng điều đòi hỏi trước hết và chủ yếu ở một người viết là sự lương thiện. Lương thiện trong cuộc đời, lương thiện trên trang viết và với riêng tôi, đằng sau hai tiếng lương thiện này còn hàm ẩn một nghĩa nữa: sự giản dị, sống giản dị, viết giản dị. Cùng với thời gian, tôi hiểu rằng đi theo được lời khuyên này thực không dễ dàng…
Tôi vẫn nghĩ rằng, văn học cũng như nghệ thuật giúp cho con người nhận thức thế giới và nhận thức bản thân. Nhưng là một sự nhận thức đặc biệt, thông qua cái đẹp, mỹ cảm. Cho nên người viết, khi đối diện với trang bản thảo, có lẽ bao giờ cũng có sự trân trọng. Và có thể nói, một chút gì như là sự thiêng liêng. Dĩ nhiên có những con đường khác nhau dẫn đến văn học. Và có những quan niệm khác nhau. Càng về sau, tôi càng hiểu rằng phải viết trước hết cho chính mình, những gì mình thực sự rung động. Những niềm vui cũng như nỗi đau Những hy vọng cũng như tuyệt vọng. Chỉ như thế mới mong được sự chia sẻ với thế giới xung quanh, với người đọc.
VŨ OANH
Họ và tên khai sinh: Vũ Oanh. Sinh ngày 20 tháng 6 năm 1945. Quê quán: Thôn Thiên Đồng, xã Kim Tân, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Chức vụ, đơn vị hiện đang công tác: Chủ nhiệm khoa ngoại, bệnh viện Giao thông Vận tải I Hà Nội. Hiện thường trú tại: Căn hộ 111, khu tập thể trường Trung học cảnh sát 1, Thanh Xuân, Hà Nội Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 2005.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: 10-1964 nhập ngũ, học và hoạt động trong ngành Y. 1987 chuyển ngành với quân hàm đại uý. Bắt đầu sáng tác từ 1995. Có thơ và truyện ngắn in từ 1996 trên các báo Người Hà Nội, Văn nghệ…
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Kẻ nhập môn muộn mằn (tập truyện ngắn, 2004); Nhân tài và ngọn lửa (tập truyện vừa, 2004); Bến không cùng (thơ, 1999); Tiếng dế (thơ, 2002).
* GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải A cuộc thi truyện ngắn về đề tài Tấm lòng người thầy thuốc. Hội Nhà văn Hà Nội và Sở Y tế Hà Nội tổ chức (1999-2000). Giải ba cuộc thi viết cho thanh niên, học sinh, sinh viên do Hội Nhà văn Việt Nam và Nhà xuất bản Giáo dục tổ chức (2003-2004). Giải ba cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2003-2004.
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Hư cấu tới mức không thể hơn được, để thể hiện ý nghĩa của đề tài và tư tưởng tác phẩm; dù đó chỉ là một truyện ngắn ngắn.
Dồn nén vốn sống, hiểu biết cho mỗi trang viết với chừng mực cần thiết. Cố gắng không có gì thừa; cả trong một tiểu thuyết dài.
Độc giả thấy truyện của chúng ta chân thực (như chuyện thật); đó là hạnh phúc của người cầm bút.
Mỗi nhà văn cần có một vùng đất riêng, để sống và canh tác. Tôi mới bắt đầu và sẽ còn viết về "Lãnh địa Y tế" với một tâm niệm trăn trở từ thuở đầu xanh. Hy vọng và tin tưởng các nhân vật sinh sau, cùng độc giả, có một cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
NGUYỄN NGỌC OÁNH
Bút danh khác: NGỌC OÁNH
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Ngọc Oánh. Sinh ngày 13 tháng 8 năm 1937. Quê quán: Quỳnh Bá, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Hiện thường trú tại: Hà Nội. Đảng viên Đảng CSVN. Vào Hội năm 1996.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Công tác trong ngành ngân hàng, từng đã đảm nhiệm các công việc: Vụ trưởng phát hành lưu thông tiền tệ, Giám đốc ngân hàng thành phố Hà Nội, Uỷ viên Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội, Phó Thống đốc, Uỷ viên Ban cán sự Đảng ngành Ngân hàng, Tổng thư ký hiệp hội Ngân hàng Việt Nam. Phó Giáo sư - Tiến sĩ kinh tế.
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Chân trời thương nhớ (thơ, 1989); Thức cùng sao (thơ, 1991); Lời của hạt (thơ, 1993); Hương ổi (thơ thiếu nhi, 1993); Bên này câu hát (thơ, 1996); Bên lở bên bồi (thơ, 2000); Ngày bốn mùa (thơ thiếu nhi, 2000); Chú bê đãng trí (thơ thiếu nhi, 2003).
* GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng cuộc thi Thơ tuổi hoa do Hội đồng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam, tạp chí Tuổi xanh và báo Hoa học trò tổ chức năm 1994. Giải thưởng văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam năm 1994 (tập thơ Hương ổi). Giải thưởng cuộc thi thơ năm 1995 của báo Văn nghệ. Giải thưởng cuộc thi thơ của tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1996 (bài thơ Cây cải về trời).
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: Tôi làm nghề Ngân hàng, một nghề đòi hỏi phải nhạy cảm, quyết đoán và giàu ước mơ... điều này gần với thơ. Hàng ngày sống với những con số, những tư duy chính xác, có bản lĩnh trong quản lý và kinh doanh, càng cần đến thơ... Thơ như của nhặt được, nhiều khi tự dưng mà có. Nàng thơ kiêu sa thường đến lúc nghỉ ngơi. Vì thế, dù bận đến đâu vẫn có thể chung sống với nàng, miễn là vẫn rung động vì nàng.
Việc công không láng cháng
Tản mạn chút mộng mơ
Bạc tiền như gió thoảng
Còn lại một túi thơ
Đối với tôi, Ngân hàng là nghề, Thơ là nghiệp.
NGUYỄN TRỌNG OÁNH
(1929-1993)
Bút danh khác: NGUYỄN THÀNH VÂN
Họ và tên khai sinh: Nguyễn Trọng Oánh. Sinh ngày 1 tháng 11 năm 1929, tại xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Đảng viên Đảng CSVN. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Mất ngày 24 tháng 12 năm 1993.
* VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HỌC TẬP, CÔNG TÁC, SÁNG TÁC: Xuất thân trong một gia đình nông dân, là học sinh trung học tham gia Cách mạng tháng Tám, hoạt động thanh niên ở địa phương, sau nhập ngũ vào Đại đoàn chủ lực 304, chiến đấu trên nhiều chiến trường phía Bắc. Từng là cán bộ tuyên huấn, tham gia làm báo trung đoàn và đại đoàn. Năm 1955: được điều về trại sáng tác viết truyện anh hùng của Tổng cục Chính trị. Năm 1957: là thành viên đầu tiên của ban biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội. Trong những ngày không quân Mỹ đánh phá miền Bắc ác liệt, công tác ở tuyến lửa khu 4, từng sống với các chiến sĩ cao pháo ở Cầu Cấm, Bến Thủy, sông Gianh và đảo Cồn Cỏ. 1967: vào nam chiến đấu, thoạt đầu vào Tây Nguyên, về sau vào B2 làm biên tập và Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân giải phóng. Khi thống nhất đất nước, trở ra Hà Nội tiếp tục công việc sáng tác. Đầu năm 1980: là Phó Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ quân đội. Năm 1984: đại tá, chuyên sáng tác.
* TÁC PHẨM CHÍNH ĐÃ XUẤT BẢN: Thơm hương bốn mùa (thơ, 1961); Ngày đẹp nhất (thơ, 1974); Lời người cầm súng (thơ, 1977); Nhật ký chiến dịch (ký sự, 1977); Đất trắng (tiểu thuyết, 2 tập, 1979-1984); Con tốt sang sông (tiểu thuyết, 1989)…
* GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC: Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1977. Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng năm 1984 bộ tiểu thuyết Đất trắng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I, năm 2001.
* SUY NGHĨ VỀ NGHỀ VĂN: … Nói về quá khứ một cách nghiêm túc và trung thực thì không sợ không có điều gì để nói với hôm nay…
(Trích lời phát biểu của nhà văn Nguyễn Trọng Oánh đăng trên tạp chí Văn nghệ quân đội số 4-1985).
|