Thi Sảnh là bút danh của nhà thơ Nguyễn Thanh Sỹ. Ông sinh năm 1941, quê ở huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Sau khi tốt nghiệp khoa Sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, năm 1965 ông ra Quảng Ninh công tác và sống ở Vùng mỏ từ đó đến nay.
Những tập thơ của ông đã xuất bản:
- Điều ước - NXB Hội Nhà văn -1983
- Cõi thiêng - NXB Hội Nhà văn – 2000
- Ngọn nguồn câu hát - NXB Hội Nhà văn – 2002
- Thức với dòng sông - NXB Hội Nhà văn - 2004
- Thơ Thi Sảnh (tuyển) - NXB Hội Nhà văn - 2005
- Đồng điệu - NXB Hội nhà văn – 2007
- Khi ta hát - NXB Hội Nhà văn - 2009
- Liên tưởng - NXB Văn học
- Đợi và tìm - NXB Văn học
- Hình bóng xưa - NXB Văn học
- Gương mặt bè bạn - Hội Văn Nghệ Quảng Ninh
- Bài thơ bên vách núi - Sở Văn hoá Thông tin Quảng Ninh
* 2 lần đoạt giải C - Giải Văn Nghệ Hạ Long cho 2 tập thơ Cõi thiêng và Điều ước
Thi Sảnh làm thơ từ những năm tháng còn học phổ thông. Quê ông ở bờ Nam sông Hiền Lương. Ngày ấy, dòng sông này chia cắt đất nước ta làm hai nửa. Ông đã xin cha mẹ cho vượt tuyến ra Bắc để tiếp tục được học tập. Lúc đó ông chưa đầy 13 tuổi. Nỗi xa nhà vất vả cộng với hoàn cảnh chiến tranh, hai miền Bắc Nam còn bị cắt chia đã đè nặng nỗi lòng cậu bé Thanh Sĩ. Nỗi nhớ cha mẹ quê hương, niềm căm thù giặc... đã khiến cậu lặng lẽ chép lại bằng những câu thơ trong sổ tay hay trên báo tường của lớp...
Sau khi tốt nghiệp đại học, ông về Bảo tàng Quảng Ninh công tác. Từ sự bền chí trong công tác nghiên cứu cộng với những xúc cảm thơ, những công trình lịch sử của ông và cả những tác phẩm thơ đã lần lượt ra đời. Rồi những năm ông làm Giám đốc Sở Văn hoá - Thông tin, bận nhiều công việc, ông vẫn làm thơ. Thơ ông vẫn thăm thẳm nỗi niềm, vẫn day dứt trước cuộc sống, mang đậm dấu ấn vùng than. Công việc nghiên cứu lịch sử cộng với công tác quản lý ở một Sở Văn hoá đã tạo cho ông có được nhiều bài thơ sâu sắc về lịch sử như: Cuộc trò chuyện cuối cùng giữa Trần Nhân Tông với các cung nữ dưới chân núi Yên Tử, Mặt trời trên Khuê Văn Các, Thì thào Yên Tử, Cõi thiêng, Tháp Chàm, Lời Nguyễn Trãi, Trước đình Trà Cổ, Nỗi đau Cốt Mìn...
Tiêu biểu cho loạt đề tài này phải kể tới bài Cuộc trò chuyện cuối cùng giữa Trần Nhân Tông với các cung nữ dưới chân núi Yên Tử. Ông đã dựng được một không gian thơ trong bối cảnh khó khăn nhất của việc một ông vua rũ áo bào đi tu. Bài thơ có lối viết giản dị bằng thể lục bát đằm thắm và da diết giữa lời thoại của Vua và các cung nữ: “- Để ta rũ bỏ bụi trần/ Thôi thôi cung nữ dừng chân nơi này/ Lui về thôn dã cấy cày/ Lấy chồng bù lại những ngày ở cung...''. ''-Chúng con có thể nào yên/ Để người lẻ bóng đêm đêm gió lùa/ Ai người nấu bát canh chua/ Nấu cơm nồi đất sớm trưa hầu Người... ''.
Thi Sảnh đã cho ra mắt 10 tập thơ với số lượng khoảng gần 600 bài. Thơ ông viết từ 1990 về trước lấy mạch cảm hứng ngợi ca, đó là nguồn cảm hứng của đông đảo nhà thơ giai đoạn này, vì vậy mà thơ ông ít có nét riêng. Đọc thơ ông, ta gặp nỗi nhớ nhung da diết về mẹ cha, bạn bè ở mảnh đất chôn nhau cắt rốn Quảng Trị và những đổi thay trong chiến đấu, sản xuất ở vùng đất ông công tác - vùng Than Quảng Ninh. Phần thơ ông viết sau 1990 có nhiều thay đổi trong tư duy, cấu tứ và cả nhạc điệu. Những nét cảm sâu thẳm trong tâm tư, những ranh giới mơ hồ của thật giả đã khiến ông trăn trở và viết thành thơ. Ở mạch thơ này phải kể đến các bài khá đặc sắc: Tuổi sáu mươi, Đang đi ngoảnh lại, Tự vấn, Tĩnh lặng, Mắt tôi sáng lại, Tuổi già, Hòn than tự sáng, Trên con đường ngược chiều... Ở đây nhiều trải nghiệm đã đi vào thơ. Đọc thơ ông, ta thấy cả những nỗi niềm và nhiều bài học quý của kiếp người:
Khi đến tuổi sáu mươi/ Dù chưa phải nấc thang cuối đời/ Ngẩng mặt trời xanh hun hút... (Tuổi sáu mươi). Hoặc: ''Không bão dông mà hơn cả bão dông/ Ánh lửa trên cây phụt tắt/ Không nhiệt kế nào đo được nhiệt độ xuống thấp/ Trong ruột cây già cô đơn! (Mùa đông khắc nghiệt).
Viết về thơ ông, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo nhận xét:
“Thơ Thi Sảnh không cầu kỳ kiểu cách, nó giản dị và chất phác với nhiều day trở chân thành như con người anh. Dù đi vào đề tài lớn hay nhỏ, dù viết về thế sự hay riêng tư thì cái con người cá nhân - công dân của thi sĩ vẫn luôn luôn hiện diện. Những ngôn ngữ đời thường, những câu chuyện mộc mạc, những ngẫm nghĩ suy tư, những gặp gỡ thoáng qua trong thơ Thi Sảnh đều đem lại cho người đọc những rung động chân thành...''. Ngót chục năm nay ông nghỉ hưu, sống tại Cao Thắng TP Hạ Long - Đôi chân ông đau, đi lại khó khăn. Ông vẫn làm thơ. Thơ ông ở giai đoạn này sâu sắc và gắn với cuộc đời hơn. Bây giờ ông nghiêm túc nhìn lại thành quả thơ mình, có lúc ông đọc đi đọc lại trên 600 bài thơ ông đã viết và được in. Ông thấy chỉ còn được khoảng vài mươi bài... Ông cho rằng, nếu vài mươi bài đó được người yêu thơ chấp nhận thì cũng quý lắm rồi. Thơ làm thì dễ nhưng làm được thơ cho thật sự là thơ lại khó thay! Đó là những cảm nhận của Thi Sảnh, cũng chính là cảm nhận của những ai đã dũng cảm coi thơ như là cái nghiệp của đời mình...
Hơn chục năm về trước, Thi Sảnh đã có đơn xin vào Hội Nhà văn Việt Nam. Với ông, một người cầm bút chân chính, không thể không khát khao được gia nhập Hội nhà văn, Hội của những người cùng một chí hướng là sáng tác văn học. Nhưng đã nhiều lần được biết Hội đã đưa trường hợp ông ra xét, nhưng vẫn rớt. Ông vẫn không nản, vẫn viết, và viết khoẻ hơn, hay hơn và vẫn hy vọng. Giờ đây, khi vừa vào tuổi70, ông thật sự vui mừng và hạnh phúc khi được kết nạp vào Hội.
______________
THƠ THI SẢNH
Nỗi niềm
Có khi thèm ở một mình
Trong căn phòng rộng lặng im như tờ
Không nhìn ngắm chẳng mộng mơ
Người như hoá đá trơ trơ giữa đời
Những khi ầm ĩ nói cười
Men say khói bốc mặt người ngả nghiêng
Những khi tiếng nhạc rung lên
Vòng tay mở bước chân chen chào mời
Nghẹt trong khói thuốc hơi người
Ta thèm có lúc thảnh thơi một mình
Giờ thì thừa thãi lặng im
Thừa ngày dài rộng một mình vào ra
Lại thèm nghe tiếng reo ca
Tiếng cười nắc nẻ như là bùa mê
Lại thèm được bước chân đi
Giữa dòng người tựa suối khe dâng trào
Lại thèm chung khói thuốc lào
Chung cốc rượu ngán hồng đào bùi thơm
Thèm ôm bạn ngủ ổ rơm
Thả phanh kể chuyện áo cơm vui buồn.
Đọc thơ Chế Lan Viên
Đánh giặc xong rồi
Thương nhà thơ vẫn hốt lá khô đun bếp(*)
Thế mà có kẻ cầm dao doạ giết(*)
Bởi ông là nhân chứng của sự bất công
hay vì một nhúm lá khô?
6-2003
(*) Xem toàn tập Chế Lan Viên, bài Hốt lá và bài Từ thế chí ca
Mặt trời trên Khuê Văn Các
Nắng bao đời vẫn là ngọn nắng ấy thôi
Sao trong suốt chiều nay mới lạ?
Chiếu từ đâu? Mặt trời sau kẽ lá
Hay từ vầng dương chói lọi Các Khuê Văn?
Mỗi bia đá một gương mặt văn nhân
Đến Văn Miếu ngực phập phồng trống dội
Mải miết với câu văn quên chõng lều mưa xối
Chẳng hay cô gái Thăng Long thắt dải lụa đào
Từ quán xá e ấp trông vào
Suốt ngàn năm dựng xây và đánh giặc
Trống Tràng Thi vẫn dõng dạc rung trên đất Thăng Long
Dù đất nước có thời loạn lạc gian truân
Có thời liên miên mất mùa đói kém
Những tiến sĩ vẫn nối tiếp ra đi từ Văn Miếu
Cưỡi ngựa cưỡi voi cầm bút cầm gươm
Rồi trở lại nơi đây trong ánh vầng dương
Của mặt trời tròn xoe Khuê Văn Các
Bóng lung linh soi mặt hồ nước bạc
Hương sen bay và cá quẫy vầng trăng
Tôi gọi thầm những tên tuổi văn nhân
Trạng nguyên năm Giáp Dần quê Kinh Bắc
Rong ruổi biên thuỳ bỏ mình nơi trận mạc
Trạng nguyên năm Đinh Hợi mộ dân lập ấp khai hoang
Trạng nguyên thời cuối Lê đi sứ mòn gót chân
Ném vào mặt quân thù lời nói như lưỡi dao nhọn sắc
Đất nước này có thời nào mà văn nhân vắng mặt?
Tôi bồi hồi đứng dưới gác Khuê Văn
Trong ánh vầng dương như hồn non nước.
1986
Bóng mình
Mỗi bước bước về phía trước
ta lại ngoảnh lại phía sau mình
để thấy
không chỉ là bóng mình
mà giữa bóng
ẩn hiện một con người
ẩn hiện một cuộc đời
dẫu không nhìn rõ mặt
nhưng không thể lẫn ai khác
khi ta thưa vắng bạn bè
chỉ bóng mình là chung thuỷ
ngày ngày nhất động nhất cử
đồng hành cùng ta
chia sẻ cùng ta
thầm thĩ những điều không nói cùng ai được
cho lòng nhẹ nhõm cạn vơi
giữa cuộc đời đâu biết giả thật
ta biết tựa vào ai
tựa vào bóng mình
lặng im
không biến dạng
không đổi hình
là thật nhất
là chắc nhất
dẫu có khi bước cao bước thấp
dẫu có khi lửa cháy lồng ngực
bóng vẫn là bóng
vẹn nguyên
bóng vững như bức tường
dẫu cuộc đời ngả nghiêng
có khi ta ngoảnh lại
đột ngột bóng tiêu tan
ta đối mặt với mặt trời chói loá
bóng vượt lên phía trước
dẫn bước
như là đi ngược
về phía trời trẻ trai
bỗng thương mình đã già
bỗng thấy mình khát sống
có khi ta ngoảnh lại
hoàng hôn ập xuống
trong nháy mắt
bóng nhập vào ta
ta không còn bóng
bỗng thấy mình chơi vơi.
Nhà thơ Nguyễn Châu (giới thiệu)