Từ đời vào văn

17/12
9:11 AM 2018

“CÙNG NHAU NHÂN TỪ”, THƠ KHÚC HỒNG THIỆN NXB VĂN HỌC 2018

Phạm Hồ Thu “CÙNG NHAU NHÂN TỪ” là tập thơ thứ hai của nhà thơ trẻ Khúc Hồng Thiện (hiện là phóng viên - biên tập viên báo Nhân Dân). Tập thơ trước CHÊNH CHAO TÍCH CHÈO của Khúc Hồng Thiện xuất bản năm 2010. Gần 10 năm mới cho ra một tập sách, phần nào nói được sự cẩn trọng trong việc ra sách của một cây bút trẻ được đào tạo từ Trường Viết văn Nguyễn Du (Đại học Văn hóa Hà Nội), đang hướng đến một cây bút chuyên nghiệp trong lĩnh vực văn học.

Và khi đọc CÙNG NHAU NHÂN TỪ, những người từng theo dõi những bước đi của cây bút trẻ này sẽ cảm thấy thật vui khi nhận ra rằng: với tập thơ thứ hai, Khúc Hồng Thiện đã khẳng định những bước tiến mới, chững chạc hơn, sâu sắc hơn. Sự chững chạc, sâu sắc ấy trước hết biểu hiện ở những rung động của một trái tim công dân biết vui buồn cùng những vui buồn của nhân dân, biết trăn trở với bao vấn đề của cuộc sống. Về thăm Đất Tổ vua Hùng, chỉ gặp một cơn “Mưa rửa đền” trong tích chuyện xưa, anh đã có bao nghĩ ngợi:

Áo tơi nón lá ngày xưa

Vua cùng dân, dân cùng vua cấy cày

Ấy là nhắc về một truyền thống “vua giỏi, tôi hiền” cùng nắm tay nhau dựng xây đất nước, để rồi ngay đấy chạnh lòng, áy náy về một thực tế nào đó “không giống ngày xưa” đang hoặc có thể đã xảy ra: “Mưa rửa đền, mưa tái tê/ Làng lên phố, phố thành quê nhập nhòa/ Nước non giờ ngớt can qua/ Giật mình, toàn chuyện trong nhà… mới lo!”. Và tiếp theo nỗi lo lắng ấy là một nguyện ước: “Xin trời một trận mưa to/ Xong rồi nắng, xong rồi mơ… rõ ràng/ Soi vào giọt nước lang thang/ Thấy cha ông thuở hồng hoang dõi về… (Bài thơ Mưa rửa đền).

Bài thơ mở đầu tập cho ta một cảm giác thật ấm áp. Ấm áp vì bài thơ nhắc người ta cần chống lại thói vô tâm, vô tình đang xuất hiện ở nhiều lúc, nhiều nơi trong cuộc sống hôm nay.

Chất nghĩ ngợi, suy tư xuất hiện trong rất nhiều bài thơ của Khúc Hồng Thiện. Những phân vân, áy náy, đau đớn của nhà thơ trẻ trước những vấn đề xã hội chưa hay, chưa tốt, chưa đẹp, đáng báo động đã lan tỏa sang bạn đọc bằng những câu thơ mộc mạc mà âm vang. Ví dụ với vấn đề thiên nhiên, môi trường nông thôn đang bị hủy hoại, anh viết:

Đê làng nào thấy bóng trâu

Đòng đong, cân cấn ao sâu có còn?

(À ơi câu hát)

…Bao đời sông lụa sông trăng

Ngư Ông thả lưới, chị Hằng soi gương

… Đời con rồi sẽ thế nào

Khi sông ngừng chảy, khi ao lấp rồi

(Dòng sông nào)

Đó là những nghĩ ngợi của một người cha trẻ trong lúc ru con. Nhà thơ lo lắng cho những thế hệ sau sẽ không còn được hưởng những hình ảnh đẹp của quê hương đậm sắc văn hóa lúa nước. Và cất lời lên án: “Những ai ăn mặn cánh đồng/ Có nghe sầm sập ngàn sông xối về” (Dòng sông nào). Câu thơ gợi ta nhớ về hình ảnh những trận lũ lụt kinh hoàng xảy ra gần đây, cuốn trôi bao làng mạc, nhà cửa. Nguyên nhân của những trận lũ lụt ác độc ấy một phần rất lớn do nạn phá rừng, do sự vô trách nhiệm của công tác quản lý, do con người…

Ở bài Lục bát đảo chìm, ta lại thấy một tâm hồn khoáng đạt trước biển trời Tổ quốc:

Mịt mùng bao cuộc bể dâu

Người xưa giong cánh buồm nâu quan hà

Mưa nguồn chớp bể đảo xa

Nghe trong gió lộng vẫn là tiếng quê

Và thăm thẳm một nỗi nhớ mẹ. Mẹ là biểu tượng của truyền thống nhân hậu: “Mẹ ta đầu đội nón mê/ Mà che mát cả bốn bề nước non/ Đồng quang mẹ dẫu chẳng còn/ Vẫn nguyên lời dặn cháu con nhân từ” (Bài Mẹ ta).

Những bài thơ trên ta thấy Khúc Hồng Thiện thường dùng lục bát - một thể thơ theo tôi là thế mạnh của Khúc Hồng Thiện (tập thơ đầu, anh viết hoàn toàn bằng thể thơ lục bát). Nhưng ở nhiều bài khác trong tập thơ này, ta đã thấy nhà thơ trẻ dùng nhiều thể loại khác, nhiều nhất là các bài thể tự do. Một số bài trong số này đang cố gắng diễn đạt những chuyển động của một tâm hồn nhạy cảm, nhiều suy tư đang hướng đến những vấn đề có tính chất triết luận của đời sống. Đó là các bài Kể đi, Ghi chú mới, Gác, Bài thô, Diễn đạt lại, v.v. Trong bài Diễn đạt lại, anh viết: Tôi thấy tôi tách khỏi vỏ mình/ Chu du khắp miền hư ảnh… / Nhớ và viết lại những gì nhìn thấy/ Viết lại cả những gì nghĩ thấy…/ Ta diễn đạt lại chính mình/ Để thấy tâm hồn vẫn còn những mùa linh… Ở bài Thô, anh viết: Ô hay/ Đâu phải cứ đồng dạng/ Cứ tròn trịa sạch sẽ không tì vết/ Là đẹp/ Thô có vẻ đẹp nguyên khởi…

Tôi thấy những con chữ của Khúc Hồng Thiện đã bắt đầu “cựa quậy” trong dòng thơ này, dù có thể chưa nhìn thấy thật thành công.

Giống như nhiều nhà thơ khác, tác giả dành khá nhiều trang trong tập viết về tình yêu, về con, về những số phận con người xung quanh. Ở chùm thơ tình, có nhiều đoạn thơ mượt mà, ấm áp, dịu dàng. Ví dụ: “Có một nhành mai trắng quất vào thơ/ Làm bừng thức bến mê/ Đỏ mặt những điều dạn dĩ…/ Cái đẹp hiếm hoi/ Cái thiện hiếm hoi/ Cái trong trẻo hiếm hoi/ Thơ ngây hiếm hoi/ Chắt chiu chết lặng… (Bài Một nhành mai trắng). Hay: Giữa xuôi ngược xô bồ lạnh toát sống lưng/ Anh đánh mất mùa thu từ kiếp trước…/ Em đến như sự cứu rỗi/ Em chêm vào anh mùa linh (Bài Mùa linh). Hay “Anh đã thấy một dòng Lam êm dịu/ Chảy giữa lòng thành phố, giữa lòng anh/ Khi cái nắng nơi này còn gay gắt/ Một làn em tắm mát cả thị thành… (Bài Duyên).

Ở chủ đề quen thuộc này, Khúc Hồng Thiện chưa có những bài thơ thật đặc sắc, nhưng từ đâu đó thỉnh thoảng xuất hiện, bật mở những câu thơ hay. Ví dụ:

Bao nhiêu nhan sắc hãy về

Làm xanh lại những nẻo đi phố phường

(Bài Nghe em hát giữa đại ngàn)

Hay : “Hoa vàng/ từ độ em đi/ Vẫn rơi/ theo lối/ anh về chênh chao” (Bài Hoàng Lan).

Rất mong được đọc của Khúc Hồng Thiện nhiều câu thơ như thế (khó thay!). Và điều cuối cùng tôi muốn nói: Đọc CÙNG NHAU NHÂN TỪ, ta nhận về một tình yêu ấm áp, sạch trong. Cái tên tập CÙNG NHAU NHÂN TỪ như một lời nguyện cầu trước Phật, gây ấn tượng…

                                                                                                                        Tháng 11-2018

                                                                                                     P.H.T

THƠ KHÚC HỒNG THIỆN

 

 

À ƠI, CÂU HÁT

 

À ơi, câu hát thuở nào

Bà ru bố ngủ lẫn vào giấc trưa

“Cái cò đi đón cơn mưa”

Dòng sông trong mát như vừa mới thôi

 

Thế mà thoắt đã xa xôi

Giờ băng cát-xét hát lời đâu đâu

Đê làng, nào thấy bóng trâu

Đòng đong, cân cấn, ao sâu có còn?

 

Bước chân nhỏ chạy lon ton

Muốn bung ra khỏi khoảnh tròn chung cư

Trong veo đôi mắt ngây thơ

Ngước lên san sát những bờ tường vôi

 

Nhớ thời bố ngủ trong nôi

Bà đưa võng nựng “nắm xôi thằng Bờm”

Chưa xa, bà ngủ ổ rơm

Cụ đưa võng kể thảo thơm cô Kiều...

 

Biết rằng mất những túp lều

Ấm no khấm khá là điều ước mong

Chỉ e, con hỏi... cánh đồng?

Trả lời có, trả lời không... thế nào!

 

 

LỤC BÁT ĐẢO CHÌM

 

 

Sóng thành thực sóng suy tư

gió chân thật gió mây vừa tượng trưng

cồn lên dăm ngọn cát lừng

vẽ trên ảo giác mấy từng san hô

 

Khơi xa vẳng giọng ai hò

thương nhành muống biển bao giờ cũng xanh

chiều dâng một bóng khuynh thành

đảo chìm trầm tích mãi dành muôn sau

 

Mịt mùng bao cuộc bể dâu

người xưa dong cánh buồm nâu quan hà

mưa nguồn, chớp bể, đảo xa

nghe trong gió lộng vẫn là tiếng quê.

 

 

 

 

DÒNG SÔNG NÀO

 

 

Bao đời sông lụa sông trăng

Ngư ông thả lưới, chị Hằng soi gương

Xuân trong vào từng giọt sương

Hạ thênh thang gội làn hương tóc thề

 

Thời cha dòng chẳng còn về

Nước đen kìn kịt màu quê tái dần

Lòng cha còn những phân vân

Tăng trưởng ư, đô-la cần thế sao?

 

Đời con rồi sẽ thế nào

Khi sông ngưng chảy khi ao lấp rồi

Bao nhiêu rừng trọc hóa đồi

Phù sa và những lở bồi cũng không

 

Những ai ăn mặn cánh đồng

Có nghe sầm sập ngàn sông xối về?

 

 

 

MẸ TA

 

 

Nén nhang xá tội vong nhân

khói bay quanh quất như gần như xa

mẹ thành tâm trước ông bà:

“ba lần lạy Phật-di-đà... nhé con?”

 

Mẹ tôi ít được đến trường làng

vì phải mò cua bắt ốc phải đội mũ rơm bông băng

thuốc đỏ

nhưng học được chữ nào là dành để dạy các con

mẹ thích đọc thơ,

thích ví von vận thành câu lục bát

thích bói Kiều mỗi lúc thấy băn khoăn

mẹ lặn lội với ruộng đồng mương máng

kiếm cái tôm cái tép - thân cò

không bao giờ quên lối về quê ngoại

chữ tảo tần chung thủy khắc ghi

 

Mẹ ta đầu đội nón mê

mà che mát cả bốn bề nước non

đồng quang mẹ dẫu chẳng còn

vẫn nguyên lời dặn cháu con nhân từ.

 

 

 

ĐƯỜNG

 

 

Đường đất quẩn chân rơm

lõm vệt xe thồ chở lúa

lõm vết chân tần tảo tan chợ mẹ về

lõm vết chân hấp tấp ngày chị lấy chồng

lõm vết chân em ngơ ngác

 

Đường lát gạch nghiêng hương đất nung

mưa hối hả rêu trơn ngày vào đám

mưa bối rối lời yêu chưa ngỏ

mưa ngổn ngang giông gió đường đời

 

Những con đường rêu phong

những con đường đang tươi

cứ vật vã sống đời tiền kiếp.

 

 

 

DIỄN ĐẠT LẠI

 

 

Tôi thấy tôi tách khỏi vỏ mình

chu du khắp miền hư ảnh

tự do

chẳng còn giới hạn

cứ bay

minh thích thì làm thôi

để đây và không nói gì nữa

giấc mơ chu du

chu du giấc mơ

 

Nhớ và viết lại những gi nhìn thấy

viết lại cả những gi nghĩ thấy

kể lại những gì không thấy

lạ lắm

đâu phải cái gì cũng lý giải bằng

thực nghiệm

ta diễn đạt lại chính mình

để thấy tâm hồn vẫn còn những mùa linh.

 

 

 

BÀI THÔ

 

 

Có những khái niệm cứ thế

tạo chỗ đứng bằng cách

quăng tất vào một rọ

ở đây hoặc phải làm lại hoặc phải gọt giũa chỉ nh sửa

cắt cúp

ra khỏi hộp này

mới được coi như hoàn hảo như đẹp

ô hay

đâu phải cứ đồng dạng

cứ tròn trịa sạch sẽ không tỳ vết

là đẹp

thô có vẻ đẹp nguyên khởi.

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *