Thời sự văn học nghệ thuật

14/5
5:08 PM 2020

KIẾN TẠO THỂ LOẠI ĐỂ PHỤC DỰNG LỊCH SỬ TRONG BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75

Đỗ Thị Thu Huyền-Kỷ niệm 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh (3/2/1930 - 3/2/2020) và 45 năm chiến thắng lịch sử (30/4/1975), đáp ứng yêu cầu của bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật tái bản lần thứ 5 có bổ sung cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh.

Những tình tiết, sự việc mới rất có giá trị vừa được giải mật bổ sung nhằm hoàn thiện thêm những sự kiện lịch sử quan trọng trong cuốn sách và thêm 10 tài liệu nguyên bản được xem là tuyệt mật của phía chính quyền Sài Gòn trong thời khắc sụp đổ cuối cùng của chiến tranh lần đầu được công bố trong phần Phụ lục cuối sách, theo như Lời Nhà xuất bản và bộc bạch của tác giả, đã khiến tôi một lần nữa tìm đọc cuốn sách mới tái bản này. Quả thật, hai nội dung chính bổ sung trong lần tái bản này đã nâng tầm Biên bn chiến tranh 1-2-3-4.75 xét về cả độ tin cậy và phong phú của các tài liệu, văn bản được viện dẫn khiến tác phẩm xứng đáng là một biên niên sử sống động, có giá trị cả về lịch sử - báo chí - văn chương và hấp dẫn người đọc về những giờ phút sụp đổ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn và chính thể Việt Nam Cộng hoà.

 

 

Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 viết về những ngày tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, trọn vẹn 4 tháng kể từ chiến thắng Phước Long tháng 1-1975 của Quân Giải phóng tới những giờ phút cuối cùng ngày 30-4 tại Dinh Độc Lập. Tác giả Trần Mai Hạnh không mượn yếu tố lịch sử làm cớ để gửi gắm thông điệp mà mục đích quan trọng là phục dựng trung thực lịch sử, tuy vậy, phẩm tính văn chương của cuốn tiểu thuyết vẫn bộc lộ ở nhiều góc độ.

Ở lần tái bản thứ 5 (đầu năm 2020) có thêm những chương đoạn tư liệu mới, tái khẳng định tầm vóc của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đến từ nhiều yếu tố: tầm vóc của sự kiện lịch sử được lựa chọn phản ánh là chiến thắng 30/4/1975 vĩ đại của 4000 năm lịch sử, chấn động thế giới; tầm vóc của tác phẩm khi được sinh ra từ sự kiện lịch sử; và, tầm vóc của chính tác giả. Cuốn sách trong 5 năm đã tái bản 5 lần; cùng với lần ra mắt đầu tiên và phiên bản tiếng Anh, phiên bản tiếng Lào, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đã 8 lần trình hiện với bạn đọc; số lượng in mỗi lần đều khá lớn, được vinh danh ở những giải thưởng danh giá... Đó là một lộ trình đáng mơ ước cho bất kể cuốn sách nào, và sự hiện diện của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đã trở thành một sự kiện văn chương đáng chú ý. Trong lần tái bản thứ 5 này, với tư cách là người đã quan sát số phận cuốn sách, xem xét những phần bổ sung chỉnh sửa… chúng tôi phần nào lý giải được cặn kẽ hơn những gì cuốn sách mang lại, cũng như nguyên do khiến Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 trở thành một hiện tượng độc đáo.

Sự thành công và khác biệt của tác phẩm xuất phát từ quan điểm về chiến tranh và lựa chọn sự phản ánh trong thể loại tiểu thuyết lịch sử. Với quan điểm của Benedetto Croce, “Tất cả lịch sử là lịch sử đương đại”

 

[i], cái nhìn từ thì hiện tại với những sự kiện đã xảy ra vẫn cho phép tái hiện sống động và khai phá ở nhiều chiều kích mới, soi rọi được nhiều góc khuất của lịch sử. Sự dụng công như một nghiên cứu khách quan và công phu, khoa học từ những văn bản được cung cấp đến lượng thông tin nhiều, mới, và phụ lục tra cứu tên riêng… bao chứa trong cuốn tiểu thuyết đã khiến Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 có một đời sống riêng biệt trong nền văn học viết về chiến tranh hiện tại.

Trong Lời Nhà xuất bảnLời tác giả, ngay lần đầu xuất bản (và được bảo lưu đến nay) đã xác định Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 là cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử (lịch sử đương đại). Hai chữ “tư liệu” đã khu biệt cuốn sách này với các cuốn tiểu thuyết lịch sử và tiểu thuyết dã sử. Xác định tính chất “tư liệu” nghĩa là “nói có sách, mách có chứng”; hơn nữa khi dùng hai chữ “biên bản” ở tên sách dường như tác giả đã ký thác sinh mệnh chính trị của mình vào sự thật các sự kiện lịch sử, cũng như các tình tiết, nhân vật mà mình phục dựng, khắc hoạ trong tác phẩm. Trong Lời tác giả, cũng như khi trả lời báo chí, nhà văn Trần Mai Hạnh đã nói lên tâm nguyện của mình khi xây dựng cuốn sách. Ông mong muốn tác phẩm của mình có giá trị văn chương, nhưng trước hết phải có giá trị vững chắc về sự thật lịch sử bởi “những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một lần, cũng như đời mỗi con người chỉ sống có một lần, nên tôi đã cố gắng ghi chép thật nhiều những gì có cơ may chứng kiến, sưu tập thật nhiều những tài liệu nguyên bản từ phía bên kia mà mình có cơ duyên tiếp xúc, với mong muốn phục dựng lại trung thực sự thật đã diễn ra trong những ngày tháng cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa” (tr.9). Vì sự kiện cuốn sách lựa chọn là lịch sử đương đại liên quan đến hàng chục triệu người từ các phía, số đông vẫn còn sống, nên chỉ cần sai một chi tiết cũng có thể gây ra những phản ứng gay gắt. Đơn cử như việc gần 300 nhân vật hiện diện trong cuốn sách được tái hiện chính xác không chỉ chức phận mà còn đầy đủ họ và tên của từng nhân vật, bởi chỉ cần sai chữ lót trong tên một nhân vật thôi cũng có thể gây ra hệ luỵ khôn lường…

Nhà văn Trần Mai Hạnh quan niệm rằng, “dù dữ dội và đau đớn đến đâu, cuộc chiến tranh nào rồi cũng qua đi” (tr.11), nên ông lựa chọn tái hiện lịch sử bằng thái độ tôn trọng sự thật mà vẫn giữ được cái nhìn nhân văn trước thân phận con người trong chiến tranh. Cũng bởi tiểu thuyết tư liệu lịch sử là thể loại đòi hỏi tư liệu, sự chiếm lĩnh hiện thực và những trải nghiệm khổng lồ, nên không nhiều tác giả dám đương đầu. Ngược trở lại quá khứ, Ông cố vấn của Hữu Mai có lẽ là bộ tiểu thuyết phi hư cấu đáng chú ý đầu tiên trong văn học Việt Nam hiện đại, sau này xuất hiện một vài cuốn tiểu thuyết gây được hứng thú với độc giả như Huyền thoại tàu không số (Đình Kính, 2011). Ở Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, Trần Mai Hạnh đưa người đọc vào một thế giới của văn chương kiểm chứng và minh định. Nhưng những sự kiện ấy được tái tạo trên một hình hài mới, một tiểu thuyết tư liệu lịch sử mà ở đó lớp lang, nhân vật, cốt truyện, những yếu tố nghệ thuật đã được dùng như một đòn bẩy để nâng đỡ giá trị của tính chân thực. Có những phân đoạn, dù tâm niệm và ý thức riết róng về việc tái hiện trung thành sự thực thì Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đôi lúc vẫn vượt khỏi sự kiểm soát của nhà văn, với việc bình giải hay mô tả một sự kiện, ít nhiều vẫn phải có tính hư cấu trong đó, tức là tác giả gián tiếp đẩy câu chuyện thật đó đi theo ngôn ngữ của mình, can thiệp bằng sự chủ quan của nhà văn. Nó khác với việc nghĩ ra những điều không tồn tại, dù nhằm nói về thực tại đang diễn ra…

Khi gọi tên tác phẩm của mình là tiểu thuyết tư liệu lịch sử, Trần Mai Hạnh đã quyết liệt lựa chọn cho mình lối viết phi hư cấu với những sự dụng công “không tưởng” về tư liệu. J.P. Sartre từng nói về sự dấn thân của nhà văn rằng “Đến một ngày nào đó ngòi bút phải dừng lại, và lúc đó nhà văn phải cầm súng”[ii], thì giờ đây với tư cách đặc phái viên của Thông tấn xã Việt Nam được chứng kiến sự kiện trọng đại 30/4/1975, nhà văn - chiến sĩ 32 tuổi nhanh chóng buông súng để cầm bút ghi lại lịch sử. Trong giờ phút chiến thắng ông đã nghĩ đến việc phục dựng lại trung thực sự thật lịch sử đã diễn ra trong những ngày tháng sụp đổ cuối cùng của Việt Nam Cộng hoà (chính quyền Nguyễn Văn Thiệu) bằng chính những tài liệu nguyên bản của phía bên kia (phía chính quyền Sài Gòn và phía Hoa Kỳ). 39 năm sau ngày chiến tranh kết thúc, tháng 4/2014 Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 ra mắt lần đầu cung cấp những tư liệu gốc, những tài liệu nguyên bản tuyệt mật gần như lần đầu được công bố, độc giả mới ngỡ ngàng về những ấp ủ táo bạo không tưởng của tác giả. Và chính như Trần Mai Hạnh bộc bạch, việc dấn thân ấy dường như ở trong trạng thái không tỉnh táo để lượng sức mới tham vọng đến vậy. Tuy thế, Trần Mai Hạnh được may mắn chứng kiến những giờ khắc lịch sử một đi không trở lại của đất nước, ông ý thức được trách nhiệm của một công dân, một nhà báo là phục dựng sự kiện đó nhưng phải dựng bằng tài liệu chuẩn, bằng cái nhìn không thiên kiến. Do đó, những lựa chọn điểm nhìn và cách tái hiện đã cho thấy một quan điểm rõ ràng của ông về lịch sử, từ đó có lập trường riêng về sự chân thật lịch sử. Nếu như Viet Thanh Nguyen (nhà văn Mỹ gốc Việt đầu tiên đoạt giải Pulitzer) cho rằng mọi cuộc chiến đều diễn ra hai lần, lần thứ nhất trên chiến trường và lần thứ hai trong ký ức; thì J.P. Sartre cũng từng phân tích những dư vị khác biệt từ một tác phẩm kháng chiến có ảnh hưởng lớn trong công chúng Pháp vùng tạm chiếm để thấy sự thú vị của những lập trường viết khác nhau. Vercors - tác giả kháng chiến - từ chối mọi tiếp xúc với đội quân chiếm đóng, đã vẽ chân dung lính Đức theo trí nhớ[iii], và phải xác định công chúng của mình là giới tư sản Pháp những năm 1941 đang tiếp xúc trực tiếp với quân chiếm đóng, chứ không phải những kiều dân Pháp đang phẫn nộ lưu vong vì chiến tranh. Như vậy, sự thật lịch sử luôn chỉ có tính riêng phần, chẳng có tác phẩm văn chương nào khách quan đến kiệt cùng trong việc trình bày lịch sử, “văn học trong bản chất của nó là tính chủ quan của một thế giới trong tình trạng cách mạng thường trực”[iv].

Nung nấu ý định và quá trình hiện thực hóa những ý tưởng không tưởng đó cho thấy một sự đeo đuổi quyết liệt của Trần Mai Hạnh, ngay cả trong những giờ phút ngặt nghèo của số phận, khi vướng vòng lao lý vì tai hoạ nghề nghiệp, khi bị tai nạn giao thông rất nặng tưởng chết, khi nhà cháy sạch vì hàng xóm dùng xăng bất cẩn… Định hướng sáng tác ngay từ sơ khởi ấy như một cục nam châm khổng lồ hút tất cả những sự kiện, sự việc, tình huống, những tài liệu và cả những con người liên quan tới sự phục dựng trong tác phẩm này châu tuần lại. Điều chính tác giả cảm thấy biết ơn chính là cơ may của lịch sử và cơ duyên của cuộc sống cùng với sự giúp đỡ của bao người đã giúp ông làm được những điều ngỡ như không tưởng đó.

Khi phân tích những văn bản hư cấu cổ điển, Todorov đã khẳng định vai trò chuyển đổi thực tiễn trong những sáng tác: “tiểu thuyết không bắt chước thực tế, mà sáng tạo thực tế”[v]. Cố gắng trung thành với sự kiện một cách tối đa là yêu cầu quan trọng của mỗi tác phẩm phi hư cấu. Tuy nhiên, hài hòa được tính hấp dẫn mời gọi với sự thật được phơi bày là cả một nghệ thuật, phụ thuộc chủ yếu vào ngòi bút và năng lực làm chủ sự thật của nhà văn. Kể ra như thế nào, kể đến đâu, trình tự và gia giảm giữa sự dụng công và sự thật… đòi hỏi một tay nghề không đơn giản. Điều lợi thế của Trần Mai Hạnh chính bởi ông là một nhân chứng của sự kiện lịch sử, can dự trực tiếp vào hoàn cảnh ngặt nghèo ấy. Những sự thực lịch sử của bốn tháng cuối cùng cuộc chiến đã được nhà văn trải nghiệm và chưng cất. Tất cả những tài liệu nguyên bản giá trị dày công sưu tầm được chỉ chờ sự bày biện của một “đầu bếp” tài hoa. Những sự kiện, những biên bản được “tung” ra đúng thời điểm, như Nước cờ định mệnh (Chương 3), Người Mỹ muốn gì đây (Chương 6), Đà Nẵng điên loạn và sụp đổ (Chương 9), Thiệu như ngọn đèn trước gió (Chương 14)… nhiều lúc nhà văn đã làm được những điều tưởng chừng như chỉ sự thật thôi thì chưa đủ, sắp đặt và kết chuỗi các tình tiết lại với nhau, kết quả đưa lại quan trọng ở sự lý giải và cắt nghĩa được sự thực phong phú hơn như chính nó vốn diễn ra. Sự sâu sắc và tinh tường của Trần Mai Hạnh thể hiện rõ ở cách lựa chọn bố cục, triển khai lối viết linh hoạt với trục chính là nhân vật Thiệu và sự kiện diễn tiến theo thời gian, bao quát trên một không gian rộng lớn. Bút pháp đa dạng và linh hoạt của Trần Mai Hạnh thể hiện xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, đây đó có những rẽ ngang không hẳn để làm chậm lại nhịp cuộc chiến được khắc họa mà như một cách mạn đàm, có lúc như một lối thể hiện kín đáo quan điểm chủ quan của tác giả… có lúc nhằm trò chuyện với độc giả. Những trường đoạn tuy không dài về dung lượng, được đan cài trong mạch chính đã làm giảm cái khô khan, cái nặng nề của sự kiện, tác giả đối lập sự căng thẳng của cuộc chiến với thiên nhiên: “Chiến tranh không ở đâu xa, ngay trong bóng tối đang bao phủ đêm cuối cùng của Đà Nẵng này. Cơn mưa đầu mùa chợt đến thảng thốt, làm không khí có phần dịu mát. Thế nhưng Trưởng vẫn thấy hết sức ngột ngạt, khó thở” (tr.172); có lúc là đối lập gay gắt giữa cái hỗn loạn và căng thẳng của cuộc chiến với sự chùng lòng, sự vẩn vơ của suy nghĩ, của tâm trạng nhân vật: “Trưởng bỗng giật mình. Nắng đã lụi tắt từ lúc nào. Hoàng hôn tím sẫm. Bầu trời hôm nay sao xuống thấp đến thế. Nhác trông, Trưởng thấy nó chẳng khác gì chiếc mai cua khổng lồ với những vẩy mây đỏ tối đang úp chụp lên thành phố. Và kia nữa, chân trời phía tây, những đám mây màu chì hình thù kỳ dị xếp lố nhố bên nhau. Càng nhìn, Trưởng càng thấy nó giống nghĩa địa khổng lồ màu xám… Sự giả dối của con người Trưởng và sự giả dối của cả cuộc chiến này đã hòa nhập làm một trong những giây phút này” (tr.116). Không bị cuốn ào đi theo những bước tiến thần tốc và nhanh gọn của cuộc chiến tranh đang diễn ra, những đoạn văn miêu tả nội tâm đan xen ngoại cảnh ấy có tác dụng kéo giãn mạch truyện nhưng cũng cho thấy được tính hai mặt của cuộc chiến, nó thật hơn khi không chỉ hướng đến những bề mặt ồn ào và xoáy vào giờ phút tuyệt vọng của tình thế.

Để hút tất cả những sự kiện vào một mạch thống nhất, lựa chọn khéo léo và xác đáng của Trần Mai Hạnh chính là xây dựng nhân vật trung tâm Nguyễn Văn Thiệu. Không phân thành những tuyến nhân vật chính diện - phản diện kiểu truyền thống, cũng không lựa chọn lối đa tuyến, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 lựa chọn một nhân vật làm trung tâm, khắc họa xuyên suốt 16 chương (trong tổng số 19 chương sách), song song với đó là hàng loạt các nhân vật châu tuần quanh trục chính: thế giới nhân vật đông đảo nhưng nhân vật nào cũng mang những dấu ấn riêng không trộn lẫn.

Tính cách và phẩm chất của Thiệu cũng như hầu hết các nhân vật được hiện lên qua mối quan hệ với các nhân vật khác và chủ yếu là qua chính lời nói, hành động. Ở vào thời điểm 4 tháng trước cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam, trong bề bộn của vô vàn những cuộc tiến công, việc lựa chọn một điểm nhìn, một ngôi trần thuật đòi hỏi sự dụng công khéo léo. Tác giả Trần Mai Hạnh đã triển khai mạch truyện theo sự vận động của nhân vật Nguyễn Văn Thiệu, sự lựa chọn này là đích đáng khi muốn phác lại toàn bộ diễn tiến của cuộc chiến cũng như nhìn thấu đáo hơn sự sụp đổ từng mảng, một cách tuần tự, từ bên trong, của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Ngay từ những phần đầu của cuốn tiểu thuyết, nhân vật Thiệu đã được tái hiện bằng nhiều yếu tố, suy nghĩ, hành động và mối quan hệ ứng xử với các nhân vật xung quanh: “Thiệu sống cô độc - đêm nay cũng vậy. Trước bước ngoặt của chiến tranh với những hiểm họa không thể lường, từ chập tối, Thiệu thu lu trong góc phòng toan tính một mình. Thiệu không tin bất cứ ai. Lúc nào Thiệu cũng nơm nớp lo sợ bị giết, bị lật đổ vì một cuộc đảo chính của các tướng lĩnh, mặc dù tư lệnh ở cả bốn vùng chiến thuật đều là những tay chân tâm phúc do Thiệu trực tiếp bổ nhiệm” (tr.38). Lời tâm sự với Nguyễn Tiến Hưng, tiến sĩ kinh tế và là cố vấn thân cận của Thiệu: “Tôi chỉ thấy thoải mái trên sân quần vợt. Cứ bỏ vợt xuống là nỗi ám ảnh về một cuộc đảo chính lại ập đến trong tôi” (tr.44) cho thấy bản chất đa nghi nhưng thực chất đó cũng là nỗi ám ảnh, nỗi thống khổ của kẻ “đứng mũi chịu sào”, đặt trong một thế cờ tàn. Cả những ứng xử gần như ngay lập tức trong mọi hoàn cảnh của Thiệu cũng cho thấy sự thông minh và mưu mô, khi thăng tướng cho Tất với ý đồ khích lệ và cột chặt Tất vào trách vụ mà Phú biết sẽ rất nặng nề và đầy hiểm họa; khi muốn xoa dịu dư luận, Thiệu cách chức liền một lúc 377 tướng tá vì tội tham nhũng, thế nhưng đó chỉ là “những con cá bé”, những kẻ không ăn cánh; “ba con cá lớn” bị cách chức ở chỗ này, lại được chuyển ngay sang chỗ khác với các chức vụ tương đương… Thiệu làm Tổng thống Việt Nam Cộng hòa được đúng 8 năm, kết thúc cuộc đời tay sai vào năm 52 tuổi. Trước những giờ phút sinh tử cuối cùng, Thiệu sẽ nói rõ và sẽ “nói toẹt” ra những điều Thiệu nghĩ về cuộc chiến, và “nói xong là Thiệu chuồn”. Nhân vật trung tâm Thiệu được mô tả hết chương 16. Giọng điệu ở chương này cũng là một trong những điểm nhấn quan trọng của cuốn tiểu thuyết, bởi sự biến chuyển linh hoạt, khi thì châm biếm, mỉa mai; khi thì chùng xuống với những sự căng thẳng của cuộc chiến; khi lại nhanh sắc tường thuật sự kiện… Có thể thấy, mỗi nhân vật được xây dựng là một phương tiện để nhà văn khái quát hiện thực, khái quát sự thảm hại của cuộc chiến và tất cả như một sân khấu, đủ bi đủ hài, để độc giả hiểu hơn về một thời kỳ lịch sử, theo cách sống động nhất.

Bên cạnh nhân vật trung tâm, một loạt những nhân vật lần lượt xuất hiện, trong những quan hệ đời thường, trong va chạm của chiến trường nhưng tất cả đều mang dấu ấn độc đáo: vợ Thiệu, Cao Văn Viên, Đặng Văn Quang, Phạm Văn Phú, Ngô Quang Trưởng, Trần Thiện Khiêm, Dương Văn Minh, Trần Văn Hương… Nhân vật vợ Thiệu, Mai Anh được đặt đối trọng với những cô bồ, một bên là bà vợ cứ sáu tháng một lần định kỳ qua Tokyo để hút mỡ và sửa sang nhan sắc, một bên là nghị viên Kim Anh xinh đẹp và ca sĩ nổi tiếng Kim Loan. Cách nhà văn lựa chọn Nguyễn Văn Thiệu là nhân vật trung tâm bởi chỉ nhân vật ấy mới đủ khả năng giữ cho mạch truyện tập trung xuyên suốt, như một tâm điểm để quy tụ các nhân vật khác trong cùng hệ thống. Thiệu đóng vai trò tối quan trọng trong việc tổ chức và triển khai tiểu thuyết với sự miêu tả, khắc họa tỉ mỉ từ ngoại hình, lời nói, hành động và cả diễn biến nội tâm; từ đó gián tiếp thể hiện tư tưởng tình cảm của nhà văn. Các tuyến nhân vật phụ tuy độc đáo nhưng không lu mờ nhân vật chính; mà sự đông đảo, không phân chia thiện – ác, như một phương tiện để khái quát hiện thực cuộc sống, ở đó có sự phức điệu đa chiều, hỗn tạp muôn màu vẻ.

Đáng kể nhất và cũng là yếu tố làm nên tầm vóc của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 chính là sự tài hoa của nhà văn Trần Mai Hạnh khi làm sống lại một cách hấp dẫn đề tài tưởng chừng đã cũ, thậm chí còn đem đến một cái nhìn mới với thể loại tiểu thuyết tư liệu.

Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 không phải một cuốn biên niên sử ghi chép trung thành, nó là một tác phẩm với lớp lang chi tiết, với ngôn ngữ và giọng điệu linh hoạt. Sinh khí của những sự kiện được phục dựng như phơi bày trước mắt độc giả một thước phim nhiều chuyển động mạnh. Trần Mai Hạnh không sa đà vào sự bênh vực hay mạt sát, không tỏ thái độ địch - ta trong cách tái hiện. Cái quan trọng mà hiếm khi nào ông bị xô lệch trong suốt cuốn tiểu thuyết chính là sự vững chãi về cách nhìn, mà điểm tựa cốt tử nhất chính là sự mạch lạc và phân định khách quan. Trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, tính chất đa thanh, đối thoại được thể hiện rõ trong suốt hơn 400 trang viết - một cách đối thoại điềm tĩnh, khách quan mà vẫy gọi nhiều tương tác.

Đặc quyền của người dẫn chuyện là có thể can dự vào hầu hết mọi ngóc ngách, với vai trò là “kẻ biết tuốt”. Nhưng ở Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, có lúc tác giả ẩn mình đi, để hóa thân vào sự thật, để chiếm lĩnh nó và truyền tải đến người đọc bằng một thứ văn chương mạch lạc, thông điệp rõ ràng mà không rơi vào giáo điều, khô cứng. Bên cạnh sự công phu của những kết cấu bài bản, những phần bổ sung cho hoàn chỉnh cuốn sách cũng cho thấy sự tỉ mỉ, cẩn trọng của tác giả.

Xếp theo trình tự thời gian 31 tài liệu tham khảo như: Điện của Tổng thống Mỹ Richard Nixon gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 5/1/1973; Điện của Tổng thống Mỹ Geranld R. Ford gửi Nguyễn Văn Thiệu ngày 10/8/1974; Công hàm ngày 26/2/1975 của Tổng thống Mỹ Geranld R. Ford gửi Nguyễn Văn Thiệu; Công điện thượng khẩn ngày 24/3/1975 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa; Tài liệu nguyên bản đánh giá tình hình đến ngày 19/4/1975 của đại sứ Martin gửi Nguyễn Văn Thiệu… Đặc biệt là lần tái bản thứ năm này, tác giả đã bổ sung 10 tài liệu tuyệt mật góp phần cung cấp giá trị, đem đến cái nhìn xác đáng và toàn diện hơn về cuộc chiến: Tập công điện chỉ huy tác chiến của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn; Danh sách tướng lĩnh trình diện, dự buổi giao ban tác chiến cuối cùng của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn, Tuyên bố buông súng sáng 30/4/1975 của Dương Văn Minh, Nguyễn Văn Thiệu nói trực tiếp trên Đài Truyền hình Sài Gòn 22 giờ ngày 04/04/1975…  Phần cuối cuốn sách là Bảng tra cứu tên riêng một cách đầy đủ, khoa học. Tất cả những điều đó vừa như xa lạ với một tiểu thuyết, nhưng cũng vừa là những yếu tố khiến Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 nhận được sự đánh giá rất cao không chỉ từ cái nhìn lịch sử mà còn từ cái nhìn văn chương. Không phải ngẫu nhiên mà Hữu Thỉnh đánh giá cuốn sách là “thứ kim cương của văn học tư liệu”, độc giả đón nhận nồng nhiệt, ngưỡng mộ trước khả năng chiếm lĩnh tư liệu và tái hiện chúng trong một khung hình văn chương đầy nghệ thuật bởi Trần Mai Hạnh không chỉ viết nó như một món nợ với lịch sử, mà khắc khoải cùng nó “cả trong những giờ phút đắng cay của số phận”. Todorov phân tích: “Sau khi xây dựng những sự kiện cấu thành một câu chuyện, vậy là chúng ta tiến hành công việc diễn giải, nó cho phép chúng ta một mặt, xây dựng những tính cách, mặt khác, xây dựng hệ thống tư tưởng và giá trị ở hạ tầng văn bản”[vi], trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, Trần Mai Hạnh đã gần như hoàn tất “quy trình” mà Todorov đề ra. Ở đây, người đọc dễ nhận ra một điểm là nhà văn rất mạnh [thành công] về khai thác hành động của nhân vật nhưng đó cũng chính là khía cạnh còn khuyết, có thể dụng công của tác phẩm vì khi tái hiện những hành động liên tục, căng thẳng của nhân vật nên đôi lúc không đi sâu khắc họa tâm lý ẩn sau những hành động đó. Dẫu trong một số trường đoạn, nhà văn cũng đã có những đoạn miêu tả tâm lý nhân vật khá sắc sảo nhưng nếu biện pháp này được khai thác triệt để hơn nữa thì sức nặng của nhân vật trung tâm - Nguyễn Văn Thiệu - cuốn tiểu thuyết sẽ có sức khái quát mang tính tư tưởng hơn.

Trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, tác giả cung cấp những văn bản, thư từ, công điện… một cách linh hoạt và phù hợp với văn cảnh. Sự co giãn và biến chuyển này phù hợp với cấu trúc tiểu thuyết, nó có thể gói ghém trong đó nhiều loại văn phong cũng như “quyết định cả cái cấu trúc của chính thể tiểu thuyết, tạo ra những dạng thức tiểu thuyết đặc biệt”[vii]. Từ đó, nó tạo ra vừa là sự chân xác đáng tin cậy của sự thực lịch sử, vừa tạo nên tính linh hoạt, phức điệu của tiểu thuyết, bởi “ngôn ngữ của những thể loại phi nghệ thuật được đưa vào tiểu thuyết nhiều khi phát huy tác dụng to lớn đến mức việc du nhập một thể loại nào đó (ví dụ thư từ) có thể tạo nên một thời đại không chỉ trong lịch sử tiểu thuyết, mà còn cả trong lịch sử ngôn ngữ văn học”[viii]. Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đa dạng những kiểu ngôn ngữ. Khi là ngôn ngữ báo chí bình luận với sự mỉa mai, châm biếm sâu cay; khi là những đối thoại ngầm ẩn của cuộc so găng chiến thuật; khi lại là sự tường trình tỉ mỉ những diễn biến… Mỗi nhân vật, tương ứng với bản chất và tính cách, lại được tác giả xây dựng một hệ thống từ loại và ngữ điệu riêng. Qua lời nói, cử chỉ, hành động, hiện lên một Thiệu gian hùng, Cao Văn Viên nhu nhược, tướng Toàn đểu giả và háo sắc, những nhân vật Phạm Văn Phú, Ngô Quang Trưởng… như những quân cờ chính trị, khi bị loại bỏ, lật lọng thì bất lực và tuyệt vọng.

Điểm thú vị của cách kể chuyện trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 là từ kinh nghiệm chiến trường của bản thân nhà văn, với sự chiếm lĩnh một lượng tư liệu khổng lồ, sự đan xen những nhận định, đánh giá có tính chất như những tổng kết đanh thép về cuộc chiến mang đến những kiến giải sâu sắc. Mượn lời trong bài xã luận trên trang nhất báo Le Figaro để bình luận: “Lần đầu tiên trong một phần tư thế kỷ nay, không phải lịch sử phải đi theo đường lối của Hoa Kỳ mà là Hoa Kỳ phải đi theo trào lưu của lịch sử. Đồng hồ cũng có những lúc ngần ngừ. Nó chạy nhanh khi đấy là chuyện Việt Nam: Sài Gòn đã bị coi như đi đứt và Kissinger đã nói tới Sài Gòn như nói về một thời quá khứ khi ông ta kêu gọi đồng bào mình đừng có “tự tiêu hủy” mà là phải nhìn về tương lai, về thập kỷ sắp tới của lịch sử” (tr.223)… Có khi là cách vừa tóm lược, vừa đan cài những nhận định mấu chốt và chỉ ra nguyên do của thất bại: Đêm đã khuya, Thiệu vẫn ngồi thu lu trong phòng làm việc của mình ở lầu ba Dinh Độc Lập. Bốn mươi ngày trước, trong căn phòng này và cũng một đêm khuya khoắt như thế này, Thiệu đã đi nước cờ định mệnh: “Rút bỏ cao nguyên”. Khi ấy, những hồi chuông của Nhà thờ Đức Bà vang lên như hồi chuông báo tử (tr.305, 306). Những dòng cuối cùng trong bản tường trình của Phạm Bá Hoa chất chứa một nỗi niềm sâu xa: “Lúc 10 giờ sáng 30-4-1975, tôi nghe tiếng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện trên Đài Sài Gòn được tiếp truyền trên hệ thống truyền thanh. Thế là xong một cuộc chiến quá dài. Từ nay trên mảnh đất Việt Nam thân yêu sẽ không còn súng nổ đạn bay nữa (tr.415); hay lời một đồng nghiệp đã nói về Martin: “Ông ta giống hệt cái chính sách của Mỹ ở Việt Nam. Ông ta tự coi mình là con cáo già của đầm lầy, có thể bằng sự khôn ngoan, giảo quyệt của mình mà làm thay đổi được bất kỳ cái gì mà ông ta muốn. Nhưng thực ra ông ta chỉ như một đốm lửa ở đầm lầy, cho một thứ ánh sáng hư ảo, lóe lên chỗ này một tí, chỗ kia một tí, nhưng chẳng làm thay đổi được gì” (tr.422). Thêm vào đó, yếu tố hấp dẫn của cuốn tiểu thuyết một phần quan trọng đến từ việc tái hiện những cuộc rút chạy, từ Tây Nguyên đến Huế là khác, đến Đà Nẵng lại một cách tái hiện… Ở lần tái bản thứ 5 của cuốn sách, những sự kiện được bổ sung tỉ mỉ hơn. Ví dụ chương “Nước cờ định mệnh”, trong lần xuất bản đầu tiên và 4 lần tái bản trước đây chỉ nói cuộc họp do đích thân Nguyễn Văn Thiệu chủ trì quyết định rút chạy khỏi Tây Nguyên diễn ra tại căn cứ Cam Ranh, không xác định được địa điểm cụ thể cuộc họp tại đâu trong căn cứ. Lần tái bản thứ 5 này, nhờ sự tiết lộ mới đây của Phạm Huấn, tuỳ viên thân cận của tướng Phạm Văn Phú, tác giả mới bổ sung được chính xác địa điêm cuộc họp diễn ra tại “Toà Bạch Dinh” (toà nhà trắng) do quân đội Hoa Kỳ xây cất khi đón tiếp Tổng thống Mỹ Lyndon Johson khi ghé Cam Ranh để viếng thăm và uý lạo binh sĩ Hoa Kỳ năm 1966. Vậy là, nhờ sự bổ sung bức tranh “Nước cờ định mệnh” được hoàn chỉnh. Hoặc như trang 321 là danh sách mới được bổ sung gồm đầy đủ tên những người tháo chạy được ngụy trang dưới danh nghĩa Phái đoàn công du nước ngoài do Thiệu dẫn đầu…

Những phân tích như trên cho thấy sự đa dạng, linh hoạt trong ngòi bút của tác giả. Điều đó khiến Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 tạo ra những tranh luận lúc xuất bản về thể loại: tiểu thuyết hư cấu, tiểu thuyết tư liệu... Ngay cái tên cũng đã chứa đựng một sự khiêu khích với những khuôn khổ thể loại quen thuộc. Điều đó cho thấy nhu cầu tạo dựng những hình thức ngôn ngữ thể loại mới để kiến tạo những nội dung mới, và cung cấp cho người đọc những góc nhìn khác về lịch sử và sự thật. Qua thời gian 5 năm kể từ khi trình làng, cuốn tiểu thuyết lịch sử này đã chứng minh được sức sống cũng như tuyên ngôn được về sự độc đáo của nó. Người ta khó có thể hình dung giai đoạn trước đó được phục dựng như thật mà không hề có bóng dáng tác giả xuất hiện mà vẫn đảm bảo chi tiết, sống động đên từng sự kiện, con người. Yếu tố hư cấu, tưởng tượng được phép xuất hiện với tỷ lệ nhất định, nhưng cái khó nhất là những đối thoại của những con người có thật, mà 300 nhân vật của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đều có dấu ấn riêng, thể hiện không chỉ tính cách, số phận mà còn mang được những dấu ấn vùng miền trong ngôn ngữ.

Trần Mai Hạnh như một người thợ kim hoàn tỉ mỉ, dày công gọt giũa từng chi tiết, sự kiện, và cẩn trọng bởi không biết chính xác sẽ không tái hiện. Ông cho thấy quan điểm nghiêm túc như một nhà viết sử, có trách nhiệm đến cùng với những điều mình viết ra. Ở phiên bản mới nhất, 10 tài liệu mới được bổ sung cho thấy sự trăn trở với cuốn sách của Trần Mai Hạnh, nếu không có những cơ duyên và sự giúp đỡ cũng không thể có những tài liệu giá trị này; bởi có những tài liệu như toàn văn những bức điện tác chiến của Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn phải qua nhiều lần mã hóa mới dịch ra được minh ngữ…

Sự khác biệt của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 trong dòng văn học tư liệu có thể kể đến nhiều yếu tố nhưng có thể kể đến ba điểm chính: cách xâu chuỗi và làm chủ một lượng tư liệu nguyên bản khổng lồ của nhà văn, lựa chọn điểm nhìn đa dạng từ trong lòng cuộc chiến với sự dịch chuyển linh hoạt, xây dựng hệ thống nhân vật tuy thuộc hoàn toàn về “phe địch” nhưng lại giữ được thái độ khách quan và điềm tĩnh. Tất cả những điều đó giúp cho tiểu thuyết vừa mang tính lịch sử chân xác, vừa mang tính văn chương độc đáo. Cách đi của nhà văn Trần Mai Hạnh trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 phải chăng chính là một trong những lựa chọn biểu đạt cho tiểu thuyết về đề tài chiến tranh.

Đến lần tái bản thứ năm này, những thông tin, cả những lý giải cho thấy sự đáng tin của những sự kiện, con người; thực sự có tính thuyết phục cao. Trong lời phát biểu tại lễ ra mắt phiên bản tiếng Anh của Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật đã bày tỏ sự cảm kích và trân trọng với những đóng góp công phu của tác giả và cám ơn tác giả đã tin cậy chọn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật - cơ quan xuất bản chính trị của Đảng và Nhà nước quyền công bố tác phẩm giá trị này. Từ sự hoài nghi và phân vân ban đầu khi tiếp nhận bản thảo đến sự ghi nhận là cả một quá trình không hề đơn giản, chứng tỏ cuốn sách Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 đã chiếm trọn được sự tin yêu của độc giả. Qua 8 lần trình hiện, đặc biệt là lần thứ 5 với nhiều tư liệu chân xác được bổ sung, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 một lần nữa minh chứng cho sức hấp dẫn cũng như thành công và đóng góp quan trọng của Trần Mai Hạnh ở thể tài không mới nhưng còn nhiều đất để khai phá, có thể gợi mở một hướng đi đầy hứa hẹn của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh trong văn học Việt Nam.

 

 

Chú thích

[i] Trần Mai Hạnh, Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 (Tái bản lần thứ năm), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H., 2020; tr.14.

[ii] Sartre (1999), Văn học là gì (Nguyên Ngọc dịch), Nxb. Hội Nhà văn, H. tr. 88.

[iii] Sartre (1999), Sđd, tr. 98.

[iv] Sartre (1999), Sđd, tr. 204.

[v] Todorov Tzvetan (2004), Thi pháp văn xuôi, Nxb. Đại học Sư phạm, H; tr.232.

[vi] Todorov Tzvetan (2004), Sđd; tr.241

[vii] Bakhtin M.M. (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, H; tr.147

[viii] Bakhtin M.M. (2003), Sđd; tr.148

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *